Vi. Dấn bước đi lên phía
trước
1. Con đường “cổ điển” đắt
và phí quá
Trước khi trình bày những suy nghĩ về ý tưởng
vừa mới nhắc lại trong đoạn kết của phần V, tôi xin bình thêm đôi điều về hiện
tại.
Một sự tình cờ thú
vị, viết đến phần này, tôi đọc trên sách báo: Có những người Mỹ đang nghiên cứu
những thất bại trong chiến tranh xâm lược Việt Nam để ứng dụng vào việc kinh
doanh của họ. Đúng là suy nghĩ Mỹ!
Trong những thông tin ấy có một giai thoại về
câu chuyện giữa hai vị tướng già, một là Mỹ, một là Việt Nam[109]. Tôi thuật lại theo
ngôn ngữ của mình:
-
Vì sao bom đạn của chúng tôi dữ dằn như vậy, mà các ông vẫn vận
chuyển được mọi thứ từ miền Bắc vào đánh chúng tôi?
-
Vì chúng tôi có những cái cầu bắc dưới mặt nước, máy bay của các
ông không phát hiện được, nhưng xe cộ của chúng tôi vẫn đi qua được...
-
...
Thông thường chỉ có người điên mới bắc cầu dưới
mặt nước. Trong trường hợp này chúng ta không điên. Trong trường hợp này cách
tiếp cận “bắc cầu dưới mặt nước” – có
thể nói bắt đầu từ thời cái xe đạp thồ hàng tạ lương thực, vật tư phục vụ chiến
dịch Điện Biên Phủ 1954 - đã thắng những phương tiện chiến tranh hiện đại nhưng
có cách tiếp cận rất “classic” - nghĩa là rất cổ điển – của không lực Hoa
Kỳ. Như thế là đã rõ: Ai phải chi nhiều tiền hơn ai, ai đạt được mục đích của
mình... thắng hay bại hoá ra trong trường hợp cụ thể này lại là cách tiếp cận
quyết định.
Ước vọng xây dựng nhà máy luyện kim, luyện nhôm,
phát triển cơ khí nặng để tạo ra xương xống hay trụ cột cho nền kinh tế là điều
đáng mong muốn.... Nhưng vào lúc thế giới bước vào nền kinh tế mới của thế kỷ
21 và trong điều kiện của nền kinh tế nước ta hiện tại, theo thiển ý của tôi,
cách làm ấy là cách tiếp cận “classic” của không lực Hoa Kỳ, và bỏ phí mất cách
tiếp cận “bắc cầu dưới mặt nước” mà chính chúng ta là tác giả. Cách
tiếp cận “classic” ấy có cùng họ hàng với phương pháp luận của con đường phát
triển nền kinh tế theo chiều rộng, nền kinh tế nguyên liệu, nền kinh tế thay
thế nhập khẩu... đang không còn triển vọng trên thế giới.
Không một nền kinh
tế nào có thể được phép thiếu một hệ
thống gì đó làm trụ cột cho nó phát triển vững chãi. Mong muốn thiết lập một hệ
thống trụ cột như vậy là rất đúng. Điều duy nhất thay đổi so với cách đây một
thế kỷ là vào thời buổi bây giờ cái trụ cột bằng thép, bằng nhôm, bằng sản phẩm
cơ khí nặng ... ngày nay vừa tốn kém – nhất là đối với nền kinh tế còn nghèo và
lạc hậu như của nước ta, vừa không làm được chức năng trụ cột của nó – vì chúng
là những “ngành kinh tế xế chiều” không thể là chỗ dựa cho các ngành khác phát
triển, vừa ngốn phí tiềm lực kinh tế còn nhỏ nhoi của đất nước, vừa không có
khả năng cạnh tranh nên khó tồn tại, không phù hợp với giai đoạn tích tụ ban
đầu của một nước nghèo như nước ta, không ăn khớp với sự phát triển nền kinh tế
mới toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng năng động trên thế giới[110].
Như đã trình bày trong phần nói về xu thế hình
thành nền kinh tế tri thức (phần IV), đi vào nền kinh tế nguyên liệu, vào công
nghiệp nặng với tư cách là người đến muộn (the late comer) như nước ta, lại nghèo,
không có kết cấu hạ tầng hiện đại cần thiết, không có công nghệ hiện đại cần
thiết, sản phẩm làm ra chắc chắn chỉ thuộc loại “sản phẩm thượng nguồn” và
thuộc loại thứ cấp, trong tay cầm chắc thất bại. Nói theo cách nói của Ăng-ghen
– sẽ không có một lá chắn nào đủ kiên cố bảo hộ những sản phẩm này trước những
đạn trái phá là hàng nhập ngoại hoặc nhập lậu.
Tôi xin nêu ra 4 ví dụ cụ thể dưới đây.
Ví dụ (1): Một nhóm nghiên cứu đề nghị với lãnh đạo ta
xúc tiến đề tài kinh tế luyện kim loại sắt theo công nghệ hoàn nguyên, vì ta có
mỏ sắt Thạch Khê với trữ lượng lớn. Nước ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá không thể không có sắt thép - điều này rất có sức thuyết phục. Đề nghị này
đã được thảo luận nhiều lần. Sự tiến bộ cố đi theo nhịp bước của công nghệ hiện
đại trong đề nghị này là loại bỏ công nghệ lò cao, có lẽ sẽ sử dụng công nghệ
hoàn nguyên.
Tuy nhiên, tạm gạt tất cả những vấn đề kỹ thuật
sang một bên – ví dụ như hàm lượng sắt, hàm lượng kẽm, các tạp chất khác trong
quặng, điều kiện địa chất tự nhiên và điều kiện địa hình nơi khai thác, công
nghệ sẽ lựa chọn, quy mô kinh tế tối ưu, khối lượng vốn cần phải có, v... v...
- dựa vào những thông tin về sản xuất và thương mại những sản phẩm thép các
chủng loại trên thị trường thế giới hiện nay, đề án này làm tôi lo lắm. Thép
cán của ta không cạnh tranh nổi với giá thị trường quốc tế và các công ty thép
của ta đang kêu ế, hiện nay đang phải sản xuất dưới công suất khá nhiều để bớt
ế. Bây giờ lại còn đi sâu hơn nữa vào luyện kim, ngay từ khâu thượng nguồn đầy
tốn kém, dù là với công nghệ hoàn nguyên, triển vọng có sáng sủa hơn không?
Thống kê năm 1995
của Tiểu ban kinh tế Châu Âu của cơ quan Liên Hiệp Quốc tại Genève cho biết: Từ
năm 1975 nay tổng công suất sản xuất thép của các nước công nghiệp phát triển
đã dư thừa khoảng 50 – 70 triệu tấn/năm,
buộc những nước này phải triệt để cải tổ ngành sản xuất thép, bao gồm cả việc
đóng cửa nhiều xí nghiệp. Một số mỏ than ở châu Âu phải đóng cửa theo.
Thuỵ Điển phải bỏ việc sản xuất thép thông dụng
chuyển hẳn sang sản xuất thép chuyên dụng có hàm lượng cao về công nghệ: độ đàn
hồi cao, độ cứng cao (thường gấp 3 – 4 lần thép thông dụng và giảm được thể
tích từ 1 đến 2 lần), thép chuyên dùng cho sản xuất các loại máy công cụ đặc
biệt, thép cho sản xuất các loại dây dẫn có điện trở thấp, các hợp kim có những
tính năng đặc biệt... Nhờ vậy ngành công nghiệp sản xuất kim loại của Thuỵ Điển
mới ra khỏi khủng hoảng và ngày nay có sức cạnh tranh trên thị trường. Đấy là phương thức lấy thay thế nhập khẩu để
bỏ hẳn ngành luyện kim ở phần thượng nguồn, chuyển sang phát triển ngành luyện
kim ở phần hạ nguồn với những công nghệ tiên tiến nhất (tận dụng nền kinh tế
tri thức), nhằm làm ra những sản phẩm kim loại nhiều hàm lượng công nghệ cao,
sức cạnh tranh cao... Song chính các chuyên gia Thuỵ Điển cũng chưa dự đoán
được tình hình này sẽ duy trì được đến năm nào trong một hai thập kỷ đầu của
thế kỷ hiện tại. Vì hiện nay công nghệ vật liệu mới tiến bộ quá nhanh[111].
Theo thông báo ngày
8-4-1997 của Tiểu ban kinh tế Châu Âu của cơ quan Liên Hiệp Quốc tại Genève,
các nước ngoài nhóm OECD sản xuất tới 50% thép xây dựng của cả thế giới. Thông
báo này lưu ý: công suất sản xuất dư thừa của sản phẩm này trên thế giới làm
cho nhiều nhà sản xuất lo ngại.
Trong quá trình
thảo luận giữa các ngành trong nước để tham gia WTO, thép là một đề tài khó của
Trung Quốc.
Là quốc gia có hơn 1 tỷ dân, Trung Quốc có sản
lượng thép lớn nhất thế giới, hiện nay ước khoảng 100 triệu tấn/năm. Song ngành
thép được bảo hộ rất cao mà vẫn thua lỗ, vì đại bộ phận sản xuất theo mô thức
của Liên Xô cũ. Mặc dù được hưởng những “bao cấp” còn được duy trì, giá thành 1
tấn thép xây dựng ở Trung Quốc hiện nay là 2800 Nhân dân tệ; thép nhập khẩu vào
Trung Quốc giá 2200NDT - bao gồm cả 28% thuế nhập khẩu, trong khi đó giá ở
Hongkong là 1900NDT. Nền công nghiệp thép Trung Quốc có 82 xí nghiệp lớn, chiếm
1/3 số lượng xí nghiệp sản xuất thép của toàn thế giới, nhưng chỉ làm ra 1/10
sản lượng thép của thế giới. Ngoài ra Trung Quốc có hàng nghìn xí nghiệp luyện
gang, tinh luyện, cán thép của cấp huyện, sản phẩm làm ra không tính vào số 82
xí nghiệp lớn nói trên.
Các chuyên gia Trung Quốc đã tính toán: nhà máy
sản xuất thép bây giờ phải có công suất từ 8 triệu tấn/năm trở lên thì mới
thuận lợi cho vận dụng công nghệ hiện đại và mới có lãi, song toàn Trung Quốc
mới chỉ có 4 xí nghiệp có công suất 3 triệu tấn/năm, số còn lại công suất
thường là 1 triệu hoặc dưới 1 triệu tấn/năm, nghĩa là quá manh mún.
Một khó khăn nữa là công nghệ lạc hậu, Trung
Quốc chỉ có 2,8% tổng sản lượng thép loại tinh luyện ngay trong lò cao (nghĩa
là đưa vào sử dụng ngay được sau khi ra lò – bỏ qua khâu luyện từ gang ra
thép), tỷ lệ này ở các nước có công nghệ
cao như Nhật, Hàn Quốc... khoảng trên 70%. Các chuyên gia Trung Quốc thừa nhận
đây là ngành tiến vào quá sâu vào công nghệ lạc hậu, tốn quá nhiều vốn, hiệu
quả thấp, khó rút ra. Một nước hơn một
tỷ dân không thể không phát triển công
nghiệp luyện kim, Trung Quốc không còn sự lựa chọn nào khác là phải triệt để
cải tổ ngành này và phải tăng cường phần sản xuất thép chuyên dụng, nhưng sẽ
cần bao nhiêu vốn[112]?.. Nước ta có kinh
nghiệm nhà máy gang thép Thái Nguyên.
Vậy đã đến lúc chúng ta nghĩ về luyện kim Thạch
Khê chưa? Trong khi đó nếu ta có tiền thì muốn dùng loại thép gì cũng có thể
mua ngay được, chắc chắn rẻ hơn giá thép ta tự làm ra, lại đỡ phải chống buôn
lậu. Tôi nghĩ rằng vài thập kỷ tới
chúng ta quay trở lại đề tài sắt Thach Khê vẫn chưa muộn nếu tình hình cho phép
hay đòi hỏi phải làm như vậy – ai mà nói trước được vào lúc đó chúng ta sẽ vận
dụng công nghệ nào? Không loại trừ khả năng chúng ta phải tìm ra cách tiếp cận
không bình thường một chút, như kiểu bắc
cầu dưới mặt nước mà chính chúng ta là người giữ bản quyền. Nghĩa là đến
lúc nào đó, khi tình hình đòi hỏi và có điều kiện thực hiện, chúng ta sẽ tận
dụng những khả năng của thị trường thế giới, phát triển ngành luyện kim bắt đầu
từ phần hạ nguồn, rồi sẽ tính thêm ngược lên thượng nguồn. Hiện tại có lẽ chưa
phải lúc chúng ta làm việc này. Còn suy nghĩ, nghiên cứu thì tha hồ!..
Nếu chúng ta cứ quyết tâm làm thép, mà không có
rất nhiều vốn đầu tư để làm tiếp khâu sản xuất thép có tính năng kỹ thuật cao,
thì giỏi lắm cũng chỉ làm ra được thép xây dựng loại trung bình mà thôi. Nếu
chúng ta lại duy ý chí cố tìm cách đầu tư thêm bước nữa vào công nghệ hạ nguồn,
giỏi lắm cũng chỉ làm ra thép cán làm vỏ tầu, trong vòng một chục năm tiếp theo
chưa chắc đã làm ra các loại sản phẩm thép như của Thuỵ Điển mà ngành cơ khí
hiện đại bây giờ đòi hỏi, mà nếu có thể làm được thì vẫn phải nhập động cơ tầu
thuỷ và các phương tiện điều khiển để có thể hoàn thành được một loại sản phẩm
mới – ví dụ như tầu vận tải biển. Chưa ai nói trước được giá thành một tầu biển
của nước ta đi theo cách này sẽ đắt như thế nào, chất lượng ra sao, và trước
sau vẫn phụ thuộc vào việc nhập động cơ và các máy móc khác. Nghĩa là vấn đề phụ thuộc vào bên ngoài, bất chấp mọi
tốn kém như vậy, vẫn còn nguyên vẹn. Từ ví dụ này có thể suy ra mọi
chuyện khác, xin đừng bỏ qua. Đấy là con đường nhấn chìm nền kinh tế.
Trong ASEAN, 4 nước Xinhgapo, Malaixia,
Inđônêxia và Thái Lan tiêu thụ thép tính theo đầu người cao hơn ta gấp hàng
chục lần, song cả 4 nước này đến nay chưa có ngành luyện kim từ thượng nguồn,
có thể sắp tới họ cũng không tính đến chuyện này.
Xin nêu thêm một vài
ví dụ khác trong cách tiếp cận một sản phẩm kinh tế để bạn đọc tham khảo:
-
ở quy mô quốc gia: Chiến lược phát triển kinh tế suy cho cùng là
sự lựa chọn sản phẩm định làm ra và các quyết sách thực hiện sản phẩm đó.
Singapore với diện tích 633 km2 và 2,7 triệu dân, vốn là một tiểu vương quốc,
bị Anh chiếm làm thuộc địa, năm 1959 giành được quyền là một châu tự trị
trong Malaysia, năm 1965 rút ra để trở
thành một nước riêng. Với nền kinh tế suy sụp, trên 70% số dân sống trong các
túp lều xác xơ, không có bất kể nguòn tài nguyên thiên nhiên nào, phụ thuộc
cả về nước ngọt và khí đốt cung cấp từ Malaysia. Nnước Singapore độc lập nằm
kẹt giữa 2 nước lớn – môt bên là Malaysia với gần 20 triệu người, một bên là
Indonesia với gần 200 triệu người. Lý Quang Diệu, lãnh tụ sáng lập và Thủ
tướng đầu tiên của nước Singapore độc lập, đứng trước vấn đề sống còn: Lựa
chọn con đường phát triển nào? Có nhiều câu trả lời khác nhau được đưa ra lúc
bấy giờ, trong đó có phương án phát triển Singapore thành nền kinh tế công
nghiệp, hoặc khu công nghiệp. Sự lựa chọn của Lý Quang Diệu là phát triển nền
kinh tế dịch vụ: nghĩa là phát triển bất kể ngành kinh tế nào – kể cả công
nghiệp - đều phải tận dụng lợi thế về con người và vị trí địa lý của
Singapore, xoay quanh mục tiêu duy nhất là xây dựng nền kinh tế dịch vụ -
trước hết hiểu theo nghĩa hướng về xuất khẩu. Kết quả là chưa đày 3 thập kỷ,
Singapore trở thành một “siêu cường kinh tế” nhỏ, với nền công nghiệp chế
biến hiện đại - đầu vào là từ khắp thế giới, đầu ra là để xuất khẩu đi khắp
thế giới, ngành thương mại và thị trường tài chính rất phát triển. Nhờ vào
chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế rất năng động, ngày nay Singapore trở
thành một trong những trung tâm thương mại và tài chính lớn của thế giới. Sự
lựa chọn sản phẩm nền kinh tế dịch vụ đã được thực tế kiểm nghiệm và khẳng
định, mang lại cho Singapore sự phát triển như ngày nay. Nếu Singapore đi
theo con đường nền kinh tế khu công nghiệp, chắc kết quả sẽ không như vậy.
[113]
-
ở quy mô một sản phẩm: Ai
cũng thấy nước ta phải phát triển nhanh công nghiệp tin học. Giả thử chúng ta
bắt đầu từ “phần cứng” thì thất bại cầm chắc trong tay – vì không lấy đâu ra
đủ vốn và công nghệ cao để làm việc này; nhưng nếu chúng ta bỏ qua phát triển
“phần cứng” – nghĩa là bỏ qua việc bắt đàu từ khâu “thượng nguồn”, chỉ tập
trung sức vào “phát triển “phần mềm”, hướng đi lên đầy triển vọng. Đối với
nước đi sau, phương thức tiếp cận một sản phẩm trước hết từ khâu “hạ nguồn”
ngày nay rất hiện thực và có nhiều ý nghĩa - đó chính là đi tắt, đón đầu...
-
vân vân...
|
Ví dụ (2): Tôi được dự thính một
vài cuộc họp của nhóm nghiên cứu đề nghị nước ta sản xuất nhôm. Lập luận: nước
ta có mỏ bauxite rất giầu tại Bảo Lộc và có nguồn thuỷ điện lớn! Nước ta đang
cần nhôm, đồng thời có thị trường tiêu thụ trên thế giới.
Phản ứng đầu tiên của tôi là sợ nhôm sẽ làm hỏng
mất vùng Đà Lạt nổi tiếng cả nước ta và cả khu vực Đông Nam A’.
Hơn thế nữa nước ta đi lên công nghiệp hoá, hiện
đại hoá sẽ cần rất nhiều điện. Tính toán nguồn điện năng các dạng của cả nước,
chắc chắn đi vào điện hạt nhân đối với nước ta bây giờ đã là hơi muộn rồi,
nhưng nước còn nghèo biết làm thế nào. Ngày xưa làm ruộng trông trời, trông đất, trông mây.., bây giờ thuỷ điện cũng phải
trong trời trông mây, cứ năm nào ít mưa là lại lo, mưa nhiều quá cũng lo...
Bài tính của tôi là thế này:
Các chuyên gia cho biết để sản xuất một tấn nhôm
thành phẩm từ quặng bauxite, bắt đầu từ khâu luyện bauxite thành alumin (tạm
gọi là bột nhôm), rồi từ alumin
chuyển sang khâu luyện thành nhôm, tất cả cần khoảng trên dưới 15.000 Kwh, và
nếu giá 1 Kwh dưới 4 cent USD thì nhôm
của ta mới cạnh tranh được với thị trường thế giới. Giá điện hiện nay bán tại
thị trường nước ta ước khoảng 7 cent USD/1Kwh, trong khu vực Đông Nam A’ khoảng
6 cent USD 1 Kwh, đến năm lò luyện bauxite ra nhôm của ta đi vào hoạt động, giá
điện trong khu vực có thể sẽ lên tới 7 cent USD/1Kwh. Tôi tính nhẩm mỗi tấn
nhôm xuất xưởng nhà nước phải bù lỗ riêng cho tiền điện là 200-300USD, hoặc 300
- 400USD, tuỳ theo hiệu quả kinh tế chúng ta đạt được. Các chuyên gia cũng cho
biết thêm: đi vào công nghiệp sản xuất nhôm tính ra phải đầu tư 200.000 USD cho
1 chỗ làm việc. Trong khi đó nhiều ngành kinh tế trong nước chỉ cần đầu tư
khoảng 1000 USD cho 1 chỗ làm việc. Vậy có nên đi vào công nghiệp nhôm không?
Câu hỏi đúng hơn là có nên bán điện của nước ta theo cách bù lỗ, phải đào bới
môi trường tự nhiên và đầu tư tốn kém qua nhôm như vậy không? Vì thực chất xuất
khẩu nhôm là xuất khẩu điện, giá quặng bauxite hiện nay trên thế giới quá rẻ.
Còn nếu quả là muốn xuất khẩu điện thì cần gì phải bán qua nhôm. Có thể bán
điện ngay cho các nước láng giềng, không phải chế biến thành nhôm rồi lại tốn
kém thêm công chuyên chở, giá thành đắt lại tồn kho... Còn nếu chỉ dừng lại ở
mức luyện alumin, đúng là tiêu thụ điện ít hơn, song bán alumin cũng không khác
gì bán các khoảng sản khác bao nhiêu – ví dụ như than đá.
Hay là tôi tính sai? Xin dành cho các cuộc thảo
luận kinh tế và khoa học câu trả lời. Chẳng lẽ chúng ta không có cách nào sử
dụng tốt hơn nguồn điện tương đối khan hiếm và không ít bấp bênh hiện nay của
nước ta? Chúng ta làm gì có tiền đến mức có thể tự cho phép mình thực hiện sự
bù lỗ này? Còn bao nhiêu lao động cần việc làm? Môi trường tự nhiên vùng Bảo
Lộc, Đà Lạt không đáng được bảo vệ hay sao?.. Tại sao không đưa nguồn điện và
vốn cho nhôm vào phát triển miền Trung?.. Với điều kiện khí hậu và tự nhiên
tuyệt vời, vùng Bảo Lộc - Đà Lạt có triển vọng trở thành một khu Bangalore như
của ấn Độ hay một khu Silicon như của Mỹ được không? Vân... vân...
Theo thông tin tôi có được, trên thế giới hiện
nay có hai nước sản xuất nhôm thực sự có lãi, nói cho đúng hơn là họ không có
đường tải điện để bán điện với khối lượng rất lớn, đó là:
· Australia: có nguồn
bauxite, khí đốt và các nguồn năng lượng khác rất lớn, điều kiện tự nhiên rất
thuận lợi cho khai thác và sản xuất quy mô lớn với công nghệ hiện đại nhất. Tuy
nhiên nước này vẫn phải dành một phần bauxite đáng kể cho xuất khẩu, bởi vì sản
xuất nhôm quá mức nguồn năng lượng tại chỗ, giá thành sẽ không cạnh tranh được
trên thị trường thế giới.
· Iceland: phải nhập
bauxite đi gần nửa vòng trái đất – chủ yếu từ Australia, vì đấy là cách tiêu
thụ có hiệu quả nhất nguồn điện năng trời cho quá giàu có của nước này, dưới
dạng thuỷ điện và địa nhiệt điện, dân số lại chỉ có 1/4 triệu dân. Bù lại việc
phải chở bauxite đi nửa vòng trái đất,
Iceland mang nhôm của mình đi bán tại thị trường rất gần: Châu Âu. Nhưng
Iceland bây giờ theo đuổi một chiến lược phát triển khác: Chuyển mạnh sang công
nghiệp sản xuất phần mềm tin học, vì đã tích tụ được cho mình tiềm năng lớn về
công nghệ tin học, vì tỷ trọng thu nhập từ luyện nhôm giảm dần trong tổng thu
nhập của nước này.
Ví dụ (3): Than. Hiện nay mỗi năm chúng ta sản xuất khoảng 10
triệu tấn than sạch, tạo công ăn việc làm cho khoảng 10 vạn công nhân. Chưa bao
giờ nước ta sản xuất được một khối lượng than sạch lớn như vậy, tăng gấp đôi so với cách đây 10
năm. Song cũng như mọi ngành kinh tế khác, khi phát triển tới mức độ nhất định,
thì chính bản thân thành tựu phát triển
lại đặt ra những vấn đề mới phải xử lý. Đó là quy luật phát triển kinh tế.
Theo tôi, ngành than là một trong nhiều ví dụ ở
nước ta cũng như trên thế giới cho thấy:
Bất kể một sản phẩm gì, khi tăng trưởng và phát triển tới mức độ nhất định, thì
phải có sẵn các phương án được nhìn dài hạn từ trước để kịp thời thu hẹp dần
hoặc chuyển đổi, thay đổi, hoặc loại bỏ hẳn để chuyển sang sản phẩm mới...Đấy
là các bước đi tất yếu của một sản phẩm trong kinh tế. Vai trò của kế hoạch nhà nước nói riêng và của Nhà
nước nói chung có ý nghĩa quyết định đối với việc thúc đảy những bước đi tất
yếu này. Còn việc xác định các chỉ tiêu sản xuất chỉ là công việc thứ yếu trong
xây dựng kế hoạch và chỉ nhằm đưa ra những dữ liệu để Nhà nước và doanh nghiệp
định hướng công việc của mình mà thôi. Nghĩa là kế hoạch nhà nước theo tinh
thần này, xa hơn nữa là chiến lược phát triển, phải luôn luôn đi trước sự phát
triển, với các phương án và kịch bản khác nhau. Có thể nói bây giờ chúng ta mới
nêu vấn đề này ra với than là hơi muộn.
Vấn đề thời sự nhất của ngành than bây giờ là
phải sản xuất dưới công suất mặc dù năng suất lao động thấp, giá bán trong thị
trường nội địa thấp hơn giá thành. Than xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 1/3 sản
lượng hàng năm, vì cầu trên thị trường thế giới ít, giá rẻ, chi phí vận tải rất
tốn kém. Hiện nay than hàng năm tồn kho một khối lượng đáng kể - có lúc vượt 3
triệu tấn.
Theo nhận xét riêng của tôi, những vấn đề lớn
đặt ra là:
-
Tiếp tục khai thác thủ công như hiện nay, năng suất lao động và
công suất khai thác mỏ đều rất thấp, tài nguyên tổn thất lớn, phải sử dụng
nhiều vật tư - nhất là gỗ chống lò; môi trường
nơi khai thác than bị tàn phá nghiêm trọng.
-
Hiện nay phải sản xuất dưới năng lực cho phép, vì thiếu thị trường
tiêu thụ, nhưng không đảy mạnh sản xuất, công nhân càng thiếu việc làm.
-
Cầu trên thị trường trong nước và thế giới hầu như bão hoà hoặc ít
co giãn. Với phương thức kinh doanh hiện nay, giả thử có vốn đổi mới công nghệ
khai thác, số công nhân thất nghiệp sẽ tăng lên, cung tiếp tục vượt cầu mạnh
hơn, tồn kho lớn hơn, thua lỗ chắc sẽ nhiều hơn.
-
Tiếp tục duy trì sản xuất như
hiện nay – nghĩa là không có thay đổi đáng kể về công nghệ, sẽ có nghĩa
là tiếp tục kéo dài các tình trạng thua lỗ, tồn kho, khai thác lãng phí tài
nguyên, và đời sống công nhân sẽ ngày càng khó khăn hơn, khó mà nói tới khả
năng cải thiện.
Tôi không thể đưa ra các con số chính xác để
minh hoạ những lo nghĩ của mình và chứng minh ngành than thua lỗ bao nhiêu – có
lẽ đấy là các con số khó tính toán hoặc có xin được cũng khó tính toán. Tôi nêu
ra nhiều câu hỏi, nhưng thường chỉ nhận được những câu trả lời chung chung,
không thông minh thêm được chút nào.
Ngành than cho biết chỉ còn 7 mỏ thua lỗ, những
mỏ khác bắt đầu có lãi. Tôi không tính được thế nào là lãi, lãi có bù nổi lỗ
hay không. Nhưng nếu làm tính nhẩm trong
đầu, căn cứ vào giá than gày (anthracite) trong nước và trên thị trường thế
giới, 10 vạn công nhân chỉ khai thác được khoảng 10 triệu tấn than lộ thiên/năm
mà muốn trả lương nuôi được công nhân ở mức chấp nhận được thì, theo tôi, kiểu
gì cũng lỗ. Hay là tôi tính sai? Có lần tôi hỏi một đồng chí đã từng giữ cương
vị cao trong tỉnh Quảng Ninh, được trả
lời:
-
Muốn tính là lãi thì là lãi, muốn tính là lỗ thì là lỗ.
-
Sao lại có cách làm tính kỳ diệu như vậy?
-
Đơn giản, ví dụ khối đất đá phải bóc đi chưa đưa vào kết toán cùng
một lúc với khối lượng than đã khai thác, thì là lãi. Có thể làm được như vậy,
vì cùng một lúc còn có những hầm than mới đang ở giai đoạn bóc đất đá, chưa
khai thác. Năm này qua năm khác, tính dồn lại cho đủ thì lỗ, thậm chí có thể lỗ
lớn. Có nhiều chi phí khác có thể tạm gác sang một bên như vậy.
-
Một mỏ than khai thác xong, bao giờ thì khôi phục hoàn trả lại môi
trường?
-
Chưa biết đến bao giờ, có thể là không bao giờ...
-
...
Nhưng nếu đặt tôi vào địa vị người chủ, phải đi
vay để sản xuất và phải khai thác theo Luật bảo hộ lao động, Luật bảo vệ tài
nguyên, Luật bảo vệ môi trường... của
Nhà nước; phải tính đúng tính đủ các khoản: khối lượng vốn đầu tư bỏ vào, lãi
suất phải trả, hao mòn thiết bị, năng lượng và vật tư phải chi dùng, chi phí
lương và bảo hiểm xã hội, chi phí hành chính sự nghiệp rất cao[114], các khoản chi nghiên
cứu và triển khai, thuế phải nộp các loại cho ngân sách nhà nước, các khoản chi
xã hội khác.., chưa kể các “phong bì”, chắc chắn tôi sẽ lỗ lớn. Xin đề nghị Nhà
nước cần thay mặt dân đóng vai người chủ, để tính toán chi li như vậy. Chưa nói
đến việc khó phục hồi lại được môi trường. Tôi thầm lo cái thua lỗ lớn nhất
không gì cứu vãn nổi chưa xảy ra ngay tức khắc nhưng có lẽ đang tới gần: Nghĩa
là tiếp tục khai thác than như hiện nay, đến một ngày nào đó nước ta có thể có
một Quảng Ninh đen màu than và nham nhở, đời sống công nhân than vẫn lam lũ,
còn Quảng Ninh nói riêng và ít nhất miền duyên hải phía Bắc nước ta nói chung
mất cơ hội phát triển và làm giàu. Hay là tôi quá bi quan? Mỗi lần đi thăm
Quảng Ninh về, thấy Hạ Long đẹp thêm một chút, lại thêm một lần day dứt: Chao
ôi! Nếu tìm được cho Quảng Ninh một con đường phát triển không phải đi qua các
mỏ than?..
Đi mò các con số, tôi được biết thêm khoảng 1/3
tổng doanh thu của ngành than không phải là than, và đang có xu hướng đưa khoản
này lên khoảng 40-50%, trong đó có may măc, da giầy, xi-măng lò đứng, gạch ốp
lát... Tôi hiểu đây là cố gắng lớn thực hiện kinh doanh đa ngành nghề – nếu làm
đúng thì nên khuyến khích, vì nó tạo công ăn việc làm cho gia đình vợ con công
nhân mỏ. Hãng mỹ phẩm Unilever còn sản xuất cả kem ăn bán ở nước ta mà trẻ em
chúng ta rất ưa thích, thì cách kinh doanh đa ngành nghề của ngành than không
có gì lạ. Nhưng lấy cái nọ nuôi cái kia, nhất là nuôi than thì lại là vấn đề
phải suy nghĩ. Bởi vì tự tôi chưa tìm cách nào chứng minh được là sản xuất than
của ta với cung cách hiện nay có thể than tự nuôi than như đã nói ở trên[115]. Ngành than còn có dự
kiến vào thời điểm nào đó sẽ lên 20 triệu tấn năm, và đã xuất hiện ý kiến đề
nghị với Chính phủ dự án khai thác than bùn ở Đồng bằng Bắc Bộ. Tin này làm tôi
hoảng quá. Có lẽ càng bàn luận, tôi càng bộc lộ sự nhút nhát của mình?
Bởi vì chỉ mới có 10 triệu tấn/năm, mà xuýt nữa
mất luôn vùng chùa Yên Tử – một trung tâm phật giáo của Việt Nam từ thế kỷ 13
và đồng thời là nơi tu hành của vua Trần Thái Tông, rồi chuyện cho mìn nổ rung
chuyển cả khu có dân cư!.. Rồi đây lên 15, 20 triệu tấn/năm sẽ ra sao đây, rồi
sẽ còn đào mỏ ở đồng bằng Bắc Bộ nữa để khai thác than bùn!? Nghĩa là chúng ta
sẽ chủ trương phát triển nền kinh tế nguyên liệu với bất kỳ giá nào? Việt Nam
bước vào thiên niên kỷ thứ 3 này – với than!? Thực hiện chương trình vĩ đại này
trong tình hình giá bán than trong nước hiện nay thấp hơn giá thành và chỉ bằng
65% giá nhập khẩu![116].
Xin nói thêm 2 điều phụ: Giá bán than trong nước
thấp hơn giá thành trong cơ chế thị trường hiện nay ở nước ta có nghĩa là thị
trường không chấp nhận giá bằng hoặc cao hơn giá thành; vậy chẳng lẽ lại yêu
cầu Uỷ ban Vật giá Nhà nước tăng giá than như Uỷ ban đã làm với điện? Giá than
bán trong nước chỉ bằng 65% giá nhập khẩu - điều này quả thật tôi không hiểu.
Hoặc là loại than nhập khác với than anthracite ở Quảng Ninh, bởi vì không ai
dại gì bỏ ngoại tệ ra mua than nhập cùng loại đắt hơn 35%. Hoặc là người nhập
than móc ngoặc với bên nước ngoài mua than cùng loại với anthracite để ăn phần
trăm – nhưng điều này khó xuôi lắm, vì Bộ Ngoại thương và Hải quan nước ta chắc
không thể để yên chuyện này.
Về Quảng Ninh tôi đã nói rồi, viết đến dòng này
tôi xin lấy tư cách công dân khẩn thiết kêu gọi ngành than hãy dừng tay, đừng
đụng chạm đến vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Vấn đề nan giải là ở chỗ bóc tài nguyên lên để
mà sống mà vẫn lỗ thì lấy gì mà phát triển. Cách đây gần hai mươi năm tôi đã
xuống một mỏ than lớn ở vùng Ruhr (Đức) nhân dịp nó làm lễ đóng cửa. Mỏ này nằm
sâu dưới lòng đất khoảng gần 2km, hiện
đại và có công suất lớn hơn các mỏ than của ta nhiều lần, sản phẩm là than mỡ
(lignite), rất phù hợp cho luyện than koke dùng trong luyện kim; song nó phải
đóng cửa vì giá thành và vì quy luật cung cầu. Đây không phải là mỏ duy nhất ở
vùng Ruhr và ở châu Âu bị đóng cửa trong hai thập kỷ vừa qua – mặc dù năng suất
lao động ở đây lúc bấy giờ gấp 10 lần so với ở Quảng Ninh hiện nay.
Than của ta là anthracite (than gày), chỉ tốt
cho nhiệt điện, song trên thế giới tỷ trọng điện được sản xuất bằng than ngày
càng giảm nhiều vì chi phí vận tải than quá lớn. Tỷ lệ dùng than gày trong
luyện kim rất nhỏ, phải trộn thêm các loại than khác, do đó anthracite của ta
không có thị trường lớn trên thế giới. Than đang là một bài toán khó trong nền
kinh tế nước ta. Nếu tiếp tục phát triển công nghiệp than với phương thức hiện
nay, sẽ chồng chất thêm những gánh nặng mới lên nền kinh tế. Công ăn việc làm
của 10 vạn công nhân mỏ đâu có phải là chuyện nhỏ[117]. Thế rồi nền kinh tế
còn phải cõng những thua lỗ của bao nhiêu ngành khác nữa, dần dần nền kinh tế
sẽ đi tới đâu[118]? Đây là câu hỏi do thực
tiễn phát triển trong đời sống kinh tế đặt ra. Toàn Đảng toàn dân ta cần quan
tâm đến câu hỏi này, quyết tâm tìm mọi cách thoát ra bằng được tình hình này. Nước
nào và lúc nào cũng có những câu hỏi loại như vậy.
Ví dụ (4): Điện. Sản
lượng điện tính theo đầu người ở nước ta còn rất thấp, đối với một nước công
nghiệp hoá lại vô cùng thấp, ngành điện nước ta còn phải phát triển rất mạnh.
Phát triển điện vừa qua là một trong những thành tựu lớn của đổi mới. Song cũng
như than, điện bắt đầu có những vấn đề riêng của điện.
Báo chí ta cho biết hiện nay công suất điện tạm thời chưa sử dụng
hết – vì nhiều lý do, thế nhưng ngành điện lại được phép tăng giá điện. Tôi
chưa thấy nước nào kinh doanh kiểu như vậy. Tôi coi đây là một dẫn chứng thuyết
phục về độc quyền. Báo chí và người tiêu
dùng (bao gồm cả doanh nghiệp) thắc mắc, ngành điện giải thích: cần tăng giá để
lấy tiền đầu tư phát triển ngành điện. Lại thêm một lập luận rất vô lý về kinh
tế, nhưng cũng rất thuyết phục về độc quyền. Đầu tư mới bằng tiền không phải đi
vay, không phải trả vốn và lãi thì còn gì bằng! Đấy không phải là kinh tế, càng
không phải là kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa hay quốc doanh giữ vai trò
chủ đạo.
Một vấn đề khác nữa: Trong ngành điện, khâu sản xuất điện và khâu
bán điện được nhập cục với nhau làm một vào trong ngành điện. Sự nhập cục này
cho phép lỗ của khâu này dồn sang khâu kia, hoặc có cách lãi của khâu nào khâu
ấy giữ riêng cho mình. Sự dồn đi giữ lại như vậy sẽ đẻ ra những vấn đề gì đối
với nghĩa vụ hạch toán và nộp ngân sách Nhà nước? Ngoài ra sự nhập cục như vậy,
sẽ không có một khâu nào phải chịu những sức ép cần thiết để bắt buộc phải làm
ăn có hiệu quả hơn. Xin các chuyên gia kế toán, chuyên gia về quản lý kinh tế
của ta phân tích tình hình này và rút ra những kiến nghị trình Nhà nước.
Gần đây có một vấn đề mới khác: Ngành điện kiến nghị xây dựng thuỷ
điện Sơn La. Khi làm thuỷ điện sông Đà đã có dự kiến này. Xét riêng lẻ vấn đề
thủy điện, sau Sông Đà làm thêm Sơn La là lý tưởng.
Tôi không phải chuyên gia về lĩnh vực này, nhưng từ hiệu quả của
thủy điện Thác Bà và công suất còn lại hiện nay của nó sau khoảng 30 năm sử
dụng – nhất là xem xét vùng thuỷ điện Thác Bà là nơi đã từng là vựa lúa chủ lực
của hai tỉnh Tuyên Quang và Yên Bái thời kháng chiến chống Pháp, trong lòng hồ
Thác Bà còn chứa bao nhiêu tài nguyên quý dưới mặt đất, xem xét về mật độ dân
số nước ta, về bình quân ruộng đất canh tác trên đầu người của cả nước[119],
về tỷ trọng cơ cấu các thành phần điện trong toàn bộ ngành điện năng nước ta,
xem xét vấn đề môi trường ở nước ta và những biến động thiên tai ngày càng tăng
trên thế giới do những biến động ngày càng nhiều trong môi trường tự nhiên và
môi trường sinh thái toàn cầu, xem xét một số tai hoạ đã xảy ra trên thế giới –
kể cả ở Mỹ...
Theo tôi, dự án
công trình thuỷ điện Sơn La 200 có những vấn đề sau đây đáng được cân nhắc kỹ:
1. Hiện nay thuỷ điện ở
nước ta đã chiếm khoảng trên 60% (có tài
liệu nói là 67%) tổng sản lượng điện cả nước. Đó là tỷ lệ rất đáng sợ, nói lên
mức phụ thuộc quá lớn vào thời tiết tự nhiên trong sản xuất điện ở nước ta. Những
hiện tượng El Nino và La Nina trong những thập kỷ gần đây, đặc biệt trong thập
kỷ này, nhất là trong mấy năm vừa qua – gần đây nhất là hiện tượng lụt năm 1998
chưa từng có kể từ hàng chục năm nay ở Trung Quốc và tình trạng hạn hán kéo dài
ở nước ta từ 1998 tới nay v...v... càng cho thấy khí hậu trên thế giới và trong
vùng nước ta nói riêng ngày càng có nhiếu biến động với những hậu quả khôn
lường[120].
Do tác động xấu vào môi trường tự nhiên không có cách gì kiểm soát được và xu
hướng chung vẫn là một ngày xấu thêm, tình hình khí tượng thuỷ văn luôn có
những biến động, thiên tai mọi dạng xẩy ra với tần suất và mức độ ngày một cao
hơn. Trong năm 1998 và đầu năm nay trên thế giới đã xẩy ra một số thiên tai có
cường độ tàn phá vượt cả sự tính toán. Trong tình hình của môi trường tự nhiên
như vậy, nước ta có nên tăng tỷ trọng thuỷ điện trong sản xuất điện nữa hay
không? Đấy là chưa nói đến những dữ kiện về địa chất còn đang tiếp tục phải xem
xét thêm.
2. Nước ta có mật độ dân số
cao, ruộng đất canh tác của nước ta hiện nay tính theo đầu người thấp hơn mức bình
quân đầu người trên thế giới, thấp hơn cả mức của Trung Quốc. Bảo đảm an ninh
lương thực là một trong những vấn đề hàng đầu của một quốc gia; hơn nữa còn có
vấn đề không gian sinh tồn. Công trình thuỷ điện Sơn La 200 dự kiến hoạt động
trong 30-40 năm - như vậy là lý tưởng về
mặt tuổi thọ của một công trình, không có điều gì để bàn cãi nhiều về khía cạnh
này. Nhưng vào khoảng thời gian đó dân số nước ta sẽ lên tới 120 – 140 triệu
người - tuỳ các kịch bản phát triển dân số khác nhau có thể diễn ra. Điều này
có nghĩa mật độ dân số càng cao, không gian sinh tồn càng co hẹp, cũng sẽ không
còn cả non để “bồng bế nhau lên nó ở
non” như câu thơ xưa ngày nào. Các thế hệ đang sống có trách nhiệm gì đối với
các thệ hệ con cháu chúng ta về vấn đề này không?
3. Cân nhắc hai vấn đề vừa
trình bầy trên, chúng ta có nên làm chìm hàng chục nghìn ha ruộng đất và rừng
dưới lòng hồ để thực hiện công trình thuỷ điện Sơn La 200 không? Ngày nay, nếu
làm con tính so sánh một bên là những cái lợi hiện tại của thuỷ điện Thác Bà mang
lại, một bên là những cái lợi nếu duy
trì vùng dân cư Yên Bình – Lục Yên châu, chắc sẽ có câu trả lời đáng tham khảo
cho việc: có nên tiến hành công trình thuỷ điện Sơn La 200 hay không nên.
4. An ninh quốc gia thường
đòi hỏi phải phát triển các vùng biên giới thành các vùng đông dân cư và trù
phú. Xem xét như vậy, chúng ta có nên làm thuỷ điện ở đây và thu hẹp các vùng
dân cư sinh sống tại miền biên giới hay không? Để làm thuỷ điện Sơn La, chúng
ta phải di chuyển một bộ phận dân cư khá lớn (vấn đề này hiện tại vẫn chưa giải
quyết được trọn vẹn đối công trình thuỷ điện Sông Đà/Hoà Bình), với nhiều hệ
quả kinh tế – xã hội lớn, thậm chí còn có nguy cơ tác động sâu sắc không cứu
chữa được đối với vùng văn hoá đồng bào dân tộc Thái và một số đồng bào dân tộc
thiểu số khác. Vấn đề đồng bào các dân tộc ít người luôn luôn đặt ra những vấn
đề chính trị quan trọng ở mỗi quốc gia. Thậm chí đôi khi phải đình bỏ lợi ích
nào đó để bảo đảm đại đoàn kết dân tộc, điều này đối với nước ta không phải là
ngoại lệ.
5. Hiện nay chúng ta có
vùng than lớn ở Quảng Ninh và trữ lượng khí lớn để sản xuất nhiệt điện. Điều
đáng chú ý là giá than xuất khẩu của
Quảng Ninh có thể ví rẻ như bùn, đào bới loại tài nguyên rất ít lợi thế so sánh
như vậy để xuất khẩu chỉ là điều vô cùng bất đắc dĩ. Tại sao chúng ta không đặt
vấn đề mở rộng phát triển mạnh mẽ hơn nữa nhiệt điện ở Quảng Ninh trong khi
đồng thời xúc tiến các chương trình đưa khí vào bờ (ở đây cũng có vấn đề phải
cân nhắc: tỷ trọng đưa khí vào làm nhiệt điện với tỷ trọng sử dụng khí phát triển công nghiệp hoá chất). Chưa
nói đến những vấn đề như: giá than xuất khẩu ngày một hạ, xuất khẩu than ngày
một khó và vấn đề cân nhắc đưa một phần than xuất khẩu vào sản xuất nhiệt
điện... Hiện nay hàng năm Quảng Ninh mỗi năm có khoảng 1-2 triệu tấn than cám
hoặc nhiều hơn nữa không xuất khẩu được, nhưng hoàn toàn có thể sử dụng khối
lượng than cám này vào sản xuất nhiệt điện. Tìm khả năng tiêu thụ thêm được 1
triệu tấn/năm than cám ở Quảng Ninh có
nghĩa duy trì được khoảng 2 - 3 vạn chỗ làm việc/năm cho lực lượng lao động đơn
giản ở Quảng Ninh. Đấy là chưa nói đến vốn huy động cho công trình nhiệt điện
thường ít hơn, đặc biệt là tiết kiệm không gian sinh tồn cho đất nước. Thực sự
đang có bài toán kinh tế vỹ mô ở tầm quốc gia là: rất nên cân nhắc việc giảm
thiểu lượng than xuất khẩu ở Quảng Ninh để tăng lượng than đưa vào sản xuất
nhiệt điện trong khi buộc còn phải duy trì nhịp độ khai thác than hiện nay; đây
là một biện pháp đáng xem xét.
6. Tuy nhiên, theo thiển ý
của tôi, để đối phó với tình hình thuỷ điện sông Đà lúc gặp phải quá nhiều lũ,
lúc cạn kiệt, đồng thời để xử lý một cách cơ bản vấn đề thuỷ lợi cho vùng Tây
Bắc, việc nghiên cứu và xây dựng các công trình thuỷ lợi – có thể kết hợp với
thuỷ điện nhỏ – là vấn đề rất đáng được đặt ra, chứ không phải là loại công
trình như thuỷ điện Sơn La 200 hay thuỷ
điện Sơn La thấp hơn nữa. Làm thuỷ lợi là chủ yếu, kết hợp với thuỷ điện nhỏ
cho Sơn La với mục đích là công trình bổ trợ cho thuỷ điện sông Đà, tuy không
lý tưởng lắm về mặt thuỷ điện cho sông Đà, nhưng lại là cách tránh những sai lầm với những hậu
quả không thể nào cứu chữa được trong xâm phạm vào môi trường tự nhiên. Một nhà
khoa học Liên Xô (cũ) đã từng nói: Nếu chúng ta bắn vào môi trường tự nhiên một
phát súng lục, chúng ta sẽ bị môi trường tự nhiên bắn trả một phát đại bác;
thiết nghĩ lời cảnh cáo đó là có ích.
7. Trong quá trình tiến lên
trở thành nước công nghiệp, vấn đề đi vào điện hạt nhân đối với nước ta đã quá
muộn và trước sau vẫn không thể tránh khỏi. Đã đến lúc phải khẩn trương hơn nữa
trên hướng này. Khả năng thực hiện được điện hạt nhân sạch càng tăng thêm triển
vọng này.
8. Vân... vân... (vì còn
nhiều lý do khác nữa, không tiện nêu ra ở đây).
Qua 4 ví dụ nêu trên, tôi nghĩ rằng: Con
đường phát triển kinh tế nước ta đang theo đuổi đắt quá, phí quá. Phải chăng để
tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế năng động, có hiệu quả và bền vững, có lẽ
phải tìm cách đi khác với phương thức chúng ta đang nghĩ, khác với cách chúng
ta đang làm?
Không có môn khoa học tự nhiên hay khoa học xã
hội nào, không có Nghị quyết Đại hội hay chủ trương đường lối nào đề ra việc bắc cầu dưới mặt nước. Đấy chỉ là một
cách nghĩ, một cách tiếp cận, là một sản phẩm tổng hợp của tất cả những
thứ vừa kể trên, là của sáng tạo - xuất phát từ ý chí muốn sống, bất chấp cuộc
sống khắc nghiệt như thế nào. Suy nghĩ ấy, cách tiếp cận ấy là một
sản phẩm của tinh thần cách mạng Việt Nam, mang trong nó bản chất của cách
mạng, là chính cách mạng. Công cuộc đổi mới là kết quả tổng hợp của những
ý chí, những cách tiếp cận như vậy. Tuy nhiên, bắc cầu dưới mặt nước một cách cảm tính, phiêu lưu, thiếu căn cứ
khoa học...[122] đồng nghĩa với tự sát.
Là nước đi sau, cách tiếp cận vận dụng trí tuệ
và mọi thành tựu của khoa học và công
nghệ với ý chí như vậy, đấy chính là nguồn lực vô tận của nước ta.
15 năm sau khi khởi sự công cuộc đổi mới, với
những kinh nghiệm đã tích tụ được kể từ khi xây dựng Miền Bắc xã hội chủ nghĩa
1954 và những kinh nghiệm phát triển kinh tế trong 25 năm giải phóng và thống
nhất đất nước, thực sự đã đến lúc phải xem lại chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội, bao gồm cả chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đối chiếu với
những kinh nghiệm trên thế giới, đối chiếu với xu thế phát triển nền kinh tế
mới toàn cầu hoá của thế giới, để làm rõ, điều chỉnh mọi chủ trương chính sách
và kiên trì đi theo con đường phát triển mà công cuộc đổi mới đã gợi mở
ra. Kiên quyết rời bỏ con đường phát triển nền
kinh tế theo chiều rộng[123], nền kinh tế nguyên
liệu, nền kinh tế tích tụ tư bản vật chất; ngay từ bây giờ tìm đường từng bước chuyển
mạnh sang nền kinh tế tích tụ khả năng khai thác mọi nguồn lực do nền kinh tế
mới toàn cầu hoá đem lại, mở rộng không gian kinh tế cho đất nước, lấy phát
triển con người và nâng cao năng lực toàn xã hội làm động lực.
Tư tưởng của chiến lược phát triển này nên có
hai nội dung chính là:
-
đi từ những bước thấp nhất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh hướng
mạnh về xuất khẩu, len lách vào mọi thị trường, tập trung vào những đối tác
chính, với mục đích mang lại nhiều giá trị gia tăng, nguồn thu nhập quốc dân và
khả năng tích tụ vốn, công nghệ ngày càng lớn cho đất nước;
-
làm cho Việt Nam sẽ trở thành một trung tâm công nghiệp (chế
biến), thương mại, dịch vụ[124] và là cầu nối kinh tế
giữa khu vực và thế giới bên ngoài.
Đó là nền kinh tế chủ yếu dựa trên phát huy
nguồn lực tối ưu nhất của đất nước: con người Việt Nam, để tận dụng mọi nguồn
lực có thể thu hút từ cả thế giới. Đó là chiến lược phát triển tìm
đường đi tắt, đón đầu bước vào nền kinh tế tri thức trong tương lai.
Không nên mất nhiều thời giờ ngồi làm dự báo bao giờ đi vào được nền kinh tế
tri thức và san lấp được khoảng cách phát triển. Nhưng cần bỏ ra nhiều công sức
để ngay từ bây giờ xây dựng chiến lược và khai phá con đường phát triển này –
bắt đầu từ việc nhận thức lại thế giới và nhận thức lại mình thật chính xác.
Kết thúc phần này,
tôi xin trích lại phần tự kiểm điểm của Đảng ta nêu trong Cương Lĩnh do Đại Hội
VII thông qua: “Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên
cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật
khách quan: nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế
nhiều thành phần; có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng; duy
trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong
việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương. Công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ
phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng.” Tôi nghĩ rằng: Tinh thần và nội
dung tự phê phán nghiêm túc ấy vẫn còn nguyên giá trị thời sự cho những bước
đường tiếp theo của đất nước, cảnh báo chúng ta không được một lần nữa sa vào
“con đường cổ điển” đắt và phí quá.
Xin nói thêm, 4 ví dụ tôi
vừa trình bầy về luyện kim, nhôm, than
và thuỷ điện là những vấn đề
ở mức độ nhất định đã được tính đến, được lựa chọn và được quyết định. Vì lợi
ích của kinh tế đất nước, trong thâm tâm tôi cầu mong những suy nghĩ trình bầy
trên của tôi là sai. Sau này, nếu thực tế cho thấy những ý kiến ấy của tôi quả
là sai, tôi xin được lượng thứ – bởi lẽ tôi nghĩ như thế mà không nói ra cũng
là có tội với đất nước, dù là có thể nghĩ sai. Những suy nghĩ của tôi về Dung
Quất và Chu Lai được trình bày trong phần V. 2. Những vấn đề gay cấn nhất
cũng mong được xem xét bao dung như vậy. Tôi xin nhắc lại, nền kinh tế nước nào cũng cần
phải có một hoặc vài ngành công nghiệp làm trụ cột, một hoặc vài vùng kinh tế
trọng điểm, một hay vài “cú hích” nào đó thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền
kinh tế... Câu chuyện thời sự đang làm tổn hao trí tuệ của chúng ta là: Lựa
chọn cái
gì và cách tiếp cận như thế nào để đi lên
hiện đại chứ không tụt hậu, để cạnh tranh được chứ không lặp câu chuyện
“xi-măng lò đứng” với kịch bản mới. Vì nghĩ như vậy, trước sau tôi tin rằng:
Vấn đề sống còn phải chăng là tạo nhiều giá trị
gia tăng để có nguồn lực phát triển con người, động lực quyết định nhất để
không ngừng mở rộng không gian kinh tế
cho đất nước - chìa khoá mở ra con đường san lấp khoảng cách phát triển? Có lẽ đây là hướng
đi và các bước đi để chúng ta trả lời cho các câu hỏi cái
gì? và cách tiếp cận như thế nào?
Trong phần I (“Khoảng cách một giai đoạn phát
triển”) của cuốn sách này tôi đã đưa ra các con số so sánh tốc độ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của nước ta với các nước đang phát triển khác ở các thời kỳ
trong quá trình công nghiệp hoá.
Những so sánh này cho thấy:
(a)
tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta trong hai thập kỷ
vừa qua như thế là quá chậm so với đòi hỏi của một nước đi lên công nghiệp hoá
trong thời đại ngày nay;
(b)
nếu tiếp tục chiến lược
phát triển kinh tế – xã hội và CNH như chúng ta đang theo đuổi, có nguy cơ vào
năm 2020 nước ta chưa hẳn đạt được mức phát triển của Thái Lan năm 2000[125].
Hiển nhiên đất nước chúng ta đang có nhiều vấn
đề mới phải được mổ xẻ, phải được nhìn nhận dưới ánh sáng của những đòi hỏi tất
yếu do yêu cầu san lấp khoảng cách phát triển.
2. Không có bài thuốc tiên
Dù cổ vũ nhiệt tình cách tiếp cận mang cái tên
vui vui “bắc cầu dưới mặt nước”, tôi vẫn nghĩ rằng: Mọi nền kinh tế muốn cất
cánh đều phải cất cánh từ mặt đất. .
Trong các phần trên, tôi đã trình bày cuộc sống
không chấp nhận bất kỳ một siêu nhân, một ông thày bói hay một lực lượng siêu
phàm nào. Cũng với ý thức như vậy, tôi xin lưu ý: Trong cuộc sống không có bài
thuốc tiên nào là không tồi tệ thảm hại; bài thuốc tiên nào càng công thức,
càng lý luận hoàn hảo bao nhiêu, khi đưa vào cuộc sống càng tồi tệ thảm hại bấy
nhiêu.
Lẽ đơn giản những tư duy triết học hướng về một xã
hội loài người tốt đẹp hơn, kể từ Socrates, Aristoteles... cho đến Marx và
những ai khác sau này nữa, về cơ bản thường có hai phần:
Aristoteles (382-322 t.C.N) nói về tư hữu và Nhà nước :
...Luôn luôn có khó khăn trong cuộc sống
giữa con người với nhau, trong việc có chung các thứ, đặc biệt trong việc có
tài sản sở hữu chung. Khi mỗi người có
lợi ích riêng của mình, con người không làm phiền nhau và họ càng có nhiều
tiến bộ; bởi vì mỗi người đều bận bịu vào công việc riêng của mình... Yêu bản thân mình là bản tính tự nhiên của
con người và điều này không phải là vô ích, đương nhiên tính ích kỷ lại là
điều đáng phê phán...
Khi
con người trở nên có năng suất lao động cao hơn, nó sẵn sàng san sẻ cho mọi
người khác nếu nó có tài sản riêng. Nhưng tính ưu việt này sẽ mất đi nếu có
sự thống nhất thái quá trong khuôn khổ Nhà nước.
Một tình trạng pháp lý như vậy – tình trạng thống nhất thái qua trong
khuôn khổ Nhà nước, hay còn gọi là tình trạng mang tính chất của cải chung –
communistic – có thể làm xuát hiện sự hào hiệp nào đó... Người ta thường được
nghe nói như vậy và dễ có xu hướng tin rằng trong một trường hợp tuyệt vời
nào đó mọi người đều là bạn của nhau... Nhưng chúng ta thấy những người có
của cải chung thường xích mích với nhau nhiều hơn so với những ngươì có của
cải riêng...
Có
một thời điểm nào đó, tại đấy môt Nhà nước có thể đạt tới tình trạng thống
nhất ở mức độ Nhà nước ấy không còn là Nhà nước nữa; hay là tại thời điểm ấy
mặc dù nhà nước đó trên thực tế còn tồn tại – nhưng nó chỉ còn là một Nhà
nước ở dạng thấp... Chúng ta hãy nhớ đừng xem thường những kinh nghiệm của
thời đại...
trích từ báo
TheNation,
ngày18-7-1990,
Người
sưu tầm:
Nguyễn Trung
|
-
(a) Những lý tưởng cao đẹp hướng tới chân lý.
-
(b) Những lý luận, những mô hình được đưa ra theo học thuyết của
mình với mong muốn thực hiện những lý tưởng cao đẹp đã được xác định; học
thuyết nào thì mô hình ấy.
Không phải ai khác,
Bác Hồ đã có lần đưa ra nhận xét, đại ý: chúa Jê-xu, phật Thích Ca, Khổng Tử,
Mác, Ghandi, Tôn Dật tiên... nếu các vị đó sống cùng thời với nhau chắc sẽ là
những người bạn tốt của nhau vì những lý tưởng bác ái và tự do.
Theo suy nghĩ của tôi:
-
Phần chân lý là những lý tưởng cần hướng tới.
-
Phần lý luận về mô hình
xã hội là những nỗ lực chủ quan của
từng học thuyết, nhằm đưa ra những mô thức thực hiện những lý tưởng ấy trong
cuộc sống, mỗi học thuyết có mô thức riêng của mình. Đó không phải là kinh
thánh.[126]
Nỗ
lực chủ quan của từng học thuyết và thực tế khách quan của cuộc sống luôn
luôn là hai vấn đề khác nhau. Nếu giữa nỗ lực chủ quan này và thực tế khách
quan của cuộc sống có 2 thế kỷ chen vào nữa, thì sự khác biệt này giữa tính
chủ quan của những mô hình được dựng nên và thực tế khách quan của cuộc sống
hiện tai lại càng lớn. Điều mà cuộc sống đã mách bảo chúng ta là nên quán
triệt những lý tưởng về chủ nghĩa xã hội mà học thuyết Marx đã nêu ra. Còn
những mô hình thực hiện thì chúng ta cần hiểu đó là những gợi ý, những mô
hình cần được xem xét với tinh thần như Engels đã nêu trong bài tựa năm 1872
viết cho Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.
Trong “Chính sách kinh
tế mới” (NEV) Lênin đã nêu một gương sáng về việc thực hiện phương pháp luận
này của Engels. Đảng ta, trước hết là Chủ tịch Hồ Chí Minh nhờ vận dụng sáng
tạo học thuyết Mác – Lênin nên đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thành
tựu cách mạng vĩ đại – từ sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước cho đến
công cuộc đổi mới ngày nay.
|
|
|
|
-
Từ quan điểm phát triển công nghiệp nặng đến Hội nghị Trung ương 6
khoá IV năm 1979 chuyển sang công nghiệp nhẹ hàng tiêu dùng và công nghiệp địa
phương.
-
Từ nền kinh tế kế hoạch tập trung đến Hội nghị Trung ương 6 khoá
VI tháng 3-1988 để chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
-
Con đường gian khổ đi từ hợp tác xã kiểu cũ đến khoán 100, rồi khoán 10 – bước tiếp theo nên
chăng là tiếp tục đẩy mạnh những khảo nghiệm, xây dựng những mô hình mới về
kinh tế hộ mà chúng ta đang giành được
nhưng tiến bộ bước đầu khá quan trọng
trong kinh tế trang trại, những mô hình hợp tác xã làm ăn theo kiểu hiện
đại mà chính Lê-nin đã phác hoạ trong NEV - (theo tôi, Nông trường Sông Hậu ở
Cần Thơ là một trong những ví dụ tốt về mô hình hợp tác xã ở Việt Nam theo
hướng Lê-nin dự kiến)...
-
Từ công nghiệp hoá theo kiểu cũ đến đẩy mạnh xuất khẩu đồng thời
thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm sản xuất trong nước có hiệu quả.
-
Từ cải tạo xã hội chủ nghĩa đến nền kinh tế nhiều thành phần với
tính chất là một chủ trương chiến lược lâu dài và cần thực hiện nhất quán,
triệt để.
-
...
Toàn bộ quá trình nêu trên toát lên tinh thần
Engels trong bài tựa năm 1872, là NEV của Lênin, là quan điểm cách mạng thực
tiễn của Hồ Chí Minh vận dụng vào hoàn cảnh của Việt Nam trong một thế giới vào
lúc chuyển giao giữa hai thế kỷ, giữa hai thiên niên kỷ. Đây là một trong những
kinh nghiệm quý báu nhất, tạo ra bước ngoặt mang tinh thần cách mạng triệt để
nhất của đổi mới. Đây là tinh thần quán triệt lập trường giai cấp nhất, kiên
định nhất, vì thể hiện quyết tâm tạo ra sức phát triển năng động của nền kinh
tế cả nước, để có điều kiện thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta đã nhiều lần tổng kết, tất cả những
thắng lợi giành được là nhờ vận dụng sáng tạo học thuyết
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phát huy truyền thống yêu nước, trí tuệ và
nghị lực phi thường của dân tộc ta; đấy là sự vận dụng sáng tạo những tư tưởng
ấy vào hoàn cảnh và những điều kiện cụ thể của nước ta, kết hợp với sức mạnh
của thời đại, tạo ra sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi. Đây trước sau vẫn là
một nguyên lý cần được tiếp tục vận dụng thật sáng tạo cho sự nghiệp xây dựng
đất nước trong nền kinh tế thế giới đang toàn cầu hoá ngày càng năng động hơn.
Sáng tạo trên cơ sở vận dụng tri thức của nền
văn minh nhân loại là cách mạng, là một trong những phẩm chất quý báu của Đảng
ta. Xin hãy giữ lấy những lý tưởng xã hội chủ nghĩa, vươn lên những lý tưởng ấy
bằng nghị lực sáng tạo từ cuộc sống luôn luôn đi trước tư duy của chúng ta. Tôi
coi sáng tạo thuộc về bản lĩnh và phẩm chất của con người, tôi không coi sáng
tạo là bài thuốc tiên, càng không tin có bài thuốc tiên, dù rằng có nhiều sách
vở viết ra những bài thuốc tiên.
Nhưng tôi thực sự tin rằng những bước đi trong
đổi mới ở nước ta như vừa phác hoạ trên đây, cho đến nay chưa thấy có sách vở
nào bao quát được, cần được tổng kết sâu sắc. Như tôi đã trình bày, đây thực sự
là một lãng phí lớn quá, tiếc quá.
3. Cất cánh từ mặt đất
Như vậy mọi việc đều phải bắt đầu từ chỗ chúng
ta đang đứng trên mặt đất này và trong bối cảnh thiên hạ đã bỏ xa chúng ta mất
cả một giai đoạn phát triển khoảng 200 năm, bắt đầu từ chỗ nhận biết mình nhận
biết người một cách tỉnh táo của ý chí cách mạng. Mọi việc, nước ta đều phải
nhằm vào mở rộng không gian kinh tế cho đất nước trong thế giới toàn cầu hoá -
để tồn tại và phát triển, nguồn lực chủ lực là phát huy con người. Một tấc
không đi một ly không rời khỏi mục tiêu này, từ thế hệ này sang các thế hệ tiếp
theo.
Dù là đánh giá cao đến đâu những thành tựu đã
đạt được sau 15 năm đổi mới, vào thời điểm này, nghĩa là hiện tại và có thể
trong vòng một vài năm tới, chúng ta phải nhìn thẳng vào một sự thật khắc
nghiệt ngay trước mắt:
Vấn đề hàng đầu là phải khắc phục tình trạng tốc
độ tăng trưởng suy giảm dần từ 1996 tới nay, lấy lại sự phát triển năng động
trong nửa đầu thập kỷ 1990, đồng thời tìm tòi và tiến hành những bước đi trên
con đường thực hiện mục tiêu chiến lược nói trên.
Cần nhìn thẳng vào sự thật là nền kinh tế đất
nước tuy có nhiều thuận lợi lớn hơn so với thời gian 1986-1989, nghĩa là so với
những năm bắt đầu đưa công cuộc đổi mới vào cuộc sống, ngày nay những vấn đề
nền kinh tế đang phải đối mặt phức tạp và khó hơn trên nhiều phương diện, vì
hai nguyên nhân chính:
-
Một là: Càng phát triển lên nấc thang mới của nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các vấn đề
đòi hỏi phải giải quyết càng khó hơn: ví dụ vấn đề đổi mới DNNN, vấn
công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, những điều chỉnh cần phải có trong
chiến lược CNH,HĐH – bao gồm cả vấn đề xem lại phát triển kinh tế biển, vấn đề
đổi mới hệ thống quản lý và hệ thống chính trị của đất nước sao cho phù hợp với
những yêu cầu phát triển mới.
-
Hai là: Hậu quả của những vấn đề chưa xử lý tốt hay chưa xử lí được của
15 năm đổi mới vừa qua đang tích tụ lại và gây thêm những khó khăn mới. Rõ nét
nhất là cơ chế thị trường chưa hoàn thiện, sự bất cập của bộ máy quản lý và
điều hành nền kinh tế - đặc biệt là trong hệ thống tài chính tiền tệ. Tư duy
lạc hậu không theo kịp yêu cầu phát triển đang góp phần làm cho kinh tế có thêm
những căng thẳng mới trong cơ cấu và trong vận hành. Do thiếu kinh nghiệm nên vấp váp không ít
trong quan hệ kinh tế đối ngoại – nhất là trên hai phương diện: thu hút đầu tư
trực tiếp của nước ngoài và mở rộng ngoại thương... Trong những vấn đề này,
nhức nhối nhất, gây nhiều rắc rối nhất, đồng thời gây nhiều lực cản nhất cho
những cố gắng sắp tới có lẽ là quốc nạn quan liêu tham nhũng.
Phải chăng còn có thể nêu một sự khác biệt nữa: Trong những năm
1986-1989 khó khăn chính lúc đó là chưa tìm được lối ra nhưng quyết tâm đổi mới
rất cao; còn khó khăn của bây giờ là con đường đổi mới đã hé mở nhưng nội dung
đổi mới bây giờ rất phức tạp khiến cho bước đi ngập ngừng?
Thật là nguy hiểm, nếu nghĩ rằng bây giờ gạo đủ
ăn mà còn có thừa để bán, năng lượng đủ và cũng thừa, sắt thép xi măng cũng
vậy, cứ thế mà làm ăn, cứ thế mà tiến, bên ngoài muốn mở rộng hợp tác thì mở
rộng, bên ngoài không muốn thì ta cứ làm việc của ta, lo gì... Suy nghĩ như vậy
là không thấy hết mức nghiêm trọng của những vấn đề đặt ra cho sự phát triển
của đất nước như đã trình bày trong phần V.
Trước khi trình bày một số ý kiến về công việc
sắp tới, tôi xin nhấn mạnh, không đứng vững chắc trên mảnh đất của thực tế cuộc
sống để nhìn nhận mọi vấn đề với đúng thực chất của chúng, việc hoạch định và
tiến hành những bước đi mới sẽ là những ảo tưởng.
Tổng cục thống kê cho biết quí I-2000 sản xuất
công nghiệp tăng 11,34% so với cùng kỳ năm trước - đại thể nhích lên chút ít
nhưng vẫn là sụt so với những năm đầu thập kỷ 1990 (thường là 14 – 15%), nhưng
nỗi lo về tiêu thụ đầu ra vẫn còn nguyên vẹn, lượng hàng tồn kho các loại vẫn
còn lớn.
Các chỉ số tăng trưởng kinh tế 1999 và của quý
I-2000 mang lại một số tín hiệu lạc quan. Song ngay những tin tức lạc quan này
cũng cần được lý giải, để nhận biết chuẩn xác tình hình thực tế. Bởi vì cần
phân tích kỹ, sự nhích lên một chút ấy là do các nhân tố chủ quan tạo ra đến đâu
– như tăng năng suất lao động, đầu tư hiệu quả hơn, giá trị gia tăng nhiều hơn,
cải cách quản lý đạt tiến bộ.., hay là sự tăng trưởng chút ít này là do một số
yếu tố ngoại cảnh nhất thời như giá dầu thô lên, thời tiết thuận lợi được mùa,
tình hình kinh tế khu vực ĐNA’ được cải thiện... Bởi vì cốt lõi là phải tạo ra
sự tăng trưởng năng động, nhưng ổn đinh
và bền vững.
Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 2000
nhấn mạnh cần cố gắng đạt tốc độ tăng trưởng GDP 5,6 – 6%, nghĩa là vẫn còn
thấp so với 5 năm về trước. Trong nhiều cuộc họp quan trọng với các doanh
nghiệp trong những tháng đầu năm 2000, Thủ tướng thẳng thắn nêu câu hỏi năm
2000 có chặn được đà giảm sút tăng trưởng kinh tế kéo dài từ mấy năm nay hay
không, bởi vì vấn đề việc làm ngày càng gay gắt, ngoài ra chưa kể còn biết bao
nhiêu vấn đề nan giải khác có liên quan nếu không đảy mạnh được tốc độ tăng
trưởng và phát triển – trước hết là tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh của
toàn bộ nền kinh tế sẽ bị tác động tiêu cực; chỉ số giá cả quý I-2000 tiếp tục
suy giảm; trong khi đó các nền kinh tế chung quanh nước ta đang trên đà phục
hồi.
Bộ Tài chính thông báo trên báo chí năm 1999 số
DNNN làm ăn có lãi là 71,10%; song kết quả tổng hợp của các Bộ, ngành lại cho
thấy năm 1999 chỉ có khoảng 40% DNNN làm ăn có lãi – cùng là con số thống kê
của các cơ quan nhà nước đưa ra, nhưng sao lại có sự khác biệt lớn như vậy?[128]
Thậm chí có ý kiến năm 1999 chỉ khoảng 20% DNNN có lãi... Nhưng dù là con số
nào, thì chí ít vẫn là khoảng quá nửa hoặc 1/3 DNNN làm ăn không có lãi; trong
khi đó tổng nợ các loại, bao gồm cả nợ đến hạn hoặc quá hạn của khu vực DNNN
lên đến 220.000 tỷ VNĐ[129].
Các biện pháp kích cầu thực hiện được gần hai năm, nhưng kết quả chưa có gì rõ
rệt – do kích cầu chưa đủ mức, hay do bệnh chưa được bốc đúng thuốc?
Trên báo chí trong nước đang có những ý kiến
đánh giá khác nhau: Tình hình vừa kể trên (a) là thiểu phát? (b) hay là một triệu chứng báo hiệu mới của
khủng hoảng cơ cấu kinh tế? (c) hay là
cả hai hiện tượng này thực chất chỉ là 2 mặt của một vấn đề nằm sâu trong cơ
cấu kinh tế và hệ thống điều hành của nước ta? Tôi thiên về ý kiến sau cùng.
Đây là vấn đề rất hệ trọng, có xác định đúng mới có được khả năng đề ra giải
pháp đúng.
Điều đáng lo ngại khác là từ hai năm nay chúng
ta nhấn mạnh phát huy nội lực, làm rất nhiều việc để cải thiện môi trường đầu
tư, nhưng đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) vào ta tiếp tục ở mức độ rất
thấp – năm 1999 chỉ bằng khoảng 1/2 năm 1998; trong khi đó FDI vào khu vực ĐNA’
năm 1999 tăng 15%. Anh Nguyễn Mại đưa ra nhận xét đáng suy nghĩ:
“Tình hình đất nước hiện nay, khi mà chúng ta
đang bắt tay vào xây dựng chiến lược cho thời kỳ mới, đang đòi hỏi sự dũng cảm
của các nhà hoạch định chính sách trong việc nhìn thẳng vào thực trạng tình
hình kinh tế-xã hội của đất nước... Để bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao và bền vững,..có nghĩa là giữ được hệ số ICOR[130]
hợp lý, thì vốn đầu tư của thời kỳ sau thường phải cao hơn hai lần so với thời
kỳ trước. Nếu như trong thời kỳ 1991-1995 tổng vốn đầu tư là 15,6 tỷ USD để duy
trì được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 8-8.5%/năm, tổng số vốn đầu tư của
thời kỳ 1996-2000 phải là 40-42 tỷ USD, bằng 2,7 lần. Từ đó suy ra tổng vốn đầu tư cho thời kỳ 2001-2005 khoảng
100-120 tỷ USD và 5 măm tiếp đó, 2006-2010 là 200-220 tỷ USD[131]...”
Nếu kéo quá dài thời kỳ tăng trưởng chậm trong hoàn cảnh nước ta, sẽ có nguy cơ
rơi vào khủng hoảng. Tôi thấy nhận xét của anh Nguyễn Mại rất cần được quan
tâm.
Các chuyên gia nước ngoài tính toán thời kỳ
1991-1995 FDI chiếm khoảng 1/3 tổng đầu tư toàn xã hội ở nước ta, tăng trưởng
kinh tế thời kỳ này đạt 8 – 8,5%, nếu không có FDI sẽ chỉ đạt khoảng gần 6%;
ngoài ra FDI còn đóng góp 2/3 mức tăng trưởng xuất khẩu của nước ta trong thời
kỳ này. Thực tế đã xẩy ra là chúng ta không huy động được tổng số vốn đầu tư
toàn xã hội cần thiết cho thời kỳ 1996-2000 và đấy là một trong những nguyên
nhân quyết định trực tiếp tình hình suy giảm của thời kỳ 1996-2000 và có thể
ảnh hưởng tiếp tục cho những năm sau. Những yếu tố cần tạo ra để có thể huy
động một lượng đầu tư lớn khoảng 100 –120 tỷ USD, trong đó ước 1/3 là FDI, cho
thời kỳ 2001-2006 còn đang đặt ra nhiều bài toán khó.
Tóm lại, cùng một lúc nền kinh tế đang đòi
hỏi phải có động lực mạnh cho tăng trưởng và phát triển năng động, phải nâng
cao khả năng cạnh tranh và phải tạo ra những tiền đề đẩy nhanh hơn nữa quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng khai thác những nguồn lực do quá
trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới có thể đem lại.
Mọi việc cần bắt đầu từ nhận thức tỉnh táo thực
tế khách quan đầy thách thức đã trình bày ở trên, lấy nó làm xuất phát điểm cho
những nỗ lực mới, với tất cả tinh thần yêu nước và lòng dũng cảm cần phải có
của một dân tộc đang quyết tâm lấy lại 2 thế kỷ đánh mất – yêu nước và dũng cảm
như tất cả ra tiền tuyến, tất cả cho tiền tuyến như ngày nào... Không phải chỉ
cho một trận đánh, mà còn phải trường kỳ hơn cả trường kỳ kháng chiến, thế hệ
này chưa làm xong thì các thế hệ sau tiếp theo, cho đến khi san lấp được khoảng
cách phát triển với thế giới bên ngoài. Mọi nỗ lực nên xoay quanh những yêu cầu
sau đây:
Một là: Ưu tiên số một là mở
rộng thị trường để từng con người Việt Nam chúng ta phát huy được khả năng lao
động cần vù và sáng tạo của mình, để từng đồng vốn và mọi nguồn lực khác dù
thuộc thành phần kinh tế nào của đất nước từng ngày, từng ngày được tận dụng
hữu ích - với mục tiêu thường xuyên nâng cao thu nhập cho đất nước, ra sức tích
tụ nguồn lực nhằm tạo mọi điều kiện phục vụ nhiệm vụ hàng đầu là phát triển con
người – phát triển nguồn lực tạo ra mọi nguồn lực, trên cơ sở đó nâng cao dần
khả năng khai thác các nguồn lực do nền kinh tế toàn cầu hoá đem lại. Xin
đặc biệt nhấn mạnh, để thực hiện yêu cầu này, cùng với việc phát huy mọi nguồn
lực trong nước, vai trò đầu tư trực tiếp của nước ngoài có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng.
Hai là: Thực hiện dân chủ, công
khai minh bạch, đồng thời phát triển hệ
thống pháp luật bảo hộ và khuyến khích mọi thành quả lao động và kinh doanh của
từng cá nhân theo đúng tinh thần làm giàu cho mình và đồng thời làm giàu cho
đất nước. Lấy dân chủ và công khai minh bạch để hoàn thiện thị trường. Đồng
thời lấy cơ chế thị trường ngày càng hoàn thiện để loại bỏ độc quyền và mọi bao
cấp còn lại, quyết xoá bỏ mọi hiện tượng ăn bám, thua lỗ. Đảng và Nhà nước đứng
đằng sau mỗi nỗ lực của từng công dân đi vào sản phẩm mới, thị trường mới. Từng
cá nhân, từng cán bộ công nhân viên chức nhà nước và từng doanh nghiệp, cơ quan
luôn luôn phải làm việc dưới áp lực sẽ bị loại bỏ, bị phá sản nếu hiệu suất
thua kém. Toàn xã hội tôn vinh người làm ăn giỏi, người làm giàu, các doanh
nghiệp và cơ quan, nhất là tôn vinh những ai tạo ra nhiều công ăn việc làm cho
xã hội và mở mang thị trường mới cho đất nước, làm ra sản phẩm mới, công nghệ
mới. Sự tôn vinh quan trọng nhất là sự bảo hộ thoả đáng và lâu dài bằng luật
pháp những thành quả này
Ba là: Vì tư tưởng chiến lược là tạo ra nguồn lực
cho phép tận dụng tối ưu mọi nguồn lực do nền kinh tế toàn cầu hoá có thể đem
lại, cho nên trọng tâm của mọi hoạt động kinh tế, xã hội phải nhằm vào tăng thu
nhập để tăng phát triển theo hướng phát triển bền vững, trước hết là phát triển
con người. Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và kết cấu hạ tầng xã hội cũng
phải ưu tiên nhằm vào trọng tâm này, với mục tiêu chiến lược lâu dài là thu hẹp
dần nền kinh tế nguyên liệu, chuyển mạnh sang nền kinh tế có hàm lượng chế biến
và hàm lượng công nghệ ngày một cao hơn, mở dần từng bước con đường đi vào nền
kinh tế tri thức. Cố gắng tạo ra sự chuyển dịch này diễn ra hài hoà, người đi
trước kéo theo người đi sau, nhưng đồng thời không ai phải chờ đợi ai.
Xin nêu lên một vài ví dụ để xem xét:
Theo David S. Landes trong cuốn Sự thịnh vượng và nghèo khó của
các quốc gia, NXB W.W. Norton & Company, New york-London, 1998: Một trong
những nguyên nhân quan trọng của chấn hưng nước Nhật thời Minh Trị là giáo
dục và đào tạo con người, khiến cho quá trình công nghiệp hoá của Nhật mặc dù
đi sau nước Anh hơn 100 năm nhưng tiến nhanh hơn nước Anh và không phải trải
qua con đường đầy đau khổ như ở nước Anh. Dưới thời Minh Trị hơn 40% ngân
sách là chi cho giáo dục, và nhờ vậy ngay hồi đó tỷ lệ người không mù chữ đã
cao hơn ở nước Anh; nhà nước đã giáo dục và nâng cao thêm một số giá trị vốn
có trong xã hội Nhật như cần cù, khéo tay, tinh thần làm việc kỷ luật và đồng
đội, ý thức giữ tín nhiệm nơi làm việc và trong cộng đồng, lòng yêu nước sẵn
sàng học tập và thay đổi nghề nghiệp của mình vì đất nước; Nhà nước trọng
thưởng các sáng kiến phát minh hoặc mạo hiểm trong thương mại, khuyến khích
mạnh mẽ bắt chước hoặc tự chế tạo các sản phẩm công nghiệp...
Landes cũng nêu ra
người thua cuộc trong thời kỳ này là các nước châu Mỹ La Tinh giàu có, trước
hết là Ac-hen-ti-na và Brazil, vì Nhà nước không làm các việc như nhà nước
Minh Trị đã làm, và vì đặc điểm bảo thủ của giới quý tộc bám lấy ruộng đất và
chế độ nông nô...
|
|
Bốn là: Triệt để cải cách giáo
dục và đào tạo, nhằm đổi mới và nâng cao đáng kể chất lượng con người Việt
Nam sao cho đáp ứng những yêu cầu thực hiện tư tưởng chiến lược nói trên
trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Một mặt cần cố gắng khắc phục
nội dung và phương pháp dạy và học chay, nhồi sọ hoặc quá sơ lược, xa dời
những đòi hỏi bức thiết của yêu cầu phát triển đất nước hiện nay. Mặt khác
cần khắc phục tình hình nội dung và chất lượng giáo dục nước ta không theo
kịp sự tiến bộ nhanh chóng của thế giới. Thực tế đòi hỏi giáo dục và đào tạo
ở nước ta phải có một chiến lược đổi
mới hay cải cách rất triệt để, phù hợp với yêu cầu canh tân và chấn hưng đất
nước – từ đào tạo lại nhân cách đến tri thức, phong cách làm việc và lối sống
của con người trong một nước Việt Nam mới. Phải nói rằng đây là vấn đề cực kỳ
hệ trọng. Điều quan trọng là không bỏ phí bất kể nguồn lực nào có
thể huy động được cho giáo dục và chủ động khuyến khích mọi phương thức giáo dục
và đào tạo có hiệu quả, theo chương trình và nội dung sát thực với đòi hỏi
phát triển của đất nước. Việc phổ cập và nâng cao trình độ ngoại ngữ - trước
hết là tiếng Anh - ngày càng trở nên
vô cùng bức xúc, nhằm nâng cao năng lực toàn xã hội và tạo thuận lợi cho hội
nhập vào nền kinh tế mới toàn cầu hoá của thế giới. Không giành
|
được thắng lợi triệt để trong cải cách giáo dục, đất nước ta sắp tới
sẽ không thể mong giành được thắng lợi đáng kể nào trong nền kinh tế mới của
thế giới toàn cầu hoá. (Cốt lõi của vấn đề không phải là ta chi quá ít
cho giáo dục. Ngay trong ngành giáo dục cũng có nhiều lãng phí lớn. Song vấn đề
trầm trọng nhất là nền giáo dục nước ta có ngày một nhiều tụt hậu về nội dung
và phương pháp).
Vận dụng tiến bộ
khoa học và công nghệ, khai thác thông tin, đổi mới phương thức sản xuất kinh
doanh – cả 3 khâu này của nền kinh tế mới đều bắt đầu từ giáo dục[132].
Năm là: Chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trước hết cần ưu tiên phục vụ 4 yêu cầu vừa kể trên, hoặc là tạo điều kiện cho
4 yêu cầu nói trên triển khai thuận lợi. Như vậy đó phải là một chiến lược phát
triển kinh tế, xã hội rất linh hoạt, đầy sức phát triển năng động, thường xuyên
có khả năng chuyển dịch cơ cấu tiến dần lên hiện đại hoá - nhất là không găm
chết những nguồn lực to lớn của xã hội vào những cơ cấu kinh tế kém hiệu quả và
khó chuyển dịch theo chu kỳ ngày càng ngắn của sản phẩm, của phát triển khoa
học và công nghệ cũng như sự thay đổi ngày càng nhanh của cầu trên thị trường
trong nước và thế giới – nghĩa là luôn luôn tạo ra được khả năng kịp thời tìm ra và chuyển dịch được sang thị trường
mới với sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mới. Đó cũng là con đường thường xuyên nâng cao
thực lực của nền kinh tế - điều kiện hàng đầu để giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa và bảo vệ Tổ quốc.
Sáu là: Đổi mới và phát triển hệ thống Nhà nước theo
tinh thần làm cho dân chủ và tính chất của dân, do dân, vì dân vừa là yếu
tố, vừa là động lực phát triển toàn diện kinh tế, xã hội của đất nước.
Trước hết cải cách hệ thống điều hành vĩ mô như luật pháp, tài chính tiền tệ,
kế hoạch và hệ thống quản lý hành chính nhằm tạo ra tiền đề cho việc xây dựng
và phát triển bộ máy chính quyền theo tinh thần nói trên.
Nhiệm vụ chuyên chính triệt để nhất của hệ thống
Nhà nước là: bảo đảm ổn định chính trị và an toàn xã hội, nghiêm khắc chống tệ
nạn quan liêu tham nhũng, bảo đảm công bằng và tính công khai minh bạch trong
đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước để mọi tài năng lao động,
sáng tạo, sản xuất, kinh doanh trong nước được phát huy, mọi thành quả được bảo
hộ và tôn vinh, đồng thời tạo khả năng thu hút tối đa sự hợp tác của bên ngoài
– trước hết là thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, lấy hợp tác và cạnh
tranh với bên ngoài đẩy nhanh việc nâng cao hiệu quả nền kinh tế và hiện đại
hoá.
Hệ thống nhà nước cần tạo ra sự bình đẳng về cơ
hội phát triển cho mỗi công dân, bảo đảm
công bằng xã hội, phát triển hệ thống phúc lợi xã hội để phát triển tốt
nguồn lực con người – nhất là thực hiện tốt vấn đề xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ
những vùng chậm phát triển. Điều cần được đặc biệt quan tâm là xây dựng hệ
thống tài chính tiền tệ phát triển và hệ thống phúc lợi xã hội hoạt động có
hiệu quả để có khả năng kiểm soát sự phân hoá giầu nghèo thái quá, duy trì được
sự phát triển xã hội hài hoà, mà vẫn không kìm hãm sự phát triển năng động của
nền kinh tế đất nước. Đấy chính là những việc rất cụ thể phải làm để thực hiện được định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Từ xác định sáu đòi hỏi nêu trên đến việc thiết
kế thành các chủ trương chính sách, các bước đi thực hiện là cả một chặng đường
gian khổ. Song tìm được hướng đi thì cũng sẽ xác định được những bước đi.
vii.
Xây dựng đảng lãnh đạo trong giai đoạn phát triển mới của đất nước
1. Sứ mệnh lịch sử của Đảng
ta
Nhiệm vụ xây dựng Đảng lãnh đạo là tiền đề của
mọi tiền đề cho thực hiện mục tiêu xây dựng thắng lợi một nước Việt Nam mới,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói trong
Đảng và trong cả nước đã có rất nhiều công trình nghiên cứu công phu khẳng định
đòi hỏi tất yếu này.
Trước khi trình bày một vài suy nghĩ, tôi muốn
nhấn mạnh: Lịch sử Đảng ta cho thấy tính tiền phong chiến đấu vì lợi ích của
dân tộc, lợi ích của giai cấp là phẩm chất quyết định nhất của Đảng ta, luôn
luôn đem lại cho Đảng ta sức sống mới, năng lực mới. Nhờ vậy Đảng ta có phẩm
chất và khả năng đảm đương những nhiệm vụ ngày càng khó khăn phức tạp do quá
trình phát triển của sự nghiệp cách mạng đề ra.
Lấy lịch sử làm chỗ tựa cho suy nghĩ của mình,
tôi đặc biệt chú ý tới thực tế đã diễn ra là: Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã
nhận thức chính xác đòi hỏi bức bách của dân tộc, của đất nước là xoá bỏ chế độ
thuộc địa, giành lại độc lập dân tộc, mang lại cho nhân dân quyền làm chủ đất
nước và đời sống ấm no, hạnh phúc; Đảng ta đã nhận thức đúng đắn tình hình thực
tế khách quan và vạch ra con đường thực hiện được khát vọng cháy bỏng này của
dân tộc, đã tổ chức nhân dân đứng lên đấu tranh đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác cho đến ngày nay. Bản thân Đảng ta và các đảng viên của mình đã đi
tiên phong trong cuộc chiến đấu này. Phát huy sức mạnh dân tộc, kết hợp với sức
mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi lịch sử.
Đấy là những thực tế lịch sử minh hoạ và khẳng
định đày sức thuyết phục về sứ mệnh lãnh đạo dân tộc, lãnh đạo đất nước của
Đảng ta.
Đấy là những thực tế lịch sử chứng minh: Lãnh
đạo có nghĩa là là sự giác ngộ chính xác đòi hỏi bức bách của dân tộc, khả năng
vạch ra con đường và tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi đòi hỏi bức bách của
cách mạng.
Nhìn lại chặng đường 25 năm qua, nghĩa là kể từ khi hoàn thành sự nghiệp giải
phóng và thống nhất đất nước, chuyển sang nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước
trong thời bình, chính phẩm chất này là động lực quyết định nhất của công cuộc
đổi mới của cả nước nói chung và động lực đổi mới Đảng ta nói riêng: Đổi
mới Đảng ta từ lực lượng lãnh đạo dân tộc đấu tranh cách mạng giải phóng và
thống nhất đất nước, thành Đảng lãnh đạo dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước.
Chính vì
lẽ này, như tôi đã trình bày trong các phần trên, đổi mới không phải chỉ đem
lại những tiến bộ mọi mặt trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước, mà quan
trọng hơn nữa là mở ra một bước ngoặt phát triển của đất nước. Công
cuộc đổi mới đã và đang đổi mới chính bản thân Đảng ta, đem lại cho Đảng ta
phẩm chất, tư duy và năng lực mà giai đoạn phát triển mới của đất nước đòi hỏi.
Quá trình này, phẩm chất này là sự kế thừa và
phát huy truyền thống cách mạng sáng tạo của Đảng ta trong mỗi giai đoạn lịch
sử khác nhau kể từ ngày thành lập Đảng. Cho dù có sự khác biệt như thế nào giữa
các giai đoạn mà lịch sử cách mạng Việt Nam đã trải qua, phẩm chất này luôn
luôn bao hàm ba yếu tố:
-
(a) tính tiền phong chiến đấu vì lợi ích của dân tộc và của giai
cấp, và
-
(b) khả năng nhận thức sự vật khách quan theo quan điểm tư duy
khoa học của duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, trước hết là khả năng nhận
thức những đòi hỏi thúc bách của dân tộc, của đất nước qua những thời kỳ và
giai đoạn khác nhau, khả năng tìm ra con đường thực hiện,
-
(c) nắm vững đòi hỏi tất yếu về phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp
với sức mạnh của thời đại, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp
giải phóng và thống nhất đát nước và
ngày nay đang thông qua công cuốc đổi mới tạo ra bước ngoặt của đất nước đi vào
một giai đoạn phát triển mới.
Được cổ vũ bởi những yếu tố đã được lịch sử
khẳng định vừa trình bày trên, tôi xin mạnh dạn nêu lên một số suy nghĩ xoay
quanh yêu cầu nhận thức những đòi hỏi đối
với Đảng lãnh đạo trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Thú thực, điểm lại những vấn đề do cuộc sống của
đất nước đang đặt ra, mường tượng con đường sẽ phải đi, các mục tiêu phải đạt
tới để san lấp khoảng cách phát triển, tôi không thể tránh khỏi cảm nghĩ rất
riêng tư của mình là bị choáng ngợp bởi tầm vóc lớn lao của những nhiệm vụ ấy.
Choáng ngợp vì triển vọng, vì hy vọng.., vì ý nghĩa rất đáng sống vì triển vọng
và hy vọng này của đất nước...
-
...Phải biết nhục nỗi nhục của nước nghèo để lấy lại hai thế kỷ bị
đánh cắp, mở rộng không gian kinh tế cho đất nước, vì sự tồn tại và phát triển
phồn vinh của đất nước,
-
phải san lấp khoảng cách phát triển ngăn cách nước ta với thế giới
bên ngoài, coi đấy là mệnh lệnh tối hậu đối với mọi người Việt Nam, trước hết
là đối với người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam,
-
phải làm cho dân chủ và tính
chất của dân, do dân, vì dân trở
thành động lực của chủ nghĩa yêu nước và nguồn lực quan trọng nhất
cho sự nghiệp phát triển của đất nước,
-
phải làm cho tinh thần yêu nước và nguồn lực phát triển ấy tạo ra
sức mạnh đưa mỗi công dân và doanh nghiệp của nước ta thuộc mọi thành phần kinh
tế ra đối mặt với thế giới với tư cách là những chủ thể của Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế,
-
phải tạo ra được một Nhà nước có khả năng phát huy năng lực toàn
xã hội tận dụng được mọi nguồn lực do nền kinh tế mới toàn cầu hoá của thế giới
đem lại để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, theo kịp xu thế phát triển của kinh tế thế giới,
-
phải làm cho Việt Nam trở thành biểu tượng của hoà bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển, là cầu nối của mọi giao lưu kinh tế và văn hoá vì hạnh
phúc và cuộc sống phồn vinh của con người, là biểu tượng của sản phẩm chất
lượng cao, là đồng nghĩa với chữ tín,
-
phải thực hiện chuyên chính tốt nhất bảo đảm thực hiện thắng lợi
những yêu cầu nêu trên, nghĩa là tạo ra môi trường và điều kiện tốt nhất đồng
thời loại bỏ mọi tiêu cực và trở ngại ngăn cản dân tộc ta thực hiện mục tiêu
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh,
-
và trên hết cả, phải làm cho Đảng ta trở thành người lãnh đạo,
người tổ chức, phát huy sức mạnh toàn dân tộc ta tận dụng mọi cơ hội, đương đầu
thắng lợi với mọi thách thức, và là đội ngũ đi tiên phong của dân tộc trên con
đường tiến tới những mục tiêu cao cả nói trên.
Đấy là cảm nghĩ khái quát của tôi về sứ mệnh
lãnh đạo của Đảng ta trong giai đoạn xây dựng một nước Việt Nam mới – vì lý
tưởng này thế hệ sau tiếp nối thế hệ trước dân tộc ta không ngừng hy sinh phấn
đấu trong suốt hai thế kỷ vừa qua.
Nói rõ hơn nữa, trong giai đoạn phát triển mới
của đất nước trong thế giới ngày nay, dân tộc ta đứng trước đòi hỏi bức thiết
phải tạo ra không gian kinh tế rộng lớn, phát huy tối đa năng lực của mình để
san lấp được khoảng cách phát triển. Dân tộc ta cần có sức mạnh quần tụ lớn
nhất để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng đại này. Lãnh đạo nhân dân ta thực
hiện được những yêu cầu này, đấy chính là nội dung sứ mệnh lãnh đạo của Đảng ta
trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Nếu coi những yêu cầu nêu trên là những nhiệm vụ
phải thực hiện, tôi tin rằng chúng ta sẽ tìm ra được cách nhìn tổng thể làm chỗ
dựa cho việc tìm giải pháp cho từng vấn đề cụ thể, kể cả những việc phải làm
hay những mâu thẫu phải giải quyết.
Quan trọng hơn nữa, nhận thức thấu đáo những đòi
hỏi đặt ra cho đất nước trong giai đoạn phát triển mới sẽ luôn luôn nâng cao tầm nhìn
của chúng ta, nghĩa là để từ thế hệ này sang các thế hệ tiếp theo sẽ không bao
giờ xa lạc mục tiêu san lấp khoảng cách
phát triển, quyết tâm đem lại hạnh phúc cho nhân dân, giành lại vị thế xứng
đáng cho đất nước trong cộng đồng các quốc gia trên thế giới. Đấy
là toàn bộ nội dung và thực chất của giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lẽ đơn giản là không thể có định hướng xã hội
chủ nghĩa để giữ vững, thậm chí không có cả độc lập tự chủ, nếu
như nước ta chỉ là một nước nghèo, lạc hậu, chậm phát triển, nay phải đi xin cứu trợ, mai phải đi vay để sống
qua ngày... Nhất quyết không thể chịu như vậy.
Trong bất kỳ quốc gia nào và ở bất kỳ giai đoạn
lịch sử nào, sự phát triển bao giờ cũng đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của lực
lượng tinh tuý nhất trong xã hội của quốc gia ấy vào giai đoạn ấy. Hoàn cảnh lịch
sử và cuộc đấu tranh ngoan cường của dân tộc Việt Nam trong hai thế kỷ vừa qua,
phẩm chất và năng lực của Đảng Cộng Sản Việt Nam được thử thách suốt 70 năm
qua, đó là thực tế đã tôi luyện Đảng ta
thành lực lượng tinh tuý nhất của dân tộc và của giai cấp trong giai đoạn phát
triển hiện nay của đất nước. Xây dựng
Đảng làm tròn sứ mệnh mới của mình trước hết có nghĩa là trau giồi phẩm chất và
năng lực của Đảng ta xứng đáng là lực lượng tinh tuý nhất của nước Việt Nam mới
. Nhiệm vụ này phải gắn liền với cuộc đấu tranh thường xuyên chống lại mọi nguy
cơ tha hoá Đảng.
Sứ mệnh lãnh đạo của Đảng không phải do trời
cho, càng không phải do quyền lực tạo ra. Bởi vì cả hai đặc tính này không dung
hoà được với sứ mệnh của một đảng lãnh đạo với tính chất là lực lượng tinh tuý
nhất của dân tộc và của giai cấp. Tôi nghĩ rằng đây là xuất phát điểm của tư
duy về xây dựng Đảng và chống những nguy cơ tha hoá Đảng. Nhìn sang nước bạn,
việc Tổng bí thư Giang Trạch Dân để ra thuyết “3 đại biểu” để xây dựng Đảng
Cộng sản Trung Quốc lên tầm cao mới mà nhiệm vụ cách mạng Trung Quốc đòi hỏi,
có thể gợi ý cho chúng ta nhiều điều (xem thêm chú thích số 26 thuộc cuối
chương I của cuốn sách này).
2. Vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp
Đã có nhiều
lý luận, nhiều tài liệu nói về đấu tranh giai cấp, về đảng mang tính
giai cấp và không có đảng siêu giai cấp, về những mâu thuẫn giữa các giai cấp
trong một dân tộc hay một quốc gia, về bản chất giai cấp công nhân và sự thống
nhất lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động – trước hết với tinh
thần giai cấp công nhân muốn tự giải phóng mình đồng thời phải giải phóng cả
nhân dân lao động, suy rộng ra nữa sự thống nhất giữa lợi ích của giai cấp công
nhân và lợi ích dân tộc...
Cuộc sống vận động không ngừng. Vì vậy, trước
sau đây vẫn là đề tài nên tiếp tục nghiên cứu, lý giải – nhất là từ góc độ tiếp
cận với thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam trong gần một thế kỷ
mất nước, tiếp cận với lịch sử đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng và thống nhất đất nước từ Cách mạng Tháng Tám đến nay, từ nhận thức yêu
cầu mới phải ra sức phát huy sức mạnh đoàn kết hoà hợp dân tộc để có đủ sức
mạnh hội nhập quốc tế và san lấp khoảng cách phát triển...
Tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam, Báo cáo
chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VIII đề ra
qua điểm: “Đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp dân tộc, các tôn giáo, mọi giới,
mọi lứa tuổi, mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong
nước hay định cư ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cồng đồng dân tộc,
truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc vì mục tiêu giữ vững độc lập,
thống nhất, tiến lên dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, lấy mục
tiêu đó làm tương đồng, đồng thời chấp nhận những điểm khác nhau không trái với
lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xoá bỏ định kiến, mặc cảm, hướng tới tương
lai, xây dựng tinh thần đại đoàn kết, cởi mở, tin cậy lẫn nhau.”
Đối chiếu quan điểm đúng đắn này về vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp với thực tế, theo cảm nhận chủ quan của tôi, có 3 điều
đáng lưu ý sau đây:
-
Một là: Nếu so sánh giữa nghiên cứu lý luận và nghiên cứu thực tiễn cách
mạng Việt Nam về đấu tranh giai cấp và về những vấn đề trong các mối quan hệ
giữa giai cấp và dân tộc, hình như sự nghiên cứu về lý luận – mà có thời điểm,
có vấn đề chưa hẳn là lý luận nhuần nhuyễn thực sự của mình
- có phần lấn át. Nghĩa là vế nghiên cứu
thực tiễn của nước ta còn lép, chưa đúng tầm, nên có những lúc
dẫn đến những kết luận, những quyết định chủ quan duy ý chí. Nhìn lại 55 năm
qua, hầu như ít nhiều mọi kết luận hay quyết định chủ quan, duy ý chí, dẫn tới
sai lầm, thậm chí có những sai lầm phải trả giá vô cùng đau đớn, đều
xuất phát từ thực trạng này. Dưới góc độ nhất định, trong những hoàn cảnh hay
thời điểm nào đó, đây còn là biểu hiện của giáo điều và sự thiếu vắng suy nghĩ
độc lập tự chủ trong vận dụng lý luận đấu tranh giai cấp vào hoàn cảnh và những
điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta. Kinh nghiệm này, theo tôi, còn giữ nguyên
tính thời sự của nó trong tương lai.
-
Hai là: Lịch sử cách mạng Việt Nam
có một kho tàng phong phú và vô cùng quý báu về điều hoà mâu thuẫn giai cấp,
thực hiện đoàn kết và hoà hợp dân tộc, tạo ra sức mạnh vô địch thực hiện thắng
lợi mọi nhiệm vụ cách mạng trong các giai đoạn khác nhau – trong những lúc sự
nghiệp cách mạng gặp bước hiểm nghèo nhất cũng như trong lúc cần phát huy sức
mạnh tổng lực của dân tộc để giành thắng lợi quyết định.
Thông thường có ba hình thức căn bản xử lý các mâu thuẫn hay quan
hệ giữa giai cấp và dân tộc trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta, đó là
xử lý theo hình thức phủ định, xử lý theo hình thức điều hoà trong mối quan hệ
nội bộ dân tộc và xử lý theo phương hướng xây dựng sự đồng thuận để phát huy
sức mạnh đoàn kết và hoà hợp dân tộc.
Phải chăng thực tiễn cách mạng Việt Nam 55 năm qua cho thấy hai
cách xử lý sau phong phú hơn nhiều và hiệu quả hơn nhiều, và đặc thù này không
phải dân tộc nào và xã hội nào cũng có được. Đó còn là truyền thống lịch sử và văn hoá Việt Nam. Đất nước ta mới
bắt đầu đi vào con đường phát triển, trình độ phát triển, mức độ tích tụ tư bản
còn thấp và do đó tình trạng phân hoá xã
hội cũng còn thấp (dù có thể có mặt này mặt khác gay gắt cần tìm hiểu kỹ[133]),
nhưng lại đứng trước yêu cầu trước đây là chống các thế lực xâm lược mạnh hơn
mình gấp nhiều lần, và bây giờ là phải từ nghèo nàn lạc hậu phát triển thẳng
lên xã hội văn minh hiện đại, xa hơn nữa là phát triển lên xã hội văn minh của
nền kinh tế tri thức, trong đó con người đóng vai trò trung tâm. Nghĩa
là điều kiện và cơ hội để xây dựng sự đồng thuận dân tộc ở nước ta – do những
nguyên nhân lịch sử – trước đây và ngày nay đều
thuận lợi hơn nhiều so với những con đường tất cả các nước phát triển đã
phải trải qua[134].
Đây là vấn đề rất đáng suy nghĩ. Sáng tạo và độc lập tự chủ trong tư duy là như
vậy, vận dụng lợi thế nước đi sau là như vậy. Song cũng xin đừng quên: trong
các giai đoạn lịch sử khác nhau của đất nước kể từ ngày tổ tiên ta dựng nước,
đoàn kết dân tộc thường bộc lộ phần yếu nhất trong thời bình. Đây cũng
là vấn đề phải chú ý trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước ngày nay.
Đảng ta có cả một gia tài kinh nghiệm phong phú và nên đẩy mạnh
công tác nghiên cứu phát huy mặt mạnh này, để nhân lên nữa nguồn sức mạnh của
dân tộc ta – dựa trên cơ sở phát triển không ngừng sự đồng thuận dân tộc vững
chãi như vừa trình bày trên. Bất kể sự thái quá nào cũng đều mang lại hậu quả
xấu, kể cả sự thái quá trong việc tốt nhất cũng có thể mang lại hậu quả xấu
nhất. Phủ nhận đấu tranh giai cấp trong xã hội còn giai cấp là sai lầm chết
người. Nhận thức rằng chỉ có một con đường trong đấu tranh giai cấp cũng là sai
lầm không kém. Vin vào đấu tranh giai cấp để sao nhãng chống tha hoá trong Đảng
đồng nghĩa với tự tước bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Còn xử lý mọi vấn đề giai
cấp trong xã hội nước ta để xây dựng sự đồng thuận dân tộc vững chắc mà nhiệm
vụ mới của đất nước ta đòi hỏi thì thực sự là một cuộc cách mạng trong giai
đoạn phát triển mới của đất nước. Người cộng sản Việt Nam giác ngộ sâu sắc
nhiệm vụ cách mạng mới này[135]?
-
Ba là: Nước ta đang đứng trước một
thời cơ lớn cho phép thực hiện tốt hơn nữa việc điều hoà mối quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp ở nước ta trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Đó là sự
nghiệp xây dựng đất nước trong điều kiện cách mạng vũ bão của khoa học và công
nghệ đặt ra yêu cầu phát huy con người để tạo ra nguồn lực phát triển quyết
định nhất, đồng thời để tạo ra sức mạnh dân tộc giành thắng lợi trong quá trình
hội nhập vào nền kinh tế mới toàn cầu hoá của thế giới. Để đứng vững và phát
triển được trong thế giới ngày nay, chưa bao giờ đất nước cần ra sức phát huy
con người của mình như bây giờ. Để đối mặt với cả thế giới, chưa bao giờ mỗi
con người, mỗi doanh nghiệp cần có cả đất nước hậu thuẫn cho mình như bây giờ.
Đây là đòi hỏi tất yếu, bởi vì ngày nay mỗi quốc gia đều cố gắng mở rộng không
gian kinh tế của mình, và đồng thời không gian kinh tế của mỗi quốc gia đan xen
vào nhau, xâm chiếm thôn tính nhau. Một chính đảng lãnh đạo đất nước cần làm
chủ tình hình này.
-
Lịch sử cách mạng nước ta đã
tạo ra tình huống: Không một người dân Viêt Nam có lương tri và yêu nước
nào – dù họ thuộc thành phần và chính kiến gì - lại không có khát vọng cháy
bỏng về một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giầu mạnh.
Không một người dân Việt Nam có lương tri và yêu nước nào lại không mong muốn
Đảng ta lãnh đạo dân tộc thực hiện thắng lợi khát vọng này. Tất cả những điều
còn lại là: Phẩm chất và năng lực lãnh đạo của Đảng ta có ý nghĩa quyết định.
Có
thể nói, xây dựng sự đồng thuận dân tộc vững chắc để xử lý theo tinh thần hoà
hợp mọi vấn đề về giai cấp trong nội bộ dân tộc nước ta, quan trọng hơn nữa là
để tạo ra sức mạnh quần tụ dân tộc lớn nhất mà nhiệm vụ san lấp khoảng cách
phát triển đòi hỏi, để tồn tại và phát triển được trong nền kinh tế thế giới
toàn cầu hoá, là yêu cầu chiến lược hàng
đầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước, là sứ mệnh nặng nề dân tộc đặt
lên vai Đảng ta.
Hơn
thế nữa, Đảng ta, dân tộc ta chẳng những đứng trước đòi hỏi trọng đại này, mà
còn đang nắm trong tay cơ hội chưa
từng có khả năng thực hiện yêu cầu chiến lược là xử lý thành công những
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, nhằm thực hiện sự đồng
thuận dân tộc mà nhiệm vụ cách mạng mới của đất nước đòi hỏi.
Từ
lâu Đảng ta dã nói về đoàn kết hoà hợp dân tộc. Tình hình và nhiệm vụ mới đòi
hỏi phải nhận thức đoàn kết hoà hợp dân tộc với nội dung triệt để như vậy. Làm
cho các mối quan hệ trong nội bộ cộng đồng dân tộc Việt Nam phát triển thành sự
đồng thuận dân tộc vững chắc, đấy chính là đòi hỏi đối với vai trò lãnh đạo của
Đảng trong giai đoạn cách mạng mới của đất nước. Đấy là cách mạng sáng tạo của
Việt Nam. Đấy chính là định hướng xã hội chủ nghĩa. Đấy là quán triệt nhất tính
tiền phong chiến đấu, quán triệt lập trường giai cấp của Đảng.
Có thể nói dứt khoát: Không có sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng, dân tộc và đất nước lại chia năm xẻ bẩy, không thể xây dựng
thành công sự đồng thuận dân tộc mà sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ và văn minh của nước ta đòi
hỏi. Cứ nhìn vào thực tế đau lòng đang diễn ra ở nhiều nước sẽ thấy
ngay điều này. Xin nhấn mạnh: Quyết định vẫn là phẩm chất và năng lực của Đảng
lãnh đạo.
Còn có thể nói đơn giản
hơn nữa: Sau những chặng đường lịch sử đầy hy sinh xương máu đất nước ta đã
trải qua suốt 7 thập kỷ vừa qua, trong những điều kiện mới của đất nước và
trong bối cảnh quốc tế ngày nay, Đảng ta và dân tộc ta bây giờ lựa chọn cái gì? Lựa chọn đấu tranh giai cấp đến cùng trong
nội bộ dân tộc, hay lựa chọn xây dựng sự đồng thuận dân tộc vững chắc không gì
phá vỡ nổi? Lựa chọn nào thực sự mang tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa?
Tạo ra sự lựa chọn đúng, đấy chính là tiền phong chiến đấu, là lãnh đạo, là sứ
mệnh của Đảng, và phải có lãnh đạo thật sáng suốt và có phẩm chất cách mạng cao
mới thực hiện được. Sự lựa chọn đúng ấy là sự trung
thành và vận dụng sáng tạo vấn đề cốt lõi nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh :
giác ngộ tính tiền phong chiến đấu của Đảng, làm cho việc thực hiện lợi ích
giai cấp và lợi ích dân tộc là tiền đề và là cứu cánh của nhau trong
giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
đồng thời cũng là tiền đề và cứu cánh của nhiệm vụ chiến lược phát huy
sức mạnh dân tộc để có khả năng kết hợp với sức mạnh của thời đại, san lấp
khoảng cách phát triển, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, đưa đất nước ta đứng
vào hàng ngũ các nước tiên tiến trên thế giới. Bước
vào thế giới toàn cầu hoá ngày càng sâu rộng và quyết liệt hơn trên mọi phương
diện ở nấc thang thế kỷ 21, thực hiện thắng lợi vấn đề cốt lõi này trong tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành đòi
hỏi sống còn đối với sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa và bảo vệ Tổ quốc yêu dấu của chúng ta.
Không
có gì có thể bắt buộc nước ta phải đi lại những bước đường các nước khác đã đi
qua, mà chỉ có sự lựa chọn và xác lập của Đảng ta và dân tộc ta con đường phát
triển đúng đắn riêng cho đất nước ta là
quyết định[136].
3. Dân chủ, của dân, do dân, vì dân là động lực
và yếu tố phát triển
Tôi thường tự hỏi mình, trong sự nghiệp cách
mạng giải phóng và thống nhất đất nước, động lực của chủ nghĩa yêu nước của
nhân dân ta là gì? Câu trả lời là một chân lý vô cùng đơn giản mà Bác Hồ đã nói
lên: Không
có gì quý hơn độc lập tự do!
-
Thế còn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước?
-
Đó chỉ có thể là dân chủ, của dân, do dân và vì dân.
Nói ngắn hơn nữa đó là dân chủ.
Tinh thần này Bác Hồ đã nói ra tại niều nơi và
nhiều lần rồi, kể cả trong Di chúc của Người. Xin được diễn đạt nôm na theo
cách nói của Người là: Giành được độc lập thống nhất mà dân không có dân
chủ, của dân, do dân và vì dân – nghĩa là dân không quyền làm chủ và
không ấm no hạnh phúc thì có nghĩa lý gì!?
Điều này thiêng liêng và hệ trọng lắm. Trong các
phần trên tôi đã trình bày vấn đề này tới mức “Nước Việt Nam là của người Việt
Nam”, “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” là dân, là của dân, do dân và vì dân, là dân
làm chủ, là dân chủ. Mỗi người dân Việt Nam yêu nước – dù theo chính kiến
hoặc tôn giáo nào, dù sống ở trong nước hay nước ngoài, đều là chủ của nước
Việt Nam. Vấn đề đặt ra là: Từ lòng yêu nước này xây dựng sự đồng thuận dân tộc
vững chãi bất khả xâm phạm và sức sống năng động để xây dựng và bảo vệ đất
nước. Sự đồng thuận này cũng là sức mạnh quyết định nhất để có được và thực
hiện được chuyên chính triệt để nhất là: bảo đảm mọi điều kiện giữ vững mục
tiêu mà cả nước xả mình vươn tới: dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ
và văn minh.
Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp năm 1946 – với
nội dung cơ bản là của dân, do dân, vì dân - đã đem lại sức mạnh bất khả kháng cho
Cách mạng tháng Tám, mở đường cho đất
nước đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực đế quốc tàn bạo
nhất và đi tới thời kỳ huy hoàng ngày nay. Tiến hành cuộc cách mạng xoá nỗi
nhục nước nghèo, san lấp khoảng cách phát triển, dân tộc ta càng phải nâng cao
hơn nữa tinh thần và ý chí Cách mạng tháng Tám - nghĩa là phải nâng cao hơn nữa
tinh thần và ý chí của dân, do dân, vì dân để đua tranh thắng lợi với cả thế giới[137].
Đồng thuận dân tộc do Đảng lãnh đạo xây dựng nên
như vậy, dân chủ, của dân do dân và vì dân như vậy có gì trái với định hướng xã
hội chủ nghĩa? Hay đấy chính là nội dung đích thực của định hướng xã hội chủ
nghĩa?
Còn một lý do quan trọng và rất thiết thực nữa:
Trên con đường phát triển, đất nước ta đứng trước bao nhiêu vấn đề mới, rất khó
và chưa có tiền lệ. Ví dụ, chỉ riêng một vấn đề làm sao giảm nhanh lực lượng
lao động trong nông nghiệp đã đặt ra bao nhiêu vấn đề khác phải giải quyết. Giả
thử Nhà nước có cả núi tiền đổ vào đây theo kiểu bao cấp mà không có những giải
pháp đúng, thì vẫn thất bại. Hay là chúng ta lựa chọn con đường mạnh ai nấy
chạy, mạnh được yếu thua, gạt mọi nông dân thất nghiệp ra lề đường..? Không cần
phải giàu trí tưởng tượng lắm, cứ nhìn vào các cuộc cải cách thất bại ở các
nước sẽ thấy ngay được kết cục con đường “thả nổi’ mang tên là “tự do hoá” này.
Xin đừng bao giờ quên rằng ở nước ta nông dân là đội quân chủ lực của cách
mạng, lực lượng nhân dân đã góp phần cống hiến lớn nhất vào sự nghiệp của đất
nước. Hiển nhiên, xây dựng đường lối chủ trương đúng đắn và tạo ra sự đồng
thuận dân tộc là hai yếu tố không thể thiếu được để giành thắng lợi, là sứ mệnh
của Đảng ta trước dân tộc trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Không có cách nào khác, phải phát huy tự do và
dân chủ trong khung khổ những đường lối chủ trương đúng đắn trên cơ sở đồng
thuận dân tộc vững chắc và theo tinh thần của dân do dân và vì dân, động lực
khơi dạy được mọi sáng kiến và nỗ lực của từng công dân, để xây dựng được
những chương trình khả thi của từng vùng và của cả nước, từng bước tìm ra các
giải pháp đúng. Thực hiện quyền làm chủ của dân như vậy thực sự là nguồn lực
sáng tạo vô tận, tạo ra sức mạnh và của cải vật chất cũng như tinh thần nước ta
nhất thiết phải có để vượt qua mọi thử thách và để phát triển đất nước. Không
nghi ngờ gì nữa, lãnh đạo toàn dân xây dựng được dân chủ, thực hiện được tinh
thần của dân, do dân như vậy là sứ mệnh lịch sử của Đảng ta trong giai đoạn
cách mạng hiện nay của đất nước.
Tóm lại, đối với nước ta, dân chủ thực sự là
động lực của phát triển. Xin đề nghị có những nỗ lực cần thiết thực hiện được
yêu cầu này. Nhận thức cho đúng dân chủ là một quá trình đấu tranh gian khổ với
những suy nghĩ, tập quán, quán tính và quyền lực trái với dân chủ, đưa
dân chủ vào cuộc sống với tính chất là động lực của phát triển thực sự
là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Xin thôi đừng nói chung chung rằng dân chủ của nước ta gấp vạn lần dân chủ của
các nước tư bản... như vẫn thường xẩy ra trong các cuộc bút chiến, luận
chiến. Vì nói chay như vậy, các việc chúng ta phải làm vẫn còn nguyên vẹn, mà
chỉ tiếp viện thêm đồng minh cho sự lười nhác trong quá trình phấn đấu gian khổ
của toàn Đảng toàn dân để thực hiện dân chủ với tính chất là động lực của phát
triển.
Những năm đổi mới vừa qua còn cho thấy những
thành tựu phát triển đạt được đã thúc đẩy dân chủ tiến lên tuy còn rất chật vật
nhưng đang đi vào đúng hướng. Nhìn lại đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá của
đất nước trước đổi mới, rồi so sánh với bây giờ, tôi càng tin rằng: thông qua đổi mới, đất
nước ta đang từng bước đi trên con đường đúng đắn thực hiện dân chủ. Thiên hạ
nói cái gì hay, cái gì phải thì nghe, nhưng không cần mất thời giờ bận tâm hay
súc động về những điều thiên hạ muốn tác động vào nội bộ nước ta, nghĩa là cũng
cần lì lợm thực hiện bằng được dân chủ của mình cho nước mình.
Dân chủ, của dân, do dân và vì dân như vậy là bất khả xâm
phạm với bất kể diễn biến hoà bình nào. Nhưng sự vi phạm những giá trị này và
tệ nạn quan liêu tham nhũng là mảnh đất
màu mỡ nhất để mọi diễn biến bành trướng dưới hình thức hoà bình hay không hoà
bình. Thực hiện được dân chủ, của dân, do dân và vì dân
như vậy còn là nền tảng không gì phá vỡ nổi của đoàn kết và hoà hợp dân tộc.
Nền tảng này không mâu thuẫn gì với liên minh công nông và trí thức, nếu được
thực hiện tốt thậm chí là cứu cánh của liên minh công nông và trí thức.
Khi mỗi công dân của một quốc gia, của một Nhà
nước giác ngộ đúng đắn quyền chủ nhân ông đất nước của mình, những công dân ấy
hoàn toàn có đủ khả năng xây dựng một Nhà nước có đủ năng lực thực hiện sự
chuyên chính của mình để bảo vệ lợi ích và chủ quyền của đất nước mình. Sứ mệnh
lãnh đạo của Đảng là phải tạo ra mọi điều kiện nâng cao phẩm chất và năng lực
như vậy của mọi công dân trong cộng đồng dân tộc mình. Đây còn là yếu tố hàng
đầu, là nền tảng để xây dựng được một Nhà nước do nhân dân làm chủ, xây dựng
được sự đồng thuận dân tộc thể hiện dưới hình thức cao nhất là Hiến pháp đúng
với dân chủ và khả năng thực thi Hiến pháp, thực hiện được chuyên chính của nhân dân[138]
đối với mọi hành động và mưu toan đi ngược lại mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ và văn minh, bao gồm cả chuyên chính đối với tệ nạn quan
liêu tham nhũng – hình thức bóc lột phi đạo đức nhất, ghê tởm nhất đang tồn tại
trong xã hội nước ta.
Xem như vậy, dân chủ không phải chỉ đơn thuần là
những vấn đề chính trị, chia ghế giữa các đảng phái, phân chia quyền lực giữa
cai trị và bị cai trị.., mặc dù đây là những vấn đề rất quan trọng. Dân
chủ thực chất với đúng nghĩa nguyên thuỷ của nó trước hết là động lực của phát
triển. Xưa nay, trong mọi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người,
dân chủ bao giờ cũng là động lực của phát triển. Người nông dân làm chủ ruộng
đất của mình hoàn toàn khác với người nông dân trong chế dô nông nô. Người dân
trong một xã hội công dân hoàn toàn khác với người dân với tư cách là thần dân
của lãnh chúa. Nhưng ngày nay, trong thời kỳ hậu công nghiệp, trong quá trình
hình thành nền kinh tế tri thức, đất nước ta muốn thực hiện thắng lợi công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta cần đặt vấn đề dân chủ
dưới ánh sáng mới của thời đại ngày nay – thời đại bản thân sự phát triển ngày
càng mang trả lại hay bổ sung thêm sức sống cho dân chủ với đúng nghĩa của nó.
Thời đại con người giữ vị trí trung tâm của phát triển và là chủ thể của quốc
gia tham gia vào quá trình toàn cầu hoá! Đây thực sự là một trong những nhiệm
vụ tiền phong chiến đấu của Đảng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Vì những lẽ vừa trình bầy trên, dân
chủ, của dân, do dân và vì dân về nhiều phương diện là vấn đề hàng đầu
trong định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó còn là ước vọng của người dân và đồng
thời cũng là chất keo gắn bó người dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước trong giai đoạn phát triển mới. Chính vì lẽ này, dân chủ, của dân, do dân, vì dân
là nguồn động lực vô song để xây dựng đất nước CNH,HĐH theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đây là vấn đề chính trị trung tâm trong hoạch định chiến lược phát
triển kinh tế, xã hội, trong xây dựng hế thống chính trị của nước ta cũng như
trong chiến lược giáo dục và đào tạo phát triển con người Việt Nam.
4. Nền kinh tế nhiều thành
phần và vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh (kinh tế Nhà nước)
Không ngừng mở rộng không gian kinh tế cho sự
tồn tại và phát triển phồn vinh của đất nước? Với mức GDP trên 300 USD tính
theo đầu người? Một ý nghĩ điên rồ hay hoang tưởng?[139]
Không làm được như vậy thì còn tệ hại hơn cả
điên rồ và hoang tưởng. Trong các phần
trên tôi đã trình bày kỹ. Chỉ xin nói gọn lại: Lẽ đơn giản đây là vấn đề sống
còn tất yếu.
Nhìn lại, khi bàn đến vấn đề nền kinh tế nhiều
thành phần, lúc đầu chúng ta mới chỉ nghĩ đến “cởi trói” những nguồn lực bị kìm
hãm – nghĩa là một biện pháp tình thế, rồi tiến lên một bước nữa phát triển
thành một quan điểm lâu dài, nhất quán và
thực hiện quán triệt, mặc dù trong thực tế chưa hẳn đã làm được như vậy. Sự
phân biệt giữa các thành phần kinh tế vẫn còn tồn tại, dẫn chứng rõ rệt nhất là
chúng ta còn cần nhiều thời gian và công sức để tiến tới xây dựng một Luật
doanh nghiệp chung cho tất cả các thành phần kinh tế. Khỏi phải nói tới khu vực
kinh tế quốc doanh ngày nay đang nắm giữ những nguồn lực và tài nguyên to lớn
như thế nào của đất nước, những ưu đãi, đặc quyền và độc quyền không một thành
phần kinh tê nào có thể so sánh được...
Thực sự còn tồn tại nhiều vướng mắc, có thể quy
gọn lại vào hai vấn đề chính:
-
Một là: Mối quan hệ giữa nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện
định hướng xã hội chủ nghĩa.
-
Hai là: Tình trạng hiệu quả kinh tế chưa như mong muốn của khu vực
kinh tế quốc doanh.
Quan điểm riêng của tôi về hai vấn đề này chắc
đã được thể hiện trong các phần trên, tôi chỉ xin bổ sung thêm một số ý.
Một là: Không thể tránh né được đòi hỏi phải từng
bước, từng bước len lách mở rộng không gian kinh tế cho đất nước, bắt đầu từ mở
rộng thị trường trong nước mở rộng dần ra thị trường bên ngoài. Chúng ta không
thể bỏ phí bất kể thành phần kinh tế nào, bỏ phí bất kể doanh nhân và doanh
nghiệp nào có thể làm được việc này cho đất nước. Thậm chí còn phải coi việc
này là thước đo sự đóng góp, sự cống hiến của từng doanh nhân và doanh nghiệp
dù thuộc thành phần kinh tế nào đối với đất nước, coi việc tạo thêm được một
chỗ làm việc cho nền kinh tế của đất nước, đưa thêm được một sản phẩm có lãi
của đất nước tiêu thụ được trong thị trường và trong xuất khẩu... là những hành
động yêu nước thiết thực.
Mỗi khi có dịp về quê ở đồng bằng Sông Hồng,
tiếp xúc được với họ hàng, vấn đề việc
làm ở nông thôn càng làm tôi day dứt. Tôi ướm hỏi mấy hộ nông dân là bà con với
mình, và hầu như đều nhận được câu trả lời giống nhau: Giá có cách nào tăng
được diện tích canh tác của họ lên 4 – 5 lần thì hoạ ra mới đủ việc làm và mới
có thể dám nghĩ đến cuộc sống sung túc một chút! Đại thể một hộ với 3-4 lao
động chính cần phải có chừng 4 - 5 ha
ruộng đất chẳng hạn – nghĩa là một diện tích canh tác còn quá nhỏ so với kinh
tế trang trại ở nhiều nước. Điều đó có nghĩa là trong khoảng thời gian ngắn
nhất cần rút bớt khoảng 2/3 hoặc 3/4 số lao động nông nghiệp hiện nay ra khỏi
nghề của họ thì mới có đủ việc làm cho số nông dân còn lại với những điều kiện
kỹ thuật canh tác như hiện nay. Chưa bàn đến vội vấn đề hiện đại hoá toàn bộ
nền nông nghiệp nước ta như ở các nước phát triển – có thể đây sẽ là đề tài của
hai ba thập kỷ sau này[140].
Ai làm nổi việc này? Chắc chắn Nhà nước có tiền
rừng bạc bể cũng không làm xuể. Cũng không lấy đâu ra cho đủ số doanh nghiệp
nhà nước hay hợp tác xã để tạo ra việc làm cho mấy chục triệu lao động dôi dư
này. Giả thử có đủ tiền của làm được như vậy chăng nữa, chắc gì những DNNN và
hợp tác xã này có thể tồn tại.
GDP theo
đầu người của Thái Lan hiện nay khoảng 3000 USD, của nước ta khoảng 310 USD; khoảng cách giữa hai nước hiện nay ước lượng
2600 USD. Nền kinh tế nước ta cứ đều đều tiến bước theo nhịp độ 7-8%/năm
như vừa trình bày trên, vào năm 2020 giỏi lắm GDP tính theo đầu người của nước
ta ước lựơng là gần 3000 USD, nghĩa gần bằng của Thái Lan hiện nay. Nhưng vào
năm đó, với nhịp điệu tăng trưởng 4-5%/năm, GDP theo đầu người của Thái Lan sẽ
là hoặc vượt 7000 USD. Điều đó có nghĩa khoảng cách GDP tính theo đầu người
giữa nước ta và Thái Lan vào năm 2020 ước lượng
sẽ là trên dưới 4000 USD chứ không
phải 2600 USD như hiện nay. Như vậy làm sao nói đến san lấp khoảng cách
phát triển?[141].
Xin nêu lên một vài con số so sánh ta với ta:
Năm 1999 gần 30 triệu nông dân trồng lúa của nước ta, với diện tích canh tác
khoảng gần 7,3 triệu ha, xuất khẩu được 4,6 triệu tấn gạo, trị giá khoảng 1,1
tỷ USD, một kỷ lục chưa hề có ở nước ta. Nhưng trong khi đó gần 30 vạn công
nhân ngành dệt may nước ta năm 1999 xuất khẩu được một khối lượng hàng hoá trị
giá 1,7 tỷ USD. Song xuất khẩu gạo đang đứng trước một khó khăn lớn: trên thị
trường thế giới cầu giảm do cung tăng lên. Giá loại gạo ta xuất 1999 khoảng 230
USD/tấn, năm nay giá thị trường khoảng 160-170 USD/tấn mà vẫn ít khách mua;
Trung Quốc năm nay mở rộng tham gia xuất khẩu gạo, có loại chào giá 140
USD/tấn. Cà-phê năm nay giá cả như 1999, nghĩa là tiếp tục sụt giá khoảng 40%
so với 1998... Anh Đào Xuân Sâm cho rằng năm nay – giống như năm 1997 – nông
dân được mùa lúa nhưng mất mùa giá, lo nhiều hơn vui... Tôi hoàn toàn chia xẻ
với anh Sâm nhận định này.
Những con số vừa nêu ra cho thấy: càng tăng
trưởng xuất khẩu gạo, càng tụt hậu xa hơn, thậm chí nghèo đi, và đấy không phải
là lối thoát cho nền kinh tế nước ta. Xin lưu ý, trong suốt nửa thế kỷ vừa qua trên thế giới không có một
nước đang phát triển nào có thể trở thành NIC nhờ vào xuất khẩu hai thứ quý
nhất là lương thực và năng lượng.
Song tất cả các NICs – trừ nước thành phố Xinhgapo là ngoại lệ - đều phải
phát triển 2 loại sản phẩm này đủ mức cho nhu cầu trong nước để bảo đảm an ninh
về lương thực và năng lượng, nhờ đó có điều kiện tốt nhất dồn sức phát triển
các ngành nghề khác có hàm lượng giá trị gia tăng cao hơn, mang về nguồn thu
nhập quốc dân lơn hơn gấp bội.
Đã đến lúc phải thay đổi triệt để cách nhìn, các
chương trình và chiến lược kinh tế phải làm sao mỗi năm thu hút ngày một nhiều
lao động ra khỏi nông nghiệp và đưa họ vào những ngành nghề khác. Đến năm 2020
chỉ còn khoảng 20 –25% lao động trong nông nghiệp là mức phấn đấu cần đạt được.
-
Ai làm được việc này?
-
Tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt là những người làm ăn
giỏi, những người sản xuất kinh doanh trong những ngành nghề có nhiều hàm lượng
chế biến, có nhiều hàm lượng công nghệ cao, có nhiều giá trị gia tăng...
Không còn
con đường nào khác: Cần có mọi chủ trương biện pháp khuyến khích phát triển
mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần với tất cả mọi điều kiện cho phép, đẩy
nhanh hơn nữa tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng GDP với
chất lượng cao hơn. Đó là con đường tạo công ăn việc làm cho cả nước với năng
suất lao động ngày một cao hơn, thu nhập quốc dân tăng nhanh, thanh toán được
nợ nần và tích tụ được vốn, có điều kiện đảy mạnh quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá... Vai trò của Nhà nước tạo ra và thúc đẩy (chứ không phải can
thiệp) sự chuyển dịch cơ cấu này diễn ra hài hoà, đi đúng hướng là cực kỳ quan
trọng. Đặc biệt là Nhà nước phải cáng đáng những việc mà không một cá nhân nào,
một doanh nghiệp riêng lẻ hay môt thành phần kinh tế nào có thể làm được - đó
là thiết kế và thực hiện các chính sách xã hội xử lý những hệ quả không thể
tránh khỏi trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất thiết phải diễn ra
này. Định hướng xã hội chủ nghĩa hay không là ở điểm quan trọng này.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo kiểu tự phát
đồng nghĩa với tự sát - đó chính là con đường hình thành thứ chủ nghĩa tư bản
hoang dã (sauvage), môi trường lý tưởng của luật rừng.
Khi bắt đầu tiến hành đổi mới, chúng ta không
dám mơ ước nền kinh tế đất nước phát triển thêm nhiều ngành nghề mới như ngày
nay. Chúng ta cũng chẳng dám nghĩ đến đất nước ta có thể xuất khẩu được một
khối lượng kim ngạch và nhiều chủng loại hàng hoá đến như vậy. Riêng trong 2
năm gần đây kể từ khi chúng ta cho mọi thành phần kinh tế tham gia trực tiếp
vào xuất khẩu, ngoài phần kim ngạch tăng
lên nhờ chủ trương đúng này, xuất khẩu của nước ta mở thêm được 20 thị trường
mới với 20 loại sản phẩm mới...
Tôi hy vọng có chính sách và cơ chế đúng, nền
kinh tế nhiều thành phần của nước ta sẽ làm được những việc mà ngay bây giờ
chúng ta cũng chưa dám nghĩ tới. Song chắc chắn đó sẽ là một cuộc trường chinh
đầy hy sinh gian khổ, lúc này lúc khác không thể tránh khỏi tổn thất. Chính
sách và cơ chế đúng ấy chính là điều đất nước đang thiếu.
Nói theo ngôn ngữ chiến đấu: Phải
thông qua phát triển sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế nhiều thành phần,
tiến lên mở con đường sống của đất nước, thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước cho
đến khi san lấp được khoảng cách phát triển! Phát huy sức mạnh dân tộc, phát
huy nội lực trước hết là như thế. Theo tôi, đấy là cách nghĩ quán triệt
những quan điểm về nền kinh tế nhiều thành phần và phát huy nội lực nêu trong
Nghị quyết Trung ương 4 khoá VIII. Điều yếu nhất trong phát triển nền kinh
tế nhiều thành thần có lẽ là chưa làm tốt việc tạo ra sức mạnh tổng hợp này.
Hai là: Sự cạnh tranh trên thị trường, nhất là trên
thị trường quốc tế, rất gắt gao. Chu kỳ của một sản phẩm thường xuyên rút ngắn,
thay đổi rất linh hoạt, thường xuyên đòi hỏi sự đáp ứng, ứng phó kịp thời,
không thể một thành phần kinh tế nào ở nước ta đơn thương độc mã làm được việc
này. Muốn tranh thủ các đối tác nước ngoài, các doanh nhân, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế của nước ta cũng
không thể đơn thương độc mã hoặc tranh giành nhau đến mức làm mất lợi thế mặc
cả của phía ta để tranh thủ các đối tác nước ngoài. Thực tiễn đời sống sản xuất
kinh doanh cũng cho thấy muốn giành thắng lợi thì phải giỏi – bao gồm cả dám
mạo hiểm, theo như cách bắc cầu dưới mặt nước. Nhưng đấy
phải là sự mạo hiểm tự thân của các thành phần kinh tế, không thể mạo hiểm bằng
sự bao cấp của Nhà nước theo cách đi xe ô-tô nhãn hiệu 1=3...
Với cách nhìn như vậy, nỗi lo riêng của tôi là đến nay chưa
tìm ra được phương thức gì hay để phát huy tối ưu sức mạnh của các thành phần
kinh tế, chưa thấy chuyên gia nào hiến được các kế sách gì làm cho các thành phần kinh tế của cả nước hợp
thành một sức mạnh chung, dám mạo hiểm, mạo hiểm thắng lợi, luôn luôn chiếm
được thị trường mới, mở rộng sản phẩm mới, nâng cao khả năng cạnh tranh với các
nước. Liên kết liên doanh giữa các thành phần kinh tế còn rất yếu – vì những
nguyên nhân rất dễ hiểu...
Tôi thực lòng không chia xẻ nỗi lo: phát triển
mạnh nền kinh tế nhiều thành phần sẽ mất định hướng xã hội chủ nghĩa. Lẽ đơn
giản là: Nếu tất cả mọi hình thức sở hữu – nghĩa là mọi thành phần kinh tế – đều
phải có nghĩa vụ bình đẳng theo pháp luật, góp phần đầy đủ của mình vào phát
triển nền kinh tế và làm giàu có đất nước, thì còn hay mất định hướng xã hội
chủ nghĩa? Thiết nghĩ câu trả lời là rõ ràng. Xin đừng để cho những định kiến
về vấn đề sở hữu cản trở việc lựa chọn quyết sách này. Xin hãy bám chắc mảnh
đất thực tiễn của Việt Nam hiện nay, tin vào lòng yêu nước của nhân dân ta. Đầu
tư trực tiếp của nước ngoài chúng ta còn chấp nhận được, tại sao lại không có
thể chấp thực sự – chứ không sách lược - nền kinh tế nhiều thành phần?
Trong điều kiện nước ta ở vào xu thế phát triển
nền kinh tế mới khi bước vào thế kỷ 21, vấn đề sở hữu – vận động thông qua phát
huy sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế nhiều thành phần do Đảng ta lãnh đaọ – là
nhân tố nội lực quan trọng hàng đầu của phát triển. Nhưng sự tù mù hiện nay
đang ngày càng bành trướng trong sở hữu cùng với quốc nạn quan liêu tham nhũng
đang hàng ngày hàng giờ đẻ ra kinh tế ngầm và làm trệch hướng con đường ĐHXHCN
của đất nước. Đây không phải là câu chuyện đoán mò. Cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ châu A’ tháng 7-1997 đã minh chứng điều này ở nhiều nước. Sự
tù mù trong sở hữu, chứ không phải vấn đề sở hữu, mới là kẻ thù
đích thực của ĐHXHCN. Sự tù mù ấy cùng với quốc nạn quan liêu
tham nhũng xứng đáng được coi là đối tượng không thể khoan dung của tất cả sức
mạnh chuyên chính Nhà nước ta có thể có được.
Có thể nói một cách cực đoan để nhấn mạnh: Trước đổi mới, chúng ta xử lý chưa tốt vấn
đề sở hữu – và đây là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất khiến nền
kinh tế rơi vào khủng hoảng; trong những thành tựu đạt được thời đổi mới có sự
đóng góp không thể thiếu được của việc xử lý tốt hơn vấn đề sở hữu – thể hiện
qua phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Ba là: Điều làm tôi thực sự lo lắng chưa thấy ai
hiến được kế sách gì trong cơ chế quản lý hiện hành bắt buộc mọi doanh nhân và
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phải hoạt động sản xuất kinh doanh
theo pháp luật.
Ngày nay môi trường pháp lý và môi trường kinh
doanh ở nước ta có nhiều yếu tố làm méo mó thị trường, làm mất hiệu lực nhiều
luật pháp và chủ trương chính sách đúng đắn. Nhũng nhiễu và kinh tế ngầm đang
thực sự trở thành những tác nhân ngày càng chi phối đời sống kinh tế nước
ta. Buôn lậu ngang nhiên hoành hành.
Trên báo chí đã có bài chỉ trích bằng cách đề ra ý kiến phải dán tem cả vào
loại hoá đơn đỏ!.. Tôi nghĩ, A-dít Nê-xin, tác giả những truyện ngắn trong tác
phẩm Những
người thích đùa, có lẽ phải suy tôn người viết bài báo này lên bậc sư
phụ, và hình như chưa nước nào đạt được
kỷ lục về hoá đơn giả đến nỗi phải có bài báo hài hước đến phải phát khóc như
vậy! Tại Thành phố Hồ Chí Minh còn có cả chợ ngầm bán hoá đơn đã ghi khống!
Nhưng câu chuyện dán tem vào hoá đơn đỏ và những hiện tượng tiêu cực khác lại
không thuộc về bản chất “bắt buộc phải phát sinh” của nền kinh tế nhiều thành
phần, cũng không phải là “tính tất yếu” của cơ chế thị trường. Trước hết chúng
thuộc về những thiếu sót trong hệ thống nhà nước và bộ máy chính quyền, các cơ
chế chính sách quản lý và đội ngũ cán bộ viên chức của chúng ta. Xin đừng quên
thời bao cấp 100% - nghĩa là thời hầu như chưa có cơ chế thị trường - có biết
bao nhiêu chuyện “móc ngoặc”, danh từ “móc ngoặc” được sản sinh ra trong thời
kỳ này và làm giầu ngôn ngữ nước ta trong phạm trù tiêu cực.
Cần nhấn mạnh những tiêu cực và yếu kém là những
tác nhân hàng ngày hàng giờ đẻ ra kinh tế ngầm và trực tiếp đẩy sự phát triển
của đất nước đi trệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần nói thẳng ra rằng kẻ
tham gia– chủ động hoặc bị động – vào nền kinh tế ngầm này, hoặc câu kết với
nhau trong nền kinh tế ngầm này là những
người thuộc tất cả các thành phần kinh tế và những viên chức nhà nước hư hỏng.
Những năm gần đây các vụ việc nghiêm trọng có xu hướng tăng lên, doanh nghiệp
nhà nước tăng nợ và thua lỗ, số doanh nghiệp tư nhân phá sản ngày một nhiều,
quân ta đánh quân mình... Người gánh chịu mọi hậu quả của kinh tế ngầm là nhân
dân cả nước, là nền kinh tế cả nước. Nhưng lạ thay chụp giựt, nhũng nhiễu và
nền kinh tế cứ ngầm ngang nhiên tồn tại, bất chấp sự chuyên chính kiên quyết
của Nhà nước ta. Đáng tiếc hơn nữa là cũng có đôi ba ý kiến buộc tội cơ chế thị
trường và nền kinh tế nhiều thành phần là cha đẻ của kinh tế ngầm...
Chẳng lẽ những vấn đề vừa trình bày trên không
phải là những yêu cầu kinh tế và chính trị trong nhiệm vụ xây dựng Đảng? – trên
cả hai phương diện: (a) xây dựng đường lối chính sách bảo đảm nền kinh tế nhiều
thành phần phục vụ tốt nhất lợi ích của
đất nước; (b) xây dựng Đảng về tổ chức để đáp ứng đòi hỏi này.
Trong thực hiện và phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần có hai vấn đề rất cụ thể, làm được tốt thì thực hiện được mục tiêu
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh, thực hiện không tốt
thì trệch hướng. Đó là:
-
Nghĩa vụ đóng thuế đúng với thu nhập tạo ra được.
Thật ra một xã hội công bằng và văn minh nào
cũng đòi hỏi phải thực hiện tốt hai điều này, để tái tạo lại và phát triển thêm
những nguồn lực của xã hội đã góp phần trực tiếp hay gián tiếp vào thu nhập mỗi
người tạo ra được cũng như vào nguồn của cải mỗi công dân có được; đồng thời
mỗi công dân đều có trách nhiệm đóng góp tuỳ theo thu nhập hoặc tài sản mình có
được vào phát triển các nguồn lực của toàn xã hội.
Nếu đặt vấn đề mọi hình thức sở hữu đều phải có
nghĩa vụ phát triển sức mạnh nền kinh tế, tăng thu nhập cho đất nước – bao gồm
cả nghĩa vụ thuế, nâng cao phúc lợi xã hội thì không lo trệch hướng.
Nên lấy quan điểm này làm căn bản cho việc thực
hiện triệt để và nhất quán việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Riêng thuế đánh vào tài sản thừa kế còn nhằm mục
đích kiểm soát khoảng cách về sở hữu tài sản giữa các bộ phận dân cư khác nhau
trong xã hội; tuy nhiên chính sách thuế này cũng phải có những bước đi thích
hợp với trình độ từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chỉ
có như vậy đất nước mới ngày một văn minh giàu có lên[143].
Bí quyết là làm thế nào xây dựng được một hệ
thống thuế và chính sách tài chính đúng của Nhà nước và thiết lập được sự công
khai minh bạch về thu nhập và tài sản của mỗi công dân. Đây là vấn đề rất khó,
nhưng bắt buộc phải tìm cách thực hiện, là một trong những nội dung quyết định
nhất trong xây dựng thể chế của một nhà nước hiện đại, là một vấn đề khó của
hiện đại hoá đất nước.
Nhìn ra thế giới, có biết bao nhiêu kinh nghiệm
xử lý thành công vấn đề thiết thân này, nguyên lý cũng thật đơn giản: Nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu thì ngân
sách càng thu được nhiều, hệ thống thuế càng đơn giản và thuế suất đúng (với
nghĩa rất chú trọng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu – nói chung là ít sắc
thuế, ít các mức thuế, thuế suất thấp) thì càng thu được nhiều thuế và đỡ tiêu
cực. Nguyên lý đơn giản này hoàn toàn trái ngược với hệ thống thuế vô cùng
phức tạp của nước ta và không có các kiểu đánh thuế như thuế trang trại, thuế
xe ôm (đã bãi bỏ vì bị phản ứng) và các phụ thu, các “lệ phí” rất tuỳ tiện như
vừa qua và hiện nay[144].
Thực ra tôi không băn khoăn lắm về nền kinh tế
nhiều thành phần sẽ từng giờ từng ngày đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Bởi vì nếu như
chúng ta thực hiện được nghĩa vụ đóng thuế đúng với thu nhập và trách nhiệm của
sở hữu đối với xã hội thì Nhà nước ta hoàn toàn làm chủ được quá trình phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Nhưng tôi thực sự lo lắng về khả năng tạo ra sự minh bạch và công khai về thu nhập và tài sản
của mỗi công dân cũng như về xây dựng thiết kế được chính sách tài chính đúng.
Không làm được hai việc này thì kinh tế ngầm phát triển, thì nền kinh tế nhiều
thành phần hay ít thành phần vẫn đi tới trệch hướng như một hệ quả tất yếu. Xin
nhìn vào các vụ trọng án đã xẩy ra. Có thể nói rằng nhìn chung vấn đề công khai
minh bạch về thu nhập và tài sản của công dân ở các nước công nghiệp phát triển
được xử lý tốt hơn nhiều so với nước ta, so với Trung Quốc hoặc so với các nước
đang phát triển khác.
Còn một khó khăn lớn không thể bỏ qua: Đảng và Chính phủ ta
sẽ phải mất nhiều công sức và thời gian làm cho mọi người tin vào chủ trương thực
hiện quán triệt nền kinh tế nhiều thành phần, nhất là làm cho luật pháp và các
chính sách, cơ chế kinh tế của nước ta chuyển từ chỉ được làm những gì cho phép
sang chỉ
không được làm những gì luật pháp cấm, xoá bỏ hẳn cơ chế xin –
cho. Muốn được như vậy, trước hết phải xoá bằng được cái cơ chế “Trống
chùa ai đánh thì thùng, của chung ai khéo vẫy vùng nên riêng!” Hiện đang tồn
tại trong cuộc sống nhiều giai thoại hài hước nhưng đau lòng. Điều
đáng lo nhất là làm sao tạo được môi trường pháp luật đúng đắn không để lọt
lưới hành vi bất chính của bất kỳ thành phần kinh tế nào và phát triển được thị
trường minh bạch rõ ràng làm sân chơi chung cho mọi thành phần kinh tế, để Nhà
nước có thể hướng nền kinh tế nhiều
thành phần đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Không làm được điều này, thành
phần kinh tế nào cũng chứa đầy rãy những nguy cơ, là mất chuyên chính.
Kết thúc phần này, tôi xin nhấn mạnh một lần nữa:
Một trong những yếu tố quan trọng nhất để phát triển thành công nền kinh tế
nhiều thành phần, khuyến khích có hiệu quả mọi người làm giàu cho mình và cho
đất nước, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là phải giải quyết tốt vấn đề sở
hữu của mọi thành phần kinh tế: Sở hữu phải được luật pháp bảo hộ, sở hữu
phải minh bạch (transparent)[145],
sở hữu phải làm tròn trách nhiệm đối với xã hội theo luật pháp quy định.
Thiếu sự hài hoà giữa 3 yêu cầu vừa nêu trên đối với vấn đề sở hữu, kết cục sẽ
chỉ là bóc lột, là kinh tế ngầm – ở trạng thái nghiêm
trọng hơn nữa sẽ là cướp ngày – và nói chung
là mất định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời xin lưu ý: Không
phát triển được nền kinh tế nhiều thành phần, không khuyến khích được mọi người
làm giàu cho mình và cho đất nước thì cũng không có định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Xử lý thành công vấn đề sở hữu là một vấn đề thật
sự chúng ta đang lấn bấn nhất
Tôi xin dành vài lời nói thêm về kinh tế quốc
doanh, cụ thể hơn nữa là về doanh nghiệp nhà nước.
Cổ phần hoá, bán, khoán, cho thuê, thay đổi hình
thức sở hữu đối với các DNNN không cần duy trì hình thức sở hữu của Nhà nước đã
được bàn tới nhiều rồi, chỉ có vấn đề là thiếu quyết tâm nên việc thực hiện còn
chậm. Chỉ riêng làm được việc này và làm đúng, là đã cắt bỏ được một khối u
“bao cấp” và nhiều di tật tai hại khác trong nền kinh tế của đất nước, mở rộng
không gian kinh tế cho các nguồn lực năng động.
Song suy nghĩ của tôi trong phần này tập trung
vào những DNNN còn lại hoặc những DNNN đã cổ phần hoá nhưng Nhà nước giữ tỷ
trọng vốn chi phối.
Đã có nhiều đòi hỏi, nhiều nơi đề xuất được
những chủ trương đúng về đổi mới DNNN. Tồn tại lớn nhất là làm sao đáp ứng tốt
những đòi hỏi này, thực hiện tốt những chủ trương đúng đã đề ra được. Song
những cách nhìn trái ngược nhau cũng không ít. Đây là những chuyện đại sự, liên
quan mật thiết đến sự tồn vong của chế độ. Đến bây giờ có thể nói được dứt
khoát: Quyết sách khả thi không thiếu, nhưng rất thiếu quyết tâm thực hiện đổi
mới DNNN.
Tôi chỉ xin nhắc lại một ý đã nêu trong các phần
trên: DNNN hiệu quả thấp kém thì không có cách gì có thể giúp nó sắm vai chủ
đạo trong nền kinh tế, không một đạo diễn tài ba nào có thể làm nổi việc này mà
không làm suy sụp nền kinh tế. Để miễn phải nói dài dòng, xin nêu vài con số tính toán của Ngân hàng
Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu A’ (ADB) và một số viện nghiên cứu,
chuyên gia, học giả nước ngoài:
-
Toàn bộ doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam hiện nay sử dụng 80%
tổng lượng vốn kinh doanh trong toàn xã hội, chưa kể nắm giữ các nguồn tài
nguyên thiên nhiên lớn nhất của cả nước, làm ra 49%GDP. DNNN còn nắm giữ nguồn
tài nguyên lớn nhất, tốt nhất về con người và công nghệ, phần lớn nhất đất đai
sử dụng trong kinh doanh.
-
Năm 1995, trong toàn bộ nền kinh tế 1 đồng vốn DNNN làm ra 3,46
đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận; năm 1998 các số tương ứng là 2,9 đồng
doanh thu và 0,13 đồng lợi nhuận. Nhân đây xin nhắc lại, báo chí của ta cho
biết năm 1999 tổng nợ của các loại của DNNN lên tới 200.000 tỷ đồng và khoảng
40% DNNN làm ăn thua lỗ. 200 DNNN lớn nhất chiếm khoảng 60% tổng số vốn nhà
nước, đồng thời chiếm khoảng 40% tổng nợ vừa nêu trên...
-
Năm 1997 nợ của 12 nhà máy đường ở Việt Nam đã đi vào hoạt động là
40 tỷ đồng, năm 1998 là 80 tỷ đồng, năm 1999 leo thang lên 110 tỷ đồng[146]..;
-
Mức tiêu thụ điện theo đầu người vủa Việt Nam chỉ bằng 1/7 của
Thái Lan, nhưng mức tổn thất (10,8%) cao gấp 1,8 lần mức của Thái Lan; trung
bình một nhân viên bán điện trong một công ty của Thái Lan phục vụ 352 khách
hàng và bán 1.597.331 Kwh; một nhân viên Việt Nam trong Tổng công ty điện lực
phục vụ được 57 khách hàng và bán được 363.880 Kwh. Giá điện ở Thái Lan,
Singapore, Malaixia khoảng 5 cent
USD/1KWh, ở Việt Nam là 7,5 cent USD.
-
Sân bay Tegel ở Berlin có 600 nhân viên, một năm phục vụ khoảng 16
–18 triệu lượt khách; sân bay Nội Bài có trên 5000 nhân viên một năm phục vụ
khoảng 5 – 6 triệu lượt khách – xin miễn so sánh chất lượng phục vụ.
-
Khu vực tư nhân trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay - bao gồm cả kinh tế hộ trong nông nghiệp –
sử khoảng 20% vốn của toàn xã hội (không
kể ruông đất nông nghiệp), nhưng làm ra trên 1/2 GDP cả nước và tạo công ăn
việc làm cho 90% lao động cả nước, riêng trong 5 năm qua tạo ra 5 triệu việc
làm mới...
-
Vân...vân...
Những con số vừa kể trên rất đáng làm cho chúng
ta suy nghĩ. Là người lãnh đạo đất nước, Đảng
ta có trách nhiệm đôn đốc việc hình thành những chính sách và biện pháp kinh tế
làm cho nguồn vốn của toàn xã hội, tài nguyên của đất nước và công sức lao động
mồ hôi nước mắt của nhân dân cả nước được phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả
tốt hơn, thay đổi việc sử dụng người sao
cho loại bỏ được đến mức tối đa những cán bộ, đảng viên làm doanh nghiệp
nhà nước thua lỗ và gây thiệt hại cho
nền kinh tế, kiên quyết loại bỏ những kẻ tham nhũng - đó
là những kẻ bóc lột phi đạo đức nhất xuất hiện trong xã hội nước ta. Không
làm tốt được những việc này, định hướng
xã hội chủ nghĩa sẽ bị đe doạ, nguy cơ tha hoá Đảng sẽ tăng lên, cuối cùng làm
cho kinh tế quốc doanh lẽ ra phải làm nhiệm vụ chủ đạo với ý nghĩa là đầu tàu
kéo nền kinh tế cả nước đi lên, thì lại trở thành tác nhân lớn nhất gây ra thua
lỗ và kéo lùi nền kinh tế...
Xin chú ý cho, vốn (hiểu với nghĩa là mọi nguồn
lực) thuộc sở hữu nhà nước là một trong những thành quả xương máu của cách
mạng. Đảng cầm quyền không có bất kỳ lý do gì chấp nhận tình trạng để cho nguồn
vốn này ngày càng mai một đi.
Thiết nghĩ rằng giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa không đơn thuần chỉ là việc bảo tồn các DNNN. Theo
tôi, điều quan trọng hơn nhiều là làm cho nguồn vốn lớn nhất này của đất nước
sinh sôi nẩy nở, trở thành nguồn lực thúc đảy mạnh mẽ nền kinh tế đất nước đi
lên, chủ đạo trước hết là như vậy. Tư duy theo hướng này, từ lâu
trong nước ta có nhiều ý kiến đề nghị nên tìm cách làm cho nguồn vốn (hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả vốn vô hình
và hữu hình, công nghệ, bản quyền, know how...) thuộc sở hữu nhà nước (hiện nay
ước khoảng 80% toàn bộ các nguồn vốn đang kinh doanh trong xã hội) tham gia,
thâm nhập dưới mọi hình thức liên kết, liên doanh, góp vốn, cho thuê vốn... vào
mọi hoạt động của các thành phần kinh tế, thúc đảy kinh tế cả nước phát triển[147].
Muốn như thế, phải kiên quyết xoá bỏ cơ chế chủ
quản[148],
kiên quyết đẩy mạnh phát triển thị trường vốn và quá trình đổi mới DNNN, kiên
quyết phát triển thị trường vươn lên trình độ ngày một cao hơn với tư cách là
sân chơi chung theo những luật chung cho tất cả các thành phần kinh tế, kể cả
FDI. Có
thể nói làm được những việc này, san lấp khoảng cách phát triển hoàn toàn là
hiện thực.
Ngoài những việc Đảng và Nhà nước ta đang làm để
nâng cao hiệu quả các DNNN, tôi xin đề nghị dành sự quan tâm đặc biệt trong
việc giúp các DNNN thực hiện đầy đủ quyền tự chủ của mình trong sản xuất kinh doanh,
bao gồm cả nâng cao trách nhiệm và nghĩa
vụ của bản thân DNNN đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, xóa bỏ hết
mọi bao cấp còn tồn tại – dù là bao cấp bằng vốn, bằng cơ chế hoặc bằng bất kể
sự ưu đãi nào khác.
Loại trừ mọi tác động phi kinh tế từ bên ngoài
doanh nghiệp cho đơn giản hoá vấn đề và cho dễ thảo luận, so sánh giữa doanh
nghiệp tư nhân với DNNN, tôi nhận thấy DNNN chiếm rất nhiều lợi thế, song lại
thiếu một lợi thế quyết định: đó là quyền tự chủ; hoặc là quyền tự chủ của DNNN
thấp hơn nhiều so với quyền tự chủ của doanh nghiệp tư nhân. Có lẽ đây là chỗ
yếu nhất, khiến cho DNNN không phát huy được tính năng động của mình, đồng thời
cũng là vấn đề khó nhất trong việc đổi mới DNNN.
Song thực hiện quyền tự chủ đúng đắn của DNNN
như thế nào? Lẽ đương nhiên quyền tự chủ ấy phải được thực hiện trong khuôn khổ
luật pháp chung và trên một sân chơi chung của tất cả các thành phần kinh tế,
bao gồm cả FDI.
Tại tất cả các nước xã hội chủ nghĩa trước đây,
cũng như tại Trung Quốc hiện nay, quyền tự chủ của DNNN là vấn đề khó nhất,
chưa nước nào tìm ra được giải pháp thoả đáng. Làm không đúng, Nhà nước có nguy
cơ mất cả chì lẫn chài, và có thể làm chìm cả con tầu kinh tế quốc gia – như đã
từng xảy ra ở nước Nga vừa qua.
Từ nhiều năm nay, Trung Quốc thể nghiệm cách vận
dụng mô hình công ty hoá các DNNN để nâng cao hiệu quả những DNNN cần duy trì[149]
- thí nghiệm triệt để nhất là đã vận dụng đối với ngành dệt của Thượng Hải.
Nhiều ngành kinh tế và nhiều tỉnh khác ở Trung quốc cũng đang tiến hành cuộc
thử nghiệm này, nhưng có lẽ đi xa nhất vẫn là ngành dệt ở Thượng Hải.
Xin giới thiệu tóm tắt chủ trương công ty hoá
của Trung Quốc nội dung như sau:
-
Thanh toán hết mọi công nợ của doanh nghiệp, vốn hoá toàn bộ tài
sản hữu hình và vô hình của doanh nghiệp theo thời giá khi tiến hành công ty
hoá, Nhà nước làm chủ sở hữu.
-
Nhà nước thuê ban giám đốc toàn quyền điều hành doanh nghiệp theo
hợp đồng ký kết giữa Nhà nước và ban giám đốc được thuê.
-
Doanh nghiệp hoạt động theo thể thức của công ty trách nhiệm hữu
hạn mà luật pháp đã quy định.
Tôi chưa có đủ thông tin để đánh giá quá trình
này ở Trung Quốc thực hiện đến đâu, thành bại ra sao, nhưng được biết Trung
Quốc tiếp tục thử nghiệm, đến nay đã đã bước sang năm thứ 7 thứ 8. Nếu tính từ
chuyến đi thăm nổi tiếng của Tổng bí thư Đặng Tiểu Bình về Thượng Hải thì thời
gian thử nghiệm này còn dài hơn nữa.
Cảm nhận
của tôi là lãnh đạo Trung Quốc hiện nay có lẽ kiên trì đi theo hướng này, song
khó khăn không ít. Vấn đề lớn nhất quyết định thành, bại đặt ra đối với lãnh đạo
Trung Quốc có lẽ là toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc và xã hội Trung Quốc có thể
kham nổi đến đâu những hệ quả kinh tế, xã hội bắt buộc phải giải quyết một khi
DNNN chuyển hẳn sang mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn. Tiến độ thực hiện
công ty hoá có lẽ phụ thuộc vào điều cực kỳ nhậy cảm này.
Cái lợi của phương thức công ty hoá là vốn quốc
doanh được bảo toàn và phát huy hiệu quả, tất cả các thành phần kinh tế trong
xã hội hoạt động theo luật chung và trên sân chơi chung, đối với đầu tư trực
tiếp của nước ngoài cũng sẽ như vậy, toàn bộ nền kinh tế sẽ có điều kiện giành
hiệu quả cao hơn, góp phần loại bỏ dần kinh tế ngầm.., nhưng đòi hỏi phải kèm
theo cái tài xử lý được những hệ quả xã hội của sự chuyển đổi này trên nhiều
phương diện.
Nội bộ Trung quốc còn
đang tranh luận rất sôi nổi, các ý kiến tán thành hay chống lại đang đối chọi
nhau ngang ngửa, xoay quanh nhiều vấn đề. Nhưng vấn đề khó nhất có lẽ là xử lý
ra sao số lao động dôi dư bắt buộc phải thải loại, hoặc đào tạo lại. Những vấn
đề khác chắc dễ giải quyết hơn, bởi vì Trung Quốc có nhiều kinh nghiệm tốt
trong các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài, Trung Quốc có nhiều doanh nghiệp
thuộc sở hữu Nhà nước hoạt động tốt ở Hongkong, Macao...
Con đường công ty hoá doanh nghiệp thuộc sở hữu
nhà nước không phải là sáng kiến riêng của Trung Quốc. Thực ra từ hàng trăm năm
nay nhiều nước tư bản phát triển đã quản lý các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà
nước dưới hình thức công ty (ví dụ các ngành đường sắt, hàng không, dầu khí,
ngân hàng thương mại...). Ngày nay cũng như vậy, chỉ có khác trước là số công
ty thuộc sở hữu nhà nước ở những nước này ít dần do quá trình tư nhân hoá[150].
Tôi chưa dám đưa ra gợi ý gì đối với DNNN của
ta, nhưng xin kiến nghị Đảng và Nhà nước ta đầu tư nhiều công sức hơn nữa
cho yêu cầu nâng cao quyền tự chủ của các DNNN, để đòi hỏi các DNNN
làm ăn bình đẳng với các thành phần kinh tế khác và thực hiện đầy đủ các trách
nhiệm đối với Nhà nước. Tôi hy vọng đây là một trong những biện pháp tốt nâng
cao vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh và loại bỏ dần kinh tế ngầm.
Có quyền tự chủ đầy đủ gắn với trách nhiệm đầy đủ,
hoạt động cùng trên một sân chơi chung với tất cả những thành phần kinh tế khác
– kể cả FDI, đó là hai điều kiện căn bản để DNNN của chúng ta sẽ tự loại bỏ dần được
những yếu kém và sẽ phát huy được mọi lợi thế những thành phần kinh tế khác
không có, nhờ đó có thể vươn lên làm tốt vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân.
Với cách nghĩ như vậy, cần tìm ra con đường thực
hiện tốt vai trò chủ đạo của DNNN với đúng nghĩa của nó: là yếu tố mở đường,
thúc đẩy nền kinh tế đi vào sản phẩm mới, thị trường mới, là động lực tăng
cường sự đua tranh bình đẳng giữa tất cả các thành phần kinh tế, làm cho tất cả
các thành phần kinh tế khác đều mạnh lên, góp phần xứng đáng nâng cao không
ngừng hiệu năng của toàn bộ nền kinh tế của đất nước. Nhất thiết chấm dứt càng
sớm càng tốt tình trạng doanh nghiệp nhà nước còn được tiếp
viện những ưu đãi, bao cấp, độc quyền, cùng tham gia tiêu cực, gây thêm nợ nần
mới và tăng thêm gánh nặng cho nền kinh tế.
Trong điều kiện lịch sử, kinh tế và xã hội của
nước ta hiện nay không thể coi trọng hay coi nhẹ một thành phần kinh tế nào, mà
là bắt buộc làm cho mỗi đồng vốn của toàn xã hội phải luôn luôn sinh lời cao
nhất, mang lại thu nhập lớn nhất cho đất nước. Con đường duy nhất hay
tối ưu nhất thực hiện đòi hỏi này là: phát huy sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta.
Những nhân tố của nền kinh tế mới trên thế giới
trong quá trình toàn cầu hoá ở giai đoạn hiện nay làm cho cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn bao giờ
hết – khốc liệt tới mức nhà kinh tế Arnold Brown (trong nhóm Weiner-Edrich-Brown,
New york) 21-12-1999 đưa ra ý kiến: Bàn tay vô hình của Adam Smith trong
điều kiện cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản phản lực (turbo-capitalism) ngày nay
đã trở thành quả đấm vô hình, tạo thành từ mọi sức mạnh có thể tổng hợp được
bất kể từ đâu và từ lĩnh vực nào...
Đương đầu
với thực tế Brown nêu ra, chúng ta có lý do gì để không phát huy sức mạnh tổng
hợp của các thành phần kinh tế trong nước ta?[151]
5. Cải cách hành chính
Cục xương của mọi cục xương có lẽ là vấn đề cải
cách hành chính, dẫm chân tại chỗ từ nhiều năm, và cũng chưa có triển vọng gì
sẽ chuyển động mạnh mẽ nếu chúng ta không thay đổi cách nhìn và cách tiếp cận.
Những cố gắng của Đảng và Nhà nước ta khắc phục sự tha hoá trong bộ máy hành
chính tuy rất lớn, nhưng kết quả là dẫm chân tại chỗ[152].
Xin lưu ý, Báo cáo chính trị của Đại hội VIII nhấn mạnh phải nỗ lực cải cách
nền hành chính nhà nước, coi đó là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước trong những năm trước mắt (tham khảo Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, NXB Cbính trị Quốc gia, Hà Nội 1996, tr. 131).
Cần nhấn mạnh cải cách hành chính không chỉ đơn
thuần là bớt sách nhiễu phiền hà nhân dân, mà còn phải nhằm vào mục tiêu cung
ứng những dịch vụ công tốt hơn nữa mà nhân dân thuê Nhà nước làm
bằng tiền đóng thuế của mình.
Đã đến lúc Đảng ta phải đặt ra câu hỏi: Cải cách hành chính là
một nhiệm vụ chính trị quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước, thế nhưng tại
sao nhiệm vụ này lại quá trì trệ? Trì trệ đến mức đang làm cho Nhà nước của
dân, do dân và vì dân bị quan liêu hoá ngày một nghiêm trọng. Trì trệ đến mức
gây ra những chướng ngại vật trên con đường đi lên của đất nước, làm nản
lòng ý chí làm ăn chân chính của người
trong nước và không khuyến khích người đầu tư nước ngoài...
Thực tế cho thấy phải đẩy mạnh cải cách hành
chính từ các góc độ khác nhau:
-
từ dân, giác ngộ nhiều điều và cung cấp tri thức, thông tin, giúp cho công dân có
nhiều khả năng và quyền lực thúc đảy hành chính phải cải cách, làm cho nhân dân
thực hiện được sự chuyên chính của mình đối với việc thực thi pháp luật và các
chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, xã hội của đất nước đã nêu trong
Hiến pháp: Nhà nước là của dân, mọi việc là vì dân, nhân dân là chủ nhân ông
của đất nước.
-
từ trong Đảng, kể từ cấp cao nhất.
Đảng có đổi mới thì bộ máy Nhà nước, bộ máy hành chính mới đổi mới được, bắt
đầu từ nhận thức phải xây dựng bằng được Nhà nước và bộ máy hành chính thực thi
tốt nhất những chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng đã được thể hiện trong hệ
thống luật pháp của Nhà nước, xây dựng Nhà nước với những quan điểm và thành
quả mới nhất của văn minh nhân loại, nhất thiết không để cho bộ máy hành chính
tha hoá thành một bộ máy cai trị – dù là tha hoá một bộ phận. Một Nhà nước thực
hiện được tốt nhất những chủ trương đúng đắn của Đảng đã đươc thể chế hoá thành
Hiến pháp, luật pháp, đấy là Nhà nước có tính chuyên chính cao nhất mà sự
nghiệp phát triển đất nước đang đòi hỏi. Đấy chính là sự chuyên chính của nhân
dân mà Đảng có trách nhiệm và cần ra sức xây dựng bằng được. Rất tiếc rằng cho
đến nay chuyên chính hình như chỉ được hiểu hoặc chỉ được nhấn mạnh theo quan
điểm thành phần chủ nghiã, mà không nêu bật tầm quan trọng hàng đầu: Chuyên chính nhất, lập trường giai cấp
nhất là phải có Nhà nước thực hiện được tốt nhất đường lối chủ trương chính
sách của Đảng đã được thể chế hoá thành luật pháp.
-
và phải đẩy mạnh cải cách hành chính từ bên ngoài xã hội, xây dựng sự công khai minh bạch trong mọi
lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước – trừ những vấn
đề phải bảo mật về an ninh, quốc phòng. Đấy là phương thức thực hiện sự giám
sát của dân, đồng thời phát huy mọi khả năng và nghị lực sáng tạo của dân tham
gia vào các nhiệm vụ của đất nước.
Như vậy vẫn chưa đủ, cải cách hành chính còn phải phục
vụ đắc lực phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thu hút đầu tư trực tiếp
của nước ngoài (FDI), xoay quanh một mục tiêu kinh tế – xã hội trung tâm rất cụ thể: Làm sao từ nay đến năm
2020 liên tục mỗi năm hơn bù kém, trung bình tạo ra được 3-4 triệu việc làm
mới, đồng thời xoá bỏ khoảng 1 - 2 triệu
việc làm cũ – trước hết là trong nông nghiệp, trong những doanh nghiệp cần cho
phá sản, trong những ngành sản xuất mất khả năng cạnh tranh... Nếu
không, sẽ không có cách nào công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, không có
cách nào hoàn thành được nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cả nước vào
khoảng năm 2020 như đã ghi trong các Nghị quyết Đại hội VII và Đại hội VIII.
Đương nhiên còn bao nhiêu việc khác phải làm để phục vụ mục tiêu trung tâm mở
rộng không gian kinh tế cho đất nước, từ xác định lại chiến lược phát triển,
đổi mới hệ thống luật pháp và hệ thống điều hành kinh tế vỹ mô - trước hết là
hệ thống tài chính tiền tệ và ngân hàng, chính sách đối ngoại – bao gồm cả kinh
tế đối ngoại, các chính sách hướng dẫn, khuyến khích và hỗ trợ của Nhà nước để
việc phát triển ngành nghề và tạo việc làm mới đi vào đúng hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá cần đạt tới... Song tất cả những chủ trương chính sách và
những công việc vừa kể trên chỉ có thể thực hiện thắng lợi nếu thành công trong
đẩy mạnh triệt để cải cách hành chính.
Trong những điều kiện và trong phạm vi các chính
sách chủ trương mới tạo ra được ấy, tối thiểu, ngay trước mắt cải cách hành
chính phải làm được các việc giúp cho các
thành phần kinh tế:
(1) tự do thuê đất đai hoặc
thuê quyền sử dụng đất đai – nghĩa là có mặt bằng cho phát triển cơ sở sản xuất
kinh doanh,
(2) tự do tiếp xúc các nguồn
vốn,
(3) tự do trong kinh doanh
theo pháp luật và được pháp luật bảo vệ,
(4) đặc biệt là làm cho Nhà nước thực
hiện tốt vai trò bà đỡ cho nền kinh tế cả nước tìm được những kẽ
lách đi vào thị trường mới với sản phẩm mới, mở rông không gian kinh tế
cho đất nước, hậu thuẫn cho từng doanh nhân và doanh nghiệp trong làm ăn với
nhau và với đối tác bên ngoài. Hệ thống chính trị và hệ thống Nhà nước của
chúng ta có hàng chục Ban, Bộ, hàng trăm Viện, trường, Hiệp hội và gần 70 cơ
quan đại diện ở nước ngoài có thể giúp
dân đắc lực trong những công việc này .
Khó hơn nữa là luật pháp phải luôn luôn được
hoàn thiện và điều chỉnh kịp thời phù hợp với nhịp điệu phát triển của đất
nước, tạo ra môi trường kinh tế - xã hội an toàn, để mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh được sàng lọc thông qua cơ chế thị trường lành mạnh và trong hành
lang pháp lý rõ ràng, được tiến hành thuận lợi, khuyến khích xu thế làm ăn lâu
dài, bền vững.
Một yêu cầu khác cực kỳ quan trọng trong cải
cách hành chính Đảng ta đã đề ra được, nhưng còn rất lúng túng trong thực hiện;
đó là phương châm: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Cái khó là phân biệt rạch ròi các khâu lãnh
đạo, quản lý và làm chủ, từng khâu phải thực hiện
đúng nội dung chức năng của nó. Đấy là yêu cầu tất yếu để từng cơ quan của Đảng
và từng cơ quan của Nhà nước phải thực hiện triệt để chức năng của mình và chịu
đầy đủ trách nhiệm về nội dung chức năng phải thực hiện cũng như phần việc mỗi
khâu phải làm. Quyền và trách nhiệm làm chủ của dân cũng cần được làm rõ và
thực hiện triệt để như vậy, chứ không phải chỉ là hình thức.
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ, lý lẽ thật đơn giản, hợp lý và rõ ràng, nói thì
rất dễ, nhưng quả thực làm thì rất khó.
Tình trạng phổ biến trở thành tập quán hiện nay
là lãnh
đạo thường được hiểu và thực hiện là nắm, thậm chí còn được
hiểu là nắm trực tiếp, nắm toàn diện... Còn quản lý thường được hiểu
và thực hiện là thi hành sự chỉ đạo
của lãnh
đạo. Thoạt nghe có vẻ là tốt, chặt chẽ. Song trên thực tế là hạ thấp
vai trò lãnh đạo của Đảng xuống vai trò quản lý, tạo ra một cơ chế chồng chéo,
vất vả, tốn kém thời gian, công sức và tiền của, nhưng không một khâu nào chịu
trách nhiệm hoàn toàn về những phần việc hay chức năng của khâu mình – không
chủ động phát huy hết mức chức năng nhiệm vụ của khâu mình và của cán bộ. Ngoài
ra còn có hiện tượng dựa dẫm, luồn lọt, cơ hội. Điều hành và quản lý như vậy,
không hiếm trường hợp luật pháp và các chế định nhà nước bị gạt sang một bên...
Cần đặc biệt nhấn mạnh, cơ chế và cách làm này
là nguyên nhân cực kỳ quan trọng khiến cho trong khâu quản lý có những
việc bị chính trị hoá thay vì Hiến pháp, pháp luật và các định chế nhà nước
phải là tiêu chuẩn hàng đầu; năng lực nghiệp vụ của quản lý do đó bị
xói mòn và trở nên yếu kém so với phát triển của đất nước, khả năng chuyên môn
hoá và nâng cao nghiệp vụ ngày càng bất cập. Cứ so sánh bất kể một cơ quan hành
chính sự nghiệp nào các cấp của nước ta với một nước đang phát triển trung bình
– ví dụ như Thái Lan, Malaixya... – sẽ thấy ngay điều này, mặc dù ở những nước
này cũng đảng cầm quyền nào thì chính sách nấy. Thực trạng này còn bị làm trầm
trọng hơn do chưa xây dựng được một đội ngũ công chức đúng với nghĩa của nó.
Bây giờ có tặng cho đội ngũ này danh hiệu xã hội chủ nghĩa hay danh hiệu gì
cũng thế thôi, chất lượng sẽ không vì thế mà tăng lên.
Làm việc theo tập quán “nắm” với biết bao nhiêu
chồng chéo và sơ hở như vậy, nếu công việc nhờ những lý do may mắn nào đó đạt
kết quả tốt, thì không biết đâu là ưu điểm của khâu lãnh đạo hay khâu quản
lý để phát huy và để còn tiến xa hơn nữa. Nếu kết quả công việc là
xấu, thì lãnh đạo đổ cho quản lý, còn quản
lý thì thanh minh mọi việc đều đã xin ý kiến của lãnh
đạo, rất khó cho việc truy cứu trách nhiệm. ý chí dám nghĩ, dám
quyết, dám làm, dám tự chịu trách nhiệm... bị làm cùn. Ngoài ra còn các tình
trạng “ê-kíp”, phe cánh, ô dù. Và đặc biệt nguy hiểm là cách làm việc theo
đường dây – của cá nhân, của tập hợp hay câu kết phức tạp – việc gì đi theo con
đường chính diện không xong thì chạy cửa
hậu... Đây không phải là một cơ chế vận hành tốt hệ thống điều hành và quản
lý đất nước ở tất cả mọi cấp, mọi tổ chức, mọi địa phương và trong mọi đơn vị
cơ quan hoặc doanh nghiệp. Dân gian có câu vè rất gay gắt: Mất mùa là tại thiên tai, Được mùa là tại thiên tài Đảng ta... Đất
nước không thể đi lên với cách điều hành và quản lý như vậy. Người đảng viên
chúng ta cần có cái tai nhạy cảm với những câu hò vè loại này. Để cho sự hư
hỏng một khi tha hoá thành các dây, kết thành các mảng trong hệ thống chính trị
và bộ máy chính quyền, mọi điều sẽ trở nên vô nghĩa – nguy cơ số một đối với
đảng lãnh đạo.
Không thể duy trì lề lối làm việc dựa dẫm, “chắc
ăn” theo kiểu khôn vặt, người nọ đùn người kia, dưới đùn lên trên. Không thể
duy trì chế độ ở trong biên chế suốt đời, vì người đặt việc – dân gian đã lên
tiếng phê phán: “Tiến vi Bộ, thoái vi
Ban”, chỉ có lên không có xuống, đã được đặt việc rồi thì phải làm việc, càng
làm rách việc... Bộ máy quyền lực và cơ quan cứ phình mãi ra, lấy gì mà nuôi?..
Đảng ta không thể để ngoài tai những ý kiến như vậy. Hệ thống biên chế của nước
ta ưu ái con người tới mức không một cấp nào có thể đuổi nổi một nhân viên quèn
bất tài nào ra khỏi biên chế, trừ phi người này phạm trọng tội. ở đây định
hướng xã hội chủ nghĩa và ăn bám bị lẫn lộn. Ngoài ra còn biết bao nhiêu điều
rắc rối khác – mảnh đất mầu mỡ của kinh tế ngầm và biết bao nhiêu tiêu cực khác[153]...
Cần phải nhanh chóng tạo ra tình hình mọi cơ quan, dù thuộc hệ thống Đảng hoặc
Nhà nước, đoàn thể, hay doanh nghiệp nhà nước, mọi cán bộ nhân viên phải làm
việc trong những điều kiện thường xuyên chịu sự ràng buộc với
trách nhiệm và chức năng được giao, luôn luôn phải đối phó với sức ép thường
xuyên bị đào thải nếu không làm tròn chức trách được giao. Đã đến lúc
cần tạo ra trong toàn Đảng toàn dân sự giác ngộ sâu sắc hiện trạng đội ngũ công
chức nước ta, để tranh thủ được sự hậu thuẫn của toàn Đảng toàn dân cho việc thực hiện
và giám sát ngặt nghèo nhiệm vụ xây dựng một đội ngũ công chức đúng với
phẩm chất và năng lực phải có của nó trong một nhà nước pháp quyền, nhất là
trong nột nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì đây là một trong
những điều kiện quan trọng nhất để thực thi những chủ trương đường lối đúng đắn
của Đảng được xây dựng thành Hiến pháp, luật và các chế định nhà nước.
Cần thực hiện nghiêm túc nghị quyết của Đảng về
xóa bỏ “cơ chế chủ quản” – thực chất là xóa bỏ các “vương quốc” của đặc quyền,
đặc lợi. Phải thường xuyên phát hiện và xoá bỏ những “vùng chồng lấn” – nghĩa
là sự chồng chéo, cùng một việc mà nhiều cơ quan ban ngành cùng làm, dẫm chân
lên nhau. Đồng thời cũng phải thường xuyên phát hiện và xoá bỏ các “vùng
trắng” – nghĩa là những phần việc chẳng cơ quan hay cá nhân nào chịu
trách nhiệm. Cứ công khai minh bạch mọi vấn đề ra toàn xã hội, làm đúng tinh
thần Đại Hội VI (1986) đã nêu ra: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
cứ kiên định làm như vậy, dần dần chúng ta sẽ tìm ra
được cách khắc phục những yếu kém này trong quản lý nhà nước, đầy mạnh được cải
cách hành chính.
Cái yếu
nhất trong nhiệm vụ cải cách hành chính không phải là sự lúng túng về nội dung,
về phương thức thực hiện, mà là nói được nhưng không làm được như nói, vì nó
trực tiếp đụng chạm lợi ích sinh tử riêng tư của từng người. Và do đó ngại đụng
chạm.
Chúng ta thường lớn tiếng phê phán chế độ ăn bám
tại các nước khác, nhưng lại chưa dành cho sự ăn bám ngay trong hệ thống quản
lý điều hành đất nước ta sự nghiêm khác cần phải có. Luật Doanh nghiệp vừa mới
được Quốc Hội ban hành – một bước tiến quan trọng trong quá trình cải cách hành
chính; nhưng ngay lập tức cả một thiên la địa võng các mánh khoé tiêu cực mới
úp chụp lấy nó, đang lăm le vô hiệu hoá nó hoặc lạm dụng nó. Luật Đầu tư nước
ngoài và nhiều chính sách có liên quan đã được sửa đổi rất nhiều, nhưng môi
trường đầu tư vô cùng rắm rối vẫn tồn tại nguyên vẹn và tiếp tục xua đuổi đầu
tư nước ngoài, tiếp tục gây thêm tiêu cực bằng những thủ đoạn mới.
Việc đảng viên trong biên chế Nhà nước tiến hành
tự kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 6b hiện nay hầu như chưa hay không đụng
chạm vào những vấn đề vừa trình bầy trên. Thiết nghĩ đã đến lúc toàn Đảng, toàn
dân phải tuyên chiến với tình trạng trì trệ quá ngoan cố trong cải cách hành
chính; có lẽ nên bắt đầu từ:
Ø đơn giản hoá mọi cơ cấu
tổ chức quản lý và cơ chế điều hành theo đúng tinh thần “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ”, tiến tới giảm bớt tổ chức, giảm biên chế (một
việc đề ra từ ngày đầu xây dựng chính quyền cách mạng cho đến nay nhưng chưa
bao giờ thực hiện được!); đặc biệt chú trọng thực hiện Đảng lãnh đạo toàn diện
thay cho cách nghĩ và làm nắm trực tiếp, nắm toàn diện[154],
Ø đẩy mạnh minh bạch, công khai hoá trong mọi lĩnh vực –
trước hết là trong kinh tế,
Ø triệt để chấp nhận cạnh
tranh công khai trên thị trường giữa mọi thành phần kinh tế – Nhà nước làm mọi
việc ngày càng hoàn thiện thị trường và hệ thống luật pháp để thực hiện được sự
cạnh tranh lành mạnh này,
Ø kiên quyết thanh lọc cán
bộ nhân viên tiêu cực hoặc không làm được chức năng nhiệm vụ của mình,
Ø mạnh dạn xây dựng cơ chế
tài chính mới để thực hiện mọi người phải sống bằng lương và các nguồn thu nhập
chính đáng của mình phù hợp với kết quả lao động của bản thân và hiệu quả kinh
tế của đơn vị mình – Nhà nước thực hiện thừa nhận và bảo hộ về pháp lý toàn bộ
thu nhập này để tiến tới thực hiện công khai minh bạch hoá về thu nhập, về tài
sản của mọi công dân,
Ø kiên quyết loại bỏ các
DNNN thua lỗ; tách kinh tế ra khỏi hành chính, các đơn vị sự nghiệp và các đoàn
thể; xoá bỏ triệt để cơ chế chủ quản, xóa bỏ cấp trung gian, tăng cường triệt
để vai trò tự chủ của địa phương và của doanh nghiệp,
Ø thực hiện những chính
sách xã hội nhằm hỗ trợ tích cực việc xử lý những hệ quả xã hội của quá trình
này...
Tìm ra cách xử lý thành công 2 vấn đề mấu chốt
là sở hữu và dân chủ có lẽ là chìa khoá để cải cách hành chính thành công. Trước hết nên bắt đầu từ tạo lập ra sự minh bạch và công khai của sở hữu[155]
và thực hiện dân chủ có thực chất. Không thực hiện được hai đòi hỏi quan trọng
này, chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trên thực tế đang mở
rộng kinh tế ngầm với mọi hậu quả khôn lường.
Một khi mỗi công dân có một đồng vốn cảm thấy
thôi thúc phải làm thành ra hai đồng chứ không cần phải giấu diếm, cất trữ, một
khi anh ta hay chị ta cảm nhận được và thấy cần dựa vào các thể chế và cơ quan
hành chính để thành đạt mục tiêu này, chứ không cần phải đối phó, mua chuộc các
cơ quan hành chính.., một khi đầu tư nước ngoài lại trở lại sôi động, năng
nổ..., thì đấy là những biểu hiện tập trung nhất, những thước đo tin cậy nhất
nói lên cải cách hành chính đang tiến triển đúng hướng.
Xin lưu ý rằng trong 3-4 thập kỷ nay, tại nhiều
nước thế giới đang diễn ra làn sóng năng động và liên tục về cải cách hành
chính, nguyên nhân chủ yếu là phải đổi mới quản lý hành chính để thường xuyên
nâng cao năng lực toàn xã hội theo kịp xu thế phát triển và cạnh tranh của kinh
tế trong thế giới toàn cầu hoá, giành lấy cho nước mình những lợi thế mới. Cải cách
hành chính không phải chỉ là yêu cầu phát triển riêng của nước ta. Trên lĩnh
vực này thực sự đang diễn ra một cuộc chạy đua quyết liệt, sống còn của nhiều
quốc gia trong cộng đồng thế giới[156].
Cải cách hành chính cần được nhận thức là một
nhiệm vụ bức bách và phải được thực hiện với quyết tâm chính trị và trí tuệ rất
cao, bắt đầu làm từ trong Đảng làm ra, làm từ trên làm xuống, lấy thực thi Hiến
pháp làm chuẩn mực, lấy phát huy dân chủ làm động lực.
Theo nhịp phát triển
đất nước đạt được và theo yêu cầu phải huy động mọi nguồn lực từ nền kinh tế
thế giới toàn cầu hoá để phát triển đất nước mình, từng bước Hiến pháp cũng cần
được điều chỉnh cho phù hợp. Phải làm cho Hiến pháp trở thành cương lĩnh chung
cao nhất của toàn thể dân tộc, ai ai cũng phải tuân thủ. Là đảng viên lại càng
phải chăm lo gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và mọi luật pháp của Nhà nước. Mục
tiêu của nhiệm vụ chiến lược cải cách hành chính do Đảng ta lãnh đạo
toàn Đảng toàn dân thực hiện là phải vươn tới xây dựng một Nhà nước hậu thuẫn đắc lực sự phát triển
của từng công dân và từng doanh nghiệp nước mình, giúp họ thực hiện tốt nhất
vai trò là chủ thể của đất nước trong nhiệm vụ giành vị trí xứng đáng cho đất
nước trong nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá.
6. Xây dựng Đảng tiền
phong chiến đấu và tăng cường hệ thống chính trị của nước ta.
Các vấn đề và các kiến nghị nêu trong các điểm
từ 1
đến 5
vừa nêu trên đã trình bầy những nội dung cụ thể nên được đưa vào nhiệm vụ xây
dựng Đảng về mặt đường lối chủ trương chính sách. Phần này xin tập trung một số
suy nghĩ vào nội dung tăng cường tính tiền phong chiến đấu của
Đảng.
Xây dựng tính tiền phong chiến đấu của Đảng
trong giai đoạn phát triền mới của đất nước, xin đề nghị đặc biệt lưu ý đến
những đặc điểm mới của tình hình nước ta trong một thế giới đã thay đổi sâu sắc
khi bước vào thế kỷ 21, đó là:
(1) nền kinh tế mới dựa vào
tri thức và toàn cầu hoá ở giai đoạn hiện nay đang mang lại cho nước ta cơ hội
mọi người có tri thức và có bản lĩnh đều có thể làm giầu, đẩy nhah sự nghiệp
CNH,HĐH đất nước theo định hướng XHCN;
(2) để làm giầu trong nền
kinh tế mới của thế giới, mỗi người dân
nước ta đều cần sự hiệp đồng của nhiều người và của cộng đồng, nâng cao khả
năng hợp tác và cạnh tranh với bên goài - đặc biệt người dân rất cần sự hậu thuẫn
của Nhà nước để làm tốt những việc này,
(3) nhân dân ta cho đến nay
đã tự tạo cho mình được nguồn nhân lực và trí lực có chất lượng đáng kể, có nền
văn hiến và tinh thần tự trọng cao, đã tích tụ được thực lực nhất định – nghĩa
là không còn phải bắt đầu sự nghiệp với hai bàn tay trắng!
(4) tri thức mới, sự phát
triển của khoa học và công nghệ, bao gồm cả khoa học xã hội, khoa học quản lý,
sự phát triển của giáo dục... cho phép mở ra nhiều con đường, có thể tiếp
cận từ nhiều phía cho việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng xã hội hiện đại hoá
có lợi cho dân chủ và cho phát huy mọi tiềm năng của con ngườì - một cơ hội
vàng phát huy những mặt mạnh của con người Việt Nam;
(5) đất nước ta chưa bao giờ
giành được vị thế quốc tế thuận lợi như
bây giờ, là bạn của mọi quốc gia và đang có cơ hội trở thành cầu nối của hoà
bình, hữu nghị và hợp tác...
(6) Đảng Cộng Sản Việt Nam có bản lĩnh đổi mới để
tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo tuyệt đối trong giai đoạn phát triển mới của nước
ta.
Tất cả những điều kiện này chưa hề có khi Marx
viết Tuyên Ngôn Cộng Sản năm 1848, thậm chí chưa hề có sau khi nước ta hoàn
thành sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước năm 1975, chưa hề có cách đây
một hai thập kỷ. Cách mạng triệt để nhất , tính định hướng xã hội chủ nghĩa
cao nhất đối với nước ta, theo tôi là tận dụng đến cùng tất cả những điều kiện
chưa hề có này, nhằm mau chóng san lấp khoảng cách phát triển còn đang
ngăn cách nước ta với thế giới bên ngoài.
Những thách thức mới đối với nước ta có lẽ nẩy
sinh từ những nguyên nhân sau đây:
(1) Những yêu cầu mới do chính
bản thân thành tựu phát triển của 15 năm đổi mới vừa qua đặt ra,
(2) những đòi hỏi của đất
nước trong giai đoạn phát triển sắp tới trong bối cảnh quốc tế mới, và
(3) những khó khăn do quá
trình phát triển trong những thập kỷ vừa qua để lại – trước hết là những khó
khăn trong cơ cấu nền kinh tế (bao gồm cả những khó khăn mới trong những năm
tốc độ tăng trưởng suy giảm từ 1996 tới nay), những yếu kém cố hữu trước đây
hoặc mới nẩy sinh trong đổi mới.
Tôi muốn nhấn mạnh, tiềm năng của nước ta để
vượt qua những thách thức này và để nắm bắt những cơ hội đang tới là rất lớn,
chỉ cần có cách nhìn vấn đề thực khách quan và có quyết tâm chính trị cao của
toàn Đảng và toàn dân. Có rất nhiều ví dụ trong cuộc sống hàng
ngày chứng minh điều này:
(1) Trong khi ngân hàng
thương mại ứ đọng vốn vì không cho vay được, thì vẫn có nhiều hộ kinh tế, các
doanh nghiệp, trang trại... phải đi vay vốn với lãi suất cao gấp 3 – 4 lần so với lãi suất cho vay của
ngân hàng. Tôi dám đưa ra sự ước lượng: Chỉ
riêng một việc Ngân hàng Nhà nước và hệ thống ngân hàng thương mại của cả nước
ta làm đúng chức năng của mình theo đúng nghiệp vụ tất yếu bất kỳ một ngân hàng
tiêu chuẩn nào ở một nước đang phát triển trung bình trên thế giới đều buộc
phải làm, hiệu quả huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực trong toàn bộ nền
kinh tế nước ta có thể tăng lên 20 – 30% so với hiện tại; điều này cũng có
nghĩa các lãng phí thất thoát chí ít có thể giảm tương đương như thế. Làm được
như vậy, sự lành mạnh trong nền kinh tế còn lớn hơn nhiều và không thể đo đếm được
bằng con số.
(2) Nếu thay đổi hẳn – theo
hướng đơn giản hoá - cơ chế, chính sách, các quy định và luật về thuế, sửa đổi
cách làm thuế VAT, giảm bớt các loại thuế suất và hạ thấp thuế suất xuống mức
hợp lý -, chuyển từ “thu thuế” theo áp đặt sang “chủ động đóng thuế theo luật”
và đóng thuế trực tiếp qua ngân hàng kèm theo nguyên tắc hậu kiểm... chắc chắn
nguồn thu được nuôi dưỡng và tăng lên,
thuế thu được cũng sẽ tăng lên, bộ máy thu thuế sẽ giản chính đi nhiều,
nhũng nhiễu vì thế cũng bớt nhiều... Thực ra đây chủ yếu chỉ là cách chuyển
phần thuế lậu (do trốn thuế hoặc rơi vào túi cán bộ thuế) sang phần thuế chính
thức và bớt phiền hà cho người có nghĩa vụ đóng thuế... Ngân sẽ sách tăng lên
chứ không giảm đi, tài chính doanh nghiệp và cá nhân sẽ dần dần trở nên minh
bạch hơn, nhờ đó Nhà nước sẽ có công cụ vỹ mô để kiểm soát nền kinh tế tốt
hơn... Đấy là chưa nói ngay từ bây giờ phải tính chuyện nhanh nhanh chuyển sang
cơ cấu ngân sách chủ yếu dựa trên thuế thu nhập cá nhân, thuế lợi tức doanh
nghiệp và thuế VAT cho kịp các lộ trình AFTA, APEC, WTO... Là nước đi sau, Việt
Nam có cả một kho tàng kinh nghiệm thế giới vô cùng phong phú cho vấn đề này.
(3) Ngành tài chính - ngân hàng cả nước ta có hàng nghìn cán bộ,
chuyên gia trên đại học, thạc sỹ, tiến sỹ, giáo sư, chẳng lẽ hai đề tài (1) và
(2) vừa nêu trên vượt sức đội ngũ cán bộ chuyên gia và khoa học này?
(4) Đầu tư đúng hướng và
đúng lúc, thì với nguồn vốn ngân sách còn hạn hẹp, vẫn có thể tháo gỡ được
nhiều điều – nhất là về tạo việc làm và
phát triển kết cấu hạ tầng, có thể sớm tăng thêm hiệu quả của cả nền kinh tế và
đẩy nhanh hơn quá trình chuyển dịch cơ cấu. Chỉ
riêng một việc thay đổi cơ chế giải ngân cho các dự án đã được duyệt để mọi dự
án có thể triển khai ngay từ đầu năm ngân sách – nghĩa là khắc phục tình trạng
cố hữu từ bao nhiêu năm nay: dự án chờ hàng quý mới được giải ngân, ngân sách
đầu tư đã được duyệt cũng phải chờ hàng quý việc xét duyệt các dự án mới chi
được...-, nếu tăng cường quyền tự chủ cho các tỉnh trong việc thực hiện kế
hoạch đầu tư và ngân sách đã được giao – tỉnh sẽ không phải vô cùng tốn kém đi
đi về về, chạy chọt luôn lọt qua bao nhiêu cửa ải tiêu cực, sẽ đỡ được bao
nhiêu phong bì... để xin giải ngân cho từng khoản,
– chỉ riêng thực hiện được một quyền tự chủ này thôi, với tổng vốn đầu
tư của cả nước hiện nay, hiệu quả đầu tư cũng tăng lên cả về khối lượng và chất
lượng chúng ta khó hình dung được, tháo gỡ được biết bao nhiêu ách tắc, sức
năng động của nền kinh tế tăng lên không thể đo đếm được... Chẳng lẽ đây không
phải là một việc trong tầm tay? Xin thử hình dung: chỉ cần mỗi dự án giảm được
một quý tình trạng người chờ việc, việc chờ cấp vốn, vốn đã duyệt nhưng đành
nằm chết vì chờ các thủ tục giải ngân... tình hình sẽ ra sao? Mỗi năm cả nước
có hàng vài trăm dự án như thế!
(5) Nếu hoàn thiện và phát
triển các loại thị trường – trước hết là thị trường vốn, đất đai, lao động,
công nghệ.., đẩy mọi thành phần kinh tế ra thị trường công khai minh bạch, sẽ
giảm bớt được rất nhiều lãng phí hiện có.., thì nguồn lực dôi dư ra để thực
hiện các chương trình kinh tế có lợi sẽ không phải là ít, sẽ giảm bớt được cả
kinh tế ngầm, Nhà nước sẽ có thêm công cụ và hệ thống tín hiệu tin cậy trong
tay để tăng cường sự quản lý của mình...
(6) Nếu có các chủ trương
chính sách theo tinh thần “bung ra làm ăn” như Đảng ta đã từng thực hiện “khoán
100” (1981), khoán 10 (1986) “kế hoạch 3 phần”[157]...
trước đây, nhằm khuyến khích và bảo hộ các thành phần kinh tế trong mạo hiểm đi
vào thị trường mới, sản phẩm mới, tạo thêm việc làm.., nền kinh tế sẽ sớm lấy
lại được đà tăng trưởng và phát triển cao... Giả thử những cố gắng này được đặc
biệt ưu tiên dành cho phát triển kinh tế phần mềm (soft ware), có gì có thể cản
trở nước ta trong vòng 5 – 10 năm tới mỗi năm có thể xuất khẩu từ 200 – 300
triệu – 1 tỷ – vài tỷ ...USD hàng hoá và dịch vụ này?[158]
Bước
khởi động đã bắt đầu rồi – xin hãy triển khai tốt Luật doanh nghiệp vừa mới ban
hành... Xin tiến tới toàn bộ nền
kinh tế gần đây sẽ chỉ có một Luật doanh nghiệp chung cho tất cả các thành phần
kinh tế...
(7) Nếu bằng việc nâng cao
vai trò tự chủ của các DNNN, xoá bỏ được những bao cấp còn lại, đẩy DNNN cọ sát
mạnh mẽ hơn nữa với thị trường, hiệu quả của kinh tế quốc doanh nói riêng và
của cả nền kinh tế nói chung sẽ được nâng cao rõ rệt.
(8) Cả nước đã quy hoạch hai
khu công nghệ cao, nếu chúng ta đưa chúng vào hoạt động sớm?.. Chí ít là hãy
tập trung sức lực sớm đưa một trung tâm vào hoạt động thực sự... Nếu bằng các
biện pháp làm thông thoáng nền kinh tế giúp cho các phương thức kinh doanh theo
các mô hình mía đường Lam Sơn, nông trường Sông Hậu, công ty sơn tổng hợp Hà
Nội, các loại hình kinh tế đa dạng của huyện Quỳnh Lưu, hàng dệt may, hàng da
giày, thuỷ sản, công ty May 10, gấm Thái Tuấn, Vinamilk..., xuất khẩu máy xay
xát gạo, máy cơ khí nhỏ... được nhân lên rộng rãi trong cả nước... Thêm được
một xu thu nhập cũng quý, nếu chúng ta hiểu rằng xuất khẩu 1 triệu USD hàng thủ
công mỹ nghệ là tạo ra việc làm cho khoảng vài ba nghìn lao động nhàn rỗi –
trước hết ở nông thôn – nếu chúng ta có những chính sách cần thiết hỗ trợ mặt
hàng này[159]...
(9) Nếu có chính sách và môi
trường tốt thu hút được nhiều đầu tư trực tiếp của nước ngoài hướng về xuất
khẩu – chứ không phải hướng vào thay thế nhập khẩu, nếu tạo ra được sự hợp tác
cùng có lợi với những đối tác lớn – trước hết là các TNCs, thì khả năng tăng
nhanh xuất khẩu của nước ta vào những thị trường lớn là khả quan, quá trình
hiện đại hoá đất nước cũng sẽ năng động hơn – và chính điều này mới là ý nghĩa
quan trọng nhất của thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
(10)
Nếu Quảng Ninh không đi sâu thêm nữa vào than,
mà lại quy hoạch được, thực hiện được và kiểm soát được để triển khai thành một
trung tâm công nghiệp, thương mại và dịch vụ, nếu Nhà nước trao cho Quảng Ninh
có một cơ chế nâng cao quyền tự chủ, khả
năng sáng tạo và trách nhiệm của tỉnh để thực hiện những mục tiêu này, có lẽ
chỉ trong vòng 5 – 10 năm Quảng Ninh có thể trở thành một vùng kinh tế trọng
điểm mới của cả miền Bắc, công ăn việc làm nhiều lên, sự lam lũ của ngành than
sẽ giảm đi... Những gì đã làm được ở Đồng Nai, Bình Dương, Vũng Tàu.., hoàn
toàn có thể thực hiện được, thậm chí có thể thực hiện tốt hơn ở Quảng Ninh vì
có lợi thế kẻ đi sau. So với tất cả các địa phương trong cả nước,
Quảng Ninh có những ưu đãi trời đất ban cho về mặt địa lý tự nhiên khó một tỉnh
nào của nước ta có thể so sánh được, Quảng Ninh có nguồn nhân lực dồi dào và
nhìn chung có trình độ phát triển tốt, nhân dân có giác ngộ chính trị cao.
Quảng Ninh là một địa phương có vị trí địa lý kinh tế và địa lý chính trị đặc
biệt thuận lợi trong mối quan hệ bang giao ngày càng phát triển của nước ta với
thế bên ngoài và trong xu thế phát triển hiện nay của khu vực... Tóm lại, Quảng
Ninh có nhiều điều kiện đi thẳng lên nền kinh tế hiện đại, một viên ngọc quý
của cả nước, xin làm tất cả mọi việc cho viên ngọc ấy toả sáng – và ngay từ bây
giờ, xin tìm mọi cách tránh những sai phạm trong lựa chọn chiến lược và quy
hoạch phát triển có thể ảnh hưởng đến tương lai đầy hứa hẹn của Quảng Ninh... [160].
(11)
Ngoài những trung tâm kinh tế hiện nay, đất nước
ta còn có vài ba địa phương có thể trở thành những động lực mạnh mẽ kéo nền
kinh tế cả nước đi lên, còn vài ba ngành kinh tế có nhiều hứa hẹn. Với ý nghĩa
nền kinh tế hiện đại hoá, nền kinh tế là cầu nối của khu vực với thế giới bên
ngoài - chứ không phải với ý nghĩa nền kinh tế nguyên liệu, khép kín.
(12)
Nếu các cơ quan nhà nước, trước hết là các Bộ,
Sở, UBND, các Viện, Hiệp hội... thường xuyên cung cấp cho nhân dân, cho doanh
nhân và các doanh nghiệp những thông tin kinh tế và dịch vụ hữu ích, dành cho
họ sự hướng dẫn và hỗ trợ cần thiết đi vào sản phẩm mới hoặc thị trường mới,
giúp họ giảm bớt được những rủi ro, hớ hênh... thì nền kinh tế đất nước được
nhờ nhiều lắm. Những khă năng này của các cơ quan đơn vị nói trên rất lớn, chỉ
còn thiếu ý thức và nhiệt tình khai thác những khả năng này cho dân, thậm chí
nhân dân không đòi hỏi phải cho không nếu đấy là những sản phẩm thông tin và
dịch vụ hữu ích... Nói cho nghiêm khắc, nếu bớt được sự lười biếng, ăn bám,
nhũng nhiễu trong những cơ quan đơn vi này, tăng thêm được tinh thần phục vụ
dân, thì có thể giúp dân biết bao nhiêu việc mở mang sản xuất kinh doanh và
mang lại sự giàu có.
Vân... vân... Nghĩa là danh mục này còn có thể
kéo dài nữa. Nghĩa là thực lực và cơ hội đưa nước ta đi lên lớn lắm. Tổ quốc
chúng ta thực sự giầu đẹp – nếu nhìn theo con mắt phát triển theo phương châm
tận dụng xu thế phát triển của kinh tế thế giới, với ý chí chính trị lựa chọn
đối tác và khai thác thị trường thế giới để mở rộng không gian kinh tế cho nước
ta...
Nhưng làm việc theo cách phô trương, sống theo
kiểu lãi giả lỗ thật, thì một việc nhỏ cũng không thành đạt được, thậm chí những
thành tựu đã giành được cũng có thể bị lụn bại dần. ở đây ăn bám và bóc lột
quyện vào nhau, bảo vệ nhau, nguỵ trang cho nhau, không hiếm trường hợp nhân
danh bảo vệ định hướng xã hội chủ nghĩa.
Còn như cả nước làm việc với trí tuệ và phẩm
chất cách mạng, - trước hết là làm việc một cách trung thực với chính mình, tự
mình phán xét mình - chưa bao giờ đất
nước ta có trong tay thực lực và cơ hội lớn như bây giờ. Xin suy nghĩ lao lung
điều này và làm việc – nghĩa là không nói chay, nói xuông nữa. Càng không nên
chỉ bảo dạy thiên hạ điều này điều khác theo như cách làm của nhà văn Trần Mạnh
Hảo mà tôi đã trích dẫn và nêu ra trong phần Đôi điều về toàn cầu hoá. Chúng ta nên dành hết nghị lực của mình quan
tâm học hỏi, tự dạy lấy mình, tự lo lấy việc của chính đất nước mình. Nhưng
động lực để sống và làm việc như vậy trước hết là giá trị của dân, là dân làm chủ, là
dân chủ - cội nguồn và sức
sống vô tận của chủ nghĩa yêu nước sau khi nhân dân đã giành lại đất nước và là
chủ nhân của đất nước.
Có thể nói nước ta có đủ các điều kiện để phấn
đấu trở thành một trung tâm kinh tế phát triển mới của khu vực Đông Nam A’, là
cầu nối cho Đông Nam A’ lục địa với thế giới bên ngoài. Tất cả phụ thuộc vào ý chí
chính trị của dân tộc ta và Đảng ta, vào quyết tâm: chẳng những không tách mình ra khỏi xu thế phát triển của thế giới, mà
còn có nghị lực và trí tuệ khai thác được xu thế phát triển của thế giới để
thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh của
nước mình.
Theo suy nghĩ của tôi, ngày nay xây dựng tính
tiền phong chiến đấu của Đảng ta có lẽ trước hết là từ nhận thức sâu sắc những đặc
điểm mới của tình hình nước ta như vừa trình bầy trên trong thế giới ngày nay,
nhận thức những đòi hỏi mới trong phát triển đất nước, xây dựng quyết tâm chính
trị nói trên trong toàn Đảng, từ đó tạo ra sự đồng thuận dân tộc vững chắc bảo
đảm thực hiện thắng lợi quyết tâm chính trị ấy. Đó là chìa khoá mở ra
con đường thực hiện thắng lợi sự nghiệp dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân
chủ và văn minh theo tinh thần Hồ Chí Minh.
Một nước Việt Nam thịnh vượng, văn minh, giàu
tính nhân văn, do những người dân làm chủ đất nước đồng tâm hiệp lực xây dựng
lên dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, được thế giới tôn trọng vì
chất lượng sản phẩm cao và chữ tín, lại là cầu nối kinh tế và văn hoá trong khu
vực, là biểu tượng của hoà bình, hữu nghị và hợp tác – chẳng lẽ một quốc gia
như vậy không phải là là khát vọng của dân tộc ta? Xây dựng một quốc gia như
vậy chẳng lẽ không phải một nước xã hội chủ nghĩa? Chẳng lẽ đấy không phải là
chủ nghĩa xã hội hiện thực? Có lẽ đấy mới thực sự là những tiêu thức đo những
thành quả của định hướng xã hội chủ nghĩa: phát huy con người, mức nâng cao
hạnh phúc của con người, sự giàu có và vị thế quốc tế của đất nước.., chứ không
phải là đo tỷ lệ kinh tế quốc doanh bao nhiêu, tỷ lệ kinh tế hợp tác xã bao
nhiêu, ODA tranh thủ được bao nhiêu...
Và cũng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội hay
định hướng xã hội chủ nghĩa nếu tài sản vốn liếng của quốc gia không sinh sôi
nảy mở mà cứ bị tham nhũng tiêu cực ăn bớt, cắt xén, hao hụt dần, ngày chỉ đẻ
thêm những nợ nần mới cho đất nước, còn những khả năng phát triển khác thì bị
kìm hãm. Cũng không thể có định hướng xã hội chủ nghĩa nếu cứ để kinh tế ngầm
phát triển, tiếp tục ngấm ngầm đẻ ra các đặc quyền đặc lợi, để cho ăn bám và cơ
hội phình mãi ra, trong khi đó dân chủ, và tinh thần của
dân do dân và vì dân teo dần lại...
Có tinh thần và ý chí này trước đã, rồi chúng ta
sẽ có sự thông minh cần thiết trả lời câu hỏi Lênin đã từng đặt ra: Làm gì?
Đặt vấn đề như vậy, từ công tác kết nạp đảng
viên mới, đến tổ chức hệ thống hoạt động
và xây dựng nội dung hoạt động của Đảng nói chung và của đảng bộ cơ sở, của chi
bộ nói riêng, công tác rèn luyện giáo dục đảng viên, công tác đào tạo bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, công tác nghiên cứu xây dựng đường lối chính sách mọi mặt của
Đảng, lựa chọn đội ngũ cán bộ... sẽ phải đổi mới trên nhiều phương diện. Xây
dựng sự thống nhất tư tưởng và hành động trong Đảng trước hết cũng cần xuất
phát từ những nội dung mới trong nhiệm vụ xây dựng Đảng như vừa trình bày. Nội
dung sinh hoạt của từng chi bộ Đảng cũng phải gắn bó mật thiết hơn nữa với môi
trường kinh tế, chính trị và xã hội của đơn vị hay địa phương nơi chi bộ ấy
hoạt động, không thể chung chung như hiện nay.
Cương lĩnh Đại hội VII thông qua ghi rõ: “Đảng
lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng
liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình đô trí tuệ, năng lực lãnh đạo.” Chưa
bao giờ chúng ta nói nhiều đến nhiệm vụ xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh như
ngày nay, nhất là trước mỗi kỳ đại hội các cấp. Nhưng xin hãy so sánh những gì
trong thực tế thường diễn ra và những yêu cầu vừa trình bày trên.
Ngày này chúng ta nói rất nhiều đến tư tưởng và
học thuyết của Marx về xây dựng Đảng tiền phong chiến đấu của giai cấp công
nhân. Nhưng phải chăng chúng ta chưa có sự quan tâm đúng mức đến những cảnh báo
của Marx về nguy cơ tha hoá của Đảng cầm quyền? Lênin và Hồ Chí Minh cũng có
nhiều ý kiến cảnh báo chúng ta vấn đề nghiêm trọng này. Marx không chỉ cảnh báo
bằng lý lẽ, mà còn lấy kinh nghiệm lịch sử đã xảy ra ra trong thực tế để răn đe
nguy cơ và hậu quả của sự tha hoá này: Cuộc cách mạng Pháp năm 1789 vĩ đại làm
chấn động châu Âu và đánh thức phong
trào dân chủ ở nhiều nước trênthế giới; nhưng sự bế tắc về đường lối phát huy
thành quả cách mạng cùng với sự tha hoá của các lực lượng lãnh đạo, dần dà hình
thành nhà nước chuyên chế quan liêu. Thực trạng này về sau đem lại hệ quả là
tạo cơ hội cho độc tài Napoléon năm 1851 làm đảo chính xoá bỏ mọi
thành quả cách mạng, năm 1852 lên ngôi hoàng đế[161].
Beethoven thất vọng đến mức xé bản nhạc giao hưởng Die Heroika (tạm dịch: Bản anh hùng ca) – bản
giao hưởng số 3 - vừa mới viết xong – dự định tặng cho Napoléon với tư cách là
người anh hùng chiến đấu cho tự do, sau đó Beethoven giữ bản nhạc giao hưởng
bất hủ này cho các chiến sỹ đã hy sinh vì lý tưởng tự do.
Người cộng sản Việt Nam cần từ nhận thức sâu
sắc tình hình mới dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật: Sự tha hoá và tình trạng
bất cập (với nhiệm vụ) đang xảy ra trong Đảng ta, trong đội ngũ đảng viên ta ở
mức độ hiện nay không thể xem thường.
Tôi đánh giá cao một ý kiến cho rằng: Càng muốn giữ vững chế độ một Đảng , càng phải
thực hiện dân chủ, càng phải đại đoàn kết dân tộc, càng phải phát triển Mặt
trận rộng rãi. phải làm cho các tổ chức trong Mặt trận thực sự có năng lực, bản lĩnh
tham gia tích cực, chủ động và sáng tạo vào mọi công việc của đất nước.
Tôi không dám nói là đã nghiên cứu kỹ vấn đề đa
nguyên chính trị, nhưng có thể nói đã không bỏ qua việc này. Trong tầm nhận
thức của mình, sự lựa chọn của tôi là: Vào thời điểm lịch sử này của đất nước,
ưu tiên hàng đầu là phải xuất phát từ điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay tận
dụng mọi truyền thống lịch sử, văn hóa, cách mạng của đất nước, để phát triển
con người và nâng cao năng lực toàn xã hội. Không thể tiêu phí thời gian và
năng lượng vào một phiêu lưu hay thể nghiệm nào, không thể biến nước ta thành
một phòng thí nghiệm. Sự đồng tâm nhất trí phấn đấu dưới sự lãnh đạo của Dảng
thực hiện ưu tiên nay là phục vụ lợi ích dân tộc tối ưu nhất. Điều kiện tiên
quyết là Đảng ta phải ra sức nâng cao phẩm chất và năng lực cách mạng của mình
và nhân dân ta không chịu khuất phục trước những yếu kém của chính bản thân
mình.
Cùng với công việc đổi mới để nâng phẩm chất và
cao năng lực lãnh đạo của Đảng, phải đẩy mạnh đổi mới các tổ chức đoàn thể
trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trước hết phải xây dựng những tổ chức đoàn thể
ấy trở thành những đại diện có phẩm chất và trí tuệ, chủ động nói lên được
tiếng nói của giới mình về những vấn đề và nhiệm vụ của đất nước, là những diễn
đàn có chất lượng để các thành viên trong giới mình bầy tỏ thái độ và chính
kiến của mình về những vấn đề sự nghiệp phát triển đất nước đề ra, về xây dựng
và thực hiện những chủ trương chính sách của Đảng và luật pháp của nhà nước, là
nơi nâng cao năng lực và trí tuệ của các thành viên trong giới mình, và từ đó
góp phần nâng cao năng lực và trí tuệ của toàn xã hội. Đây là một đòi hỏi bức
thiết, rất tự nhiên, nghĩa là tất yếu, nhưng hoàn toàn không dễ thực hiện. Hay
đây chỉ là một mong muốn không tưởng?
Nhất thiết khắc phục khuynh hướng tràn lan hiện
nay là hạ thấp vai trò các đoàn thể trong Mặt trận, hành chính hoá các đoàn
thể, biến các đoàn thể thành những người thụ động truyền bá các chủ trương
chính sách của Đảng, thành những người làm công tác tuyên truyền với chất lượng
và hiệu quả rất hạn chế, thành những người làm công tác phong trào thường rất
hình thức; thậm chí có nơi hoạt động đoàn thể gần như đơn thuần là một hoạt
động văn hoá quần chúng... Không, không phải như vậy, không xây dựng và
phát triển các đoàn thể theo hướng như vậy, nếu Đảng ta quan tâm đến xây dựng
một hệ thống chính trị mạnh cho đất nước.
Trong hệ
thống chính trị có một đảng, bên cạnh chiều hướng “đảng hoá” hệ thống Nhà nước
(bao gồm tất cả các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp – thể hiện qua sự
lúng túng giữa các khâu lãnh đạo – quản lý – làm chủ)
đã đề cập tới trong các phần trên, khuynh hướng đảng hoá, hành chính hoá, tầm
thường hoá các đoàn thể, các tổ chức quần chúng, các hiệp hội... là những hiện
tượng trực tiếp hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Thực tế này làm Đảng ta suy
yếu và tăng thêm các nguy cơ tha hoá trong Đảng, sẽ từng bước, từng bộ phận tự
giác hoặc không tự giác biến hoá Đảng ta từ Đảng lãnh đạo thành Đảng cai trị,
sẽ thúc đảy sự phát triển những mâu thuẫn giữa cai trị và bị cai trị trong xã
hội. Những hiện tượng này đồng thời kìm hãm sự phát huy vai trò quan trọng
không thể thiếu được của các đoàn thể và các tổ chức quần chúng trong hệ thống
chính trị nước ta, làm yếu những tổ chức này và kìm hãm sự phát triển năng lực
toàn xã hội. Cuối cùng những khuynh hướng này sẽ từng bước biến chất toàn bộ hệ
thống chính trị của đất nước. Để cho sự biến chất này phát triển, có sự tác
động nguy hiểm của quốc nạn tiêu cực và tham nhũng, hệ thống chính trị của đất
nước ta dần dà sẽ mất khả năng phát huy sức mạnh của nhân dân, bản thân các
tầng lớp nhân dân sẽ xa lánh các tổ chức của mình và xa lánh cả Đảng; đồng thời
bản thân hệ thống chính trị của đất nước cũng sẽ mất khả năng đề kháng trước
mọi diễn biến - đó chính là môi trường và cơ hội tốt nhất của diễn biến hoà
bình.
Đó chính là thứ diễn biến hoà bình rất hiện
thực, nhưng hình như sự quan tâm của chúng ta lại hướng vào một thứ diễn biến
hoà bình khác không thể nào so sánh được với nguy cơ diễn biến hệ thống chính
trị như vừa trình bày trên. Xin luôn luôn bám chắc nguyên tắc đã ghi trong
Cương lĩnh của Đảng: “Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt
động tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và
các đoàn thể. Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện cho Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân hoạt động có hiệu quả.”
Một đội bóng đá giỏi chẳng những cần đội trưởng
giỏi mà còn phải có đồng đội là các cầu thủ xuất sắc, mỗi người có một biệt
tài; đội trưởng phải có khả năng thiết
kế sự hiệp đồng các biệt tài ấy để làm nên thắng lợi. Trong suốt quá trình cách
mạng của đất nước, chúng ta thời nào cũng có biết bao nhiêu kinh nghiệm quý báu
về phát huy vai trò các đoàn thể, biết bao nhiêu thành tựu của đất nước không
thể tách rời vai trò các đoàn thể – kể cả trong lĩnh vực xây dựng Đảng. Đảng ta
nên đặc biệt quan tâm phát huy truyền thống này, nghiêm túc làm mọi việc nâng
cao hơn nữa vai trò các đoàn thể, tạo mọi điều kiện làm cho các đoàn thể tự
vươn lên được làm hết chức năng của mình, kiên quyết loại bỏ mọi việc làm hình
thức mà trên thực tế là hạ thấp vai trò các đoàn thể. Bản thân các đoàn thể
cũng không được tự hạ thấp và làm mất vai trò của mình. Trong chế độ một Đảng,
nói dân chủ thực chất – trước hết phải làm thật tốt những việc này. Còn đội
bóng đá chỉ có đội trưởng giỏi, các cầu thủ còn lại chỉ là những người thiên
lôi chỉ đâu đánh đấy, thì bản thân đội trưởng phải một mình trực tiếp tự làm
bàn – và chuyện này không thể xẩy ra được trong bóng đá. Một quốc gia “đá” với
cả thế giới lại càng như vậy.
Đặc biệt Đảng cần quan tâm xây dựng hệ thống Nhà
nước vững mạnh, đủ năng lực quản lý, điều hành toàn bộ công việc của đất nước
theo Hiến Pháp và các Luật được ban hành. Quốc hội phải được nâng cao về chất
lượng để làm tốt hơn nữa nhiệm vụ lập pháp và nhiệm vụ là cơ quan Nhà nước
quyền lực cao nhất của cả nước nhằm đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao
hơn trong giai đoạn phát triển mới của
đất nước, như đã ghi trong Báo cáo chính trị của Đại hội VIII. Đây thực sự là
một vấn đề khó, phải mất rất nhiều công sức nghiên cứu, đổi mới việc xây dựng
Quốc Hội và tìm ra những phương thức làm việc mới có thực chất. Nhưng việc đầu
tiên là phải nhìn nhận thật nghiêm túc vai trò của Quốc Hội, làm mọi việc để
Quốc Hội thực hiện đúng chức năng đã ghi trong Hiến Pháp.
Các Hội đồng nhân dân các cấp rất cần được kiện
toàn để làm tốt nhiệm vụ của mình. Các HĐND trước hết là một tổ chức của hệ
thống Nhà nước (chứ không phải cơ quan) thay mặt nhân địa phương giám sát tại
địa phương mình việc thực hiện Hiến Pháp, các luật pháp chung và các định chế,
chính sách chung của cả nước tại địa phương mình.
Cả nước chỉ có một Hiến Pháp và một hệ thống
luật pháp và các chế định duy nhất làm khung khổ chung. Vì vậy các Hội đồng
nhân dân các cấp không nên được hiểu và thiết kế như là các “quốc hội địa
phương”. Đương nhiên HĐND phải làm chức năng giám sát UBND địa phương mình,
giám sát các cơ quan nhà nước trên địa bàn của mình. Trong khung khổ chung của
Hiến Pháp và hệ thống pháp luật của cả nước, các HĐND có tiếng nói quyết định
về các việc của địa phương mình. Trong quá trình cải cách hành chính liên tục
và sâu sắc hiện nay của nhiều nước trên thế giới, có nhiều kinh nghiệm phong phú
về đề tài này, rất đáng để chúng ta tham khảo.
Xây dựng Nhà nước mạnh là đòi hỏi không thể
thiếu được để thực hiện thắng lợi đường lối chủ trương chính sách đúng đắn của
Đảng, là cơ sở hàng đầu cho việc thực hiện sống và làm việc theo pháp luật.
Còn phải nhấn mạnh rằng vào thời điểm hiện tại,
· tiến hành cải cách hành chính, với mục tiêu làm cho dân chủ trở
thành động lực phát huy toàn diện nghị lực sáng tạo và ý chí phấn đấu của con
người – nghĩa là phải xây dựng bằng được Nhà nước là bà đỡ (nói theo ý của Mác
và Lê-nin), là người đày tớ (nói theo ý
của Hồ Chủ Tịch) phục vụ tốt nhất cho sự phấn đấu này của các công dân của
mình;
· đổi mới hệ thống tài chính tiền tệ
quốc gia trở
thành phương tiện kinh tế vỹ mô quan trọng bậc nhất, có khả năng phát huy tối
ưu nội lực và thu hút tối đa mọi nguồn lực từ thị trường thế giới, loại bỏ mọi
lãng phí và các đơn vị làm ăn thua lỗ;
· đổi mới doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế,
giúp họ vươn lên làm tốt vai trò là chủ thể tham gia vào quá trình toàn cầu hoá
hiện nay trên thế giới.
là những nhiệm vụ cụ thể quyết định vận mệnh của đất nước. Thực hiện thành công
những nhiệm vụ này là hòn đá thử vàng đối với hệ thống
chính trị lãnh đạo đất nước và đối với ý chí phấn đấu của toàn thể dân tộc ta.
Những nhiệm vụ quan trọng này chỉ có thể thực hiện được trong điều kiện phát
huy cao độ tính tiền phong chiến đấu của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng mới
như vừa trình bầy trên.
***
Thay cho lời kết luận
Tôi viết đến dòng này, ngày 30 Tháng Tư lịch sử
đang đến gần. Trong nước ta vẫn còn trên 300.000 chiến sỹ đã hy sinh chưa tìm
được mộ. Liệu những người Mỹ quan tâm đến vấn đề MIA[162] có thể hiểu hay không
hiểu con số 300.000 này? Mỗi người Việt Nam chúng ta nghĩ gì về con số 300.000
này và nghĩ gì về vấn đề MIA? Chỉ nghĩ đến hai câu hỏi này thôi, tôi thấy vất
vả lắm mới làm chủ được bản thân mình. Một phần tư thế kỷ đã qua đi, nhưng vết
thương chiến tranh còn đang rỉ máu trong rất nhiều gia đình Việt Nam ta. Nỗi
day dứt về khoảng cách phát triển càng day dứt.
Một số ít người Việt trong hàng ngũ nguỵ quân nguỵ quyền
trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài vẫn thường lấy ngày 30-4 làm ngày quốc hận, tại một số nơi họ vẫn tụ tập phản đối trước cửa cơ quan sứ quán ta, một số rất ít năm này năm khác vẫn lén lút trở về, đem theo truyền đơn, vũ khí và muốn tiến hành các hành động phá hoại, lật đổ...
trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài vẫn thường lấy ngày 30-4 làm ngày quốc hận, tại một số nơi họ vẫn tụ tập phản đối trước cửa cơ quan sứ quán ta, một số rất ít năm này năm khác vẫn lén lút trở về, đem theo truyền đơn, vũ khí và muốn tiến hành các hành động phá hoại, lật đổ...
Tuy nhiên, trong cộng đồng người Việt bỏ nước ra
đi vì ngày 30-4-1975, số người nhận thức đúng đắn về cuộc chiến tranh đã xảy ra
đang ngày càng đông lên. Đối với những người này, dù họ theo chính kiến gì, tôi
muốn lưu ý: Đừng bao giờ quên cuộc chiến tranh vừa qua và những tội ác không
sao kể xiết là do bên ngoài áp đặt lên dân tộc ta, đừng bao giờ quên chính sách
dùng người Việt đánh người Việt, đừng bao giờ quên chính sách Việt Nam hoá chiến tranh... Trong những ngày này TV Việt Nam chiếu lại bộ
phim Mỹ “Việt Nam, thiên lịch sử truyền
hình”. Xin hãy nghe những người Mỹ hiểu biết nhiều, hiểu biết ít hoặc không
hiểu biết đã tham chiến xuất hiện trong phim này nói gì! Hãy nghe lại những
phát biểu đầy mùi thuốc súng của Humphrey và Johnson trong bộ phim này. Hãy nhớ
lại những chiến dịch ném bom nhằm đưa
Miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá. Hãy xem những hình ảnh chiến tranh do bom đạn Mỹ
gây ra, những vụ thảm sát Sơn Mỹ, Mỹ Lai, những tội ác, chất độc màu da cam...
Hãy đọc lại hồi ký của McNamara, vân vân...[163]
Trên mọi phương diện, cuộc chiến tranh là một
thảm kịch do các thế lực đế quốc bên ngoài áp đặt lên dân tộc ta, gây ra cho
dân tộc ta biết bao nhiêu tang tóc đau thương của cảnh nồi da xáo thịt. Xin lưu
ý rằng số lính Mỹ chết trong cuộc chiến tranh này chỉ trên 5 vạn người, còn
phía nhân dân ta chết bao nhiêu triệu người?
Số người Việt Nam cố tình đi ngược lại với lợi
ích của dân tộc chỉ là thiểu số, số người bị đảy vào thảm kịch dân tộc ta lớn
hơn nhiều, chiến tranh đem lại tổn thất đau thương cho toàn dân tộc. Một phần
tư thế kỷ là thời gian đủ để bình tĩnh nhìn lại quá khứ, để cùng với nhân dân
cả nước nỗ lực hơn nữa trong việc tìm cách khép lại quá khứ đau thương của dân
tộc mình, cùng với cả nước tìm ra và tăng cường sự đồng thuận dân tộc, vì Tổ
quốc Việt Nam chung giàu mạnh, hạnh phúc, để đất nước có thể ngửng mặt sánh vai
với thiên hạ[164].
Mong rằng Ngày 30 Tháng Tư năm 2000 mở ra một
chương mới trong lịch sử đoàn kết và hoà hợp dân tộc của Tổ Quốc Việt Nam chúng
ta - điều có ý nghĩa nhất để toàn thể dân tộc ta tay nắm tay cùng nhau tiến vào
thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, mở đầu tốt đẹp cuộc cách mạng phát triển dân tộc
của nước ta..
Chủ tịch Hồ Chí Minh có câu nói bất hủ: Đoàn
kết, đại đoàn kết! Thành công, đại thành công! Đấy là chân lý soi
rọi cho cả dân tộc ta.
Suy nghĩ về ý nghĩa của thời đại chúng ta đang
sống, có lúc trong tôi bừng lên một cảm nhận mãnh liệt: Sự phát triển của kinh
tế, khoa học và công nghệ trên thế giới, những tiến bộ của văn minh nhân loại
trong thời kỳ tiến dần vào nền kinh tế tri thức, thực lực nước ta đã tích tụ
được, mối quan hệ của nước ta với tư cách là một quốc gia độc lập có chủ quyền
trên bàn cờ thế giới ngày nay.., tất cả đang tạo ra những tiền đề đưa nước ta
bước vào một thời đại dân chủ ngày càng trở thành động lực phát triển của nước
ta.
Tôi không đủ sức nghĩ về một thời đại bao la
mang ý nghĩa lịch sử nào đó của thế giới, xin trả việc này cho các học giả, các
nhà chính trị, vì tôi không dám bước vào vương quốc không phải của mình. Tôi
chỉ ngẫm nghĩ về thời đại cho nước mình. Đầu óc quốc gia của tôi còn hẹp hòi
lắm, nhưng càng nghĩ về nước mình, tôi càng tin có một con đường đi tắt, đón
đầu, đuổi kịp sự phát triển của nhân loại, với động lực tự thân nó ngày càng
phát triển; động lực đó là: Con người Việt Nam giác ngộ đầy đủ về dân chủ trong
nền văn minh hiện đại của thế giới, có bản lĩnh và tri thức.
Suy nghĩ của tôi còn lãng mạn tới mức nghĩ rằng:
Chúng ta đang từ thời đại con người Việt
Nam giác ngộ tinh thần yêu nước đã lấy lại được đất nước để bước vào thời đại
con người Việt Nam giác ngộ về dân chủ. Đó là thời đại con người Việt Nam chúng
ta có những điều kiện tốt nhất để chinh phục và sáng tạo mới tri thức, tạo ra
cho chính mình và toàn dân tộc ta bản lĩnh và khả năng phát triển mình và đưa
đất nước vào một giai đoạn phát triển mới. Đó là thời đại dân tộc ta có những
cơ hội lớn nhất xây dựng một nước Việt Nam mới đúng với lý tưởng và khát vọng:
dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh...
Hay tôi chỉ là một kẻ lãng mạn?
Cái tính cha mẹ tôi cho tôi cũng thật là oái
oăm. Khi còn trai trẻ, yêu ai thì trong lòng chết đi mấy khúc ruột, có lẽ chết
còn hơn cả trong câu thơ của Heinrich Heine “Yêu là chết ở trong lòng”[165],
bây giờ về già vẫn còn lãng mạn như vậy, biết làm thế nào!
-
Anh bạn già ơi, những điều anh nói chỉ toàn là ý tưởng, chưa thấy
anh nói tý gì cụ thể về chiến lược phát triển, về sản phẩm!
-
Quả thực như vậy, cả nước còn phải mất nhiều công sức để làm việc
này. Song thiết nghĩ trước hết cần xây dựng được nhận thức chung. ở Quảng
Trạch, Quảng Bình, có một xí nghiệp vật liệu xây dưng cấp huyện quanh năm thua
lỗ. Trong đổi mới từ 1989, xí nghiệp trở thành công ty phân bón vi sinh Sông
Gianh, sản phẩm nổi tiếng trong cả nước và có hàng xuất khẩu. Công ty ngày nay
đạt doanh số khoảng 60 tỷ VNĐ/năm và có 8 cơ sở sản xuất, cung ứng dịch vụ rải
rác trong cả nước. Bí quyết thành công là nhờ chọn mặt hàng đúng và tiếp thu
tốt chuyển giao công nghệ của giáo sư
Phạm Khắc Hữu, đào tạo được đội ngũ cán bộ kinh doanh, khoa học kỹ thuật và lực
lượng lao động chuyển hẳn sang sản phẩm mới... Phát triển kinh tế phần mềm
trong công nghệ thông tin không còn là một khả năng mà đang trở thành một đòi
hỏi, một bước phát triển tất yếu khách quan ở nước ta... Một ngôi sao không làm
nên bầu trời, song những ví dụ như vậy ở nước ta không hiếm. Vì thế, nếu tích
tụ được nguồn lực phát triển con người nhanh hơn sự mong đợi, lựa chọn được sản
phẩm cho phép mở cửa nền kinh tế cả nước ta thành cầu nối của hoà bình, hợp tác
và phát triển giữa khu vực với thế giới bên ngoài, sẽ không gì có thể trói buộc
nền kinh tế nước ta vào những kế hoạch hay lộ trình không còn phù hợp.
-
Theo sự lãng mạn của anh, khi nào nước ta san lấp được khoảng cách
phát triển?
-
Học hỏi, cần mẫn, thông minh, tiết kiệm, hiệp đồng, tín nhiệm; nền tảng
của những phẩm chất này là dân chủ, tất cả cho nuôi chí làm ăn lâu dài
đời đời, mở rộng không gian kinh tế của đất nước. Đây có lẽ là những nội
dung cốt lõi nhất của một cuộc cách mạng phát triển
đáng được thực hiện nhằm triệt để canh tân đất nước. Tinh thần yêu nước và ý
chí cách mạng phát huy những giá trị này trong thế kỷ 21 sẽ giúp dân tộc ta sớm
thực hiện được khát vọng san lấp khoảng cách phát triển.
-
Trả lời như thế chung chung quá, có thể nói cụ thể hơn được không?
-
Nhiều nghị quyết của Đảng đã đề cập đến một ý tưởng rất quan
trọng: Làm giầu cho chính mình và làm giầu cho đất nước. Tôi nghĩ đấy là con
đường hiện thực nhất dể san lấp khoảng cách phát triển. Tôi xin diễn đạt ý
tưởng này một cách nôm na: Một khi có những cơ chế, chính sách, luật pháp
khuyến khích làm cho từng người dân không chịu bỏ
phí một phút nào để nghĩ cách làm giầu, không chịu để từng đồng bạc của mình
nằm cất giấu dưới gối hoặc hoặc đem chôn vào bất động sản, nếu thiếu vốn thì dám đi vay để mạo hiểm
chiếm lấy know how đi vào sản phẩm mới và thị trường mới, huy động
mọi nguồn lực từ bất kỳ đâu có thể huy động được để làm giầu cho mình, chi một
đồng – dù là đầu tư hay tiêu sài - cũng phải tính toán chi ly thiệt hơn... Khi từng
người dân từng giờ từng phút đứng ngồi không yên vì học và quyết
làm giầu như vậy, cả nước sẽ sớm có nền kinh tế hiện đại và nền văn hóa tiên
tiến – thậm chí tham nhũng và lối sống suy đồi cũng sẽ trở nên khó hơn trước.
Cơ chế, chính sách, luật pháp ấy là những thứ đang thiếu hoặc chưa có đủ, còn ý
chí của dân cũng như các nguồn lực vật chất và tinh thần, vô hình và hữu hình,
nội lực và bên ngoài đều không thiếu.
-
Có thể nêu ra một mốc phát triển kinh tế nào đó làm chuẩn được
không?
-
Khó lắm, hay có quá nhiều cái để làm chuẩn. Song có thể nói một
cách hình ảnh, đó là một khi lao động nông nghiệp cả nước Việt Nam ta đạt mức
một hộ nông dân gồm một cặp vợ chồng và
hai con bình quân có khoảng 5 ha ruộng đất canh tác, hoặc nhiều hơn nữa thì
càng hay.
-
Thời đại nền kinh tế tri thức mà lại lấy mấy hécta ruộng đất canh
tác ra làm chuẩn?
-
Nhưng đây lại là cái “chuẩn” khó nhất, đồng thời là vừa là kết
quả, vừa là tiền đề của mọi cái “chuẩn” khác. Đi tắt đón đầu cũng không
thể bỏ qua, mà là để thực hiện sớm nhất, tốt nhất cái “chuẩn” này. Khái niệm
“nền kinh tế tri thức” dễ gây ra những cảm tưởng hàn lâm và mơ hồ. Thật ra nó
vô cùng đơn giản, sự đơn giản khó thực hiện nhất:
· vận dụng và sáng tạo
tiến bộ khoa học và công nghệ,
· khai thác thông tin và
· thường xuyên đổi mới và
sáng tạo mới phương thức sản xuất kinh doanh,
cứ thế nấc
thang này lại tạo ra nấc thang mới cho mọi ngành kinh tế,
cho toàn bộ nền kinh tế. Tất cả bắt đầu từ giáo dục, được duy
dưỡng bằng sự học tập chuyên sâu suốt
đời, và được vận hành trong các chế định kinh tế - pháp lý - chính
trị - xã hội và các giá trị văn hoá luôn luôn tiến triển phù hợp[166].
Được thúc đẩy bởi động lực của các bước
phát triển giành được, càng về sau các nấc thang càng đa dạng, với vận tốc
ngày càng lớn hơn, với nội dung ngày một phong phú hơn, vận động trên vòng xoắn
ốc phát triển cao hơn của xã hội loài người... Nghĩa là không có sự cáo chung
của lịch sử[167].
-
...
Thế kỷ 20 là thế kỷ biến động năng động nhất từ
khi có lịch sử loài người. Những biến động trong 1/4 cuối cùng của thế kỷ 20 là
kinh thiên động địa nhất, một cuộc bể dâu toàn cầu lớn nhất trong
suốt thế kỷ này. Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay
sau khi ra khỏi những thập kỷ chiến tranh ác liệt đã đứng vững và vượt lên cuộc
bể dâu này. Hơn nữa, bằng những thành tựu đã giành được trong đổi mới,
Việt Nam đã mở ra cho mình bước ngoặt đi
vào một giai đoạn phát triển mới.
Năm 2000 so với năm 1989 GDP bình quân theo đầu
người của nước ta tăng gấp đôi, sản lượng công nghiệp tăng gấp 4, tổng kim
ngạch xuất khẩu tăng gấp 6; Ngân Hàng Thế Giới (WB) có báo cáo của bà Nisha Agrawar coi Việt Nam
là một trong hai nước đang phát triển (nước thứ hai là Trung Quốc) thành công
mẫu mực trong thời kỳ 1993 – 1998 về xoá đói giảm nghèo... Trên thế giới chỉ có
một số rất ít các nước đang phát triển giành được những thành tựu tương tự như
vậy trong 2 thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20; trong khi đó một loạt các nước
công nghiệp khối Liên Xô Đông Âu cũ sụp đổ, nhiều nước đang phát triển khác lâm vào tình thế
khó khăn hơn. Thực tế này thôi thúc toàn Đảng toàn dân ta: Hãy dồn sức tiếp tục
khai phá và tiến bước trên con đường chính trí tuệ, nghị lực và bàn tay chúng ta đã tự mở ra. Chân lý là ở đây.
Nhìn lại, những thắng lợi vỹ đại của Cách Mạng
Tháng Tám, của hai cuộc Kháng Chiến Cứu Nước và của Đổi Mới đều có những nét
chung cực kỳ quan trọng:
· Tất cả những nhiệm vụ cách
mạng trọng đại hơn một nửa thế kỷ vừa qua Đảng và nhân dân ta đã phải thực hiện
trong những điều kiện của so sánh lực lượng “châu chấu đá voi” và trong nhiều
tính thế “nghìn cân treo sợi tóc” - như Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã có lần nói lên
những hình ảnh này.
· Yếu tố hàng đầu làm cho sự
nghiệp cách mạng nước ta đã có thể giành được những thắng lợi vẻ vang là do
Đảng ta vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhận thức đúng đắn tổng
thể sự vật khách quan và xu thế vận động của nó, nhờ
vậy đã đưa ra được những quyết định giàu trí tuệ và tinh thần cách mạng, nắm
bắt được thời cơ, vượt qua được thách thức, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
· Truyền thống yêu nước và
lịch sử văn hoá của dân tộc ta là nguồn
sức mạnh và nghị lực sáng tạo vô tận; được đường lối chủ trương đúng đắn
của Đảng phát huy, dân tộc ta đã giành lại giang sơn gấm vóc và mang lại cho đất
nước vị thế quốc tế đáng tự hào như ngày nay.
Giai đoạn phát triển mới của đất nước dù khó khăn
gian khổ như thế nào, song Đảng ta và dân tộc ta có trong tay những tiền đề bảo
đảm thực hiện thành công định hướng xã hội chủ nghĩa, như Chủ Tịch Hồ Chí Minh
đã ghi trong Di Chúc của Người: “xây dựng nước Việt Nam hoà bình, thống nhất,
độc lập dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế
giới”. Đó
là sự lựa chọn của Đảng ta và dân tộc ta trong thế giới toàn cầu hoá ngày nay.
Khi xếp trang cuối cùng này để đưa bản thảo đến
nhà xuất bản, trong ký ức tôi vang vọng lời Bác Hồ kêu gọi 20 triệu đồng bào cả
nước đứng lên khởi nghĩa làm Cách mạng Tháng Tám. Bây giờ dân số nước ta tăng
lên xấp xỉ 4 lần. Chỉ riêng một thực tế đầy thách thức này đủ sức đánh đổ đánh
đổ mọi suy nghĩ lỗi thời của chúng ta. Từ đó tôi hiểu thêm lời dặn dò thiêng
liêng của Bác Hồ nêu trong điều mong muốn cuối cùng của Người.
Nhìn lại những chặng đường đất nước ta 200 năm
qua, nhất là những chặng đường đầy đau thương, chiến đấu hy sinh anh dũng và sự
phấn đấu vô cùng vinh quang của dân tộc ta trong 6 thập kỷ sau của thế kỷ 20;
nhìn vào bàn cờ thế giới trong suốt 2 thế kỷ này – nhất là trong nửa sau của
thế kỷ 20 - để ước định những chặng đường mới của đất nước bước vào thế kỷ 21 –
nhất là để không bao giờ một lần nữa cam chịu những bất hạnh không sao kể xiết
dân tộc ta đã phải trải qua, tôi hiểu thêm điều Bác dặn, dĩ bất biến ứng vạn biến
để Việt Nam thực hiện thắng lợi định hướng xã hội chủ nghĩa trong thế giới toàn
cầu hoá ngày càng năng động là : Hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và
giàu mạnh. Là đảng viên, tôi càng hiểu thêm sứ mệnh lịch sử của Đảng ta
lãnh đạo dân tộc trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, càng thấm thía
những phẩm chất cách mạng toàn Đảng và toàn dân tộc ta cần phấn đấu để giành
thắng lợi./.
Võng
Thị, tháng 4 năm 2000
Nguyên Nguyên
[109] “Cạnh tranh cho tương lai”,
Thái Quang Sa biên soạn, Trung tâm thông tin KHKT hoá chất, Hà Nội 1999, tr.
176...
[110] Cách suy nghĩ này còn có nguy
cơ xây dựng “nền kinh tế đồ cổ”, nghĩa
là biến nước ta thành bãi chứa những công nghiệp và công nghệ lạc hậu các nước
đi trước thải ra. Tham khảo: Nguyễn Trung, “Vận dụng lợi thế so sánh để phát
triển đất nước”, NXB Khoa học xã hội, Hà nội, 1999.
[111] Tham khao thêm “Cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và sự xuất hiện nền kinh tế tri
thức”, Đặng Hữu. Ngoài ra xin lưu ý: Ngành điện của ta hiện nay mua khí đốt của
Petro Vietnam với giá 2,7 – 3 USD/1 triệu MTU, các chuyên gia tính toán, nếu ta
định luyện thép bằng khí thì giá phải
khoảng 1,3 USD/1triệu MTU thì mới có lãi.
[112] Tham khảo sách đã dẫn “Làn
sóng WTO tác động vào nước ta như thế nào”, phần “Triển vọng của công nghiệp
gang thép làm người ta lo lắng”.
[113] Tham khảo thêm: Văn minh tinh
thần Xingapo, NXB Chinh trị Quốc gia, Hà Nội 1997 và “Goh Chok Tong”, Pelanduk
Publications, Malaysia, Alan Chong 1991.
[114] Giả thử ngành than tự làm kết
toán chi phí hành chính sự nghiệp thật đày đủ trong một năm, sẽ có được những
số liệu rất thuyết phục.
[115]
Chuyện này không có gì
mới, một đồng chí cựu bí thư tỉnh uỷ Quảng Ninh kể cho tôi nghe: người Pháp chủ
công ty than Hòn Gai ngày xưa đã có thư báo cáo với Toàn quyền Pháp, đại ý nếu
trả lương đủ sống cho công nhân mỏ – bao gồm một vợ và hai con anh ta – thì lỗ
và yêu cầu Toàn quyền Pháp trợ cấp công việc khai thác than. Thư này đã được
dịch và báo cáo, hình như vẫn còn trong hồ sơ lưu trữ. Hai tháng sau khi viết
xong bản thảo cuốn sách này, tôi được đọc bài “Những vấn đề đặt ra từ ngành
than”, báo Nhân Dân ngày 21-6-2000, chủ yếu tường thuật kết quả thanh tra của
Đoàn Tổng thanh tra nhà nước sau 6 tháng kiểm tra 24 đơn vị (nghĩa là khoảng
một nửa số đơn vị) của ngành than. Đáng chú ý là bài báo còn nêu ra vấn đề phải
xem lại mô hình tổ chức tổng công ty 91.
[116] Thời báo kinh tế Việt Nam, số
30 ngày 10-3-2000, tr.5.
[117] Giống như đòi hỏi phải tạo
các ngành nghề khác để sớm giảm bớt lao động làm nông nghiệp, lợi ích của công
nhân mỏ cũng đòi hỏi phải tạo ra các ngành nghề mới để giảm thiểu biên chế lao
động trong ngành than.
[118] Một ví dụ: Riêng nhà máy phân đạm Hà Bắc, nhiều nhà nghiên
cứu kinh tế trong nước và nước ngoài cho rằng: nếu giữ cách làm ăn và công nghệ
như hiện nay của nhà máy, thà lấy tiền nhà nước hàng năm bù lỗ, khoanh nợ, đáo
nợ... để trả lương nuôi công nhân, đưa họ đi làm việc khác, còn hơn là duy trì
một nhà máy kém hiệu quả như vậy. Có thể cách đây vài thập kỷ, công nghệ và
phương thức kinh doanh của nhà máy phân đạm Hà Bắc là tốt, nhưng chậm theo kịp
với bước đi của thời gian thì trở thành vấn đề. ở quốc gia nào mà không như vậy?
[119] Chú ý: Phải mất hàng triệu
năm biến đổi của địa chất mới kiến tạo được các vùng đát đai canh tác được.
Ngoài ra thuỷ điện cũng gây ra nhiều tai hoạ về môi trường: sự ô nhiễm trong
nước do các cây cối còn năm lại trong lòng hồ,
sự xói mòn đất đai chung quanh hồ và làm hồ chứa nông dần, tích tụ dần
những nguy cơ lũ lụt hoặc thuỷ hoạ lớn, làm thay đổi dần kiến tạo địa chất
trong lòng hồ chứa và vùng phụ cận...
[120] Những điều trình bầy này được
nêu lên lúc chưa xảy ra nạn lũ lụt miền Trung cuối năm 1999.
[121] Nhân đây xin đặc biệt lưu ý
những thập kỷ hợp tác đầy gian truân và không mấy kết quả giữa các quốc gia
sông Mekong cho chúng ta nhiều bài học cực kỳ quan trọng. Gần đây tôi được biết
các dự án về nhiệt điện tận dụng than Quảng Ninh được nêu ra từ 5 –6 năm nay
bây giờ được bàn tới khẩn trương hơn.
Chú ý: Trong phiên họp Chính phủ ngày 30 và 31-1-2001
tại thành Phố Hồ Chí Minh, Chính phủ đã nhất trí cao về tiến hành xây dựng thuỷ
điện Sơn La, sẽ khởi công năm 2004; Thủ tướng Phan Văn Khải phát biểu: nên lựa
chọn phương án Sơn La cao + Hoà Bình, không được bàn lùi, vì đến năm 2020 nhu cầu về điện
của nước ta rất lớn. Là đảng viên và là công dân, tôi chân thành cầu mong quyết
định của Chính phủ là đúng đắn, ý kiến của tôi về vấn đề này là sai – và được
như thế sẽ là điều hạnh phúc lớn cho đất nước, trong trường hợp này tôi xin
được lượng thứ với tất cả sự khoan dung. Tuy nhiên trong cuốn sách này, tôi vẫn
xin giữ lại những ý kiến của mình về thuỷ điện Sơn La như đã trình bầy để sau
này tham khảo.
[122] Mạo hiểm và phiêu lưu là hay
khái niệm khác nhau nhưng lại vô cùng khó phân biệt với nhau. Trong mao hiểm có
phiêu lưu, nhưng khác chăng mạo hiểm đòi hỏi phải suy nghĩ tỉnh táo và khoa học
hơn, phải tự giác và dũng cảm hơn.
[123]
Một trong những yếu kém
lớn nhất, dẫn đến sa sút và cuối cùng góp phần làm sụp đổ LX.
[124] được hiểu theo định nghĩa của
WTO, hiện nay có khoảng gần 200 ngành.
[125] Tham khảo thêm phần “Nền kinh tế nhiều thành
phần và vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh” trong chương VII của cuốn sách
này.
[126]
“Chúng ta không cố đoán
trước tương lai một cách giáo điều, mà chỉ mong tìm ra cái thế giới mới qua sự
phê phán thế giới cũ... ...việc cấu tạo tương lai và tuyên bố dứt khoát những quuyết định in
sẵn cho tất cả mọi thời kỳ sắp đến không phải là việc của chúng ta...” C. Mác, 1843 – các thư
của Mác, niên giám Pháp - Đức, C.Mác – F. Ănghen toàn tập, tập 1, NXBCTQG 1995,
tr. 520, 522-523. Người trích nhấn mạnh và gạch dưới.
[127] Vì cuốn sách này không thể
làm được nhiệm vụ quá lớn là tổng kết những chặng đường đã trải qua trong xây
dựng CNXH ở nước ta (trước hết là ở Miền Bắc từ 1954) trong hoàn cảnh chiến
tranh ác liệt kéo dài cho đến 1975, 1979, 1989, chỉ xin lưu ý 4 nhận xét riêng
dưới đây để bạn đọc tham khảo:
· Hy vọng rồi đây các công trình
tổng kết có tính chất khách quan và khoa học ở mức độ cao sẽ rút ra được những
kết luận và kinh ngiệm quan trọng, bổ ích cho những bước đi sắp tới của đất
nước.
· Cho dù những mô hình xây dựng
CNXN ở nước ta trong những năm chiến tranh có những mặt thiếu sót chủ quan gì
đi nữa, song không thể phủ nhận là: trong những năm chiến tranh không có một
nền kinh tế chỉ huy tập trung cao độ, không thể huy động tổng lực toàn xã hội
phục vụ sự nghiệp kháng chiến giải phóng và bảo vệ đất nước và đi đến thắng
lợi; không có khát vọng về CNXH, không thể có ý chí chiến đấu ngoan cường như
vậy của toàn dân trong kháng chiến và không thể gắn cuộc kháng chiến chính
nghĩa của nhân dân ta với trào lưu tiến bộ và phong trào độc lập dân tộc của
thế giới lúc bấy giờ để thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại...
· Sự nghiệp xây dựng đất nước ta
nói chung – cụ thể ở đây trong giai doạn cách mạng hiện tại là thực hiện định
hướng xã hội chủ nghĩa – không bao giờ có thể tách khỏi xu thế phát triển của
thế giới – trước kia, hiện tại và sau này
đều như vậy; còn lại là sự lựa chọn bước đi của nước ta, do chủ quan ta
quyết định.
· Trong những nguyên nhân dẫn
tới khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng và kéo dài ở nước ta từ cuối thập
kỷ 1970, phải chăng có nguyên nhân nền kinh tế chỉ huy tập trung rất cần thiết cho
thời chiến được hiểu là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, là xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong điều kiện ở nước ta, và được
tiếp tục duy ý chí vận dụng trong thời
bình xây dựng đất nước – trong bối cảnh các nước XHCN đã lâm vào khủng hoảng
sâu sắc. Nghĩa là ở đây có 2 loại vấn đề cực khó: (1) không tự giác nhận thức
được phải thay đổi mô hình kinh tế chỉ huy tập trung cho thời chiến khi chuyển
sang xây dựng đất nước trong trời bình, và (2) ở mức độ nhất định và trong một phạm vị nhất định có sự lầm lẫn giữa mô
hình kinh tế chỉ huy tập trung rất cần thiết cho thời chiến với mô hình kinh tế
xã hội chủ nghĩa khi chuyển sang xây dựng đất nước trong thời bình và trong bối
cảnh quốc tế cũng như xu thế phát triển của kinh tế thế giới đã có nhiều thay
đổi sâu sắc trên nấc thang mới của quá trình toàn cầu hoá.
[128] Tham khảo Thời báo Kinh tế số
32 ngày 15-3-2000.
[129] Xem bài Khơi thông ách tắc để phát triển
kinh tế; của Ngô Tuấn Kiệp đăng trên tạp chí Thị trường Tài chính tiền
tệ, số 5 tháng 3-2000; có báo đưa ra con số tổng nợ này là 200.000 tỷ VNĐ.
[130]
Incremental Capital
Output Ratio, tỷ lệ hay hệ số giữa vốn đầu tư tăng thêm và giá trị sản phẩm gia
tăng nhờ quá trình tăng vốn đầu tư này. Theo tính toán của các chuyên gia nước
ngoài, trong điều kiện hiện nay của Việt Nam nếu hệ số ICOR là 3 hoặc 4 là lý tưởng, năm 1998 đạt 4,9;
nhưng năm 1999 hệ số này ước khoảng 5,2 – 5,6, như vậy là quá cao. Hệ số càng
cao nói lên hiệu quả đầu tư mới càng thấp. Cách tính hệ số ICOR chưa vận dụng rộng
rãi ở nước ta.
[131] Tham khảo: Nguyễn Mại: Vấn
đề phát huy nội lực trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế hiện nay.
Tài liệu nghiên cứu chuyên đề FDI 1999 và một số bài khác của GSTS Nguyễn Mại
đã đăng trong TCCS và các báo chí khác....
Trong
phạm vi cuốn sách này không thể bàn sâu về vấn đề cải cách hay đổi mới nền giáo
dục và đào tạo ở nước ta. Nhưng vì vấn đề này quá trọng đại, quyết định trực tiếp
tương lai của đất nước, tôi xin nêu lên một số cảm nghĩ của mình, đúng sai thế
nào xin tuỳ sự phán xét của mọi người quan tâm. Trong thâm tâm tôi thực sự lo lắng:
-
Tình trạng
xuống cấp, lạc hậu, và lạc lõng của nền giáo dục và đào tạo nước ta chưa được
đánh giá đúng mức; trước hết nội dung vừa thừa, vừa không đủ, vừa thiếu trong hầu
hết các môn giảng dạy ở các cấp, không theo kịp sự phát triển tiên tiến trên thế
giới; phương pháp dạy cho học sinh còn nặng về nhồi sọ, nghĩa là nặng về học thuộc lòng, học theo
giáo trình, học theo thầy, học thiếu sáng tạo.., song còn nhẹ về dạy cho học
sinh tự làm quen dần và tự động não xây dựng phương pháp của riêng mình, học
cách nắm vững kiến thức, cách tự học, cách tự nghiên cứu, cách phát huy và vận
dung kiến thức - đây là đòi hỏi tối cần thiết cho yêu cầu phải học tập suốt đời
và yêu cầu tạo ra cho bản thân mình khả năng tự xử lý mọi vấn đề phải đương đầu
trong khi thâm nhập vào xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới toàn cầu
hoá. Đặc biệt vấn đề đào tạo ngoại ngữ là một lỗ hổng lớn - một điều kiện để
phát triển kinh tế đất nước, một phương tiện không thể thiếu được để đi vào kho
tàng tri thức và văn hoá của nhân loại...
-
Đã nghèo
lại lãng phí vô cùng lớn; ngân sách nhà nước có hạn, xây dựng chương trình dạy
học và phân bổ các khoản chi tiêu như thế nào là hợp lý nhất (ví dụ như: bớt những
tiết, những môn không cần thiết, phân loại và dành những môn này cho các trường dạy nghề hoặc các lớp học
của các doanh nghiệp và trường, viện chuyên môn sẽ dạy chuyên sâu hơn; không có
một trường phổ thông hay đại học nào có thể dạy cho học sinh đủ các điều mà cuộc
sống lao động của họ đòi hỏi, nhưng học sinh lại có quá nhiều điều học xong trở
thành vô dụng...); trong khi ngân sách nhà nước quá nghèo, phân bổ ngân sách
nhà nước kết hợp với huy động mọi nguồn
lực trong dân như thế nào để một mặt vừa phát triển tốt giáo dục và đào tạo, mặt
khác hạn chế xuống mức thấp nhất có thể được tình trạng bất bình đẳng hay phân
hoá xã hội ngay từ trong giáo dục và đào tạo. Thực tế hiện nay là dân bỏ rất
nhiều tiền chi cho việc học tập của con em mình, song phần lớn là chi kém
hiệu quả, chi chui, chi không hợp thức.., nên trở thành gánh nặng cho dân, tổng
chi của toàn xã hội cho giáo dục không nhỏ, tiêu cực nhiều, chất lượng đào tạo
giáo dục vẫn giảm sút.
-
Chất lượng
đào tạo về phẩm chất, đạo đức, ý thức chính trị cho học sinh ở tình trạng rất
đáng lo lắng, mặc dầu nội dung này được đặc biệt quan tâm trong nhà trường. Lỗi
chủ yếu không phải do học sinh. Lỗi chủ yếu có thể do các nguyên nhân: nội dung
giáo dục về những vấn đề này bất cập (theo tôi, thậm chí hoàn toàn bất cập,
khuôn sáo), đồng thời những ảnh hưởng tiêu cực ngoài xã hội tác động quá mạnh,
hầu như vô hiệu hoá những điều dạy cho học sinh!.. Hệ quả trực tiếp là các
gương xấu của các bậc cha anh đang trở thành tác nhân quan trọng làm giảm sút
lý tưởng và nghị lực phấn đấu của học sinh. Đồng thời sự cám dỗ ngày càng tăng của tiêu cực và các tệ nạn trong xã hội đang làm
cho học sinh dễ dàng trở thành nạn nhân của mọi tệ nạn xã hội. Sẽ là hoàn toàn
sai lầm nếu đổ lỗi mọi điều đau buồn này cho cơ chế thị trường. Nhiều trường viết
rất to trên tường khẩu hiệu Tiên học lễ, hậu học văn, chữ lễ
được thày, trò và cha mẹ học sinh hiểu ngầm với nhau là lễ lạp, là tiền thì không còn trời đất nào nữa!
-
Cuộc sống
thay đổi và phát triển với vận tốc quá nhanh, nền giáo dục ở các nước luôn luôn
phải đuổi theo, phải thay đổi, nhưng thường không kịp. Nhiều môn học, sách học
và phương pháp dậy phải thay đổi gần như hàng năm, nhất là ở bậc đại học. Nghiên cứu khoa học và nghiên cứu nói
chung là cơ sở và tạo điều kiện cho những thay đổi này... Đây là lý do
vô cùng quan trọng phải thường xuyên dành nguồn lực đáng kể và thực hiện sự
phân bổ tối ưu những nguồn lực này cho nghiên cứu. Song ở nước ta, mọi chuyện
trong giáo dục và đào tạo cứ bình chân như vại, thày có thể vác giáo trình của
mình di dạy mòn cả giấy hết năm này qua năm khác, hết trường này qua trường
khác, lại còn có cả giáo trình chuẩn nữa, còn các nguồn lực dành cho nghiên cứu
lại phân bổ rất kém hiệu quả - thậm chí có hiện tượng chia chác để lấy tiền của
ngân sách - vô luận kết quả các công trình nghiên cứu xấu tốt ra sao... Liệu nước
ta có thể đuổi kịp, san lấp khoảng cách phát triển, đi tắt đón đầu với những
con người được đào tạo trong một nền giáo dục bình chân như vại? Xin nói ngay rằng
trong hàng ngũ các nước đang phát triển, nước ta đạt được chỉ số phát triển con
người khá cao (HDI), song đừng để cho chỉ
số này ru ngủ chúng ta, vì mục tiêu của chúng ta không phải là bảo tồn danh hiệu
của mình mãi mãi là nước đang phát triển.
-
Cải cách
hay đổi mới triệt để nền giáo dục và đào tạo ở nước ta, rất toàn diện, bao gồm cả đào tạo lại, bổ túc, đào tạo mới đội
ngũ giáo viên và cán bộ giảng dạy. Nên từ các nguồn ngân sách và nguồn đóng góp
của dân (ví dụ dưới dạng phí, học phí) đặc cách hợp lý hoá và hợp pháp hoá nguồn
thu nhập đúng đắn bảo đảm cho đội ngũ giáo viên và cán bộ giảng dạy có đời sống
kinh tế ổn định để thực hiện tốt việc nâng cao năng lực giảng dạy của mình, tạo
hình ảnh tốt của thày đối với trò, đồng thời tránh những tiêu cực khác. Chúng
ta có chế độ đặc cách về lương cho các lực lượng vũ trang, tại sao không thể
làm như thế cho đội ngũ giáo viên và cán bộ giảng dạy? Đặc biệt không thể tách rời cải cách, đổi mới giáo dục và
đào tạo với xây dựng các giá
trị mới trong xã hội, các cơ chế chính sách phát huy những giá trị mới này, vấn
đề tuyển dụng người tài, những thể chế và luật pháp một xã hội văn minh, hiện đại
đòi hỏi ...
-
Còn có thể
nêu nhiều ý khác nữa, song theo tôi, hoàn toàn không thể lấy lý do thiếu tiền để
trì hoãn việc cải cách hay đổi mới triệt để nền giáo dục và đào tạo ở nước ta.
Chỉ riêng một việc tìm ra cách xử dụng hợp lý tổng chi hiện nay của toàn xã hội
dành cho giáo dục (bao gồm cả đóng góp của bố mẹ học sinh), chúng ta đã có được
nguồn lực rất lớn để nâng cấp và đổi mới triệt để nền giáo dục và đào tạo ở nước
ta, nhờ đó có thể phát huy thế mạnh lớn nhất của đất nước là con người Việt
Nam.
[133] Trong đời sống kinh, tế xã
hội nước ta có hiện tượng nhiều khi sự phân hoá xã hội do bất công, do mất dân
chủ, do vi phạm quyền làm chủ của sân, do đặc quyền đặc lợi lại gay gắt hơn
nhiều so với sự phân hoá xã hội do giàu nghèo. Trong nghiên cứu không thể bỏ
qua hiện tượng này.
[134] Tham khảo thêm nhận xét của
Davìd S. Landes trong sách đã dẫn “Sự thịnh
vượng và nghèo khổ của các quốc gia”, trong đó Landes đặc biệt lưu đến
những con đường khác nhau của các quốc gia trong quá trình đi lên nước công
nghiệp phát triển.
[135] Xưa nay chúng ta nói về cách mạng
dân tộc dân chủ với nội dung chống lại chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc,
giành lại quyền làm chủ đất nước. Phải chăng tình hình và nhiệm vụ mới của đất
nước ta với mục tiêu san lấp khoảng cách phát triển trong nền kinh tế mới của
thế giới toàn cầu hoá đang đề ra cho dân tộc Việt Nam ta một cuộc cách mạng mới:
Cuộc cách mạng phát triển dân tộc? Mục tiêu của cuộc cách mạng này là xây dựng và phát
triển quyền làm chủ đất nước của nhân dân trên nền tảng xác lập sự đồng thuận
dân tộc vững chắc, trong đó các mâu thuẫn giai cấp được xử lý theo yêu cầu xác
lập và củng cố sự đồng thuận vững chắc đó, tất cả nhằm vào nâng cao chất lượng
toàn diện con người Việt Nam và năng lực toàn xã hội, xây dựng thành công một
nước Việt Nam hiện đại do dân làm chủ, sánh vai được với thiên hạ trong tình
hình mới. Chính việc xây dựng và củng cố sự đồng thuận dân tộc như vậy là kim
chỉ nam xử lý các vấn đề phát triển kinh tế, xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Chúng ta không có lý do gì sau khi đã giành lại được độc lập thống nhất
rồi, thì lại phải bắt đầu tiến hành từ đầu cuộc đấu tranh giai cấp trong nội bộ
dân tộc ta để thực hiện định hướng xã hội chủ nghiã rồi tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Phải chăng đã có đủ thực tế để khẳng định: Đấy không phải là con đường dẫn
tới định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cuộc cách mạng phát triển dân tộc là
vấn đề khoa học và lý luận rất lớn, tôi mường tượng được nhưng chưa đủ sức với
tới – từ xác lập những khung giá trị mới và xây dựng các thiết chế xã hội hiện
đại, mở rộng khả năng tự trau giồi tri thức, nâng cao trí tuệ và kỹ năng nghiệp
vụ, đổi mới tác phong lao động và có ý thức học tập suốt đời, có ý thức trách
nhiệm đối với cộng đồng và xã hội, có khả năng hiệp đồng bên trong và thực hiện
tốt hợp tác, cạnh tranh với bên ngoài, nâng cao năng lực làm chủ quá trình nền
kinh tế tham gia hội nhập quốc tế... Đây cũng là một trong những nội dung quan
trọng bậc nhất của “cuộc cách mạng để muộn”
- một trong những điều kiện tiên quyết để dân tộc Việt Nam ta giành
thắng lợi trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Không có lý do gì Đảng
ta không trau giồi phẩm chất và khả năng để nắm lấy quyền lãnh đạo cuộc cách
mạng phát triển dân tộc mà đất nước đang
đòi hỏi.
[136] Viết tới đây tôi không thể không nhắc lại một
ý kiến nghiêm túc của anh Hà Nghiệp: Phải lấy trí tuệ và khoa học của chủ nghĩa
phục vụ lợi ích phát triển của đất nước, không thể phát triển đất nước để chứng
minh cho chủ nghĩa!
· “...Tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do... Người ta sinh ra
tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luônluôn được tự do bình đẳng về quyền
lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được...” – Tuyên
ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945.
· Hiến
pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà năm 1946:
Ø Điều 1: Nước Việt Nam là một
nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân
Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giầu nghèo, giai cấp, tôn
giáo...
Ø Điều 4: Mỗi công dân Việt Nam
phải: - bảo vệ Tổ quốc, - tôn trọng Hiến pháp, - tuân theo pháp luật.
Ø Điều 5: Công dân Việt Nam có
nghĩa vụ phải đi lính.
Ø Điều 6: Tất cả công dân Việt
Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá.
Ø Điều 7: Tất cả công dân Việt
Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc
kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình...
Ø Điều 10: Công dân Việt Nam có
quyền: - Tự do ngôn luận, -Tự do xuất bản, - Tự do tổ chức và hội họp, - Tự do
tín ngưỡng, - Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài...
Ø Điều 12: Quyền tư hữu tài sản
của công dân Việt Nam được bảo đảm..
Ø Điều 15: Nền sơ học cưỡng bách
và không có học phí. ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền
học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy
theo chương trình Nhà nước...
Ø Điều 18: Tất cả công dân Việt
Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ
những người mất trí và mất công quyền. Người ứng cử phải là người có quyền bầu
cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ...
Ø Điều 21: Nhân dân có quyền
phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, theo điều
thứ 32 và 70...
Ø Điều 30: Nghị viện họp công
khai, công chúng được vào nghe. Các báo chí được phép thuật lại các cuộc thảo
luận và quyết nghị của Nghị viện. Trong những trường hợp đặc biệt, Nghị viện có
thể quyết nghị họp kín...
· Không phải ngẫu nhiên những
luật gia nổi tiếng như Phan Anh, Phan Mỹ, Nguyễn Ngọc Minh... (đã khuất) và Vũ
Đình Hoè, Lưu Văn Đạt,.. đã có những công trình nghiên cứu, những bài viết,
những ý kiến đánh giá rất cao hai văn kiện quan trọng này. Tham khảo thêm tài
liệu nghiên cứu KX 05-07 “Bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam”, Nguyễn Văn Thảo,
1999, đã công bố.
[138] Hiện
nay đó đây trong một số tài liệu sách báo của nước ta vẫn còn sử dung khái niệm chuyên chính vô sản. Trong ki đó từ lâu khái niệm này trong các văn kiện chính thức cũng như trong phát biểu của lãnh đạo và giới học thuật Trung Quốc được thay thế bằng khái niệm chuyên chính của nhân dân. Tôi nghĩ rằng các bạn Trung Quốc đã thực hiện được một bước tiến mới trong tư duy nghiên cứu lý luận cách mạng. Tại nước ta, nếu đặt vấn đề xây dựng sự đồng thuận dân tộc với ý nghĩa trình bày trên, bao hàm cả yêu cầu lấy liên minh công nôngvà tri
thức làm nền tảng, để thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn mình thì Đảng ta có trách nhiệm xác lập và lãnh đạo thực hiện chuyên chính của nhân dân.
[139] Nếu
bạn nghĩ thêm rằng ở nước ta hiện nay, sau 37 năm cố gắng thực hiện các chủ trương xoá đói giảm nghèo, vẫn còn khoảng 200 nghìn hộ với 1,2 triệu dân sống du canh du cư (theo một tiêu chí
khác thì những con số này là 350 nghìn hộ với 2,1 triệu dân – tham khảo báo
Nhân Dân ngày 28-6-2000), có nơi
- như ở xã Vĩnh Thành, Vĩnh Châu, Soóc Trăng... có các xóm mù – nghĩa là xóm có nhiều người mù, chủ yếu do đói nghèo và trình độ dân trí thấp (xem báo Lao Động ngày 16-6-2000)... - Một quốc gia như vậy mà dám tính đến chuyện mở rộng không gian kinh tế, tìm đường đi vào nền kinh tế tri thức? - Xin thưa:
Chính
thực trạng này lại là một trong những nguyên nhân thúc bách nhất đặt ra đòi hỏi này, vì sự tồn tại và phát triển của đất nước - song phải có gan tính toán bắt đầu từ những bước đi thấp nhất, với lòng kiên trì “chân cứng đá mềm”, kết hợp với những bước đi táo bạo mà trí tuệ và phẩm chất.của dân tộc ta cho phép. Đây là một trong những nhiệm vụ chính trị vô cùng trọng đại dân tộc đặt lên vai Đảng ta, thử thách quyết liệt tính tiền phong chiến đấu của Đảng ta.
[140] Tuy nhiên đây không phải là lý do bàn trùn, trốn tránh nhiệm vụ vận dụng những thành quả khoa học và công nghệ mới có thể vận dụng được vào nông nghiệp nước ta trong suốt quá trình tiến hành CNH-HĐH.
[141]
Một số cơ quan và một số nhà nghiên cứu nước ta có gần đây có khuynh hướng vận dụng những cách tính khác về thu nhập bình quân theo đầu người trong các nền kinh tế khác nhau trên thế giới. Dùng cac phương pháp khác nhau để tính toán, xem xét sự vật, là việc nên làm; nhưng để ru ngủ nhau thì hoàn toàn không
nên làm – ví dụ như trong việc sử dụng cách tính toán theo PPP
(purchaging power parity – chỉ số đo sức mua của dân trong một nền kinh tế), nhất là một khi nền kinh tế nước ta phải tham gia mạnh mẽ xuất khẩu.
[142]
Dựa vào những quan điểm tiến bộ trong những công trình nghiên cứu thu thập được của các nhà kinh tế, các học giả..trên thế giới, anh Việt Phương đi tới kết luận: Điều đặc biệt quan trọng của vấn đề sở hữu đối với phát triển kinh tế – xã hội là phải tìm cách xử lý đúng đắn 3 nội dung cơ bản của sở hữu; đó là: Mục đích, quyền và nghĩa vụ của sở hữu. Hình thức sở hữu nào cũng có 3 nội dung cơ bản này, vấn đề đặt ra là phải có các chế định và chính sách khiến cho 3 nội dung này của bất kỳ hình thái sở hữu nào cuối cùng thực hiện tối ưu lợi ích phát triển của toàn xã hội. Tôi tán thành cách suy
nghĩ này. Theo tôi, định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là khiên cưỡng xoá bỏ hay làm phình ra một hình thức sở hữu nào đó, mà là làm cho 3 nội dung cơ bản của mọi hình thái sở hữu thuộc mọi thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan trong xã hội nước ta phục vụ hài hoà và tối ưu mục tiêu: dân giầu nước mạnh, xã hội công băng dân chủ và văn minh. Bảo đảm thực hiện thành công mục tiêu này chính là nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng thông qua phát huy vai
trò quản lý của Nhà nước và vai trò làm chủ của nhân dân. Sự hình thành, tồn tại, phát triển và mất đi của một hình thái sở hữu do các quy luật khách quan của quá trình phát triển kinh tế – xã hội chi phối. Thực tiễn 50 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải chăng cho thấy các việc làm khiên cưỡng xoá bỏ hay tạo ra một hình thái sở hữu nào đó đều không đem lại kết quả mong muốn. Chúng ta vẫn thường nói quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng trên thực tế điều này luôn luôn bị vi phạm, vi phạm nhiều nhất. Và đấy thường là nguyên nhân chủ yếu của nhiều khó khăn, sai lầm. Nội dung của đổi mới, suy cho cùng là tìm cách
xử lý hài hoà và tối ưu 3 nội dung cơ bản của mọi hình thái sở hữu thuộc các thành phần kinh tế, nhằm vào thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh. Hiển nhiên trong những nỗ lực của đổi mới, Đảng và nhân dân ta đã giành được những thành tựu bước đầu mang ý nghĩa mở đường cho một giai đoạn phát triển mới của đất nước. Với cách suy nghĩ như vậy, phải chăng thực chất của định hướng xã hội chủ nghĩa là Đảng ta lãnh đạo đất nước làm sao khiến cho của cải tạo ra được cho phân phối lại ngày càng dồi dào và được phân phối lại theo hướng thúc đảy xã hội phát triển – trung tâm là phát triển con người. Nghĩa là không thể dùng vấn đề sở hữu làm mục tiêu, làm thước đo hoặc thậm chí thước đo duy nhất cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề sở hữu xin được xem xét thấu đáo, để khắc phục tình trạng chập chững, do dự hiện nay trong đổi mới, nhất là trong phát huy nền kinh tế nhiều thành phần...
[143] Tại
các nước phát triển hầu như không một ai có thể thoái thác thuế thu nhập và thuế tài sản – kể cả thuế đánh vào tài sản thừa kế và quà biếu, cao nhất có khi lên tới 70-80% giá trị tài sản thừa kế hoặc hơn nữa. Ngoài ra còn có các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc phải mua – bên cạnh những khoản bảo hiểm mua hay không mua tuỳ theo sở thích. Tài sản của Bill Gates / Microsoft hiện nay trên 100 tỷ USD – làm nên trong vòng chưa đầy 30 năm từ gần như tay không. Theo T.
Friedman, vừa qua Giang Trạch Dân đã tiếp Bill Gates hai lần tại Bắc Kinh nhưng mới một lần tiếp Bill Clinton. Có
tin nói Bill Gates đã
tuyên bố sẽ hiến trên 90% tài sản này cho xã hội, chỉ giữ phần còn lại rất nhỏ cho con mình. Một cử chỉ hào hiệp? Sự thật có thể là như vậy. Nhưng nếu đúng, trong sự thật này còn có một chút sự tính toán khôn ngoan: bởi vì nếu không hiến, thì sau khi ông ta chết, con hay các con ông ta cũng phải đóng thuế thừa kế tài sản có thể tới gần gần mức như vậy. Có thể đây còn là một cách làm marketing giỏi của Bill Gates.
[144] Ngân sách Hongkong chủ yếu chỉ dựa vào hai loại thuế đánh đồng loạt trong toàn lãnh thổ: thuế thu nhập 15%, thuế lợi tức 17,5%. Luật ngân sách của Hongkong quy định toàn bộ ngân sách của Hongkong chỉ được phép chiếm tối đa là 18% toàn bộ thu nhập của Hongkong.
[145]
Sự minh bạch (transparency) – trước hết được
hiểu là sự làm ăn rõ ràng, đúng luật pháp - và sự công
khai hoá (have to be in the publicity, to be
open)
là hai vấn đề khác nhau và không nên lầm lẫn, càng không nên đồng nhất hai vấn
đề này với nhau. Sự minh bạch là đòi hỏi có sự ràng
buộc về pháp lý đối với sở hữu.
Song trong những trường hợp nhất định, sở hữu đòi hỏi phải có cả hai yếu tố
minh bạch và công khai.
[146] Hiện
nay cả nước có 55 nhà máy đường và khoảng 330.000 ha trồng mía, sản xuất đường đạt khoảng 1 triệu tấn/năm – kể cả đường sản xuất thủ công, đem lại việc làm cho khoảng 1 triệu lao động – nhất là tại các vùng đất khó canh tác, có ý nghĩa to lớn đối nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo. Song vì nhiều nguyên nhân, bao gồm cả những tính toán vỹ mô còn chịu ảnh hưởng lối suy nghĩ của nền kinh tế khép kín (chưa lường hết những tác động của thị trường khu vực và quốc tế, những cam kết rồi đây sẽ phải thực hiện trong khung khổ AFTA, APEC, WTO...), cách
suy nghĩ làm kinh tế theo phong trào, năng suất cây trồng và lượng đường trong mía nhìn chung thấp, còn nhiều yếu kém và tiêu cực.., khiến cho giá thành sản xuất đường trong cả nước hiện nay tính bình quân khoảng 4000-4800đ/kg, đắt hơn giá thị trường trong nước khoảng trên dưới 500 VNĐ/1kg (hoặc hơn nữa, vì có đường nhập lậu) và nhìn chung đắt hơn giá thị trường thế giới khoảng 30-40%. Trong 3 năm gần đây giá đường thế giới từ 390-400 USD/tấn sụt xuống còn 180-200USD tấn, đặt ra cho cả nước nhiều thách đố gay gắt. Phát triển sản xuất đường như vừa qua là một ví dụ điển hình cho thấy: Một chủ trương phát triển kinh tế dù đúng đắn trong pham vi mục tỉêu xoá đói giảm nghèo, nhưng còn nhiều yếu kém trong hoạch định quyết sách và trong thực thi, cũng có thể gây ra nhiều tai hoạ. Khắc phục thua lỗ trong sản xuất đường trở thành vấn đề nhạy cảm – vì liên quan đến khoảng 1 triệu nông dân trồng mía – và nan giải. Những yếu kém trong quá trình phát
triển sản xuất đường những năm vừa qua còn cho thấy nhiều hệ quả tai hại khác nếu để cho các ý tưởng hay ý đồ phi kinh tế can thiệp vào kinh tế, làm kinh tế theo phong trào.., đòi hỏi phải được rút kinh nghiệm để tránh lặp lại – tham khảo thêm bài “Chung quanh cây mía và cân đường”, báo Nhân Dân ngày
19-6-2000. Trên bình diện kinh tế - xã hội, vấn đề “cây mía cân đường” cho thấy nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo ở nước ta gay go gian khổ như thế nào, đòi hỏi phải có những bước đi tính toán thấu đáo và lâu dài hơn. Tham khảo thêm Thời báo Kinh tế ngày 15-3-2000 và bài “Hậu mía đường ở Thừa Thiên – Huế, 1500 ha mía đang hoá củi”, báo Lao Động ngày 21-6-2000, tr. 3.
[147]
Các nước OECD đưa ra
định nghĩa: Nếu vốn FDI chiếm 10% của một doanh nghiệp thì doanh nghiệp đó được coi
là xí nghiệp liên doanh với nước ngoài. Điều này có nghĩa FDI chỉ cần chiếm 10% tổng vốn là
đủ kiểm soát được xí nghiệp liên doanh, Đặt vấn đề theo một cách khác: Giả thử
Nhà nước bằng tổng nguồn vốn hiện có của mình đưa được tỷ trọng ấy hoặc hơn thế
chút ít vào các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ở nước ta, triển vọng
sẽ thế nào?
[148] Tham khảo “Xoá
bỏ cơ chế chủ quản”, Nguyễn Trung, tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 2,
Hà Nội tháng 4 năm 1994; “Vận dụng lợi thế so sánh để phát triển đất
nước”, Nguyễn Trung, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999, tr. 64-71.
[149] Trong số 230.000 DNNN (xí nghiệp công hữu) hiện có, quá 2/3 số đó là thua lỗ, Trung Quốc chủ trương sẽ cải cách triệt để và chỉ duy trì vài trăm đến 1000 DNNN lớn giữ vị trí chủ đạo của nền kinh tế, sẽ phải thực hiện những kế hoạch không lồ di chuyển, xa thải, đào tạo lai, bố trí việc làm mới cho hàng chục triệu lao động; hiện nay mỗi năm xử lý được khoảng 2 triệu lao động trong biên chế. Trung Quốc hiện này chủ trương lấy nỗ lực tối đa bên trong kết hợp với chủ động hội nhập quốc tế làm 2 động lực quyết định thúc đẩy quyết liệt quá trình cải cách DNNN (xí nghiệp công hữu).
Theo nhận thức hạn hẹp
của mình, tôi cho rằng: Quá trình cải
cách ở Liên Xô cũ cực kỳ khó, con đường thực hiện chưa thể nói là đã được thiết
kế chu đáo, ít nhiều có chuyện ăn sống nuốt tươi những quan điểm hay học thuyết
nào đấy từ bên ngoài mà thiếu hẳn những kinh nghiệm tự tích luỹ lấy từ những
bước đi thận trọng của chính mình. Quá trình thực hiện cải cách lại diễn ra hay
buộc phải diễn ra quá nhanh, thiếu hẳn những chuẩn bị cần thiết - trước hết là thiếu những cơ chế kinh tế, pháp
lý, chính trị và xã hội ràng buộc đặt ra cho cải cách đối với vận mệnh chung
của đất nước... Hơn nữa trong tình hình quan điểm chia năm xẻ bẩy ở Liên Xô lúc
bấy giờ , “sư bảo sư phải, vãi bảo vãi hay!”; nhận thức của bất kỳ phe
nhóm nào – trong sáng hoặc không trong sáng - cũng khó với tới đúng tầm của vấn
đề, do đó dứt khoát không thể có sự chuẩn bị đáng mong muốn, mà quả trình sụp đổ kinh tế
- xã hội và hệ thống chính trị lại ập tới quá nhanh, Liên Xô không cải cách
không được. Tôi không nghĩ rằng những người cải cách ở Liên Xô cũ, dù thuộc nhóm
“sư” nào hay “vãi” nào, muốn bán đứng tổ quốc mình, nhưng đúng là tình hình đã quá chín muồi và lực bất tòng tâm! Lại thêm sự phản
bội của một dúm phần tử cơ hội chính trị trong nước, cùng với những tác động
thù địch từ bên ngoài, đã tạo ra những cú
hích cuối cùng nhưng quyết định, đẩy Liên Xô vĩ đại xuống vực thẳm.
Có lẽ chính bối cảnh bi kịch này trên thực tế làm cho cải cách gần như biến
thành một sự ăn cướp tài sản của Nhà nước Xô viết, xoá bỏ nhiều thành tựu xã
hội quan trọng, và trên hết cả là xoá sổ Liên Bang Cộng Hoà Xô Viết Xã Hội Chủ
Nghĩa – thành trì của phong trào cộng sản và công nhân thế giới, thành trì của
hòa bình và phong trào cách mạng thế giới...Hệ quả là hệ thống chính trị cũ sụp đổ nhường chỗ cho
trạng thái vô chính phủ, hệ thống cần phải có thì không hay chưa dựng lên được,
gần như trong một đêm các tập đoàn tư bản ít nhiều
mang tính chất mafia mọc lên như nấm, vượt
khỏi khả năng kiểm soát của chính phủ và hầu như rũ bỏ mọi trách nhiệm
đối vơí biết bao nhiêu vấn đề kinh tế – xã hội nóng bỏng, thuận tay thì cướp
bóc thêm... Tuy nhiên, sẽ không có sự cáo chung của lịch sử như một số người có quan điểm chống cộng
khét tiếng rêu rao đâu! Nước Nga vĩ đại, và cùng với nước Nga là các thành
viên trong SNG,
sẽ viết tiếp những trang sử mới của mình. Tôi cũng không nghĩ đến việc oán
trách, dậy khôn hay lên án bất kỳ người cải cách nào ở Liên Xô cũ, vì tôi không
muốn và không có tư cách gì để làm việc này. Tôi cũng tin răng lịch sử và nhân dân các nước SNG sẽ
có tiếng nói cuối cùng với những kẻ phản bội chống lại tổ quốc họ. Nhưng điều
day dứt tôi là: Cải cách thì không đừng được, nhưng phải cải cách thế nào để cải cách nhất thiết phải trở thành một quá trình phát triển
lành mạnh - đây là điều cực kỳ hệ trọng, để cải cách giành thắng lợi cho đất nước, cho lý tưởng cao đẹp: Dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ và văn minh! Cải cách có thể,
thậm chí rất cần phải năng động, nhưng không bao giờ đồng nghĩa với hỗn loạn
(chaos). Day dứt trong tôi phải tổng kết những kinh
nghiệm của bản thân sự nghiệp đổi mới ở nước ta và kinh nghiệm của thế giới chính vì thế càng day dứt. Xin nói lên
điều này để góp sức vào mọi cố gắng muốn đoạn tuyệt với sự lười biếng, ngu dốt
và lối tư duy khoa trương.– nhất là phải bằng mọi giá tránh cho kỳ được bi kịch
“Lực bất tòng tâm!” lúc nào cũng rình mò đất nước ta. Cải cách phải có một Đảng
vững vàng tiên tiến lãnh đạo, phát huy được trí tuệ và sự đồng thuận của cả
nước, chính là vì những lẽ này. Thêm một lý lẽ nữa nói lên tầm quan trọng có ý nghĩa
sống còn của nhiệm vụ xây dựng Đảng ta trong giai đoạn phát triển mới của đất
nước!
[150]
Từ những thập kỷ 1970 và 1980, tổ chức UNIDO và nhiều viện nghiên cứu của các nước công nghiệp phát triển đã đưa ra kết luận 1 đồng vốn trong doanh nghiệp tư nhân sử dụng có hiệu quả bằng 1,3 đồng vốn trong các công ty do nhà
nước sở hữu. Khi tướng Charges de Gaulle lên cầm quyền ở Pháp, ông ta đã quốc hữu hoá một số ngân hàng thương mại và doanh nghiệp lớn, với hy vọng tạo ra một số tập đoàn mạnh nhằm đẩy nền kinh tế đuổi kịp Tây Đức lúc bấy giờ, nhưng ngay trong cuối nhiệm kỳ của ông ta, kế hoạch này phải huỷ bỏ, vì thua lỗ. Các nhà kinh tế phương Tây thừa nhận chưa có cách nào giải bài toán 1=1,3.
[151]
Xin hãy quan sát hiện tượng sáp nhập xuyên lục địa giữa các công ty xuyên quốc gia (TNCs), hợp nhất giữa các TNCs khổng lồ..; xin hãy quan sát hiện tượng thương mại điện tử liên kết trong phạm vi nhiều châu lục nhiều ngành nhiều hãng trong việc sản xuất không có kho và cung ứng sản phẩm hay dịch vụ cho bất kỳ nơi nào trên trái đất... (tham khảo thêm bài “Nền kinh tế mới toàn cầu hoá, cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển” của Trần Quốc Hùng. Tôi
không nghĩ các mô
hình tổng công ty 90 và 91 có thể đảm đương yêu cầu tạo sức mạnh tổng hợp này.
Nhân
đây xin giới thiệu 2 ý kiến quan trọng của Engels để chúng ta tham khảo cho
việc phát triển nền kinh tế nhiểu thành phần:
...Thắng lợi của CNXH ở các
nước phát triển “mang lại một sức mạnh to lớn và một tấm gương khả dĩ khiến cho các nước nửa văn minh
hướng theo chúng ta. Nhưng các nước đó sẽ phải trải qua những giai đoạn chính
trị và xã hội nào trước khi đạt tới tổ chức xã hội chủ nghĩa, tôi nghĩ rằng
điều đó chúng ta chỉ có thể đưa ra những
giả thuyết khá mơ hồ mà thôi...”
Thư của Engels ngày 13-9-1892
gửi Kauski, Marx-Engels toàn tập, NXB BCT Mascơva, tập 38, tr. 108, tiếng Nga.
”Cuộc
cách mạng mà chủ nghĩa xã hội cố gắng thực hiện thì nói một cách vắn tắt là sự
chiến thắng của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản và sự thiết lập một tổ
chức xã hội mới bằng cách xoá bỏ sự phân biệt về giai cấp. Điều này đòi hỏi phải có không những giai cấp vô sản là giai
cáp tiến hành cuộc cách mạng đó, mà còn phải có giai cấp tư sản là giai cấp nắm
được những lực lượng sản xuất của xã hội dã phát triển đến một trình độ đủ để
có thể vĩnh viễn xoá bỏ sự phân biệt giai cấp... ...Chỉ có một trình độ nào đó
của lực lượng sản xuất xã hội, mà trình độ ấy
đối với những điều kiện hiện đại của chũng ta vẫn còn là một trình độ
rất cao, thì mới có thể nâng cao sản xuất tới một mức độ mà việc thủ tiêu mọi
sự phân chia giai cấp có thể trở thành một bước tiến thật sự, tồn tại vững
chắc, mà không đưa đến sự suy sụp phương thức sản xuất xã hội. Nhưng chỉ có ở
trong tay giai cấp tư sản thì lực lượng sản xuất nới đạt đến trình độ đó.
Do
đó cả về mặt này, giai cấp tư sản cũng là một điều kiện tiên quyết cần thiết
của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa như bản thân giai cấp vô sản, cho nên người
nào đó nói rằng cuộc cách mạng đó có thể tiến hành dễ dàng hơn trong một nước
mà ở đó mặc dù không có giai cấp vô sản, cũng vì vậy không có giai cấp tư sản,
thì chỉ chứng tỏ là người đó còn cần phải học những điều a. b. c. về chủ nghĩa
xã hội.”
Trích từ: “Bàn về những quan hệ xã hội
ở Nga” (Đay-rích 1874)
[152] Gần
đây giới lý luận Trung Quốc viết nhiều cuốn sách quan trọng về tình hình và những vấn đề trong cải cách hành chính ở Trung Quốc, một trong những vấn đề nhức nhối nhất hiện nay của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội theo màu sắc Trung Quốc; trong đó có những cuốn đáng chú ý như: “Cuộc cách mạng lần thứ 7” nói về cải cách chính phủ Trung Quốc, tác giả Lưu Trí Phương, NXB Nhật Báo Kinh Tế, Băc Kinh 1998, cuốn “Cải cách Chính phủ, cơn lốc cuối thế kỷ 20”, nhiều tác giả, chủ biên: Tinh Tinh, NXB Quản lý kinh tế, Bắc Kinh, 1998... Cuốn sách của Tinh Tinh mở đầu với những trích dẫn:
-
lời của Đặng Tiểu Bình: “...Tình trạng này (những yếu kém trong nền hành chính Trung Quốc- N.T.) khó có thể tiếp tục kéo dài, quả thật đã đến mức không thể chấp nhận được nữa, nhân dân cũng không thể chấp nhận được, Đảng ta cũng không thể chấp nhận được...”
-
Lời của Giang Trạch Dân: “...Bộ máy phình to, biên chế cồng kềnh, chính quyền không tách khỏi xí nghiệp, quan liêu nghiêm trọng, cản trở trực tiếp đẩy mạnh cải cách và phát triển kinh tế, ảnh hưởng đến quan hệ giữa Đảng và nhân dân.”
-
Trả lời phỏng vấn của Chu Dung cơ về cải cách hành chính: “...Bất chấp phía trước là những bãi mìn và vực thẳm, tôi cũng sẽ tiến bước, việc nghĩa không chần chừ, cúc cung tận tuỵ, cho dù có phải chết...”
Đấy
là những sách rất đáng dịch ra tiếng Việt để bạn đọc rộng rãi tham khảo. Có thể nói cải cách hành chính ở Trung Quốc tiến hành quyết liệt hơn ở nước ta rất nhỉều, khó như húc đầu vào đá, nhưng đây là nhiệm vụ không thể trốn tránh.
[153] Từ Đại Hội VI Đảng ta đã
nghiêm khắc tự phê bình để cho bộ máy Đảng, Nhà nước và đoàn thể bị quan liêu
hoá, tha hoá và ngày càng phình to lên mãi. Đại hội VI nhấn mạnh phải
đổi mới toàn diện, lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm;
tuy chưa đi sâu vào đổi mới chính trị, nhưng nhấn mạnh đổi mới Đảng có ý nghĩa quyết
định toàn bộ công cuộc đổi mới, nhấn mạnh vai trò làm chủ của nhân dân
với quan điểm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra – Tham khảo “Báo cáo
Chính trị” của Đại hội VI (1986).
[154] Đây là một vấn đề lớn, cần có
những công trình nghiên cứu riêng công phu. Trong thực tiễn cách mạng nước ta,
đã có nhiều thời kỳ Đảng ta thực hiện sáng tạo, xuất sắc yêu cầu Đảng
lãnh đạo toàn diện, tiêu biểu nhất là thời kỳ Tổng khởi nghĩa tiến hành
Cách mạng Tháng Tám, các cuộc kháng chiến cứu nước, những kinh nghiệm trong
tiến hành công cuộc đổi mới. Xin đừng bỏ phí kho tàng kinh nghiệm cực kỳ quan
trọng và vô cùng phong phú này. Muốn chống tha hoá Đảng có hiệu quả, Đảng ta
càng phải chuyển mạnh từ “nắm toàn diện, nắm trực tiếp” sang lãnh đạo toàn
diện. Nói cho nghiêm khắc: Phải từ nắm toàn diện, nắm trực tiếp” quay trở lại
lãnh đạo toàn diện – yêu cầu này đòi hỏi Đảng ta phải có phẩm chất và năng lực
cách mạng cao hơn nhiều, làm cho cách mạng trở thành sự nghiệp của nhân dân
trong thời kỳ xây dựng phát triển đất nước.
[155] Có nhiều cách thực hiện yêu
cầu này, ví dụ bước khởi thuỷ có thể là xác lập tình trạng hiện thời để xác lập
trật tự trong vấn đề sở hữu, rồi từ đó tính toán các bước tiếp theo đúng với
tinh thần xử lý hài hoà 3 nội dung cốt lõi của sở hữu, gắn bảo hộ sở hữu với
thực hiện nghĩa vụ đối với tiến bộ xã hội...
[156]
Nếu chúng ta thử so sánh
chế độ kiểm soát thu nhập cá nhân của bất kỳ nước phát triển nàoz với sự kiểm
soát như vậy ở nước ta, sẽ thấy ngay sự khác biệt khó tưởng tượng. Đã có người
nước ngoài châm biếm: Việt Nam các anh tự do hơn nước chúng tôi, chi tiêu tiền
mặt thoải mái, trốn thuế dễ dàng, thu nhập và tài sản không phải khai báo...
[157] “Khoán 100”, theo chỉ
thị 100/CT-TW ngày 13-1-1981
theo tinh thần của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thư 6 khoá IV họp tháng 8-1979. “Kế hoạch 3 phần” trong DNNN theo quyết định 25/CP ngày 21-1-1981 của Chính phủ.
[158]
Xin lưu ý hiện nay các
nước phát triển, trước hết là Mỹ, đang cần thuê ngay hàng chục vạn người viết
phần mềm tin học phục vụ cho những yêu cầu trong nền kinh tế của họ. Yêu cầu
này đang tăng với tốc độ chóng mặt trong nền kinh tế mới... Singapore, Đức...
cũng vậy...
[159]
Hiện nay hàng thủ công mỹ nghệ của ta xuất đi 40 nước, kim ngạch hàng năm đạt khoảng trên 100 triệu USD và còn nhiều tiềm năng tăng nhiều hơn nữa, song phải cạnh tranh rất gay gắt; ví dụ: cách đây 10 năm, giá một con voi sứ xuất khẩu là 10 USD, bây giờ là 3 USD. Duy trì mặt hàng xuất khẩu này là vạn bất đắc dỹ, nhưng cần thiết và phải được hỗ trợ, vì lao động nhàn rỗi không thể ngồi không chờ việc.
[160]
Khoảng 10 năm trở lại đây, nhờ các cơ chế chính sách (dù còn mang
tính chất thí điểm) phát triển kinh tế các tỉnh biên giới, các khu kinh tế cửa khẩu.., bộ mặt kinh tế – xã hội các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai, Hà
Tĩnh, Quảng Trị, Kiên Giang, An Giang, Tây Ninh... thay đổi đáng kể, an ninh được tăng cường, góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
[161] Tham khảo tác phẩm Ngày 18 tháng sương mù của Louis Bonaparte, Karl Marx, toàn tập, Hà Nội, NXB Sự Thật.
[162]
MIA= Missing in Action,
nói nôm na là việc
tìm kiếm các lính Mỹ chết trong chiến tranh Việt Nam.
[163]
“...Cưỡng hiếp, tra tấn,
những làng xóm bị đốt, những đứa trẻ bị làm mục tiêu ngắm bắn, những chiếc tai
người Việt Nam còn sống hay đã bị giết đổi lấy các lon bia, những tù nhân bị
quẳng xuống từ máy bay lên thẳng...” Đấy là những hình ảnh, những lời thú nhận
của 125 lính Mỹ ngực đầy huân chương, vì không chịu nổi sự cắn dứt lương tâm
của chính mình, nên đã tự họp lại với nhau tại Detroit tháng 2 năm 1971, để tự
thú về những hành động man rợ của mình trước các ống kính và những người làm
phim – có 36 giờ phim như thế, trong đó
tổng hợp nhất là bộ phim “Winter Soldier” (người lính mùa đông)... Nhân dịp
30-4-2000, những tư liệu bị giấu diếm này bây giờ được công bố ở Mỹ! Nhân đây xin nhắc đến một vài số liệu của nước ngoài, kể cả
của Mỹ, đã được công bố: Cuộc chiến tranh của Mỹ giết chết khoảng 3 triệu người Việt Nam ,
khoảng 12% diện tích vùng kháng chiến ở
miền Nam Việt Nam bị giải chất độc màu da cam dioxin; khoảng 3 triệu lính Mỹ
lần lượt thay nhau tham gia cuộc chiến tranh Việt Nam – số quân Mỹ tham chiến
thời kỳ 1967-1972 vượt quá nửa triệu;
tổng số bom đạn Mỹ dùng trong chiến tranh Việt Nam thời kỳ 1964-1972 gần
15 triệu tấn = gấp đôi tổng số bom đạn Mỹ dùng trong chiến tranh thế giới lần
thứ hai, nghĩa là: trong cuộc chiến tranh Việt Nam mỗi lính phía Mỹ Nguỵ sử
dụng số đạn dược gấp 3 lần chiến tranh Triều Tiên và gấp 26 lần chiến tranh Thế
giới II; để tiến hành cuộc chiến tranh này Mỹ đã chi ước khoảng 300 – 350 tỷ
USD; vào thời điểm 1972-1973 tỷ lệ số người ở Mỹ chống lại cuộc chiến tranh Việt
Nam là 2/1; cũng vào thời điểm này trong
Quốc hội Mỹ phe chống đối kéo dài chiến tranh Việt Nam là trở lực phe
hiếu chiến không thể vượt qua được – nguyên nhân sâu xa nhất của vụ
scandale Watergate mà tổng thống Nixon phải ra đi.
[164]
Hai tháng sau khi tôi viết xong cuốn sách này, ngày 14-6-2000
cuộc gặp thượng đỉnh Liên Triều kết thúc bằng Tuyên bố chung 5 điểm của Kim Chơng Y và Kim Dae-jung, nhằm tiến tới thống nhất đất nước một cách độc lập - chỉ có thể được hiểu là loại bỏ sự can thiệp từ bên ngoài.. Nối tiếp những diễn biến sâu sắc trong quan hệ quốc tế từ 1/4 thế kỷ vừa qua, những chuyển biến quan trọng trên thế giới góp phần không nhỏ vào sự kiện này. Đồng thời sự kiện này làm cho bàn cờ thế giới tiếp tục thay đổi, làm cho thủ đô nhiều cường quốc rung chuyển và không ít người ngỡ ngàng, phong trào đòi rút lính Mỹ ra khỏi Nam Triều Tiên lại dấy lên mạnh. Người thắng cuộc lớn nhất là dân tộc Triều Tiên và hoà bình trên bán
đảo Triều Tiên. Trên bình diện quốc tế, sự kiện này dựng lên một cột mốc mới đánh dấu xu thế không thể đảo ngược và những tác động toàn diện, sâu sắc của quá trình toàn cầu hoá. Trong đó, phát huy sức mạnh dân tộc vừa có những triển vọng trước đây chưa thể có, vừa trở thành điều kiện sống còn đối với các nước đang phát triển. Trên bình diện quốc gia, sự kiện này thêm một lần nữa chứng minh trong quan hệ quốc tế khả năng vỹ đại và bất khả kháng khi nhận thức về lợi ích dân tộc trở thành động lực cho mọi quyết sách. Là một đất nước, một dân tộc đã từng bị chia cắt, thiết nghĩ chúng ta có thể là những người thông cảm sâu sắc sự phát triển này và, từ đáy lòng mình, chúng ta chia
vui với nhân dân hai miền Triều Tiên. Xin chúc cho Bản tuyên bố chung 5 điểm còn nhiều bước đi tiếp theo trên con đường còn nhiều gian truân vì sự nghiệp thống nhất đất nước mà dân tộc Triều Tiên quyết tâm lựa chọn. Ngày 13-07-2000,
nghĩa là 3 tháng sau khi tôi viết xong bản thảo cuốn sách này, Hiệp định thương
mại Việt Mỹ được ký kết. Xin được nói về sự kiện này vào một dịp khác.
[165] Câu thơ của Xuân Diệu “Yêu là chết ở trong lòng một ít...” có lẽ mượn từ ý này, hay là ý của hai nhà thơ lớn gặp nhau – mặc dù họ đứng cách nhau một thế kỷ?.
[166]
Những “tri thức” ta biết
được, nhưng không được đưa vào ứng dụng, không hành động, thì chỉ là thông
tin, hoặc chỉ có giá trị như thông tin. Đây là sự phân biệt quan
trọng nhất giữa thông tin và tri thức. Cũng như mọi nền kinh tế
khác, nền kinh tế tri thức đòi hỏi và sản sinh ra thượng
tầng kiến trúc riêng của nó với mọi mối quan hệ nhân quả và biện chứng.
So với tất cả mọi thời kỳ phát triển trước đó của xã hội loài người, quá
trình kién tạo thượng tầng kiến trúc của nền kinh tế tri thức phức tạp
hơn nhiều – trước hết vì nó liên quan mật thiết hơn đến từng con người, đòi hỏi
nhiều cố gắng tự giác hơn của từng con người, đòi hỏi có những thiết chế kinh
tế, chính trị, xã hội và các giá trị văn hoá thúc đẩy những cố gắng này của
từng con người. Quá trình kiến tạo này có lẽ làm đảo lộn nhiều nhất những tư
duy và những giá trị sẵn có và sáng tạo ra nhiều nhất những tư duy và giá trị mới.
Quá
trình kiến tạo thượng tầng kiến trúc này chật vật hơn nhiều so với quá trình
hình thành nền kinh tế tri thức.Đây là điều cần được nhận thức sâu sắc
trong đẩy mạnh công cuộc đổi mới hiện nay.
[167] Một số học giả phương Tây,
tiêu biểu là Francis Fukuyama, cho rằng chế độ cộng sản tại các nước Liên Xô
Đông Âu cũ đã sụp đổ, chủ nghĩa tư bản ngày càng hoàn thiện và chứng minh sức
sống của nó; toàn cầu hóa, xã hội công dân và mô hình quản trị tốt là 3 yếu tố
sẽ tạo ra hình thái xã hội cao nhất của loài người. Trên cơ sở này họ dự báo sự
cáo chung của lịch sử. Nhưng theo tôi, có một thực tế khách quan không thể phủ
nhận được là: Sự tiến bộ của xã hội loài người - thể hiện tiêu biểu và tập trung trong sự tiến
bộ của lực lượng sản xuất - đã diễn ra, đang diễn ra và sẽ tiếp tục diễn ra
theo hướng xã hội hoá ngày càng cao như Marx đã nhận định. Nhận định này chính
là một
trong những tiền đề quan trọng nhất của Marx về nhận thức sự tiến triển của
hình thái xã hội qua các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử loài người.
Vì thế tôi hiểu rằng: Dự báo và sự phác hoạ của Marx về chủ nghĩa cộng sản
trước hết dựa trên nhận thức này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét