Hiểm họa đen?
(Bài 2, viết về Đại hội XII sắp tới của ĐCSVN[1])
Nguyễn Trung
Hà Nội, tháng 7-2014
Trước thềm đại hội toàn quốc X của Đảng Cộng
Sản Việt Nam (04-2006), tôi viết loạt bài “Thời cơ vàng – hiểm họa đen”. Nội
dung đặt vấn đề thể chế chính trị hiện hành không kham nổi đòi hỏi phát triển
của đất nước, đảng cần phải ra sức khắc phục lỗi hệ thống, thực hiện tự do -
dân chủ để nắm lấy cơ hội vàng đang đến, đưa đất nước vào một thời kỳ phát
triển mới. Loạt bài viết này cảnh báo: Đảng phải vượt lên cái bóng của mình,
nếu cứ chịu sự nô dịch của tư duy ý thức hệ và tha hoá, không chịu hướng về
phía mặt trời mà đi, hiểm họa đen sẽ đến.
Đã gần một thập kỉ trôi qua. Đất nước bên
trong đang khủng hoảng sâu sắc chưa tìm được lối ta, bên ngoài đang bị chủ nghĩa
bành trướng bá quyền Trung Quốc uy hiếp toàn diện. Trong bài “Còn cay đắng hơn
cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy” (bài 1 về Đại hội XII), tôi cho rằng:
Quan điểm kiên định
giữ đại cục quan hệ Việt – Trung để bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng đã không đặt vấn
đề cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu và là sự nghiệp của toàn dân; chính cách
đặt vấn đề ngược như vậy là nguyên nhân cơ bản đã và đang tạo ra cho đất nước
ta tình hình nguy hiểm từ mấy thập kỷ nay.
Lẽ ra phải đặt vấn đề: Việc giữ nước, bảo vệ
chế độ, bảo vệ đảng và giữ được đại cục quan hệ Việt – Trung chỉ có thể thành
công trên nền tảng các thành tựu giành được trong sự nghiệp xây dựng dân giàu
nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh; các thành tựu phải đạt được này là điều
kiện tiên quyết và thước đo cho tất cả.
Hiện tình mọi mặt của đất nước khiến tôi
phải đặt câu hỏi: Hiểm họa đen đang đến?
Thế giới đã sang trang, con đường phát triển
của Việt Nam thực ra đã sang trang chí ít từ cách đây khoảng 1 - 2 thập kỷ -
khi công cuộc đổi mới đã làm xong chức năng của nó, đất nước đã kết thúc một
thời kì phát triển (tiêu biểu là quá trình phát triển kinh tế theo chiều rộng)
và đã hoàn tất quá trình hội nhập quốc tế toàn diện[2].
Nhưng, ngoài sự “kiên định” đặt ngược nói trên đang được nhiều người lãnh
đạo tiếp tục nhấn mạnh, Đảng Cộng Sản Việt Nam lựa chọn gì trước mọi thách thức
đất nước đang phải đối mặt hôm nay? Đây là câu hỏi sống còn đối với đất nước
đặt ra cho đại hội XII sắp tới. Nói nghiêm khắc: Đến hôm nay mới bàn câu hỏi
này là quá muộn. Song dù muộn thế nào chăng nữa cũng phải bàn đến.
Bài 2 này cố xới xáo lên một số vấn đề, mong
mỏi toàn đảng cùng suy nghĩ.
I. Thế giới đã sang trang
I.1.
Cục diện thế giới đa cực
Sự
vận động của thế giới không thể dùng cái kéo, rồi cắt nó ra từng khúc, để nói
từ đây đến đây là thời kỳ này, từ đây đến kia là thời kỳ kia, mà thường là một
thời kỳ sau bao giờ cũng manh nha từ thời kỳ trước, thậm chí từ nhiều thời kỳ
trước, có nhiều mối liên hệ cả về hai chiều quá khứ và tương lai. Nhưng dù thế
nào đi nữa, trong sự vận động liên tục như thế của thế giới, vẫn xuất hiện
những hiện tượng hay những sự kiện nổi bật cho phép phân định sự vận động này
thành từng thời kỳ.
Nhìn
lại, bước vào thế kỷ 21, bàn cờ thế giới xảy ra hàng loạt sự kiện quan trọng:
(1) Chính quyền Obama (tính từ nhiệm kỳ I, tháng
01 - 2009) chủ trương rút khỏi Iraq và Afghanistan,
(2) Trung Quốc thời Hồ Cẩm Đào (2002) kết thúc
giai đoạn “giấu mình chờ thời” (do Đặng Tiểu Bình đề xướng 1990) để chuyển sang
“trỗi dậy hòa bình”. Đến thời Tập Cận Bình (bắt đầu từ 11-2012), hiện nay mục
tiêu chiến lược được nói toạc rõ thêm: “nước giàu quân mạnh”, tất cả cho “giấc
mộng Trung Hoa”, bắt đầu từ những hành động quyết liệt mới trên Biển Đông.
(3) Tháng 3-2014 Nga sáp nhập Crimea, ngang
nhiên sửa lại bản đồ quốc gia của nước láng giềng ở thế kỷ 21 này. Sau đó Putin
ký với Tập Cận Bình hợp tác Thượng Hải (05-2014), với những hợp đồng kinh tế
(và quân sự) 300 – 400tỷ USD. Đế chế Nga đã thức dậy và quyết xuất hiện trở lại
trên chính trường quốc tế. Tác động đầu tiên là vấn đề Ukraina đang nóng lên
từng ngày với nhiều hệ lụy khó lường cho toàn bộ bàn cờ thế giới, lấp ló những
biểu hiện của một cuộc chiến tranh lạnh mới (lúc này cả thế giới bàng hoàng về
vụ máy bay MH 17 của hãng hàng không Malaysia bị bắn rơi trên vùng trời miền
Đông Ukraina khiến 298 người thiệt mạng).
Có
thể xem 3 sự kiện trên đây đánh dấu thời kỳ hậu
chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới đã chuyển hẳn sang cục diện quốc tế đa
cực. Đấy là xem xét trên phương diện địa chính trị toàn cầu.
Box1
- Thời kỳ chiến tranh lạnh:
1945 – 1990, nghĩa là từ sau chiến tranh thế giới II đến khi các nước Liên Xô
Đông Âu cũ sụp đổ (kéo dài 45 năm).
-
Thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, Mỹ nổi lên ví trí số 1 thế giới
với ảnh hưởng chưa từng có. Thời kỳ này
kết thúc khi Mỹ chấm dứt chiến tranh Iraq (2003-2010) – (kéo dài khoảng
2 thập kỷ).
-
Chỉ trong vòng vài năm sau thế giới chuyển hẳn sang cục diện
quốc tế đa cực rất phức tạp hiện nay [2].
-
Toàn bộ tình hình nói trên cho thấy sự vận động của thế giới
ngày càng phức tạp và tình hình diễn tiến nhanh hơn khả năng nhận thức cũng như
khả năng ứng xử của các quốc gia.
Xem
xét trên phương diện địa kinh tế toàn cầu, cũng có thể nói cuộc khoảng kinh tế
lớn của Mỹ bắt đầu từ năm 2008, kéo theo hay làm trầm trọng thêm các cuộc khủng
hoảng kinh tế đang có ở hầu hết các nước phát triển.
Toàn
bộ tình hình trên đặt ra hầu như cho mọi quốc gia – đặc biệt là các nền kinh tế
lớn – phải tiến hành những thay đổi lớn nhằm cơ cấu lại nền kinh tế của mình
cho phù hợp với sự phát triển hiện tại. Không một quốc gia nào có thể đứng
ngoài sự chuyển dịch này.
Theo
quy luật, một cơ cấu kinh tế đã định hình thường chỉ tồn tại được trong một
phạm vi không gian và thời gian nhất định, bây giờ đã đến lúc nó phải thay đổi.
Song cuộc khủng hoảng cơ cấu kinh tế thế giới hiện nay còn có thêm một nguyên
nhân mới nữa, đó là nền kinh tế Trung Quốc lớn thứ hai thế giới phát triển rất
nóng và tự nó cũng tác động lớn đến cơ cấu của các nền kinh tế khác, làm mất đi
nhiều sản phẩm truyền thống của những nước này, cơ cấu lao động của những nước
này cũng phải xắp xếp lại. Bản thân nền kinh tế đồ sộ và rất nóng này của Trung
Quốc đang đi vào một thời kỳ khủng hoảng mới, có thể dẫn đến những biến động
mới cả về địa chính trị… Một quá trình cạnh tranh và phụ thuộc lẫn nhau mới rất
phức tạp xuất hiện. Thế giới đang chứng kiến một tình hình: Trung Quốc trên
nhiều phương diện kinh tế, chính trị và quân sự đang trở thành vấn đề của cả
thế giới; nhưng đồng thời sự phát triển của các nền kinh tế lớn trên thế giới
hiện nay không thể thiếu thị trường Trung Quốc, và ngược lại cũng vậy.
Có
thể nói, với sự xuất hiện của cục diện quốc tế đa cực như thế, sự
vận động của thế giới hiện nay đã bước sang một trang mới, với những đặc điểm
nổi bật như sau:
·
Bên
cạnh tăng cường hợp tác chiến lược trong nội bộ từng nhóm, tính độc lập với
nhau giữa các cực lớn như Mỹ, Tây Âu, Nhật, Nga, Trung Quốc tăng lên rõ rệt hơn
trước, nhiều mâu thuẫn mới xuất hiện. Lý do chủ yếu là trong bối cảnh quốc tế
ngày nay mỗi cực ngày càng nhiều vấn đề riêng và đòi hỏi riêng (ví dụ: mối quan
hệ Tây Âu – Nga, mối quan hệ Tây Âu – Trung Quốc trong các lĩnh vực kinh tế,
thương mại, đầu tư… và tác động trực tiếp tới quan hệ Mỹ - Tây Âu, v… v…). Hơn
nữa đang xuất hiện ngày càng nhiều vấn đề quốc tế và khu vực vượt quá khả năng
giữ vai trò quyết định đơn phương của Mỹ, đòi hỏi phải bàn bạc để chia xẻ trách
nhiệm.
·
Trước
sự uy hiếp mới từ phía Trung Quốc, các nước như Úc, Ấn Độ, Nhật… cũng phải thay
đổi nhiều vấn đề cơ bản; trong đó nổi bật là Nhật (07-2014) đã quyết định điều
chỉnh lại một cách căn bản quan điểm phòng vệ của mình kể từ sau chiến tranh
thế giới II, hình thành liên minh quân sự Nhật – Úc, Ấn Độ bước sang một thời
kỳ hợp tác mới với Mỹ;
·
Quan
hệ Nga – NATO ngày càng nóng lên trước thực tế là 6 nước và lãnh thổ trong Liên
Xô cũ đã ly khai quan hệ với Nga để gia nhập EU, kéo theo xu hướng và quá trình
gia nhập NATO. Đây là hệ quả tất yếu của các mối quan hệ bất bình đẳng nội bộ
Liên Xô cũ. Thực tế này một mặt khiến cho Nga ráo riết can thiệp vào các nước
láng giềng để ngăn chặn xu thế này – điển hình là vấn đề Ukraina. Mặt khác xu
hướng “thóat Nga” này khách quan làm xuất hiện nguy cơ hình thành vòng vây NATO
chung quanh Nga. Quan hệ Nga – NATO căng thẳng hơn bao giờ hết kể từ khi chiến
tranh lạnh kết thúc cuối thập kỷ 1980. Mối quan hệ đầy các “affairs” Nga –
Trung đang manh nha một liên minh mới và đặt ra nhiều vấn đề phức tạp mới, có
thể kéo cả Bắc Triều Tiên vào, vân… vân...
·
Những
thách thức truyền thống và phi truyền thống trên thế giới không hề giảm đi,
thậm chí có những vấn đề nóng hơn trước – ví dụ vấn đề nạn khủng bố, vấn đề vũ
khí A của một số nước (Bắc Triều Tiên, Iran…), nguy cơ bí mật công nghệ hạt
nhân rơi vào tay khủng bố và nạn tin tặc ngày càng mang dán dấp chiến tranh
mạng, những vấn đề xung đột sắc tộc và xung đột tôn giáo (đặc biệt là trong thế
giới đạo Hồi), tình hình Iraq rất nhạy cảm hiện nay, nguy cơ về nhà nước thánh
chiến Hồi giáo IS có thể vượt ra ngoài khu vực, vấn đề Afghanistan gần như còn
nguyên vẹn, vấn đề Trung Đông (đặc biệt là giữa Israel và Palestin, quan hệ
Israel – Iran…) lại đang nóng lên… Đặc điểm chung của toàn bộ tình hình này là
các nước hữu quan phải phân tán khả năng ứng phó, hoặc thậm chí có những vấn đề
có thể vượt ra ngoài khả năng ứng phó… Vì thế Mỹ và phương Tây phải rất thận
trọng (ví dụ: chính quyền Obama hiện nay kiên trì việc không đưa quân đội trực
tiếp tham gia vào giải quyết những biến động mới ở Iraq và vấn đề nhà nước
thánh chiến Hồi giáo IS...).
·
Ngoại
trừ tình huống bất khả kháng (force majeure), khả năng chiến tranh trực tiếp
giữa các nước lớn khó xảy ra trong cục diện đa cực hiện nay, đơn giản vì khả
năng hủy diệt lẫn nhau rất lớn mà không giải quyết được những vấn đề đặt ra.
Hơn 100 triệu sinh mạng đã phải trả giá cho chiến tranh thế giới I và chiến
tranh thế giới II cho phép dự đoán như vậy. Song cuộc chiến tranh lạnh nửa sau
thế kỉ 20 cũng cho phép dự báo cục diện thế giới đa cực hiện nay dễ làm nổ ra
các cuộc chiến tranh qua tay người khác (các proxy wars) – đây là điều các nước
nhỏ bên thứ ba phải hết sức cảnh giác.
Điểm
nổi bật của cục diện quốc tế đa cực hiện nay là các mối quan hệ và mâu thuẫn Mỹ
- Trung Quốc sẽ là yếu tố chi phối toàn thế giới trong thế kỷ 21, trận địa
chính của mối quan hệ song phương này là khu vực Châu Á – Thái Bình Dương;
trong đó không may Việt Nam là một trong các điểm nhạy cảm của các mối quan hệ
hay sự giành giật nhau giữa hai người khổng lồ này, cũng là một dạng giành giật
nhau giữa 2 thế giới.
Tình
hình càng trở nên phức tạp hơn ở chỗ Châu Á – Thái Bình Dương đồng thời cũng là
khu vực kinh tế năng động nhất của thế giới trong thế kỷ này, nơi tranh hùng
sôi nổi nhất của các nền kinh tế lớn trên thế giới. Tại đối thoại Mỹ - Trung
lần thứ 6 (Bắc Kinh 09 và 10-07-2014) phía Mỹ thẳng thắn yêu cầu Trung Quốc
không được phá vỡ nguyên trạng trên Biển Đông, phải tuân thủ luật pháp quốc tế,
giải quyết hòa bình các tranh chấp, cần sớm cùng các nước ASEAN hoàn thành COC;
Mỹ nói rõ không đứng về bên nào trong tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, đồng
thời nhấn mạnh để quan hệ Mỹ - Trung đổ vỡ sẽ là thảm họa cho thế giới. Cũng
thời gian này Thượng Viện Mỹ thông qua nghị quyết về Biển Đông cùng một nội
dung tương tự (tuy nhiên, “trục xoay châu Á – Thái Bình Dương” có hiện tượng
đang “nhẹ” đi).
I.2.
Về siêu cường Trung Quốc đang lên
Nhiều
dự báo khoảng năm 2035 trở đi, Trung Quốc có thể sẽ là nền kinh tế lớn nhất thế
giới – nghĩa là có GDP vượt Mỹ (nếu các số liệu thống kê của Trung Quốc tin cậy
được thì GDP ppp của Trung Quốc năm 2014 đã bắt đầu vượt Mỹ). Có thể nói đây là
sự phát triển mang lại cho thế giới nhiều tai họa hơn là thuận lợi. Đơn giản vì
quốc gia này không có ý niệm phát triển gắn với trách nhiệm đối với thế giới.
Nó vẫn đang ở trong quá trình vơ vét tài nguyên thế giới, đồng thời bằng mọi
thủ đoạn và phương tiện đang tận dụng khai thác quy mô thị trường của nền kinh
tế thế giới toàn cầu hóa phục vụ cho sự phát triển nóng của chính nó. Chắc chắn
trong một thời gian dài nữa nó sẽ tiếp tục cách đối xử Thế giới chẳng là gì, Trung Quốc
mới quan trọng, mục tiêu biện minh cho biện pháp[3].
Tất cả nhằm vào cái đích trở thành siêu cường Trung Hoa.
Hiện nay GDP p.c của Trung Quốc là 6000 USD (số
liệu 2013). Nguy cơ quốc gia này rơi vào cái bẫy nước đang phát triển có thu
nhập trung bình rất lớn, bởi vì kinh tế Trung Quốc tăng trưởng và phát triển
chủ yếu vẫn dựa vào bóc lột lao động và khai thác quy mô thị trường, chứ không
dựa vào nâng cao công nghệ và thể chế. Trong khi đó đất nước có quá nhiều vấn
đề nan giải và bất công. Hiện nay toàn quốc có khoảng 1/3 dân cư tại nhiều vùng
nông thôn và hẻo lánh có thu nhập chỉ vài trăm USD tính theo đầu người. Vùng
dân cư có thu nhập tính theo đầu người cao nhất gấp khoảng 100 lần vùng dân cư
có thu nhập thấp nhất. Vấn đề ô nhiễm môi trường quá nghiêm trọng và gần như
không có lời giải. Trung Quốc có nhiều vấn đề chính trị đối nội nóng bỏng như
Tân Cương, Tây Tạng, Nội Mông.., sự phát triển khác biệt giữa các vùng… Song
Trung Quốc là một thế giới cho chính nó, nên Trung Quốc không thể sụp đổ được,
ít nhất là trong tầm nhìn đến giữa hoặc cuối thế kỷ này. Bởi vì khả năng của nó
hy sinh cục bộ để giữ toàn cục rất lớn, gần như bằng bất cứ giá nào – ví dụ
Trung Quốc đã từng hy sinh hàng thập kỷ sự phát triển của miền Tây để tạo ra sự
phát triển năng động miền duyên hải; trước đó là sẵn sàng dìm Thiên An Môn
trong máu để giữ chế độ, trước đó nữa là sẵn sàng giết hại hàng chục triệu
người để tiến hành cái gọi là cách mạng
văn hóa…
Cả
thế giới kinh ngạc trước tình hình chỉ trong vòng một nửa thế kỷ Trung Quốc đã
trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 sau Mỹ, một cường quốc quân sự có quân đội đông
nhất thế giới, chi phí quốc phòng chỉ xếp sau Mỹ. Sức mạnh kinh tế và quân sự
Trung Quốc áp đảo hẳn các nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á, uy hiếp trực
tiếp tất cả các nước láng giềng. Trung Quốc là đối tác thương mại và thị trường
đầu tư quan trọng đối với tất cả các nền kinh tế lớn của thế giới, với dự trữ
ngoại tệ khoảng 4000 tỷ USD (gần gấp đôi tổng GDP của cả khối ASEAN) đang là
chủ nợ số một của thế giới. Tuy nhiên, đấy là sự phát triển đang gây ra nhiều
vấn đề lo ngại cho cả thế giới, trước hết bởi lẽ các thể chế quốc tế và khu vực
hiện hành đang rơi vào tình trạng (a)một mặt không theo kịp tình hình có sự
tham gia ngày càng lớn của Trung Quốc và những tác động của nó vào nền kinh tế
thế giới, (b)mặt khác nhiều thực tiễn hoạt động kinh tế của Trung Quốc đang vô
hiệu hóa những thể chế này (các vấn nạn mới nhất là cuộc xâm lăng của hàng rẻ chất lượng thấp tiếp tục bành trướng,
vấn đề ăn cắp bản quyền và những vi phạm bảo hộ sở hữu trí tuệ, nạn hacker, rửa
tiền, tham nhũng, sự lũng đoạn của quyền lực mềm...).
Các
chuyên gia tính toán, giả thử muốn nâng GDP p.c. của Trung Quốc hiện nay lên
gấp đôi, Trung Quốc với phương thức phát triển như hiện nay, tối thiểu phải cần
một khối lượng nguyên liệu, năng lượng gấp 4 - 5 lần mức đang sử dụng hiện nay,
lấy ở đâu ra? Quy mô thị trường tính theo khối lượng hàng hóa cũng phải tăng
lên tương ứng, chiếm ở đâu? Phát triển như vậy mà lại không gắn với trách nhiệm
với cộng đồng quốc tế, sẽ tác động lên nền kinh tế thế giới như thế nào? Các
chuyên gia đánh giá quy mô và phương thức Trung Quốc hiện nay thu hút tài
nguyên của thế giới đã vượt xa chủ nghĩa thực dân mới trong thế kỷ 20, sản phẩm
Trung Quốc hiện nay đã lũng đoạn đáng kể thị trường và chính trị nhiều quốc gia...
Vậy sắp tới sẽ là gì?
Bành
trướng bá quyền là lẽ sống, là phương thức sống, là triết lý xây dựng nên và
nuôi dưỡng sự tồn tại của đế chế Trung Hoa từ ngàn xưa. Ngày nay đế chế này
đang phục sinh dưới cái nhãn chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc và “giấc mơ
Trung Hoa”. Nghĩa là bành trướng bá quyền còn là vấn đề bản chất sinh tồn và
văn hóa, chứ không phải chỉ đơn thuần là vấn đề chủ trương chính sách, hay là
vấn đề đạo đức chính trị của lãnh đạo Trung Quốc đương thời. Nó còn là sản phẩm
của văn hóa và truyền thống Trung Quốc từ ngàn xưa để cố kết nên, và hôm nay
đang duy trì, và phát triển tiếp cái Đại Trung Hoa trong thế giới đương đại.
Bởi lẽ nếu không có tăng trưởng nóng như vậy, nếu không giữ được toàn Trung Quốc
cho khát vọng siêu cường.., Trung Quốc sẽ sụp đổ, thậm chí có thể sẽ tan rã
thành nhiều mảng. Từ khi CHNDTH ra đời đến nay, có một thực tế qua mọi thời kỳ
là một khi nội trị càng nhiều vấn đề nóng bỏng, lãnh đạo Trung Quốc càng phải
ra sức hướng sự bùng nổ của các mâu thuẫn bên trong ấy ra bên ngoài. Sự hình
thành và phát triển như thế của Trung Quốc không cho phép, và chính bản thân nó
cũng không có lợi ích lựa chọn một mô hình phát triển hài hoà với cả thế giới.
Chính thực tế này giải thích tại sao hôm nay Trung Quốc trở thành vấn đề của cả
thế giới.
Mới lên cầm quyền
được 2 năm, chủ trương “trỗi dậy hòa bình” thời Hồ Cẩm Đào đã được Tập Cận Bình
đẩy lên thành khát vọng “giấc mộng Trung Hoa”, dùng hàng trăm tỷ USD và mọi ảnh
hưởng củng cố “con đường tơ lụa truyền thống” trên bộ (từ Trung Quốc qua Trung
Á, châu Phi, sang châu Âu, đến tận Địa Trung Hải…), đồng thời đẩy mạnh hình
thành “con đường tơ lụa thứ hai trên biển” nối eo Malacca với Biển Đông, đi ra
Thái Bình Dương, rồi vòng sang Ấn Độ Dương..; nỗ lực tăng cường ảnh hưởng trong
những tập hợp kinh tế đã có mặt trên thế giới, đồng thời vận động hình thành
những tập hợp kinh tế mới mang tính đối chọi với ADB, TPP... Trên Biển Đông,
ngoài việc gây những căng thẳng trên biển Hoa Đông, trước mắt tập trung thực
hiện cái “đường lưỡi bò 9 vạch”, biến các đảo đã chiếm được thành các căn cứ
quân sự trên biển, tìm cách chi phối tuyến giao thương hàng hải huyết mạch số 1
của thế giới. Đối với các nước ASEAN một tay sẽ nâng kim ngạch buôn bán hiện
nay khoảng 500 tỷ USD sẽ lên 1000 tỷ USD vào năm 2020, tăng FDI, đưa ra chiêu
bài chiến lược “châu Á của người châu Á”.., tay kia giương cao cái gậy quân sự,
môt mặt ngăn chặn mọi nỗ lực giải quyết những tranh chấp bằng thương lượng hòa
bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, mặt khác áp đặt đàm phán tay đôi… Hiện nay
Trung Quốc đang xúc tiến thành lập Ngân hàng Phát triển Hạ tầng Châu Á (AIIB)
nhằm địch lại ADB và hiệp định TTP. (AIIB lôi kéo được nhiều nước phương Tây
tham gia, với biện minh: không nên Trung Quốc một mình thao túng sân chơi này).
Từ
3 năm nay, khai thác những vấn đề phức tạp mới trong cục diện quốc tế đa cực,
đặc biệt là tình hình Mỹ và quan hệ Nga – Mỹ/Nato, lãnh đạo Trung Quốc chủ
trương mở ra thời kỳ mới trong chiến lược bá chiếm Biển Đông. Tập Cận Bình
tuyên bố Trung Quốc có lợi ích cốt lõi ở Biển Đông, chủ quyền của Trung Quốc là
vấn đề không thể nhân nhượng… Đây còn là cách Trung Quốc trả đũa chiến lược trục
xoay Châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ. Hơn bao giờ hết chủ nghĩa dân tộc
(nói cho đúng là chủ nghĩa Đại Hán)
được nuôi dưỡng thành ngọn cờ tinh thần cổ xúy cho giấc mộng Trung Hoa[4].
Trong
tình hình Mỹ cam kết bảo vệ chủ quyền của Nhật bao gồm cả khu vực đảo Điếu Ngư
trên cơ sở hiệp ước liên minh phòng thủ Mỹ - Nhật, đồng thời Mỹ cam kết mạnh mẽ
bảo vệ Philippines (tuyên bố của Obama 29-04-2014 và việc hai nước ký hiệp ước
liên minh quốc phòng mới cho 10 năm tới), có thể phán đoán Trung Quốc lúc này
tuy gây ồn ào, nhưng thật ra không dám trực tiếp đụng độ với Nhật và
Philippines, vì so sánh lực lượng tại hai nơi này đều nghiêng hẳn về phía Mỹ.
Trong
khi đó sự kiện giàn khoan HD 981 và những hệ lụy đang diễn ra cho thấy Trung
Quốc tập trung áp lực bành trướng vào vùng biển của Việt Nam và các nước ASEAN
khác.
Các
diễn tiến tiếp theo như việc Trung Quốc
tiếp tục đặt thêm các giàn khoan ở vùng vịnh Bắc Bộ (giáp gianh đường phân định
và thuộc vùng đang còn tranh chấp giữa ta và Trung Quốc), xúc tiến hình thành
chiến tuyến các căn cứ quân sự nổi trên biển chạy dài từ Du Lâm (Hải Nam), “Tam
Sa” (thuộc Hoàng Sa chiếm của Việt Nam) đến Gạc Ma, Chữ Thập (2 đảo này chiếm
của Việt Nam năm 1988)… hướng về Scarborough (Philippines), báo chí Trung Quốc
đã nói đến khả năng lập vùng nhận dạng phòng không (AIDZ) trên Biển Đông… Tất
cả cho thấy Trung Quốc đang tìm cách khẳng định “đường lưỡi bò” bằng thực lực
(bao gồm cả vũ lực) theo phương châm “gặm dần”, bất chấp sự lên án quyết liệt
của toàn thế giới.
Các
bước đi mới nói trên của Trung Quốc đối với Việt Nam, bắt đầu từ sự kiện giàn
khoan HD 981, cho thấy hiện nay vùng biển còn lại của Việt Nam trở thành đối
tượng bành trướng trực tiếp của Trung Quốc. Đây cũng là khâu Trung Quốc có khả
năng nhiều nhất giành thắng lợi trên Biển Đông, bằng mọi biện pháp tổng hợp rắn
và mềm... Báo mạng Trung Quốc (nhất là trang Hoàn Cầu Thời Báo, trang
China.com…) lâu nay nhan nhản các bài rêu rao có thể đánh Việt Nam chỗ này chỗ
nọ trong vài giờ…
Nếu
đặt tình hình thực tế nói trên trong bối cảnh Trung Quốc luôn bố trí sẵn sàng
lực lượng quân sự trên toàn biên giới phía Bắc Việt Nam, có ảnh hưởng sâu sắc
với tất cả các nước láng giềng trên sườn phía Tây của Việt Nam, trên biển Đông
là cái đường 9 vạch đang được Trung Quốc tìm mọi cách khẳng định bằng những căn
cứ quân sự nổi trên các đảo, rồi nhìn từ căn cứ hải quân Du Lâm (Hải Nam) đến
đặc khu kinh tế Vũng Áng (Hà Tĩnh) chỉ cách nhau khoảng vài trăm km có lúc có tới hàng nghìn công
nhân Trung Quốc làm việc.., có thể vẽ lên một bản đồ tổng hợp quân sự - kinh tế
- chính trị, trong đó Việt Nam đang bị uy hiếp và bao vây như thế nào. Nếu nhìn
sâu thêm vào sự lệ thuộc về kinh tế của Việt Nam, vào tình hình lũng đoạn của
quyền lực mềm Trung Quốc vào nội tình Việt Nam, có thể nhận định: Về tổng thể
Việt Nam đang bị Trung Quốc uy hiếp toàn diện và ở mức độ chưa từng có kể từ
sau ngày 30-04-1975.
Binh lính
Trung Quốc tại đảo đá Chữ Thập mà nước này chiếm đóng trái phép của Việt Nam từ
năm 1988 đến nay . Bộ trưởng Vương Nghị: Trung Quốc xây dựng trên một số đảo thuộc Trung Quốc là cần thiết, sao
lại phản đối?!” - Ảnh của China.com
Phải
nói khi xẩy ra cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc 17-02-1979 tình hình
Việt Nam bị uy hiếp hồi đó không nguy hiểm bằng hôm nay, lý do cơ bản là mối
tương quan mọi mặt hồi đó giữa sức đề kháng của ta và khả năng uy hiếp của
Trung Quốc, thì hồi đó ta mạnh hơn nhiều so với ta hôm nay. Cái “4 không được”[5]
đấy hống hách Trung Quốc gửi gắm vào dịp chuyến đi Hà Nội 15-06-2014 của Dương
Khiết Trì nói lên khá rõ tình hình này và cho thấy Trung Quốc không có lý do gì
để khoan nhượng – ngoại trừ những thủ đoạn sách lược.
Như
đã trình bầy trong bài “Còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy”,
Trung Quốc đã sẵn sàng trong tay các kịch bản từ A – Z để đối xử với Việt Nam
theo lợi ích của Trung Quốc đòi hỏi. Hiện nay Trung Quốc đang theo đuổi kịch bản
A, vì nó rẻ nhất, “êm ả” nhất đối với dư luận thế giới, đạt nhiều hiệu quả
nhất. Bởi lẽ kịch bản này khai thác được tối đa sự khiếp nhược của Việt Nam,
Trung Quốc có thể lấn chiếm tiếp mà không cần phải dùng đến những biện pháp
quân sự ồn ào. Kịch bản Z là kịch bản cuối cùng, tổng hợp tất cả các biện pháp
kinh tế, chính trị và chiến tranh.
Việc
Trung Quốc cử Dương Khiết Trì đi Hà Nội có thể còn cho thấy kịch bản A sẽ được tiếp tục; với lý do nếu làm quá tay, sự
phản ứng của nhân dân Việt Nam sẽ có thể dẫn đến tình huống Hà Nội không kiểm
soát được tình hình, chế độ có thể sụp đổ, sẽ buộc Trung Quốc phải chuyển sang
kịch bản ồn ào hơn mà Trung Quốc lúc này chưa muốn... Có lẽ đây là lý do quyết
định nhất Trung Quốc rút giàn khoan HD 981 sớm 30 ngày so với dự định. Nghĩa là
có thể dám chắc: Trung Quốc rút giàn khoan HD 981 không phải do Việt Nam nhẫn
nại một chiều duy nhất thương thuyết hòa bình.
Trong
giới chuyên gia quân sự quốc tế, có ý kiến: Nếu lúc này Trung Quốc tiến hành
chiến tranh dưới các hình thái như bất ngờ đánh chiếm biển đảo như đã làm trong
các năm 1974, 1988, hoặc chiến tranh trên bộ như quy mô 17-02-1979, Trung Quốc
có thể thắng; song điều bất lợi khiến Trung Quốc còn đang phải cân nhắc là:
bước đi này có thể sẽ đẩy nhiều nước Đông Nam Á ngả hẳn theo Mỹ và tạo thành
một vòng vây chống Trung Quốc…
Nghĩa
là nhìn về bất kể phương diện nào, trong cục diện quốc tế hiện nay chính sách
của Trung Quốc đối với Việt Nam đã thực sự bước hẳn sang một giai đoạn có những
đối kháng mới, vì đây là khâu yếu nhất cần đột phá cho giai đoạn mới của chiến
lược bá chiếm Biển Đông, đột phá khẩu của toàn bộ chiến lược ngoi lên siêu
cường. Nghĩa là Trung Quốc thấy đã đến lúc vứt cái lá nho “4 tốt và 16 chữ” đã
hết thời. Điều này cũng có nghĩa đã đến lúc toàn đảng và cả nước ta cần tỉnh
táo đánh giá lại toàn bộ tình hình thực chất quan hệ Việt – Trung để lo giữ
nước, phải cố tạo sức mạnh thực lực và thế chính trị để có thể sống hoà bình
bên cạnh Trung Quốc. Chỉ như thế mới có thể hữu nghị và hợp tác được với Trung
Quốc.
Tính chất đối kháng quyết liệt của vấn đề
là: Hiện thực của giấc mơ Trung Hoa với tinh thần Đại Hán hiện nay bắt buộc
phải khởi đầu từ Biển Đông – đơn giản vì mọi hướng khác đã có chủ, Trung Quốc
không thể vượt qua. Chỉ còn lại hướng đi khả dĩ là Biển Đông – trong đó Việt
Nam là khâu yếu nhất để đột phá và cũng là khâu trọng yếu nhất phải xử lý trong
vùng Đông Nam Á.
Thế
còn Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ)?
Cuốn
sách Lược
tân lịch sử Trung Quốc (xuất bản 1954) đưa lại lời phát biểu của Mao
Trạch Đông nói sau khi thành lập nước CHNDTH: “Tất cả các lãnh thổ và hải đảo thuộc
khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc đã từng bị phe Đế Quốc Tây Phương và Nhật Bản
chiếm đoạt từ giữa thế kỷ 19 đến sau Thế Chiến I, như Ngoại Mông, Triều Tiên, “An Nam”, Mã Lai,
Thái Lan, Miến Điện, Bhutan, Nepal, Ladakh, Hồng Kông, Macao, cùng những hải
đảo Thái Bình Dương như Đài Loan, Bành
Hồ, Ryukyu, Sakhalin, phải được giao hoàn cho Trung Quốc”[6]. Quan điểm này của Mao, cùng với toàn bộ
những sự việc tranh chấp lãnh thổ do Trung Quốc gây ra với tất cả các nước láng
giềng (trong đó có Việt Nam) trong suốt chiều dài lịch sử nước CHNDTH cho đến
hôm nay nói lên rất rõ ý thức hệ mà ĐCSTQ tôn thờ: chủ nghĩa bành trướng Đại
Hán.
Đại
hội 18 của ĐCSTQ (11-2012) đã đưa vào nghị quyết: Nước giàu quân mạnh, quyết
đánh thắng các cuộc chiến tranh cục bộ. Gắn nội dung này với những phát biểu
của Tập Cận Bình về giấc mộng Trung Hoa, về lợi ích cốt lõi của Trung Quốc trên
Biển Đông…, quan sát những hành động Trung Quốc đang tiến hành, chỉ có thể kết
luận ĐCSTQ
hôm nay bộc lộ nguyên hình là hình thái tổ chức quyền lực của đế chế Trung Hoa
phục sinh thời hiện đại, cho đến nay đang khai phá thành công con đường đưa
quốc gia này trở thành siêu cường số một.
Trong
cục diện quốc tế mới này, Việt nam đứng trước những thách thức mới khắc nghiệt
hơn bao giờ hết kể từ sau 30-04-1975, song cũng chưa bao giờ cả thế giới của
hoà bình và phát triển (nghĩa là ngoại trừ Trung Quốc) rất cần có một Việt Nam
mạnh mẽ đứng vững được trên đôi chân của mình tại khu vực Đông Nam Á và trên
Biển Đông như hiện nay.
Việt
Nam và cả thế giới đang đứng trước một Trung Quốc ngày nay trở thành một thế
giới riêng của chính nó, có nhiều tiền và súng, chơi theo luật chơi riêng của
nó. Để tồn tại và để vãn hồi vai trò đế chế nó đã từng có, Trung Quốc đang theo
đuổi giấc
mơ Trung Hoa nhằm mở rộng không gian áp dụng luật chơi riêng của nó,
với quan điểm mục tiêu biện minh cho biện pháp. Trung Quốc có rất nhiều khó
khăn nội tại ở tầm vóc khó hình dung nổi với cách nhìn của một quốc gia bình
thường. Song vì là một thế giới riêng của chính nó với không gian sinh tồn của
trên 1,3 tỷ dân, Trung Quốc sở hữu nhiều điều kiện cho phép áp dụng quan điểm mục
tiêu biện minh cho biện pháp. Đương nhiên là để xử lý các vấn đề đối
nội và đối ngoại theo luật chơi riêng của nó. Để tất cả cho mục tiêu trở thành
siêu cường số một… Trung Quốc đã thực sự trở thành vấn đề của cả thế giới, gây
ra rất nhiều vấn đề cho thế giới. Nhưng bản chất của đế chế Trung Hoa đi ngược
với các giá trị của trào lưu hòa bình, dân chủ, hợp tác và phát triển của thế
giới ngày nay. Thực lực của nó phát triển mang tính bành trướng (một phương
thức expansion của dạng “zero sum game”, chứ không phải là development). Vì thế
cho dù một khi trở thành nền kinh tế lớn số 1 thế giới vào khoảng những năm
2040s, Trung Quốc cũng không thể giữ vai trò lãnh đạo thế giới, ít nhất là
trong tầm nhìn cho đến hết thế kỷ này. Song chắc chắn thế giới Trung Quốc cũng
phải thường xuyên thay đổi để thích nghi với cả thế giới Trung Quốc đang sống. Trung
Quốc thực sự đang là vấn đề rất nguy hiểm đối với tất cả các nước láng giềng –
đặc biệt là đối với nước ta[7].
Trong
suốt chiều dài lịch sử nước ta, có lẽ chưa bao giờ câu hỏi “Làm thế nào để Việt Nam với tư cách là một
quốc gia độc lập có chủ quyền có thể sống hoà bình, hữu nghị bên cạnh Trung
Quốc?” lại nóng bỏng như hôm nay. Có bản lĩnh trả lời thoả đáng câu hỏi
này, mới hy vọng có khả năng loại bỏ hiểm hoạ “các cuộc chiến tranh qua tay
người khác” (các “proxy wars”) đã từng cướp mất của nước ta toàn bộ nửa sau thế
kỷ XX với những hệ quả đang đầy đoạ nước ta vào cảnh ngộ hôm nay.
Ngày
nay, bên cạnh những vấn đề quan hệ quốc gia / quốc gia dưới dạng song phương
hoặc đa phương, nước ta lại một lần nữa đứng trước nguy cơ bị giằng xé, và có thể
lại rơi vào các loại “proxy wars” nguy hiểm không kém. Lần này là sự giằng xé
giữa hai thế giới. Một bên là Mỹ và đồng minh, với sự tập hợp lực lượng dưới
ngọn cờ dân chủ, tự do, nhân quyền. Một bên là Trung Quốc và các chế độ toàn
trị đồng minh, giương cao ngọn cờ chống phương Tây.
Ngoài
ra nước ta hiện nay còn được bổ sung thêm một sự giằng xé nữa, ở tầm vóc nhỏ
hơn, nhưng không kém phần phức tạp, cũng đang trương lực hút lấy nước ta. Đó là
những căng thẳng trong quan hệ giữa Mỹ và Nga chung quanh vấn đề Ukraina, lần
này trực tiếp liên quan đến vịnh Cam Ranh...
Cái
oái oăm ác nghiệt đối với nước ta còn ở chỗ những giải pháp cho những vấn đề hệ
trọng trong quan hệ quốc tế thường phải có sự tham gia của những cường quốc, họ
sẵn sang “thí” các nước nhỏ cho bất kể sự đổi chác nào mà lợi ích của họ đòi
hỏi.
Tất
cả những sự kiện nêu trên đều mang tính khách quan, với nghĩa là từ bên ngoài
bất khả kháng ập vào nước ta và trực tiếp can dự vào mọi việc của nước ta, bất
luận nước ta muốn hay không. Cần thấy rõ bản chất của sự vật là như vậy, để tìm
ra những giải pháp đúng đắn: tối ưu cho nước ta, nhưng đồng thời phải phù hợp
với lợi ích chung của thế giới về hòa bình, dân chủ, hợp tác và phát triển –
nhất là phải phù hợp với luật pháp quốc tế. Dứt khoát nước ta không thể lựa
chọn những quyết định của ý thức hệ, của yêu, ghét hoặc sợ.
Xin
nhớ cho, chính vì không thoát khỏi sự lựa chọn của ý thức hệ, yêu, ghét, hoặc
sợ, nước ta trong quá khứ đã bị các liên minh hay đối tác phản bội không dưới
một lần, có đôi ba lần gần như bị bán đứng. Chúng ta không nên bám vào quá khứ,
nhưng bài học của lịch sử thì không được quên. Nào là chuyện Trung Quốc hy sinh
lợi ích của Việt Nam tại Hội nghị Genève 1954 về Đông Dương, chuyện Trung Quốc
bán đứng cuộc kháng chiến của ta năm 1972 khi bắt tay với Kissinger - Nixon,
đưa quân xâm lược biên giới nước ta năm 1979 và báo cho Mỹ biết trước, chuyện
Liên Xô đành khoanh tay ngồi yên – có thể vì bất lực.., chuyện Mỹ loại gia đình
ông Ngô Đình Diệm năm 1963, bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa 1973, để yên Trung Quốc
chiếm Hoàng Sa 1974… vân vân và vân vân… Đơn giản vì thân phận con tốt trên bàn
cờ thường có chức năng chủ yếu là để được thí. Trong khi đó hình như cho đến
tận hôm nay ngoại giao nước ta vẫn chưa thoát khỏi hội chứng ý thức hệ, yêu,
ghét hoặc sợ; lỗi không đơn thuần là của Bộ Ngoại giao, mà chủ yếu và trước hết
là do đường lối đối nội và đối ngoại của ĐCSVN.
Cục
diện quốc tế hôm nay khác hẳn thời đó. Tranh chấp Mỹ - Trung hiện nay trên Biển
Đông nói riêng và tại Châu Á – Thái Bình Dương nói chung đang tiềm ẩn khả năng
kéo nước ta vào một cuộc giằng xé mới. Cái mới là ở chỗ: Lợi ích của Mỹ hiện
nay và lâu dài thuận chiều với hòa bình và phát triển tại vùng này, trong khi
đó lợi ích của Trung Quốc trước mắt và lâu dài là muốn bá chủ vùng này; đặc
biệt là Trung Quốc ngày nay là vấn đề của cả thế giới, đang “bully” (ăn hiếp)
các nước láng giềng – (tìm xem: Times, Diplomat, Foreign Affairs, Newsweek, New
York Times, CSIS, RAND, lần đầu tiên Thượng viện Mỹ ngày 11-07-2014 và Hạ Viện
Mỹ ngày 21-11-2014 nhất trí thông qua Nghị quyết về Biển Đông, phản đối chính
sách và hoạt động của Trung Quốc tại khu vực này, vân vân… …). Không ít
quốc gia trên thế giới, đặc biệt là trong khu vực chúng ta, đang lo lắng Mỹ và
phương Tây hiện nay quá bận với các vấn đề Ukraina, Nga, IS, Syrie, Iran,
Israel – Hamas, Israel - Iran… nên cái “Pivot to Asia - Pacific” có thể nhẹ đi
phần nào… Thậm chí đã có không dưới một lần câu hỏi: Liệu chiến tranh có thể
xảy ra trên Biển Đông hay không?
Tình
hình thế giới và khu vực hiện nay quả là rất nhạy cảm và nguy hiểm. Song theo
ai và chống ai lại không phải là việc của chúng ta. Khả năng nước ta trở thành
một quốc gia trung lập gần như là ảo tưởng – vì nước ta chưa đủ trình độ và
cũng không có thực lực mọi mặt để làm được việc này. Cũng không có con sói nào
tha ăn thịt con cừu chỉ vì con cừu hiền lành và không làm hại ai! Đồng thời ta
cũng không thể khoanh tay há miệng chờ sung rụng – trông chờ có một hiệp sỹ nào
đó ra tay độ thế…
Thử
thách hôm nay chỉ dành cho nước ta sự lựa chọn duy nhất: Giác ngộ lợi ích quốc
gia của mình với tất cả trí tuệ và ý chí cao nhất, toàn dân tộc một lòng và
tranh thủ sự hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ, quyết bảo vệ đến cùng sự nghiệp
xây dựng đất nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia của chúng ta, góp phần tích cực
của mình vào bảo vệ hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực. Ta có hết
lòng vì ta và vì người như vậy, người mới vì ta. Ta còn chập chờn với chính lợi
ích quốc gia của ta, còn chơi trò nước đôi hay leo dây để mưu cầu yên thân thêm
được vài giờ, sẽ chỉ chuốc lấy thân phận chư hầu hay nô lệ mãi mãi, thân cô thế
cô mãi mãi như hiện nay… Nếu mù quáng chọn đi với cái ác – chỉ vì cái nhẽ “nước
xa không cứu được lửa gần” – chắc chắn sẽ được lửa của cái ác thiêu rụi và còn
được hứng bổ sung thêm cả lửa của thế giới chống lại cái ác.
Xưa
nay, trong quan hệ quốc gia – quốc gia mọi của bố thí ít nhiều đều có thuốc độc!
Trên đời này không ai giữ nhà hộ ta đâu. Trên đời này cho đến nay mới chỉ có
chuyện có ý thức hay vô ý thức nước ta đã trở thành lính đánh thuê cho kẻ khác,
chứ chưa hề có chuyện ai đó trong thiên hạ trở thành kẻ đánh thuê giữ nhà hộ ta.
Chế
độ chính trị của đất nước ta như hiện nay, chất lượng của ĐCSVN như hiện nay,
lòng dân không yên và mất lòng tin vào đảng như thế này, liệu đủ sức đương đầu
với thử thách hôm nay?
Hơn
bao giờ hết, thử thách đất nước phải đối mặt hôm nay đòi hỏi cả nước, trước hết
là ĐCSVN, phải mở mắt và sống trung thực với sự thật, đoạn tuyệt vĩnh viễn với
mọi suy nghĩ kiểu ý thức hệ, yêu, ghét, sợ và mẹo vặt! Việc đầu tiên là phải có toàn dân
tộc trong mọi quyết định. Tổ quốc trên hết!
-
Vậy
trí tuệ nào, bản lĩnh nào và thực lực nào cần phải có để cho nước ta có thể
đứng vững trong thế giới hôm nay?
-
Dĩ
bất biến: Việt Nam phải có bằng được toàn dân tộc và cả thế giới tiến bộ trên
một chiến tuyến! Không có được hai yếu tố này, Việt Nam có thể lại bị bán đứng
một lần nữa, nhiều lần nữa... Đấy cũng là lời cảnh báo giùm ta, của Daniel
Ellsberg, người đã từng viết “Pentagon Paper” nổi tiếng.
Chọn
được lợi ích quốc gia chân chính, sẽ có được cả dân tộc và cả thế giới tiến bộ,
tạo ra sức mạnh bất khả kháng! Đó chính là đặc điểm của thời đại ngày nay. Ngoại
giao ăn mảnh, ngoại giao đi đêm, mẹo vặt hay quỳ xuống… tất cả sẽ chỉ mang lại
tổn thất mới cho nước ta. Xin nhớ cho điều này, tính sổ cho đến hôm nay: nước
ta bị lừa là chính, chứ nước ta chưa từng lừa nổi thiên hạ, ngoại trừ một số
mẹo vặt. Lịch sử ngoại giao CHXHCNVN, nhất là từ sau Thành Đô, đã dậy ta như
vậy nhiều lần.
Box 2
Các cuộc chiến
tranh qua tay người khác (“proxy wars”) nước ta đã bị đẩy vào trong nửa sau thế
kỷ XX vô cùng khốc liệt, đó là:
(1) Cuộc chiến tranh toạ
sơn quan hổ đấu, Trung quốc quyết đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng.
(2) Cuộc chiến tranh quyết
đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá và chiến lược “Vượt lên ngăn chặn”
(Byond Containment) của Mỹ thời chiến tranh lạnh 1945 – 1991 nhằm chống Liên Xô.
(3) Chiến tranh Campuchia
của Khmer đỏ 1975 – 1989 do Trung Quốc dựng nên chống Việt Nam.
(4) Cuộc chiến tranh giữa
chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa đế quốc trên đất Việt Nam trên thực tế đã mau
chóng đẩy Việt Nam vào cuộc nội chiến Bắc – Nam, bắt đầu từ khi chủ nghĩa đế
quốc quay trở lại Việt Nam năm 1945 và dựng lên các chính quyền người Việt đi
theo họ. Cuộc nội chiến này kéo dài 30 năm đến tận 30-04-1975, lẩn sâu vào và
gắn kết hữu cơ với các “proxy wars” khốc liệt khác, đẩy Việt Nam vào con đường
định mệnh đến hôm nay chưa có cách gì thoát ra được. Thực tế này cắt nghĩa vì
sao dân tộc ta đã phải trả cái giá rất đắt cho sự nghiệp giành lại độc lập và
thống nhất đất nước. Phải hiểu rõ cái giá này để hôm nay gìn giữ được độc lập
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không bao giờ cho phép tái diễn thảm
kịch mất nước hoặc rơi vào các “proxy wars”. Song trên thực tế, hình như cho
đến giờ phút này khó mà nói được ĐCSVN đã làm mọi việc phải làm để toàn thể dân
tộc ta nhìn thấu được con đường đau khổ vừa qua và cái giá đất nước đã phải trả
kể từ sau chiến tranh thế giới II cho đến hôm nay. Con đường định mệnh này vẫn
đang tiếp tục vô cùng ác nghiệt đối với hiện tại và tương lai của đất nước.
II. Con đường phát triển của Việt Nam đã sang trang từ lâu
II.
1. “Nước Việt Nam là của người Việt Nam!”
Ngày
30-04-1975 đất nước thống nhất, Việt Nam hoàn toàn độc lập, kết thúc thời kỳ
chiến tranh, đi vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước. Lịch sử Việt Nam
bắt đầu sang trang mới từ đây: Dân tộc Việt Nam làm chủ quốc gia độc lập
thống nhất của mình. Khẩu hiệu có ý nghĩa nhất làm nên Cách Mạng Tháng Tám
“Nước Việt Nam là của người Việt Nam!” trở thành hiện thực với ngày 30-04-1975.
Như
thế, lẽ ra phải…
Nhiệm
vụ đầu tiên và mãi mãi của quốc gia độc lập thống nhất lẽ ra phải là: thiết lập
và phát huy quyền làm chủ đất nước của toàn dân tộc. Vì điều này đơn giản như
lẽ sống: Đất nước này từ nay là của toàn thể dân tộc Việt Nam ta, trường tồn
với dân tộc ta. Tổ quốc mang trong tim mỗi người Việt Nam chúng ta có ý nghĩa
thiêng liêng là vì lẽ như vậy.
Bao
nhiêu hy sinh xương máu, bao nhiêu đau thương mất mát, bao nhiêu điều đau lòng
tay trái chém tay phải, bao nhiêu lầm lỗi và oán thù, bao nhiêu sai lầm phải
trả giá đau đớn, và còn biết bao nhiêu đau khổ khác nữa không thể nói lên thành
lời cả dân tộc này đã phải chịu đựng trong suốt 3 thập kỷ chiến tranh để mới có
được độc lập và thống nhất này! Máu nào của mỗi người dân ta đã ngã xuống bên
chiến tuyến nào cũng đều là máu của dân tộc ta! Tất cả chỉ càng thôi thúc mỗi
người Việt Nam chúng ta phải thấm thía sâu sắc hơn bao giờ hết cái giá phải trả
cho đất nước độc lập thống nhất! Thật quyết liệt quá, đau quá!.. Tất cả lẽ ra
phải làm cho mỗi người Việt Nam chúng ta từ nay phải hiểu các bài học của quá
khứ để gìn giữ đất nước trong hiện tại và tương lai, để giác ngộ mỗi chúng ta ý
thức phải vươn lên sống xứng đáng với tính cách là người chủ của đất nước.
Thực
tế lịch sử vô cùng cay đắng này không cho phép bất kỳ ai, dù với lý do gì, tiếp
tục hành hạ đất nước và đang cướp đi của đất nước ý chí muốn sống vì hạnh phúc
hòa hợp dân tộc và vì tương lai của một quốc gia độc lập, dân chủ, tự do.
Một
giọt máu đã nhỏ xuống đất này, một giọt nước mắt mất đi, từng giọt mồ hôi phải
nuốt vào trong, tất cả phải dồn nén, phải hun đúc ý chí của từng người dân Việt
chúng ta thành một tinh thần dân tộc thống nhất, để sớm lấy lại cho đất nước
những gì chiến tranh, bạo quyền và sự ngu dốt đã cướp mất, để tất cả cùng nhau
vực dậy đất nước.
Hiện
tại và tương lai của đất nước đòi hỏi mỗi người dân chúng ta ghi xương khắc cốt
những bài học của quá khứ, bởi vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trên
con đường dân tộc và dân chủ vô vàn gian truân này chỉ có thể bắt đầu từ thấu
hiểu nỗi đau của chính dân tộc mình, đất nước mình.
Hơn
nữa, nằm ở vị trí đầu sóng ngọn gió của khu vực, nước ta trước đây, bây giờ và
mãi mãi là láng giềng của một Trung Quốc tham lam. Định mệnh do tự nhiên ốp vào
cho nước ta là như vậy, mãi mãi là như vậy. Nếu chúng ta không hiểu lời nguyền
địa lý này, không thấy những yếu kém của nước ta, nếu chúng ta không hiểu được
cái thế giới chúng ta đang sống, để quyết tìm ra con đường vượt lên trên định
mệnh của mình, nước ta làm sao tránh được số phận luôn luôn là con mồi trong
mọi tranh giành quyết liệt của cái thế giới không bao giờ hết giành giật nhau
giữa các cường quốc và các thế lực khác nhau?... …
Box 3
Trước khi bàn tiếp, xin chen ngang một
câu hỏi để cùng nhau suy nghĩ:
Vậy
nhìn lại quá khứ, kẻ thù đích thực của nước Việt Nam ta từ sau chiến tranh thế
giới II đến 30-04-1975 là ai?
Câu
hỏi này kéo dài và liên quan đến cả hôm nay.
Phải chăng câu trả
lời có thể như sau: Kẻ thù đích thực phải truy tìm ấy chính là sự ngu dốt
của mỗi chúng ta (a)về tình hình và xu thế phát triển của thế giới, cũng
như (b)về thực trạng tình hình mọi mặt của chính đất nước mình?
Nói một cách khác:
Dân tộc Việt Nam ta sở dĩ đã phải trả giá rất đắt cho chặng đường 1945 – 1975
với nhiều hệ luỵ lâu dài về sau này cho đến hôm nay, nguyên nhân đầu tiên là do
không hiểu được vị trí và vị thế của địa kinh tế và địa chính trị mà nước ta bị
đặt vào trong bối cảnh quốc tế sau chiến tranh thế giới II. Và có thể chính vì lẽ này, nước Việt Nam độc
lập ra đời vào lúc chiến tranh thế giới II kết thúc đã mau chóng rơi ngay vào
sự giằng xé của cái gọi là “thế giới
2 phe 4 mâu thuẫn”[8]. Hậu quả là nước ta
rơi ngay vào con đường đã đi cho đến hôm nay. Đã 70 năm rồi, nhưng hiện nay cả
dân tộc ta vẫn đang loay hoay hoặc mù quáng dò dẫm trên con đường khốn khổ
này... Nghĩa là đến hôm nay vẫn không biết người và không hiểu được chính
mình!?..
Cái ngu dốt đang
trở thành gông cùm truyền kiếp trên đầu trên cổ dân tộc ta, nếu không bị cái
giả dối che đậy và hoá trang thành cái vinh quang hão huyền đang làm tê liệt
đầu óc, thì lại đang trở thành nguồn dinh dưỡng vô tận của mọi oán thù tiếp tục
chia rẽ cộng đồng dân tộc...
Lịch sử 70 năm qua
không được những người hiện đang cai trị đất nước huy động trí tuệ toàn
dân tộc đánh giá cẩn trọng và rút ra những bài học, mà lại đang cố tình tô
hồng và mài lịch sử ra để biện minh, để sống tiếp, và cuối cùng là để cố làm
cho cái toàn trị hiện tại trường thọ! Trong khi đó trí tuệ của đất nước hoặc
bị che mắt bịt miệng vì bất kể lý do gì… Hoặc cũng đành cam tâm chịu hèn, chịu
khuất phục…
Nói cho cùng, chính cái ngu dốt truyền kiếp này dù bất kỳ
từ nguyên nhân nào, hiện đang tha hóa dân tộc, làm thui chột quốc gia và
có nguy cơ biến mọi hy sinh và tổn thất của cả dân tộc ta suốt 70 năm
qua trở nên vô nghĩa, kéo dài tiếp con đường đau khổ hiện nay của đất nước! (Một
số ý kiến cho rằng tôi suy nghĩ như vậy là hỗn láo, xúc phạm dân tộc mình...
Xin cúi đầu chịu tội, nhưng vẫn cứ xin nói ra như vậy!)
Nghĩa là, việc
trước đó phải trả giá cho 80 năm thuộc địa Pháp vẫn chưa đủ làm cho chúng ta hôm
nay – người cai trị cũng như người bị cai trị, bên thắng cuộc cũng như bên thua
cuộc (nói theo Huy Đức)… - trên chặng đường 70 năm qua thức tỉnh được đâu là
lợi ích dân tộc của quốc gia mình?!..
Đến hôm nay vẫn cứ
bị hết chủ nghĩa này đến tư tưởng kia hớp hồn, lung lạc, nô dịch… Nghĩa là đang
bị giằng xé tiếp…
Đến hôm nay vẫn
còn đang u mê trong những hội chứng này hội chứng nọ…
Bây giờ còn được
bổ sung thêm sự tàn phá của tha hóa và sự trấn áp của chế độ toàn trị… Hoặc sự hủy hoại của cuộc sống dung tục, của
tâm lý bầy đàn… Hoặc sự cam chịu cái thân phận đa số thầm lặng…
Thật chua chát
quá. Nhưng vô cùng đau đớn đấy lại là sự thật!
Có phải như vậy
không? Tôi xin lỗi một lần nữa, nếu quá lời.
Xin mỗi người
dân Việt chúng ta hãy trấn tĩnh lại và cùng nhau suy nghĩ!
Con đường lẽ ra các lực lượng tinh hoa của dân tộc Việt Nam cần
nhất quán lựa chọn cho đất nước mình ngay sau kết thúc chiến tranh thế giới II
phải là con đường của dân tộc và dân chủ (cái dĩ bất biến), để qua đó luôn luôn
tự xác lập được chính mình, luôn luôn sống sót được và phát triển được trong
cái thế giới ngày càng sôi động này (cái ứng vạn biến). Đấy chính là cái dĩ bất biến ứng vạn biến dân tộc ta cần tạo ra cho mình trong hai thế kỷ
vừa qua! Ngày nay càng bị uy hiếp từ thế giới bên ngoài thì càng phải có cái dĩ bất biết ứng vạn biến như thế để tồn tại, để sống!
Xin lưu ý cho, từ
hai thế kỷ nay với vị trí địa lý tự nhiên của nước mình trên cả hai phương diện
kinh tế và chính trị, Việt Nam trở thành mảnh đất địa đầu của giao lưu và tranh
giành nhau giữa các thế lực lớn chi phối sự vận động của thế giới. Định mệnh ác
nghiệt này của tự nhiên ban tặng khiến cho nước ta luôn rơi vào tình cảnh nếu
không là con mồi cho các bên giành giật nhau, thì lại trở thành trận địa của
các cuộc chiến tranh qua tay người khác,
nhất là trong thế giới hiện đại. Muốn thoát khỏi lời nguyền địa lý này,
nước ta phải thường xuyên tạo ra được cho mình sức mạnh từ cái dĩ bất biến ứng vạn biến nói trên. Xu thế phát triển của thế
giới hiện nay cho phép và đang ngày càng đòi hỏi các quốc gia nhỏ yếu phải lựa
chọn cái dĩ bất biến ứng vạn biến như
thế! Là nước đi sau, Việt Nam càng phải lựa chọn như thế. Chỉ có một Việt Nam
của dân tộc và dân chủ mới có thể thực hiện được cái dĩ bất biến ứng vạn biến sống còn này!..
Nhưng một sự lựa chọn như vậy chưa bao giờ được dân tộc ta có đủ
nghị lực chấp nhận và giành lấy, mặc dù nó đã được không ít đầu óc siêu việt
của đất nước đặt ra rất sớm và nhiều lần kể từ khi chủ nghĩa thực dân bắt đầu
mon men đến xứ sở nước ta. Con đường đất nước đã trải qua từ sau chiến tranh
thế giới II cho đến hôm nay không phải là con đường của một sự lựa chọn cái dĩ bất biến ứng vạn biến như thế. Có
phải vậy không? Xin đừng ai lẩn tránh câu hỏi này.
Tôi không bỏ qua, nhưng cũng không đổ hết mọi tội lỗi dẫn tới
thực trạng đất nước hôm nay lên đầu chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc mà
nước ta là một trong những nạn nhân khốn khổ. Bởi vì toàn bộ cái thế giới khách
quan mà nước ta phải đối mặt tự nó đã là như thế, mãi mãi tiếp tục thách thức
nước ta như thế. Vả lại chừng nào còn là láng giềng của Trung Quốc Đại Hán thì
vẫn cứ có những thách thức loại như thế!.. Còn lựa chọn cách giải phóng nào,
lựa chọn con đường phát triển nào nước ta phải đi.., đấy lại là công việc của
dân tộc ta, của mỗi người Việt chúng ta không loại trừ một ai, không giao phó
được và cũng không thể đổ thừa được cho bất kỳ ai...
Tôi nghĩ như vậy,
bởi vì trong tôi lúc này cộm lên sự nuối tiếc: Phải chăng gần hai thế kỷ nay
các lực lượng tinh hoa của đất nước - dù thuộc phe nhóm hoặc khuynh hướng chính
trị nào - đều có một khuyết điểm chung quyết định tối hậu mọi hành động của
mình. Đó là: Chưa đủ trí tuệ và ý chí để giác ngộ được ở mức triệt để nhất lợi
ích của quốc gia, của dân tộc trên cơ sở hiểu biết cặn kẽ cái thế giới mà nước
ta đang sống. Vận mệnh đất nước ta cho đến hôm nay vẫn thường xuyên bị những
biến động từ bên ngoài đưa đẩy, chi phối . Còn tự thân nước ta hoặc là bị động
trôi dạt, hoặc là a-dua chạy theo. Trong khi đó đất nước ta lại thiếu vắng hẳn
sự tỉnh táo của trí tuệ mẫn tiệp cho xác định cái dĩ bất biến ứng vạn biến mà lẽ ra đất nước ta nhất thiết phải
vũ trang cho mình ngay từ Tháng 8-1945.
Nói trần trụi: Đấy là tình trạng thụ động hay vô thức bị xô đẩy
vào cái giằng xé giữa cộng sản và
chống cộng mà lẽ ra nước Việt Nam độc lập ra đời trong Cách mạng Tháng Tám hồi
ấy chẳng có lợi ích gì để tự chuốc lấy vào mình sự dính líu – thậm chí với sự cả tin và nhiều gởi gắm nữa..,
hoặc để bị động cuốn hút vào!.. Cái giằng
xé ấy sau này đã cắt đôi đất nước trong chiến tranh. Và ngày hôm nay, cái giằng xé ấy vẫn đang chia rẽ tiếp đất
nước chúng ta trong tinh thần, đang trở thành cái hố đen nuốt chửng tiếp mọi
nghị lực và ý chí của đất nước hôm nay!.. Bài học cho hôm nay cần rút ra từ
lịch sử phải chăng là như vậy, đành rằng lịch sử không thể làm lại được?
Có phải thế không?
Phải chăng đặt vấn
đề như thế cũng có nghĩa lối ra cần tìm cho hiện tại và tương lai của đất nước
hôm nay là phải được bắt đầu từ chính dân tộc Việt Nam ta! Đừng trách giời
trách đất gì cả! Nghĩa là bắt đầu từ mỗi người Việt ta phải suy nghĩ lại về
cái thế giới mình đang sống, về chính bản thân mình, về quốc gia mình. Không đủ
dũng cảm nhìn lại chính mình, làm sao tự giải phóng được chính mình?
Vâng, đất nước
chúng ta sẽ đi về đâu từ chỗ đứng hôm nay… nếu như những tình cảm về niềm tự
hào đã đánh thắng được những đế quốc to.., hay là lòng hận thù khôn nguôi chống
cộng sản được đặt sang một bên… Để thay thế vào đó là sự trấn tĩnh suy nghĩ lại
của mỗi chúng ta – để trước hết nhìn thấu chính chúng ta và hiểu chuẩn xác cái thế
giới chúng ta đang sống? … Rất nên làm như vậy, song không dễ dàng gì, vì có
quá nhiều cái của quá khứ đã ngấm vào máu chúng ta, nhiễm vào chúng ta như một
bản năng hay đã trở thành vô thức... Song trong cuộc sống hôm nay, để cho đất
nước sống, chúng ta nhất thiết phải chiến thắng được cái bản năng hay vô thức
này[9].
Trấn tĩnh suy nghĩ lại như vậy, chúng ta không cần phải phủ nhận
tất cả những gì thiêng liêng mà chúng ta đã từng một thời hy sinh cống hiến với
tất cả trái tim mình, những gì đã làm nên chính con người mình... Trấn tĩnh suy
nghĩ lại như vậy, chúng ta chỉ mở rộng thêm phần trí tuệ mà lâu nay tầm mắt
chúng ta chưa với tới hay bị điều này điều nọ che khuất, để tiếp tục hoàn thiện
chính con người mình. Cho dù mỗi chúng ta phải trải qua một quá khứ như thế
nào, nhưng hôm nay và bao giờ cũng vậy: Sống mà đánh mất mình thì không còn là
người nữa. Trong khi đó hoàn thiện bản thân mình lại là việc phải làm như hít
thở không khí hàng ngày. Luôn luôn giữ được chính mình, hiển nhiên cần phải
hàng ngày cần hít thở vượt lên quá khứ để hoàn thiện chính mình. Chuyện của
từng người có lẽ là như thế.
Nhưng sẽ còn một
vấn đề lớn nữa phải trang trải: Vậy nhìn
nhận lịch sử đất nước 70 năm qua như thế nào?
Thiết nghĩ: Nếu dùng lịch sử để
thanh toán ân – oán với nhau, hay là tô
hồng và mài lịch sử ra để sống, hay là lạm dụng nó, hoặc là đui chột, hay là mũ
ni che tai đối với nó.., có lẽ tất cả những cách ứng xử loại như vậy đối với
lịch sử sẽ chỉ đời đời hiệp lực nhau tiếp tục khoét sâu hơn nữa cái hố đen đang
nuốt chửng mọi sinh khí của dân tộc ta, kéo chìm nghỉm mãi đất nước. Còn nếu
trân trọng lịch sử với tất cả xót xa và yêu thương dân tộc mình và quê hương
mình, tôn vinh lịch sử làm người thầy nghiêm khắc và trung thực của mình, có
thể quá khứ sẽ trở thành bệ đỡ cho xúc tiến công việc hun đúc quyết tâm của cả
dân tộc ta đứng dậy tự nâng cao chính mình: Hòa hợp và cùng nhau vươn lên đổi
đời chính mình, đổi đời đất nước!
Có phải như thế
không?
Tôi không nghĩ ra
được một option nào khác khả dĩ hơn về ứng xử với lịch sử. Và trong thâm tâm,
tôi quyết không trốn tránh bất kỳ khó khăn nào, để gìn giữ niềm tin: Yêu thương
nhau và hướng về tương lai sẽ giúp dân tộc chúng ta vượt qua được tất cả…
Cái giá rất đắt không thể nói siết thành lời cả dân tộc ta đã
phải trả cho đau thương và sai lầm trong quá khứ suốt 70 năm qua sẽ trở nên rất
đáng giá – vâng, sẽ là duy nhất đáng giá khôn kể siết, nếu như hôm nay toàn thể
dân tộc ta qua sự trấn tĩnh này rút ra được những bài học cho mình, để cùng
nhau xây dựng bằng được cho đất nước mình cái
dĩ bất biến ứng vạn biến mà một quốc gia biết tự trọng nhất thiết phải có!
Làm sao mỗi người
Việt chúng ta có được trí tuệ và sự thôi thúc phải tự xem lại mình như thế?
Hoà giải và đoàn
kết dân tộc – cội nguồn của mọi nguồn lực chấn hưng đất nước – chỉ có thể bắt
đầu từ sự giác ngộ sâu sắc của mỗi chúng ta về cái dĩ bất biến ứng vạn biến như thế... Dân tộc và dân chủ chỉ có thể
bắt đầu từ như thế! Nói cho cùng, hòa giải dân tộc phải bắt đầu từ dân tộc ta
tự giác ngộ để thay đổi chính mình! Một lần nữa càng rõ giác ngộ như thế là vấn
đề sống còn hàng đầu.
Bản thân tôi vô
cùng khát khao hòa giải dân tộc, về con đường đi tới nó, và xin nêu ra như vậy
để tất cả cùng tham khảo.
[Trong tôi nhiều
lúc cứ vang vọng mãi lời ru từ ngàn xưa về người Việt chúng ta: “…Gà cùng một mẹ chớ hoài đã nhau!..
Phần này tôi chỉ
muốn tập trung vào truy tìm kẻ thù đích thực – nghĩa là điểm yếu nhất của dân
tộc mình. Vì thế, một lần nữa xin thể tất cho tôi khi phải nói lên những lời
đau lòng, dù là xúc phạm hay nhạy cảm như thế nào. Còn đúng/sai ra sao, xin để
người đọc phán xét”]
Vâng.
Những điều lẽ ra phải làm như vậy ngay sau ngày 30-04-1975 là trả lại
quyền làm chủ đất nước cho nhân dân và xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ đã
không xảy ra, đến hôm nay vẫn chưa xảy ra!
Sau 30-04-1975 ĐCSVN
đã chọn thừa thắng xông lên, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội theo con đường của chủ nghĩa Mác – Lênin phỏng theo mô hình
xô-viết.
Hệ
quả: Kinh tế đất nước vốn kiệt quệ sau chiến tranh lại phải đi ngay vào quá
trình sụp đổ tiếp vì duy ý chí, cho đến khi phải tiến hành đổi mới. Đồng thời
đất nước bị đẩy tiếp vào 2 cuộc chiến tranh lớn kéo dài hơn một thập kỷ (1975 –
1989, 1979 – 1989). Chưa nói đến những đổ vỡ và tổn thất mới rất đau lòng không
đáng có, không được phép có, sau chiến tranh.
Nguyên
nhân chủ yếu là ý thức hệ của đảng một mặt đã lựa chọn cho đất nước con
đường phát triển sai lầm; mặt khác đã nhìn nhận sai bàn cờ thế giới lúc ấy, nên
đất nước rơi vào tình thế nguy hiểm mới ngay sau khi vừa ra khỏi 2 cuộc kháng
chiến khốc liệt.
Sự
phát triển của 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên diễn ra như sau:
Ngoài
hơn 10 năm đầu mất cho 2 cuộc chiến tranh tiếp theo, thành tựu giành được trong
28 năm đổi mới tuy là rất lớn so với điểm xuất phát, nhưng về cơ bản vẫn là
thất bại so với (a)mục tiêu đã đề ra, (b) công sức đã bỏ ra và (c)những cơ hội
đất nước có được.
Hơn
thế nữa, mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 sẽ không thể hoàn
thành theo bất kỳ tiêu chí nào; bởi vì (a)cơ cấu kinh tế hiện nay còn rất lạc
hậu, (b)kết cấu hạ tầng vật chất & kỹ thuật thấp kém, (c)từ 6 năm nay lâm
khủng hoảng cơ cấu sâu sắc chưa có lối thoát, (d)chất lượng nguồn nhân lực đạt
được nhìn chung còn thấp, (e)khoảng cách tụt hậu so với nhiều nước chung quanh
ngày càng rộng (đã bắt đầu xuất hiện một số vấn đề nước ta tụt hậu so với cả
Lào, Campuchia và Myanmar).
Chế độ chính trị một
đảng của đất nước hiện nay về bản chất có quá nhiều tàn dư của chế độ phong
kiến cũ, ngày càng đặm thêm nhiều nét mới của toàn trị có nguồn gốc từ cái gọi
là chuyên chính vô sản, và đang ngày càng tha hoá trầm trọng. Tính đảng trị của
chế độ ngày càng lấn át mọi thể chế và luật pháp. Đấy chính là chế độ chính trị
hoàn toàn bất cập với một quốc gia công nghiệp hoá, hiện nay đang trở thành lực
cản trực tiếp và lớn nhất đối với quá trình công nghiệp hoá đất nước: Sẽ không
thể có một nước Việt Nam công nghiệp với một chế độ chính trị và nhà nước như
vậy! (Thái Lan và một số nước đang phát
triển khác là những minh chứng sống cho thất bại này).
Đất nước đã độc lập
thống nhất 4 thập kỷ. Thay vào chỗ phải có một nhà nước pháp quyền dân chủ để
thực thi quyền lực của nhân dân, đất nước hôm nay chỉ có một chế độ chính trị
toàn trị, mang nhiều sắc thái cha truyền con nối với cái phương thức mới là
“làm vua tập thể” (Nguyễn Văn An). Trên thực tế đã hình thành sự phân chia:
ĐCSVN trở thành kẻ cai trị, nhân dân trở thành người bị cai trị. Nhân dân bị
phân chia thành các giai cấp và tầng lớp để đối xử. Trong nhiều hình thái tư
tưởng của xã hội và trong thiết kế các chủ trương chính sách đang tiếp tục tồn
tại sự phân biệt giữa “ta” và “ngụy”, giữa “yêu nước đồng nghĩa với yêu chủ
nghĩa xã hội” và “không yêu chủ nghĩa xã
hội là không yêu nước, là chống chế độ”; ai dám mở miệng nói trong lòng kháng chiến có cuộc nội chiến,
sẽ lập tức bị quy kết là phản động… Nhiều quyền tự do, dân chủ cơ bản của công
dân tuy đã được ghi trong hiến pháp nhưng chỉ là hình thức.
Hệ
quả là đất nước đã độc lập thống nhất bốn thập kỷ, song khẩu hiệu quyết định làm
nên Cách Mạng Tháng Tám “Nước Việt Nam là của người Việt Nam!”, với nghĩa nhân
dân là người chủ của đất nước, cho đến hôm nay vẫn chưa trở thành hiện thực.
Trong khi đó kẻ chiến thắng của cách mạng trở thành người cai trị chính nhân
dân nước mình.
Cần
trân trọng và bảo tồn những thành tựu mọi mặt rất quan trọng đất nước đã giành
được trong 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên, dù phải trả giá đắt như thế nào,
vì đây là nền tảng cho những bước phát triển tiếp theo của đất nước. Cũng không
nên so sánh ta hôm nay với ta hôm qua để bỏ qua bản chất của những vấn đề phải
giải quyết phía trước. Những sai lầm đã mắc phải và cái giá phải trả lớn đến
mức (a)chẳng những đất nước tụt hậu tiếp, (b)không tạo ra được thực lực cần
thiết và không mang lại được đất nước một vị thế lẽ ra Việt Nam hôm nay phải
có, (c)và hiện nay, vì những sai lầm của đường lối chiến lược và hệ thống chính
trị, đất nước đứng trước nguy cơ bế tắc trong việc mở đường chuyển sang một
giai đoạn phát triển mới.
Hệ
quả chung cuộc là đất nước tiếp tục tụt hậu và lạc lõng trong một thế giới đầy
thách thức, đang bị uy hiếp nghiêm trọng nhất kể từ sau 30-04-1975. Vì những lẽ
trình bày trên, cần thẳng thắn nhận định 40 năm vừa qua là một giai đoạn phát
triển thất bại, để tìm đường đi lên.
II.
2. Nhưng con đường phát triển của đất nước bị chặn đứng
Đất
nước có độc lập thống nhất bốn thập kỷ, nhưng đến hôm nay nhân dân vẫn chưa
được giải phóng! Đây là nguyên nhân gốc gây nên mọi yếu kém của đất nước hôm
nay, độc lập chủ quyền của quốc gia thiếu sức mạnh lẽ ra phải có trước những
thách thức mới.
Thập
kỷ đầu tiên sau 30-04-1975 bị mất hoàn toàn cho 2 cuộc chiến tranh và sự đổ vỡ
kinh tế. Công cuộc kiến thiết lại đất nước thực ra chỉ bắt đầu từ khi tiến hành
đổi mới 1986, đến nay là 29 năm. Bản “kết toán” 40 năm độc lập thống nhất của
quốc gia hôm nay có thể phác thảo như sau:
1. Đất nước hình thành
một nền kinh tế phát triển theo chiều rộng, đã tận dụng tới mức tối đa có thể
huy động được những yếu tố ban đầu như lao động rẻ, tài nguyên, đất đai và môi
trường. Cơ cấu hiện có của nền kinh tế nhìn chung còn lạc hậu, hàm lượng chế
biến trong sản phẩm rất thấp, tính lệ thuộc của một nền kinh tế gia công rất
cao (thực chất là chỉ bán lao động rẻ và môi trường, không tự hình thành được
những sản phẩm hay ngành kinh tế của chính quốc gia mình), kết cấu hạ tầng thấp
kém, năng suất lao động vào lọai thấp nhất trong khu vực, khả năng cạnh tranh
đang suy giảm nhanh vì đã khai thác cạn kiệt những yếu tố ban đầu, các hệ quả
trong quá trình phát triển của một nền kinh tế lạc hậu ngày càng gia tăng (như
thất nghiệp, nghèo đói, chênh lệch giầu nghèo và bất công xã hội, ô nhiễm môi
trường…). Về nhiều mặt sự phát triển kinh tế có phần mang tính thị trường hoang
dã, đồng thời đặm nét chủ nghĩa tư bản thân hữu. Nền kinh đòi hỏi bắt buộc phải
tìm đường chuyển sang một thời kỳ phát triển mới.
2. Thể
chế chính trị và hệ thống nhà nước được thiết kế theo quan điểm đảng đứng trên
Hiến pháp, nắm quyền lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối. Trong thực tế đó là một
hệ thống đảng trị, có trong tay hệ thống nhà nước làm công cụ thực hiện quyền
lực của hệ thống đảng. Hệ thống quyền lực kép này (đảng + chính quyền) còn có
hệ thống mặt trận (MTTQVN) là công cụ phụ trợ. Thiết kế như vậy, ngân sách quốc
gia (thuế của dân) phải một lúc gánh 3 hệ thống quyền lực: (a)hệ thống đảng, có
mọi quyền tối hậu nhưng không phải chịu trách nhiệm ràng buộc nào trước đất
nước; (b)hệ thống chính quyền, chỉ để thực thi quyền lực của hệ thống đảng và
trên thực tế hầu như chỉ chịu trách nhiệm trước hệ thống đảng (Tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng cũng xác nhận trước cử tri: “Quốc hội là thể chế hóa các nghị quyết và quyết định của Trung ương và
Bộ Chính trị, tôi phải nói thật như thế”), (c)hệ thống mặt trận với tính
chất là công cụ thâu tóm mọi hoạt động còn lại trong xã hội vào guồng máy của
hệ thống chính trị. Toàn bộ cỗ máy quyền lực này được vận hành dưới sự chi phối
của (1)tập đoàn kinh tế nhà nước, (2)nền kinh tế GDP tỉnh, và (3)tư tưởng tư
duy nhiệm kỳ. Có thể thấy ngay, một hệ thống quyền lực cồng kềnh và chồng chéo,
có hệ điều hành đảng quyết định tất cả nhưng không chịu trách nhiệm ràng buộc,
có nhiều nhóm quyền lực khác nhau chi phối, với chất lượng con người hoạt động
trong hệ thống được nhào nặn từ chính hệ thống này, hiển nhiên không thể vận
hành có hiệu quả sự vận động của một quốc gia. Về nhiều mặt, đây là một hệ
thống quyền lực kìm kẹp quốc gia, vô hiệu hóa không ít hay không thực thi được
bao nhiêu các chính sách cũng như luật pháp do chính hệ thống này ban hành. Mọi
chiến lược hay quy hoạch quốc gia đã vạch ra được đều trở nên không khả thi
hoặc chỉ được thực hiện manh mún phần nào trong một hệ thống quyền lực chồng
chéo…Hệ thống chính trị và chiến lược quốc gia được vận hành theo nhiệm kỳ và
xé lẻ như vậy, cho nên quan liêu, lãng phí, tham nhũng, tội ác… ngày càng trầm
trọng là tất yếu. Chính hệ thống quyền lực này bóp nghẹt các quyền tự do dân
chủ của nhân dân, hủy hoại nghị lực sáng tạo của đất nước, gây ra tổn thất khó
lường. Thực tế này tất yếu đòi hỏi phải tăng cường trấn áp để bảo toàn chế độ,
hệ quả là ngày càng mất lòng dân, trực tiếp cản trở sự phát triển của đất nước.
Hiển nhiên, với một hệ thống quyền lực như vậy không thể tạo ra và cũng
không thể quản lý nổi một nước Việt Nam công nghiệp hóa.
Ngoài
ra không thể không đặt ra câu hỏi sự lũng đoạn của quyền lực mềm Trung Quốc đã
tác động tới mức nào vào hệ thống quyền lực nước ta hiện nay.
3. Những sai lầm và yếu
kém của hệ thống quyền lực trong hai thập kỷ gần đây ngày càng trầm trọng, gây
ra áp lực kìm kẹp ngày càng lớn trong đời sống của nhân dân. Chính sách thông
tin bưng bít và định hướng để giữ chế độ và giữ đảng trong quá trình ngày càng
tha hóa đang một mặt làm trầm trọng thêm tình trạng ngu dân, mặt khác vấp phải
sự bác bỏ (bộc lộ ra hay không bộc lộ ra) của nhân dân ngày càng quyết liệt.
Trong đời sống xã hội, sự lên ngôi của giả dối và của những hiện tượng phi đạo
đức của quyền lực đang gây ra cuộc khủng hoảng trầm trọng đời sống tinh thần và
văn hóa của đất nước. Trong đời sống đất nước xuất hiện những nghịch lý trầm trọng:
Giữa lúc cần phát huy cao nhất tinh thần đoàn kết hòa hợp hòa giải dân tộc cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, nhưng lòng dân ly tán và dân tộc bị chia
rẽ. Giữa lúc cần phát huy những giá trị tinh thần, đạo đức, văn hóa, xã hội cho
sự nghiệp chấn hưng đất nước lại xảy ra hiện tượng đời sống tinh thần của nhân
dân sa sút chưa từng có, sự băng hoại các giá trị đạo đức xã hội ngày càng trầm
trọng; dối trá để cai trị và dối trá để sống sót trở thành giá trị chi phối chủ
yếu đời sống đất nước. Chưa bao giờ các hiện tượng phản văn hóa, hủ tục, các tệ
nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút và tội phạm hình sự hoành hành tràn lan như
hiện nay[10].
Sự lệ thuộc bên ngoài và trấn áp bên trong khiến tinh thần dân tộc bị tổn
thương nặng nề, nguyên khí quốc gia bị đánh cắp. Và như đã phân tích trong phần
II.
1. “Nước Việt Nam là của người Việt Nam!”, đất nước đã độc lập 40 năm
mà vẫn chưa phải là của nhân dân và do nhân dân làm chủ. Nguyên nhân gốc của
toàn bộ tình trạng này xuất phát từ sự tha hóa của hệ thống quyền lực.
4. 40 năm độc lập thống
nhất đầu tiên của đất nước cũng là 40 năm đảng và nhà nước Việt Nam vấp phải
nhiều sai lầm đối ngoại trầm trọng nhất. Do nhìn nhận sai về thế giới, nên sau
khi vừa mới ra khỏi chiến tranh đất nước lại bị kéo ngay vào 2 cuộc chiến tranh
mới cho đến tận 1989 mới thực sự kết
thúc được. Hội nghị Thành Đô là sai lầm chiến lược tiếp theo, để lại hệ lụy lâu
dài và khôn lường cho đất nước. Điều trớ trêu là ĐCSVN chủ trương đường lối đối
ngoại hòa hiếu, không đi với bất kỳ nước nào chống lại nước thứ ba. Song đường
lối đối ngoại bắt đầu từ hội nghị Thành Đô lại tự ta trên thực tế cột nước ta
vào một bên Trung Quốc. Sự việc này tự nó khách quan tạo ra những mâu thuẫn
nhất định giữa nước ta và những nước thứ ba khác. Nguy hiểm hơn thế, đường lối
đối ngoại này đã đưa con đường phát triển của đất nước đi vào quỹ đạo của Trung
Quốc, tạo ra sự lệ thuộc trầm trọng. Đất nước đang bị Trung Quốc ngày càng uy
hiếp cho đến hôm nay ĐCSVN vẫn không thể tìm được đối sách khắc phục. Độc lập,
chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bị xâm phạm nghiêm trọng. Đường lối
đối ngoại Thành Đô cùng với đường lối đối nội giữ đảng và giữ chế độ bằng mọi
giá trên thực tế đã biến nước ta thành một nước chư hầu kiểu mới của Trung Quốc[11].
Trong khi đó nước ta đã hội nhập toàn diện vào thế giới toàn cầu hóa, có tất cả
các quốc gia quan trọng là đối tác chiến lược hay đối tác toàn diện. Thế nhưng
chính đường lối đối ngoại có cái tên gọi là “hòa hiếu” này khiến cho nước ta
thân cô thế cô trên thực tế, đẩy nước ta vào thế phải leo dây với hầu hết các
đối tác khác. Nước ta vừa không có sự liên minh thật sự với bất kỳ đối tác quan
trọng nào cần thiết cho an ninh, vừa tự mình không tranh thủ được sự hậu thuẫn
mạnh mẽ của cả thế giới cho bảo vệ chủ quyền quốc gia và những lợi ích chính
đáng của nước ta.
Thất
bại của đường lối chính trị nước ta trong quan hệ với Trung Quốc là thất bại
đối ngoại nghiêm trọng bậc nhất của 40 năm độc lập thống nhất. Đường lối này
một mặt đẩy đất nước vào tình thế nguy hiểm, mặt khác không đem lại cho nước ta
thực lực và vị thế nước láng giềng độc lập có chủ quyền được tôn trọng trong
những mối quan hệ bình đẳng, hữu nghị và hợp tác cùng phát triển giữa hai nước.
Thậm chí hôm nay đường lối này để lại nhiều hệ lụy đang kiềm tỏa nguy hiểm đất
nước. Nguyên nhân chủ yếu là: ĐCSVN (1)không hiểu Trung Quốc, (2)không biết
mình biết người trong cái thế giới này, (3)lầm lẫn nghiêm trọng về ý thức hệ,
(4)sau khi giành được độc lập thống nhất đặt lợi ích quốc gia dưới lợi ích của
đảng và của chế độ, (5)trí tuệ thấp kém, (6)khiếp nhược trước Trung Quốc, (7)để
cho quyền lực mềm Trung Quốc lũng đoạn nghiêm trọng, (8)tự bản thân đảng cũng
đang ngày càng tha hóa trầm trọng.
Nguyên nhân của mọi nguyên nhân là một thể chế toàn trị như hiện nay vừa không
có lực từ nội trị, vừa không ý chí và đủ trí tuệ, để tiến hành một chiến lược
đối ngoại độc lập tự chủ, dấn thân đi với cả thế giới nhằm thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Có
thể kết luận: 8 sai lầm phạm phải nói trên trong quan hệ Việt – Trung
trở thành sai lầm chết người, đảo lộn toàn bộ con đường phát triển của đất nước
sau khi đã giành được độc lập thống nhất 30-04-1975 đến nay. Đây còn là một
trong những vấn đề nan giải nhất của nước ta hôm nay và có lẽ mãi mãi về sau. Không
xử lý thành công mối quan hệ Việt - Trung, sẽ không có được quan hệ láng giềng,
hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển với Trung Quốc, cũng sẽ không thể có một
Việt Nam độc lập giàu mạnh và văn minh.
Thiết
nghĩ, muốn tiếp tục vai trò lãnh đạo của đảng, đại hội XII sắp đến của ĐCSVN
cần thẳng thắn mổ xẻ toàn bộ tình hình đất nước 40 năm qua và đánh giá cẩn
trọng kết luận nêu trên về quan hệ Việt – Trung.
III.
Hiểm họa đen?
III.
1. Lạc lõng
Phần
I cho thấy kể từ khi nước ta độc lập thống nhất thế giới biến động không ngừng,
và lại vừa mới chuyển tiếp sang một trang mới nữa. Càng ngày càng rõ trong thời
đại chúng ta đang sống không có chỗ cho những suy nghĩ hão huyền về chủ nghĩa
xã hội hoặc xu thế tất yếu nào đó về điều này trong bất kỳ mối quan hệ quốc tế
nào. Hiện nay giành giật của quan hệ Mỹ - Trung đang chi phối sâu sắc bàn cờ
thế giới. Một thời kỳ của các mối quan hệ quyết liệt hình thành từ những tập
hợp lực lượng mới và những đối đầu mới nhau trong trật tự quốc tế đa cực bắt
đầu, đặt ra rất nhiều vấn đề nan giải cho nhiều quốc gia liên quan – nhất là
cho nước Việt Nam ta luôn luôn ở vị trí đầu sóng ngọn gió.
Phần II cho thấy lịch sử Việt Nam đã
sang trang cách đây 40 năm. ĐCSVN đã áp đặt cho đất nước một con đường phát
triển theo ý thức hệ của mình, hoàn toàn trái với đòi hỏi hỏi tất yếu của một
nước được ông trời (địa lý tự nhiên) đặt sẵn vào vị trí địa kinh tế và địa
chính trị trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay. Con đường phát triển ĐCSVN đã
được lựa chọn ấy, một mặt là duy chí trái với quy luật phát triển tự
nhiên của một quốc gia nghèo, lạc hậu, bị chiến tranh liên miên như nước ta, mặt
khác là không nhận thức được cái trật tự quốc tế hiện hành đã ấn định cho
nước ta một vị thế địa kinh tế và địa chính trị nhất định, buộc nước ta phải
chấp nhận và phải tìm ra cách xử lý thỏa đáng trong mỗi thời kỳ sao cho có lợi
nhất cho nước mình.
Nói
hình ảnh, ĐCSVN đã chọn cho đất nước độc lập thống nhất con đường phát
triển đảng muốn, và xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa như ở trên cung trăng –
nghĩa là bất chấp cái thế giới thực mà nước ta đang sống.
Tư
duy ý thức hệ và tham vọng quyền lực của đảng là nguyên nhân của mọi nguyên
nhân. Lại tồn tại trong hệ thống chính trị độc tôn một đảng, nên ngay từ ngày
đầu tiên của đất nước độc lập thống nhất, với tính cách là người chiến
thắng, ĐCSVN đã tự biến mình thành người cai trị đất nước, tự biện minh là phải
giữ vững chuyên chính cách mạng và kiên định con đường của chủ nghĩa xã hội.
Chính thực tế này giải thích tại sao quyền làm chủ của nhân dân đối với đất
nước độc lập thống nhất không được trao lại cho nhân dân ngay sau khi chiến
tranh kết thúc. Về phương diện này, lịch sử phát triển của Việt Nam đã
bị chặn đứng ngay từ đấy – nghĩa là cách đây 40 năm, và bị bẻ ngoặt sang một
hướng duy tâm, duy ý chí, với kết quả đạt được như hôm nay.
Theo
quy luật tha hóa của quyền lực, hệ thống chính trị quốc gia được xây dựng lên
dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của một đảng ngày nay đã thật sự trở
thành một chế độ toàn trị. Chế độ này tự nó đang tích tụ ngày một nhiều mâu
thuẫn đối kháng với các quyền tự do dân chủ của nhân dân và đi ngược lại lợi
ích quốc gia. Đất nước bị chính hệ thống chính trị của mình kìm hãm trước tiên,
mọi bước phát triển đạt được đều phải trả giá đắt, hiện đang lâm vào cuộc khủng
hoảng toàn diện rất sâu sắc.
Tổng
hợp lại có thể nói: Tư duy ý thức hệ của ĐCSVN không phải là tụt hậu hay lạc
hậu so với thời đại của thế giới hiện tại, nó lạc lõng theo một lối riêng không
tưởng và không đi cùng với xu thế phát triển của thế giới hiện tại. Sự tha hóa
của quyền lực trong hệ thống chính trị một đảng càng khiến cho sự lạc lõng này
không thể cứu vãn được, đảng ngày càng suy yếu vì những thất bại của chính
mình. Để đối phó và tồn tại, đảng bắt buộc phải mắc thêm nhiều sai lầm mới,
buộc phải thêm độc tài và toàn trị hơn nữa.
Sự
việc ghiêm trọng tiêu biểu mới đây nhất là những ý kiến đúng đắn góp vào xây
dựng / sửa đổi hiến pháp năm 2013 đã bị loại bỏ rất thô bạo, để thông qua rất
hình thức (đúng ra phải nói là lừa dối) một hiến pháp về cơ bản vẫn giữ nguyên
như cũ, cướp mất của đất nước cơ hội hòa bình cải cách chuyển đổi thể chế độc
đảng toàn trị hiện nay sang chế độ pháp quyền dân chủ. Từ đó đến nay chuyên
chính và trấn áp đang ngày càng gia tăng.
Đến
đây có thể nói, hiểm họa đen hôm nay thực ra đã manh nha ngay sau ngày đất nước độc lập
thống nhất đầu tiên từ tư duy ý thức hệ và từ quá trình tha hóa của quyền lực
đảng.
Thiết
nghĩ, tất cả những đảng viên yêu nước - như tôi đã viết trong bài “Còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mị Châu –
Trọng Thủy”[12] –
không một ai vô can về thực trạng đất nước hôm nay! Tất cả đều có chung món nợ
lương tâm và trách nhiệm chính trị phải trang trải với đất nước, đó là: Phải
cất lên tiếng nói tại đại hội XII đòi hỏi (1)phải nhìn nhận lại thế giới, (2)từ
đó lựa chọn cho đất nước con đường phát triển của dân tộc và dân chủ, (3)phải
xây dựng nhà nước pháp quyền, (4)phải đổi mới đảng cả về đường lối và về tổ
chức để thực hiện được lý tưởng duy nhất của đảng “tất cả vì tổ quốc”. Đấy
chính là tinh thần và nội dung bức thư ngày 09-08-1995 của đảng viên cố Thủ
tướng Võ Văn Kiệt đã gửi Bộ Chính trị trước thềm Đại hội VIII (1996).
ĐCSVN
hôm nay có mọi điều kiện cần và đủ tiến hành một cuộc cải cách chính trị hòa
bình để thực hiện thành công 4 nhiệm vụ trọng đại nêu trên, đảng chỉ còn thiếu
duy nhất ý chí đoạn tuyệt với sự tha hóa của chính mình, chưa dám đặt lợi ích
quốc gia lên trên hết.
Mong rằng ĐCSVN hôm nay đừng mảy may ngó
nghiêng hay lấn cấn gì với ĐCS Trung Quốc, để dứt khoát đoạn tuyệt với cái gọi
là tư duy ý thức hệ anh em trên mọi phương diện. Đơn giản vì ĐCSTQ hôm nay chỉ
giữ lại cho nó cái tên khai sinh như đang có, còn bản thân nó hôm nay là bộ máy
quyền lực siêu lợi hại của siêu cường Trung Quốc đang lên trên con đường bành
trướng bá quyền. Quan hệ ngoại giao là chuyện khác.
Đồng
thời phải nói sòng phẳng: ĐCSVN hôm nay thật ra cũng chỉ còn
lại mỗi cái tên gọi của ngày xưa. Bản chất đảng hiện nay, những việc đảng đang
làm, hiện thực đất nước của nền kinh tế thị trường còn nhiều mặt hoang dã và
đậm nét chủ nghĩa tư bản thân hữu.., tất cả những điều này nói lên ĐCSVN hôm
nay chẳng còn dính dáng gì đến chủ nghĩa Mác – Lênin hay tư tưởng Hồ Chí Minh
nữa. ĐCSVN hôm nay chỉ còn lại là đảng của quyền lực độc quyền nắm quyền cai
trị đất nước. Việc thay đổi đảng trở thành đảng của dân tộc đã trở thành đòi
hỏi sống còn đối với chính bản thân ĐCSVN, nhằm chặn đứng con đường đảng trở
thành lực lượng đối kháng quốc gia và lợi ích dân tộc. Đấy chính là con đường
cứu đảng và tránh cho đất nước thảm họa tự hủy diệt, nên thảo luận thẳng thắn
trong đảng và trong cả nước để làm rõ đòi hỏi chính trị sống còn này đối với
đất nước và đối với chính bản thân ĐCSVN.
III.
2. Đối mặt với hiểm họa đen
Những
khó khăn và thách thức đất nước hiện tại đang phải đối mặt trên mọi phương diện
đối nội và đối ngoại không thể nói là nhỏ hoặc dễ giải quyết. Song hiểm họa đen
về nhiều mặt có thể không đến từ những khó khăn và thách thức này, mà trước hết
có thể lại đến từ những câu hỏi:
- -Nhân dân này, dân
tộc này lựa chọn gì trước những vấn đề đang đặt ra cho đất nước hôm nay?
- ĐCSVN với tính cách
là lực lượng chính trị lớn nhất đang nắm quyền cai trị đất nước (không còn là
lực lượng lãnh đạo nữa) lựa chọn gì? Lựa chọn đất nước hay chính bản thân mình?
- … …
… …
Vân vân…
- Nói như thế, chẳng lẽ hiểm họa đen chủ yếu đến từ phía
ta, nghĩa là từ phía nhân dân này? Từ đảng này?
- Đúng vậy, với nghĩa: Nếu ta nhận biết được hiểm họa đen,
thì có thể vô hiệu hóa nó, hoặc làm thất bại nó; dù bên đối phương chống Việt
Nam có ác hiểm đến thế nào chăng nữa cũng không phải là bất khả kháng. Nhưng
nếu ta mù quáng chẳng nhìn thấy gì, hoặc nếu ta cường điệu nó hay đánh giá thấp
nó, thì đúng là hiểm họa đen đến từ phía chúng ta trước tiên, và có thể là bất
khả kháng.
Đơn
giản vì nếu hiểu Trung Quốc, chắc chắn ai cũng thấy không thể quỳ xuống xin
Trung Quốc rủ lòng thương lựa chọn kịch bản nhẹ tay đối với nước ta.
Trong
phát triển kinh tế cũng thế, chẳng có gì cho không cả!
Vậy
phải tập trung vào việc ta chống hiểm họa đen như thế nào?
Để
làm rõ vấn đề, xin bàn thêm về Trung Quốc, các kịch bản Trung Quốc sẽ vận dụng
đối với nước ta.
Sự
thật là ngay trong kịch bản A hiện nay, Trung Quốc có thể dễ dàng làm kinh tế
nước ta tổn thất 10 – 15% GDP như nhiều chuyên gia đã tính toán. Trong kịch bản
khác, Trung Quốc có thể đánh thắng ta trong một cuộc hay một số cuộc chiến
tranh có giới hạn. Trong kịch bản Z Trung Quốc có thể hủy hoại tới 1/3 GDP của
nước ta hoặc hơn nữa, đánh chiếm thêm các đảo của ta, thậm chí có thể đánh
chiếm kiểm soát một phần lãnh thổ ta trong một thời gian nhất định...
Vì
ta không thể ra lệnh được cho Trung Quốc chỉ được phép dùng kịch bản gì và dùng
như thế nào, cho nên lựa chọn sự đáp trả của phía ta mới là quyết định. Lựa
chọn sự đáp trả đúng thì thắng, lựa chọn sai thì là hiểm họa.
Sự
lựa chọn tại Thành Đô là sự lựa chọn sai, đã và đang đem lại hiểm họa cho đất
nước hôm nay.
Trong
tiểu thuyết “Lũ” (bản thảo 2, tập II 08 - 2012[13]), những kinh nghiệm có
được trong những năm phải đối phó với cuộc chiến tranh 17-02-1979 và chủ nghĩa
bành trướng bá quyền Trung Quốc khiến tôi đã phải tính đến kịch bản Z này. Song
nước ta xưa nay có bao giờ chịu khuất phục một cuộc xâm lược như thế? Trong thế
giới ngày nay lại càng không thể như thế. Trong thế giới đương đại, nước ta mới
đây thôi đã 3 lần chiến thắng 3 kẻ xâm lược lớn với sự hậu thuẫn của cả thế
giới tiến bộ.
Giả
thiết Trung Quốc áp đặt lên nước ta kịch bản Z, nhân dân ta có sự lựa chọn nào
hơn là trong tình huống “bị lôi ra làm thịt” như thế, thì phải tìm cách tự giải
phóng đất nước thoát khỏi kiếp chư hầu, đồng thời giành lại cho chính mình
quyền làm chủ đất nước đã bị trì hoãn 4 thập kỷ nay? Tôi có lòng tin vững chắc
trong tình huống xảy ra kịch bản Z, nhân dân ta sẽ buộc phải lựa chọn như vậy
và nhất định sẽ thắng cả gói: Nước giữ được độc lập, dân giành lại được quyền
làm chủ đất nước đã bị trì hoãn 4 thập kỷ.
Nếu
nước ta bị Trung Quốc áp đặt một kịch bản Z như thế, nhân dân ta sẽ phải một
lần nữa hy sinh xương máu ghê gớm lắm, phải cố tránh. Trong vòng một nửa thế kỷ
đã 4 cuộc chiến tranh lớn đẫm máu là quá nhiều đối với đất nước ta! Nhưng biết
làm thế nào? Rồi bao nhiêu mổ hôi nước mắt, và cả máu nữa, mới xây dựng nên
được những gì đất nước có hôm nay sau 40 năm độc lập! Càng tha thiết với hòa
bình, quý trọng sinh mạng và công sức của đất nước, càng phải có ý chí quyết
liệt đấu tranh bảo vệ, huy động sự hậu thuẫn của cả thế giới để quyết bảo vệ.
Bởi vì không thể quỳ gối mà gìn giữ được! Hòa bình không thể đến được bằng van
xin.
Nhưng
một khi cây muốn lặng, nhưng gió chẳng đừng!? Vâng, một khi nước ta bị Trung
Quốc cố ý áp đặt một kịch bản Z như thế, cho dù cho đảng lựa chọn đối phó thế
nào, chắc chắn dân tộc ta sớm hoặc muộn sẽ chỉ có sự lựa chọn
duy nhất nói trên của chính mình mà thôi, sẽ quyết chấp nhận sự lựa chọn duy
nhất này, như đã từng bao nhiêu lần dân tộc ta phải lựa chọn như thế trong suốt
chiều dài lịch sử của đất nước.
Đồng
thời tôi cho rằng: Một khi phải đương đầu với một kịch bản Z như thế, trong sự
lựa chọn nói trên của nhân dân có lẽ sẽ không thể có một chỗ đứng nào đó cho ĐCSVN
như là đảng đang là, vì lòng tin của nhân dân vào đảng
như đang là không còn nữa. ĐCSVN
như đang là cũng không thể lựa chọn như nhân dân lựa chọn, càng
không thể có phẩm chất và năng lực lãnh đạo nhân dân thực hiện sự lựa chọn ấy,
bởi vì phẩm chất và năng lực của ĐCSVN như đang là không còn
đáp ứng được nhiệm vụ quyết liệt này nữa. Trong tình hình như vậy, ĐCSVN
như đang là, nếu không tự đổi đời mình thành đảng của dân tộc
và dân chủ, sẽ không còn đứng và sẽ không thể đứng được trong hàng ngũ cứu nước
của dân tộc.
Câu
chuyện sẽ hoàn toàn khác, nếu ĐCSVN như đang
là quyết lột xác để trở thành đảng của dân tộc và để cùng chung với
nhân dân sự lựa chọn như thế. ĐCSVN chủ động tiến hành cải cách hòa bình đễ xóa
bỏ chế độ toàn trị, thiết lập chế độ pháp quyền dân chủ - đấy chính là con
đường đảng như đang là có thể hoàn toàn thay đổi chính bản
thân mình, để trở thành đảng cùng đi với cả dân tộc. ĐCSVN như đang
là chủ động tiến hành cải cách hòa bình xóa bỏ chế độ toàn trị, để
tập hợp toàn dân tộc thành một khối thống nhất rong một thể chế pháp quyền dân
chủ, sẵn sàng đương đầu với bất kỳ kịch bản nào của Trung Quốc – đấy còn là con
đường ngăn chặn hay làm thất bại kịch bản xấu nhất mà Trung Quốc muốn ra tay.
ĐCSVN
như đang là, nếu chủ động hòa bình cải cách xóa bỏ chế độ toàn
trị để tập hợp toàn dân tộc trong một thể chế pháp quyền dân chủ vì sự
nghiệp cứu nước và chấn hưng đất nước, chắc chắn nước ta sẽ có sức mạnh của
chính mình và đồng thời sẽ tranh thủ được sự hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ,
kịch bản nào của Trung Quốc đưa ra cũng sẽ thất bại, đất nước ta sẽ có hòa bình
và từ đó mới tạo ra được hữu nghị, hợp tác với Trung Quốc. Dĩ bất biến đối với mọi
cái “biến”
Trung Quốc muốn áp đặt với nước ta chính là điểm này!
Tâp
hợp toàn dân tộc trong một thể chế pháp quyền dân chủ vì sự nghiệp cứu nước và
chấn hưng đất nước – chính cái dĩ bất biến này mới cho phép
nước ta một mặt bất di bất dịch gìn được giữ độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia, mặt khác mới có điều kiện thực hiện các giải pháp sách lược.
Trong quan hệ ngoại giao, làm sao mà thiếu được các giải pháp sách lược, nhất
là đối với Trung Quốc? Song chỉ riêng lịch sử quan hệ Việt – Trung đã có đủ các
bài học cho nước ta cần học: bất kỳ giải pháp sách lược nào với Trung Quốc mà
nước ta không có cái dĩ bất biến làm nền tảng, nước ta đều thua, và không hiếm
trường hợp mất luôn cả chì lẫn chài – như đã trình bầy trong câu chuyện Hội
nghị Thành Đô.
Xin
nhắc lại: Tiến hành giải pháp Thành Đô, trong thâm tâm những người lãnh đạo
nước ta hồi ấy là muốn thực hiện một giải pháp sách lược lớn – hòa hiếu với
Trung Quốc. Nhưng vì không có cái dĩ bất biến này làm chỗ dựa, nên
cuối cùng nước ta chỉ nhận được 4 tốt và 16 chữ giả!
Hiểm
họa đen đang đến, ở chỗ cho đến hôm nay đảng như đang là và đội ngũ
lãnh đạo vẫn không dám nhìn lại 40 năm đầy sai lầm của mình, vẫn còn lo mất
quyền lực hơn là lo mất nước, vẫn còn cố tìm cách trì hoãn hay thỏa hiệp vì
khiếp nhược, trong khi đó thời gian không chờ đợi và phía Trung Quốc đã sẵn
sàng mọi kịch bản khác. Những vấn đề lịch sử để lại rất lớn và phức tạp, song
chí ít ĐCSVN nhất thiết phải đứng trên quan điểm lợi ích quốc gia, lợi ích dân
tộc đánh giá lại toàn bộ chặng đường 40 năm đất nước độc lập thống nhất đầu
tiên để có ý chí thay đổi đảng một cách triệt để.
Hiểm
họa đen thực sự đang đến gần, bởi lẽ cái giàn khoan HD 981 chưa đủ lớn, chưa đủ
nặng để đặt ra cho Hội nghị Trung ương 9 sự lựa chọn sẽ phải được bàn đến tại
đại hội XII sắp tới: Cứu nước? hay cứu chế độ và cứu cái đảng như đang
là? Cho đến giờ phút này đối với cả nước đảng như đang
là vẫn tiếp tục vừa lừa mỵ dân, vừa
đàn áp lẽ phải, trấn an dân, kêu gọi kiên định chung chung.., trong khi
đó đội ngũ lãnh đạo vẫn trống đánh xuôi kèn thổi ngược.
Hiểm
họa đen cũng có thể xuất hiện dưới dạng
thường trực không mời mà đến, vì bất kể một yếu kém nào của chế độ đương
quyền trong một bối cảnh nào đó, với sự lũng đoạn của quyền lực mềm Trung Quốc
– ví dụ như dưới dạng kịch bản tạo ra phản ứng bầy đàn cướp phá khoảng 800 xí
nghiệp có FDI trong 2 ngày 13 và 14-05-2014 ở quy mô không kiểm soát được…
Những chuyện phản ứng bầy đàn như thế có thể xảy ra bất kỳ lúc nào trong thị
trường kinh tế, trong thị trường tài chính tiền tệ, trong tình hình khiếu kiện
đất đai của nông dân, trong trấn áp biểu tình, trấn áp chính trị, trong một
thiên tai… Bởi vì lúc này đất nước có không ít những vấn đề kinh tế, chính trị,
xã hội… rất nhậy cảm, mà nguyên nhân gốc thường là những sai trái và yếu kém
chế độ và của người trong hệ thống chính trị. Bưng bít thông tin, không công
khai minh bạch, các hoạt động lừa bịp của dư luận viên, các biện pháp trấn áp
trên báo chí và bằng quyền lực… nhân danh giữ ổn định, vân vân.., tất cả những
thứ này chỉ là đổ thêm dầu vào lửa khủng hoảng, đồng thời tạo đất thánh cho
hoạt động của quyền lực mềm Trung Quốc. Chỉ có một con đường: Phải dựa hẳn
vào dân, vào dân tộc, dấy lên sức mạnh từ dân để giải quyết tất cả, bắt đầu từ
phát triển xã hội dân sự để nuôi dưỡng tinh thần dân tộc và phát huy dân chủ -
vì sự nghiệp cứu nước và chấn hưng đất nước.
Hiểm
họa đen thực sự không thể tránh nổi, nếu chế độ toàn trị hiện nay theo quy luật
mâu thuẫn giữa cai trị và bị cai trị đến một lúc nào đó sẽ tức nước vỡ bờ và ắt
phải sụp đổ, đất nước rơi vào tự hủy diệt của hỗn loạn nồi da xáo thịt.
Hiểm
họa đen luôn tiềm tàng và không thể đảo ngược được, chừng nào đảng như đang
là trốn tránh nhiệm vụ tạo ra cho đất nước cái dĩ bất biến nói trên
không thể trì hoãn được nữa.
Cần
thảo luận rộng rãi trong đảng để đi tới kết luận và hành động.
Lời kết: Phải cắt bỏ
cái thòng lọng đang siết dần
Cách
đây vài ngày cái dàn khoan HD 981 đã rời khỏi chỗ nó đứng hơn 2 tháng trong
vùng biển của ta. Ý kiến nói ra nói vào trên thế giới nhiều chiều lắm.
Trong
rừng các ý kiến ấy, đáng chú ý nhất là người Trung Quốc nhắc nhở chúng ta: Người Việt Nam đừng lấy trứng chọi đá, phải
làm quen với việc cái giàn khoan này rút ra, cái khác sẽ được đưa vào, tùy theo
công việc đòi hỏi mà!..
Ý
kiến khác đánh giá: Việc rời giàn khoan
HD 981 đi chỗ khác tạm thời làm xẹp được sự căng thẳng trong dư luận quốc tế;
mặt khác bước đi này tiếp sức cho phái Việt Nam chủ hòa và đầu hàng, lôi kéo
phái Việt Nam này vào giải pháp song phương, thuận cho phương thức “gác tranh
chấp cùng khai thác”.
…Dù sao, cái giàn khoan phải di chuyển
đi nơi khác như thế cho thấy không phải Trung Quốc muốn làm gì cũng được!.. Sự
phản đối quyết liệt của Việt Nam và dư luận thế giới đã buộc Trung Quốc phải
tính đến.
…
…
…
Nhìn
lại, mười năm đầu sau 30-04-1975 Trung Quốc đã thành công đáng kể trong việc vô
hiệu hóa gần như hoàn toàn ảnh hưởng của cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam
trong khu vực, đồng thời giành được vị thế tạm thời lấp chỗ trống của Mỹ. Sau
Hội nghị Thành Đô 1990, Trung Quốc thực sự đã đặt được cái thòng lọng ý thức hệ
lên cổ đất nước ta. 25 năm qua Trung Quốc đã từng bước và bằng mọi thủ đoạn
chính tri, kinh tế, quân sự siết dần cái thòng lọng này, và hôm nay đạt được
một Việt Nam lệ thuộc trầm trọng về kinh tế, đối nội bị lũng đoạn, đối ngoại
phải “leo dây”, ngoài việc Trung Quốc đã chiếm thêm được một số đất đai và một
số diện tích biển đảo.
Những
gì cái giàn khoan HD 981 đã lộ thiên
ra được ở Việt Nam hai tháng qua và sự việc cái đường lưỡi bò 9 vạch là những
cái “tests” giúp Trung Quốc khẳng định được Việt Nam là khâu yếu nhất, cần đột
phá cho giai đoạn mới của chiến lược bá chiếm Biển Đông, lúc tiến lúc thoái
nhưng sẽ kiên định lấn tiếp.
Hiển
nhiên, những năm tháng ngày càng hiểm nguy cho đất nước ta đang ở phía trước!
Bài
toán 1: Chủ hòa, thôi kiện ra quốc tế, chấp nhận đàm phán song phương
cho vấn đề Biển Đông, gác tranh chấp cùng khai thác, có thể tạm thời tránh được
chiến tranh, bảo toàn được tài sản riêng và các đặc quyền của quyền lực; làm
thế tuy sẽ phải mặt dầy mày dạn thêm với nhân dân và bạn bè, nhưng quyền lực có
thể sống thêm một thời gian nữa, đất nước sẽ bị cô lập thêm nữa cùng đành, chấp
nhận cái thòng lọng ở trên cổ đất nước siết thêm một nấc nữa nhưng quyền lực
vẫn còn thở tiếp được… Song bia miệng chắc sẽ đời đời phỉ báng, tâm linh đất nước
của quá khứ đằng đẵng đau thương chiến tranh chắc sẽ nguyền rủa trời chu đất
diệt kẻ chủ hòa theo kiểu đầu hàng như vậy... Thật ra chủ hòa như thế là phương
án chấp nhận chết dần từng nấc về thể xác, nhưng chết ngay và chết hẳn về nhân
cách một quốc gia, một dân tộc. Cho dù bằng mọi giá áp đặt chủ hòa, nhân dân ta chắc
chắn sớm hay muộn sẽ không bao giờ chấp nhận bài toán này. Áp đặt như
thế, đầu tiên sẽ phải tính đến ngay sự phản kháng quyết liệt từ nhân dân. Đàn
áp thế nào đi nữa cũng không thể giập tắt được sự phản kháng của nhân dân, của
dân tộc. Chấp nhận chủ hòa như thế, dù có dùng đến cả nội chiến để đàn áp nhân
dân, trước sau và cuối cùng vẫn sẽ là cái chết nhục nhã của quyền
lực.
Bài
toán 2: Đấu tranh: Cắt đứt cái thòng lọng đang siết dần - Cùng với cả
dân tộc và toàn thế giới tiến bộ bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia và luật pháp
quốc tế. Trước hết bằng cách cùng với nhân dân cả nước nhất quyết cắt cái thòng
lọng ý thức hệ và sự nô lệ của quyền lực cũng như sự cám dỗ của mọi lợi ích tội
lỗi khác, trả lại quyền làm chủ đất nước cho nhân dân để tạo ra cái dĩ bất biến
ứng vạn biến. Dân tộc sẽ thắng, đất sẽ nước thắng, các nước trong khu vực cùng
thắng – cũng có nghĩa là luật pháp quốc tế sẽ thắng; thậm chí nếu có ý chí
quyết liệt thì có thể bằng cái dĩ bất biến phải có này thắng
được bành trướng bá quyền Trung Quốc trong đấu tranh hòa bình, nhờ đó tránh
được chiến tranh… Nhưng nếu lựa chọn bài toán 2 này, nhìn về lâu dài chế độ
toàn trị cùng với mọi quyền lực và đặc quyền của nó sẽ không có lý do để tồn
tại, ĐCSVN cũng có thể không còn như cái đảng đang là nữa mà phải trở
thành đảng của dân tộc và cùng đi với dân tộc, hoặc là sẽ không còn nữa.
Bài
toán 3: “?” – Sự thật là quyền lực của chế độ toàn trị và lợi ích quốc
gia không thể dung hòa được với nhau để cùng tồn tại, nên hình như không có bài
toán dung hoà này.
Để
đại hội XII tính toán các bài toán và sự lựa chọn, chỉ xin lưu ý vài điều:
- Trung Quốc siêu
cường đang lên mạnh, ác, hiểm độc, nhưng không phải là bất khả kháng như suy
nghĩ của yếu bóng vía. Cái yếu nhất của Trung Quốc không phải là sự phi nghĩa,
vì bành trướng bá quyền Trung Quốc đâu có quan tâm đến đạo nghĩa, nên hầu như Trung Quốc không có nỗi sợ về đạo lý
và lẽ phải. Nhưng như đỉa sợ vôi, Trung Quốc rất sợ dân chủ. Một Việt Nam dân
chủ đúng nghĩa, sẽ là gương xấu cho khát vọng cháy bỏng về dân chủ cho các vùng
miền khác nhau ở Trung Quốc – đây chính là cái gót chân Achile mà Trung Quốc
đang giấu. Đập chết một Việt Nam dân chủ như vậy ngày nay hầu như không thể, vì
sức mạnh nội tại của nó sẽ là bất khả kháng đã đành, nhưng còn vì thế giới ngày
nay không còn lạc hậu như cách đây 2 thế kỷ. Song trong trường hợp kịch bản
này, cái gót chân Achile của Trung Quốc sẽ làm cho nó đứng ngồi không yên.
Ngoài ra, nhìn toàn diện cả bàn cờ thế giới, bành trướng bá quyền Trung Quốc
vẫn đang là kẻ yếu. (Nhiều người đã nói đúng: Trung Quốc mạnh chỉ vì ta quỳ
xuống!)
- Đi với ai? Liên minh
với ai để đối phó với cái người láng giềng khổng lồ không biết điều này?
- Xin trả lời:
Nước ta
như hiện nay chẳng ai muốn liên minh cả, có nài xin cũng không được. Nước ta đã
có khá nhiều cam kết của các đối tác chiến lược hay toàn diện rồi mà hiện nay
vẫn tay trắng, chính là vì lẽ này. Các đối tác này đang kiên nhẫn chờ đợi.
- Chẳng lẽ Việt Nam đang là một thứ con bệnh
hay lây, không ai dám tiếp súc?
- Xin thưa, nếu dân tộc ta, nước ta còn chưa
đủ bản lĩnh sống vì chính ta, thì ai dám liên minh với ta? Xin hãy tự hỏi mình:
Bản thân chúng ta có dám kết thân với kẻ ba, bốn mặt, hư đốn, ăn bám và èo uột
không?
- …
- …
Một
khi ta có bản lĩnh dám sống vì một đất nước của dân tộc và dân chủ, ta sẽ có
hậu thuẫn của trào lưu dân tộc và dân chủ trên cả thế giới này, rồi sẽ biết
liên minh như thế nào và liên minh với ai, từ đó sẽ tạo ra được liên minh. Trước
sau, Việt Nam phải sớm tự thay đổi chế độ chính trị hiện nay của nước mình, để
từ nội tại của nước mình có mọi điều kiện xây dựng các liên minh vững chắc dưới
các hình thức và trong mọi lĩnh vực (kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự,
văn hóa…), ở mọi tầng nấc quốc tế và khu vực, gắn kết được sự phát triển của
nước ta với lợi ích phát triển chung của cộng đồng các quốc gia trong khu vực
và trên thế giới. Việt Nam nhất thiết phải làm như thế để tạo ra một
liên kết bền vững với cả thế giới mà an ninh và sự nghiệp phát triển
của nước ta đòi hỏi. Điều này trước hết có nghĩa Việt Nam phải trở thành một
nước có những phẩm chất mới để có thể tạo ra cho mình một liên kết như thế với
cả nhân loại, không chống một quốc gia nào, nhưng dấn thân vì hòa bình, hợp tác
và phát triển. Dù để chậm mất 40 năm rồi, nhưng bây giờ vẫn là lúc dân tộc Việt
Nam ta phải đề ra cho mình lẽ sống này!
Trong bối cảnh cục diện quốc tế đa cực
rất phức tạp và giành giật nhau rất quyết liệt hiện nay, cái lối nghĩ “Việt Nam không bao giờ liên minh với ai để
chống nước thứ ba” đã trở nên quá sơ lược, lỗi thời và tự trói tay mình. Thực
ra lối suy nghĩ này hàm chứa (1)sự mơ hồ chết người về cái thế giới chúng ta
đang sống, (2)sự nhu nhược không dám tự thay đổi bản thân mình để thích nghi và
sống được trong cái thế giới hiện tại này, và (3)sự van xin trá hình (sự van
xin gián tiếp) lòng thương hại từ Trung Quốc.
Có cái dĩ bất biến đất nước
đang đòi hỏi, sẽ có thể ứng vạn biến. Nước ta muốn sống có
hòa bình, hữu nghị và hợp tác được với Trung Quốc, nhất thiết phải sống như thế.
Phải gạt sang một bên mọi di sản tiêu cực của quá khứ và suy nghĩ cảm tính, để
có trí tuệ và ý chí cần thiết xây dựng nước ta trở thành một đối tác chiến lược
của Trung Quốc với đúng nghĩa, chứ không phải là một chư hầu.
Ngoài “quyền lực mềm” luôn luôn có
sẵn trong “thực đơn”, Trung Quốc không chiêu đãi nước ta sự nhượng bộ hay quà
biếu nào trong mối quan hệ song phương này.
Chỉ có trí tuệ, ý chí độc lập tự
do, lao động và đấu tranh kiên cường với tất cả nghị lực, nước ta mới có thế và
có lực để xây dựng nên được những mối quan hệ bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với
lợi ích chung của cộng đồng khu vực và quốc tế - kể cả Trung Quốc.
Nước ta rất cần một Trung Quốc của
những mối quan hệ như thế.
Song cũng có thể nói nước ta có những
điều kiện làm cho Trung Quốc cần có một Việt Nam không phải là thù địch của
Trung Quốc, là trung tâm của hòa giải và hợp tác trong khu vực – và một ngày
nào đó Việt Nam trở thành một trung tâm phát triển mới trong khu vực cùng có lợi
cho mọi bên hữu quan.
Sự thật một trăm lần rõ là phải có ý chí và thực
lực dứt khoát cắt đi cái thòng lọng ý thức hệ đang siết trên cổ đất nước. Mọi
việc phải làm phải được bắt đầu từ thực hiện dân chủ và hòa giải dân tộc.
Tôi tin như đinh đóng cột, một khi
có một Việt Nam của dân chủ và hòa giải dân tộc, đấy sẽ đúng là Một Việt Nam của người Việt Nam với tất cả ý
nghĩa cao đẹp nhất, như là khi nó đã từng là một khẩu hiệu làm nên Cách mạng
Tháng Tám 1945. Một Việt Nam của dân chủ và hòa giải dân tộc sẽ có được cái dĩ bất
biết ứng vạn biến nhất thiết phải có.
Xem như vậy, thực hiện dân chủ để
hòa giải dân tộc còn là bước đi đổi đời đầu tiên của ĐCSVN hiện nay trên con đường
phấn đấu trở thành đảng của dân tộc, đời đời đi với dân tộc.
*
Thiết tha mong từng đảng viên suy
nghĩ. Hiểm họa đen thực sự đang đến, xuất phát trước hết từ những sai lầm của đảng.
Phải quyết liệt đối mặt với nó, bằng dấn thân tự thay đổi chính mình trước
tiên. Nhìn được ra vấn đề, dựa hẳn vào dân tộc, ĐCSVN sẽ định liệu được nhiệm vụ
và những bước đi thích hợp.
Mười người thì có đến chín người
nói: Đòi hỏi đảng toàn trị hiện nay tiến hành cải cách chính trị cứu nước, có
khác gì đi tìm một thứ diêu bông như cái lá diêu bông về chủ nghĩa xã hội?
Nhưng nếu ĐCSVN không tự tiến hành cải cách như thế, hiển nhiên chỉ còn cách cắn
răng chờ đợi mọi nấc thang mới của toàn trị đến một thời điểm nào đó sẽ mang tới
cho đất nước sự hỗn loạn có thể rất đẫm máu, như một quy luật tất yếu của tức
nước vỡ bờ. Đơn giản vì cải cách không bao giờ có thể tiến hành được bằng hai
bàn tay trắng và không có bất kể thứ quyền hành gì của những người bị cai trị.
Song cuộc sống đã chứng minh ở nhiều nước: Cải cách chính trị hứa hẹn thành
công nhất một khi nó được tiến hành từ trên xuống và từ trong hệ thống quyền lực
ra ngoài xã hội. Hai bàn tay trắng của người bị cai trị chỉ có một thứ quyền lực
duy nhất vô cùng mãnh liệt của trạng thái tức nước vỡ bờ./.
Hết
[1]
Bài 1: Còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_CayDangHonMyChauTrongThuy.htm
[2] Bức thư
ngày 09-08-1995 của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính trị ĐCSVN đặt vấn đề
(1)phải đánh giá lại thế giới, (2)từ đó xác định lại con đường phát triển của
Việt Nam, (3)phải xây dựng nhà nước pháp quyền cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước, (4)để làm được 3 việc vừa kể trên phải đổi mới xây dựng ĐCSVN về đường
lối và về tổ chức. Càng ngẫm nghĩ tôi càng tin rằng đây là nhận định chuẩn xác
của Võ Văn Kiệt về đòi hỏi khách quan của đất nước phải đi vào một thời kỳ phát
triển mới trong một thế giới đã hoàn toàn thay đổi. Rất cay đắng cho đất nước
là ông đã thất bại trong việc đề xuất quan điểm của mình.
[3] Tham khảo thêm: Peter W. Navarro, Greg Autry “Death by China: Confronting the Dragon - A Global Call
to Action”.
[4] Có thể
nói chủ nghĩa dân tộc đang được Putin dấy lên ở Nga và Tập Cận Bình ở Trung Quốc
là những biểu hiện mới có tính chất “chiến tranh lạnh” trong cục diện thế giới
đa cực hiện nay. Thực tế này gợi nhớ lại quá khứ mở đầu cho chiến tranh thế giới
II, bắt đầu từ Đức và Nhật.
[5]
Tham khảo: Nguyễn Trung, “Từ 4 tốt đến 4-không-được”
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_BonTotBonKhong.htm
Bốn không được: (1)không được đánh giá thấp quyết tâm và sức mạnh của
Trung Quốc, (2)không được dùng tư liệu lịch sử
làm dư luận thế giới hiểu sai, (3)không được quốc tế hóa vấn đề Biển
Đông, (4)không được phá bỏ quan hệ hữu nghị với Trung Quốc đã xây dựng lại được
20 năm.
[7]
Tham khảo: (1)Nguyễn Trung, “Việt Nam trong thế giới
của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21” – tháng 3 năm 2010, http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai18/201018_NguyenTrung.htm
(2) Hồi kết cho chế độ
chuyên chế dẻo dai của Đảng Cộng Sản Trung Quốc ?
Một đánh giá ba phần về sự thay đổi
quyền lực ở Trung Quốc [1/5]
The End of the CCP’s Resilient Authoritarianism? A
tripartite Assessment of Shifting Power in China (The China Quarterly, 211,
September 2012, pp 595- 623).
Cheng Li (Lý Thành)
Bản dịch của Phạm Gia Minh 9-11-2012
(3)
David Shambaugh - The coming chinese crackup” http://www.wsj.com/articles/the-coming-chinese-crack-up-1425659198?mod=trending_now_1
[8]
Hai phe: Phe chủ nghĩa xã hội và phe đế quốc. Bốn mâu thuẫn: (1)Mâu thuẫn giữa
chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa xã hội; (2)mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và
phong trào đọc lập dân tộc; (3)mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và giai cấp công
nhân toàn thế giới; (4)mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau. Đây là quan điểm
chính trị cơ bản của phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu.
[9]Đọc lại
“Hiểm họa đen”, đến đây, tôi nhớ tới và xin bổ sung thêm chuyện về chuyến đi
thăm Tây Ninh của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ngày 20-02-2015. Chủ tịch nước
hôm ấy đến thăm cựu chiến sỹ tình báo Nguyễn Văn Điền (Hà Minh Trí), người 1956
ở Tây Nguyên đã ám sát hụt Tổng thống Ngô Đình Diệm. Chủ tịch nước nhắc nhở
con cháu tiếp tục phát huy truyền thống kiên cường, anh dũng của người chiến sĩ
cách mạng kiên trung, tiếp bước thế hệ cha anh đi trước, góp phần trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc - (http://baodientu.chinhphu.vn/Tin-noi-bat/Chu-tich-nuoc-Truong-Tan-Sang-tham-chuc-Tet-tai-Tay-Ninh/220787.vgp).
Tôi hiểu được tất cả, thế nhưng vẫn trạnh lòng nhớ tới buổi dự lễ đâm
trâu của đồng bào thiểu số trên Tây Nguyên của cố Thủ tướng Võ văn Kiệt năm nào…
Buổi lễ khi gần đến tiết mục đâm trâu, cố Thủ tướng Võ văn Kiệt viện cớ bận việc,
xin phép già làng và dân làng ra về. Dọc đường ông nói với tôi: “Không thể đứng
nhìn cảnh sát sinh như thế được!..” Ngồi trước TV nghe chủ tịch Trương Tấn Sang
nói ở Tây Ninh hôm ấy, trong lòng tôi tự hỏi: Bao giờ hòa giải dân tộc sẽ đến với
nước ta?!..
[10]
Thử hình dung một hiện tượng: Cả nước hàng năm hiện có khoảng 8000 lễ hội, tốn
kém có thể lên tới nhiều nghìn tỷ đồng, hàng triệu lượt người tham gia… Với nội
dung như đang thực hiện, 8000 lễ hội này mang lại sức mạnh mới cho đất nước,
hay đang góp phần hủ hóa đất nước?...
[11] Tham khảo
thêm thư gửi ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Phú Trọng ngày 28-10-2010 –
nguyentrung-vt.blogspot.com, nhãn ĐCSVN.
[12]
Nguyễn Trung, “Còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy” –
nguyentrung-vt.blogspot.com
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_CayDangHonMyChauTrongThuy.htm
[13]
Tìm xem: “Lũ”, bản thảo 2, nguyentrung-vt.blogspot.com, nhãn “tiểu thuyết Lũ”, Đường link trên
Google:
http://viet-studies.info/NguyenTrung/Lu_T1_Final.pdf
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét