Suy ngẫm về thời cuộc
(Bài phục vụ
việc nghiên cứu và dậy học môn chính trị,
Soạn thảo
08-2013)
Nội dung
II – Đôi
lời về Mỹ
III – Đôi
điều lưu ý về Mỹ
Tài liệu tham khảo
*
Ngày
12-07-2013, một ngày như mọi ngày. Song đây là ngày tôi bắt đầu sưu tầm các tài
liệu cho việc ghi lại những suy ngẫm của mình về thời cuộc. Lên mạng, thấy các
kênh truyền thông trong nước đưa tin:
- Phát huy kết quả chuyến thăm chính thức
Trung Quốc của Chủ tịch Trương Tấn Sang;
- Phó tổng thống Mỹ Joe Biden và Phó thủ tướng
Trung Quốc Uông Dương khai mạc vòng đối thoại song phương (hàng năm, lần thứ 5)
về Chiến lược và Kinh tế;
- Tin Tổng thống Obama sẽ đón tiếp Chủ
tịch Trương Tân Sang vào ngày 25-07-2013;
- Hai tầu cá của ngư dân Quảng Ngãi bị hải
quân Trung Quốc tấn công, chặt cờ, cướp săng dầu và thiết bị, hành hung ngư
dân… trong vùng biển Hoàng Sa; cựu Thứ trưởng Bộ
Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, ông Lương Lê Phương, lên tiếng: “…phải hỗ trợ ngư dân khi đánh bắt trên
biển. Phải thành lập lực lượng kiểm ngư mạnh, đủ tầm để bảo vệ ngư dân khi đánh
bắt xa bờ…"
- Thương lái Trung Quốc hoành hành khắp
các vùng từ Bắc chí Nam trong cả nước ta, thực hiện nhiều hoạt động lũng đoạn
như: thu gom mua vải thiều, dìm giá nhãn đang vào mùa, thu mua các hàng độc như
móng trâu, rễ quế, đỉa, râu ngô, lá điều, mua vơ vét dừa khiến nhiều nhà máy
chế biến dừa của ta chỉ còn hoạt động được khoảng 1/3 công suất…
- Trung Quốc phản ứng dữ dội bác bỏ Sách
trắng Quốc phòng 2013 của Nhật…
- Hải quân hai nước Nga và Trung Quốc lần
đầu tiên cùng nhau tập trận lớn…
- Vụ Edward J. Snowden rầm rĩ báo chí mọi
phương trời và gây rắc rối cho một số nước …
- Liên hiệp quốc tiếp tục bó tay trong vấn
đề nội chiến Syri đã kéo dài hơn 30 tháng không làm sao có được giải pháp, vì
Nga và Trung Quốc đi với chính quyền Asad và sử quyền veto ngăn cản mọi quyết
định của Hội đồng Bảo an LHQ; Mỹ và phương Tây không chấp nhận chính quyền tàn
sát phong trào nổi dậy…
- IMF dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới
2013 giảm –0,2% so với 2012 vì những khó khăn của những nền kinh tế lớn và các
châu lục còn nguyên vẹn…
Vân vân…
Trong một ngày
như mọi ngày, những mẩu tin như vậy có vẻ như rời rạc, chẳng ăn nhằm gì với
nhau, nhưng lại phản ánh đầy đủ nhất tình hình địa chính trị toàn cầu đầy xáo
động đang diễn ra và những tác động vào Việt Nam. Đời sống quốc tế hiện tại là
sự tổng hợp những ngày đầy ắp những sự kiện nóng bỏng như thế.
Tìm hiểu những
chuyển biến đang diễn ra trên bàn cờ quốc tế hôm nay và nhận định xu thế của
chúng với những phân tích khách quan, để rút ra những đánh giá, nhận định cần
thiết, đấy là mong muốn của chuyên đề này.
*
(1)
Việc Mỹ dưới thời Obama (nhiệm kỳ I bắt đầu
từ ngày 20-01-2009) tìm cách mau chóng rút ra khỏi chiến trường Iraq và
Afghanistan để tập trung sự quan tâm của mình vào chính sách “trục xoay hướng
về châu Á – Thái Bình Dương” (ngoại trưởng Hillary Clinton công bố ngày
14-10-2011); (2) việc Trung Quốc với tính cách là nền kinh
tế lớn thứ 2 trên thế giới (sau Mỹ) đã thôi náu mình trong cái vỏ “trỗi dậy hòa
bình” để công khai tham lam hơn trên thị trường thế giới và hiếu chiến hơn trên
Biển Đông, qua đó đang trở thành mối lo của cả thế giới; và
(3) tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay tiếp tục kéo
dài, thậm chí đang ngày càng đặm nét của một cuộc đại suy thoái toàn cầu lần
thứ hai (lần thứ nhất là cuộc đại suy thoái toàn cầu 1929 – 1933), có lẽ đấy là
3 yếu tố nổi bật nhất chi phối tình hình địa chính trị và địa kinh tế toàn cầu
hiện nay.
Hệ quả là tất
cả các quốc gia trên thế giới, dù lớn dù nhỏ, dù tọa độ tại châu lục hay vùng
nào, đều phải đối mặt với nhiều vấn đề kinh tế, nhiều vấn đề chính trị
(đối nội cũng như đối ngoại) mà trước đây họ chưa bao giờ gặp phải:
- Trong quá trình
toàn cầu hóa ở giai đoạn hiện tại, sự vận động của kinh tế thế giới đặt ra cho
mọi quốc gia những đòi hỏi mới về cải cách và cấu trúc mới nền kinh tế nước
mình, nhằm phát huy tốt hơn động lực của nội địa và tạo ra năng lực cạnh tranh
mới. Những đòi hỏi và thách thức mới này sâu xa đến mức kinh tế của mỗi nước
gần như phải làm mới mình về cấu trúc và hệ điều hành, để thích nghi và phát
triển được trong bối cảnh quốc tế hôm nay.
- Thể chế chính
trị và chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia bắt buộc phải đáp ứng được những
đòi hỏi mới của phát triển kinh tế trong nước cũng như những vấn đề mới trong
trật tự quốc tế “một siêu đa cường” đã hình thành; những
thách thức truyền thống và phi truyền thống trong quan hệ quốc tế tiếp tục đan
xen nhau rất phức tạp; xung đột lợi ích và tập hợp lực lượng trong các mối quan
hệ song phương, đa phương, khu vực, quốc tế ngày càng đa dạng và phức tạp. Ở
nấc thang mới hiện nay của quá trình toàn cầu hóa, hơn bao giờ hết thể chế
chính trị của một quốc gia một mặt phải đáp ứng tốt nhất những chuẩn mực quốc
tế chung, mặt khác nó còn phải có khả năng phát huy tối đa nội lực của mình
trong xử lý mọi vấn đề nó phải đối mặt.
- Trong những biến
động mới của một trật tự một siêu đa cường đã hình thành, những
đòi hỏi truyền thống của nhân loại (1) về hòa bình, (2) về phát triển,
(3) về dân chủ và quyền con người, (4) và về gìn giữ môi trường… là những
giá trị toàn cầu phổ cập, đang ngày càng được chú trọng hơn trong các
chuẩn mực chi phối các mối quan hệ và trật tự quốc tế. Trật tự quốc tế mới một
mặt làm xuất hiện những tập hợp lực lượng mới, song đồng thời cũng ngày càng
chịu sự chi phối của những giá trị toàn cầu này. Nói một cách
khác: Những giá trị này có tính phổ cập toàn cầu ngày càng cao và trở thành một
xu thế chung ngày càng lớn. Các tập hợp lực lượng đang diễn ra trong trật tự
quốc tế mới hôm nay đều tận dụng, lợi dụng, hay bám vào sự vận động này. Quốc
gia nào thành công nhiều nhất trong phấn đấu cho những giá trị toàn cầu này, sẽ
có được tập hợp lực lượng đáng mong muốn nhất cho chính mình.
Trong giới nghiên cứu không ít ý kiến cho rằng Mỹ là một siêu cường đang đi
xuống. Cách đánh giá này dựa vào nhận định chung cho rằng ảnh hưởng của siêu
cường Mỹ đang “nhỏ” đi (a) so với thời cao điểm sau khi kết thúc chiến
tranh lạnh (các nước Liên Xô – Đông Âu sụp đổ 1989-1991), (b) so với kết
quả đạt được trong những vấn đề nó phải giải quyết, (c) so với những thách thức
mới nó phải đương đầu, và (d) so với sự lớn mạnh của các cường quốc khu vực và
một số quốc gia đối tác / đối thủ. Nói một cách khác: Nước Mỹ đang ngày càng chậm
hơn so với những diễn tiến trên thế giới liên quan đến nó, ngày càng
nhỏ đi so với vị thế siêu cường duy nhất của nó[2].
Có rất nhiều số liệu và dữ kiện làm căn cứ cho nhận định nói trên.
- Về kinh tế Mỹ,
cuộc khủng hoảng bắt đầu từ năm 2008 mang tính khủng hoảng cơ cấu và thể chế,
chịu nhiều tác động sâu sắc của những quan điểm của chủ nghĩa tân tự do bắt đầu
từ thời R. Reagan; mặt khác quá trình toàn cầu hóa kinh tế - nhất là vấn đề
“outsourcing” tạo ra những mất cân đối mới về cấu trúc. Có thể nói đây chính là
cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản Mỹ (F. Fukuyama, P. Krugman…). Cuộc
khủng hoảng này tuy đã qua thời kỳ chạm đáy, song hiện nay về cơ bản vẫn là “đi
ngang” hay đang bước vào thời kỳ phục hồi chậm chạp.
Từ
nhiều năm nay, nợ công của Mỹ đã vượt 100% GDP, thâm hụt cán cân thương mại và
dịch vụ bắt đầu giảm nhưng vẫn còn cao (540 tỷ USD năm 2012 so với 559 tỷ USD
năm 2011…), trong đó riêng thâm hụt cán cân thương mại và dịch vụ với Trung
Quốc giảm nhiều song vẫn còn rất cao (năm 2012 là -315 tỷ USD, những năm
cao nhất trước đó ước khoảng từ -400 đến -450 tỷ USD/năm), tỷ lệ thất
nghiệp tiếp tục giảm nhưng vẫn ở mức cao (năm 2009 là 11%, năm 2012 là 8,2%),
tỷ lệ lạm phát bắt đầu giảm (năm 2012 là 1,8%, vài năm trước đó là <2%) …
Nói một cách tổng quát, những tổn thất mọi mặt kinh tế Mỹ đang phải gánh
chịu trong cuộc khủng hoảng hiện nay gần tương đương với những tổn thất của
kinh tế Mỹ trong đại suy thoái kinh tế thế giới lần thứ nhất
(1929 -1933), những vấn đề nước Mỹ hôm nay phải giải quyết có nhiều mặt trầm
trọng không kém, hoặc thậm chí có những vấn đề phức tap hơn[3].
Nhiều
dự báo cho rằng phải sau năm 2017 kinh tế Mỹ mới có thể lấy lại sức tăng trưởng
như trước khi lâm vào khủng hoảng. Tuy nhiên điều kiện phải có cho triển vọng
này là Mỹ phải thành công trong thay đổi tư duy kinh tế vỹ mô và trong kiến
trúc lại thể chế điều hành – trước hết là hệ thống tài chính -ngân hàng (Lawrence Summers[4]).
Nói một cách đơn giản: Mỹ phải cấu trúc
lại nền kinh tế và thể chế điều hành với tư duy mới – chỉ làm như vậy mới có
thể đối mặt với quá trình siêu cường Mỹ đang đi nhanh vào dĩ vãng
(John Kao). Trong giới nghiên cứu Mỹ không ít ý kiến cảnh báo bản thân thể chế
dân chủ của các nước phương Tây – kể cả Mỹ - đang gặp nhiều bất cập trong tiến
trình toàn cầu hóa hiện nay[5]
- Có hay không
trong quá trình suy yếu này Mỹ đã phạm phải sai lầm chiến lược (hay những sai
lầm chiến lược) trong địa chính trị toàn cầu? Câu hỏi này không dễ trả lời,
nhưng phải đặt ra để phân tích. Người viết bài này đứng về phía trả lời: “Có!”.
Cuối năm 2010, nghĩa là ít lâu sau khi chiến tranh Iraq kết thúc, trong
bài viết “Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ 2 thế kỷ 21”
tôi đã phần nào trình bầy những suy nghĩ của mình cho câu trả lời này[6].
Hai
cuộc chiến tranh Iraq và Afghanistan dù được tiến hành với bất kể lý do gì, kết
quả Mỹ đạt được rất hạn chế so với mục tiêu đề ra, cái giá Mỹ phải trả là
thế và lực của Mỹ bị tác động đáng kể. Mỹ đã mất 6640 binh sỹ (nếu tính cả đồng
minh trong NATO là trên 8000), bị thương khoảng trên 40.000 (chưa kể đồng minh
NATO), và phải chi trên 2000 tỷ USD. Kết cục, Mỹ đạt được một thế chiến lược
yếu hơn so với vị thế Mỹ đã với tới được sau khi Liên Xô sụp đổ và đã duy trì
được vị thế chưa từng có này cho đến khi tiến quân vào Iraq ngày 20-03-2003[7]. Thậm chí có thể nói, trong hai cuộc chiến tranh này Mỹ
không đạt được một số mục tiêu chiến lược hàng đầu về địa chính trị và địa kinh
tế.
Song
thất bại lớn nhất của Mỹ trong 2 cuộc chiến này có lẽ nằm bên ngoài chiến
trường: Trung Quốc chớp được thời cơ vươn lên vị trí nền kinh tế có quy
mô GDP lớn thứ 2 trên thế giới, với nhiều tác động có tính toàn cầu và
không ít hệ lụy cho một số nước hữu quan, nhất là các nước láng giềng. Tình
hình phức tạp đến mức (a) kinh tế Mỹ và Tây Âu ngày nay rất khó được cải thiện
nếu không cải thiện được các mối quan hệ nhiều mặt của họ với Trung Quốc – kể
cả trên phương diện kinh tế; sự phụ thuộc lẫn nhau trong kinh tế ngày càng lớn;
(b) đặc biệt là từ một thập kỷ nay Trung Quốc đẩy mạnh uy hiếp công khai bằng
vũ lực trên biển, uy hiếp ngày càng trực tiếp các nước láng giềng – trong đó có
các đồng minh quan trọng của Mỹ như Nhật, Hàn Quốc, có địa bàn chiến lược của
Mỹ là Đông Nam Á; hòa bình ở Biển Đông bị de dọa nghiêm trọng, quyền lực mềm
Trung Quốc luồn sâu vào sân sau của Mỹ ở châu Mỹ Latinh..; (c)chính sách thực
dụng và 2 mặt của Trung Quốc trong một số vấn đề nóng bỏng ở châu Phi, trong
những vấn đề có liên quan đến những đối tượng/đối tác rất nhạy cảm của Mỹ
(Pakistan, Afghanistan, Iran, Syri, thế giới hồi giáo và vấn đề chống khủng
bố…) luôn gây ra cho Mỹ những diễn biến phức tạp mới.
Nhìn
theo tư duy “zero sum game” của địa chính trị toàn cầu, cũng có thể nói một
cách hình ảnh: Sa lầy vào chiến tranh tại Iraq và Afghanistan, siêu cường Mỹ
dưới thời Bush đã đánh mất thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 vào tay Trung Quốc[8].
- Chưa thấy các
lý lẽ thuyết phục để cho rằng 2 cuộc chiến tranh Iraq & Afghanistan là
nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng kinh tế hiện nay ở Mỹ (bắt đầu từ năm
2008), mặc dù 2 cuộc chiến tranh này và những hệ lụy kèm theo đã gây ra gánh
nặng rất lớn cho nền kinh tế Mỹ.
Bản
tổng kết của Mỹ trong thập kỷ vừa qua là: (1) kết cục không như mong muốn đã
xảy ra của 2 cuộc chiến tranh Iraq và Afghanistan, (2) khủng hoảng kinh
tế của Mỹ diễn ra đồng thời, lại trong bối cảnh cùng một lúc toàn bộ các nền
kinh tế của phương Tây (trước hết là EU và Nhật) đều rơi vào khủng hoảng lớn,
giữa lúc toàn bộ khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang trở thành khu vực
kinh tế phát triển năng động nhất của thế giới, (3) rồi đến sự lớn mạnh
của các cường quốc khu vực là Trung Quốc, Nga, Ấn Độ đang đặt ra nhiều vấn đề
mới cho chính sách đối ngoại của Mỹ, (4) những vấn đề phức tạp có liên quan đến
thế giới Hồi giáo, đặc biệt là những thách thức đặt ra trực tiếp đối với Mỹ
(trong đó có nguy cơ Iran sẽ có thể sản xuất vũ khí A, nguy cơ khủng bố lại
bùng phát…) hầu như còn nguyên vẹn…
Toàn bộ tình hình như thế trên cả 2 bình diện địa chính trị
và địa kinh tế đã tạo ra sức ép mới, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược có tính
mở đầu một giai đoạn mới: trọng tâm chính của mọi nỗ lực mới của Mỹ sẽ chuyển
vào châu Á – Thái Bình Dương.
Trên
bình diện địa chính trị, sư thay đổi chiến lược của Mỹ là chủ trương thực hiện
“trục xoay hướng vào châu Á – Thái Bình Dương” (the
pivot to Asia & Pacific).
Trên
bình diện địa kinh tế, đấy là đẩy mạnh xúc tiến Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương (Trans Pacific Partnership Agreement - TPP).
Đồng
thời Mỹ đẩy mạnh tập hợp lực lượng dưới ngọn cờ hòa bình – phát triển –
dân chủ & quyền con người – bảo vệ môi trường. Đối tượng chủ yếu của
Mỹ trong chiến lược trục xoay này và trong TPP là Trung Quốc.
Như
vậy hoàn toàn có thể nói: Trật tự quốc tế một siêu đa cường đã
chấm hết thời kỳ hậu chiến tranh lạnh. Trong cục diện quốc tế mới này xuất hiện
những “cuộc chơi” mới (các games) song phương và đa phương, trong đó các
“cuộc chơi” Mỹ - Trung có xu hướng ngày càng nổi bật, có tác động sâu sắc mang
ý nghĩa chi phối nhất định đối với địa chính trị và địa kinh tế toàn cầu
– thậm chí là chi phối quyết định trong một số vấn đề cụ thể (ví dụ: quan hệ Mỹ
- Trung trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, vấn đề hạt nhân của Bắc Triều
Tiên…).
Dù
là dưới hình thức tranh giành nhau hay đối phó, dù là dưới hình thức hợp tác
hay đối đầu, trong tình hình nhất định không loại trừ đụng độ quân sự.., nét
nổi bật của các “cuộc chơi” Mỹ - Trung là: địa bàn chính là khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương. Đụng độ quân sự như thế nào, gián tiếp hay trực tiếp, giữa
ai và ai là chính.., là những vấn đề để ngỏ. Thực tế này đẻ ra nhiều hệ lụy mới
cho các nước trong khu vực – đặc biệt là cho các quốc gia từ Nhật trở xuống tới
hết vùng Đông Nam Á.
Những
nỗ lực của Mỹ dồn vào chuyển hướng chiến lược mới này là toàn diện và rất lớn:
Những biện pháp vực dậy nền kinh tế, đổi mới hệ thống tài chính tiền tệ, cải
cách giáo dục – đặc biệt là hệ đại học..; khắc phục tình trạng sa lầy ở Iraq và
Afghanistan (bao gồm cả chủ trương tiến hành đàm phán trực tiếp với phe
Taliban), xắp xếp lại quân đội theo hướng đẩy mạnh hiện đại hóa và tối ưu hóa
hơn nữa; giảm ngân sách quốc phòng (tổng mức phải giảm từ nay cho đến trong
vòng 10 năm tới là 500 tỷ USD) nhưng vẫn phải ưu tiên nâng cao vị thế và sự có
mặt về quân sự của Mỹ ở khu vực CA-TBD (nhất là tại Nhật, Philippines, Đài
Loan, Úc…); bố trí lại hải quân đáp ứng những ưu tiên mới này trên khu vực
CA-TBD; tăng cường hợp tác và sự có mặt quân sự của Mỹ tại Úc; gia tăng các mối
quan hệ với Ấn Độ, Myanmar; cổ vũ sự hợp tác của ASEAN…
Đồng
thời Mỹ tiến hành nhiều hoạt động kinh tế và chính trị khác tăng cường các mối
quan hệ đồng minh và liên minh của mình với mọi đối tác truyền thống ở các châu
lục; tìm cách cải thiện quan hệ với một số nước châu Mỹ Latinh bất hòa – chủ
yếu ở Nam Mỹ; giảm bớt những căng thẳng với thế giới đạo Hồi... Có nhiều dấu
hiệu cho thấy Mỹ tích cực thúc đẩy hòa đàm Israel – Palestine, thậm chí đang tính
đến những bước đi mới với Iran… Cùng với các đồng minh và liên minh của mình và
thông qua tăng cường mọi hình thức hợp tác, Mỹ đang ra sức nâng cao vai trò của
các thể chế khu vực và quốc tế mọi dạng – từ các diễn đàn như G7, G20.., đến
các thể chế như UNO, WTO, IMF, WB, các diễn đàn với ASEAN, đẩy mạnh các vấn đề
chung như môi trường, vấn đề chống các thách thức truyền thống và phi truyền
thống (trong đó có những vấn đề hệ trọng như Không phổ biến vũ khí A, vấn
đề chống khủng bố)…
Không
phải ngẫu nhiên đã có không ít tiếng nói của Trung Quốc – đặc biệt là nhóm
“diều hâu” trong quân đội… - cho rằng: Mỹ đang thực thi chiến lược bao
vây Trung Quốc!
Mỹ
có theo đuổi một chiến lược bao vây Trung Quốc không?
Câu
hỏi này cũng được đề cập đến trong giới nghiên cứu – kể cả ở Mỹ. Đương nhiên
chính giới Mỹ chính thức bác bỏ sự nghi ngờ này (!). Trong đối thoại kinh
tế & chiến lược Mỹ - Trung lần thứ 5 (Obama – Tập Cận Bình ngày 07
& 08-06-2013), Obama nhấn mạnh xây xựng mối quan hệ nước lớn dựa trên
sự tin cậy chiến lược (strategic trust).
Giới
nghiên cứu Mỹ cũng có không ít ý kiến cho rằng không có khả năng ngăn chặn hay
bao vây Trung Quốc; hợp lý và khả thi hơn là phải hướng Trung Quốc vào thực
hiện trách nhiệm nước lớn của mình đối với thế giới (K. Rudd, J. Cassidy. R.
Kaplan…).
Song
dù thừa nhận hay không thừa nhận, “pivot to Asia & Pacific”
và “TPP” trước hết hay sâu xa là nhằm kiềm chế Trung Quốc.
(a)
Với tính cách là siêu cường, Mỹ vốn có những lợi ích riêng, những đòi hỏi riêng
và những thách thức riêng do vị thế siêu cường và do việc duy trì vị thế này
đặt ra; không nhất thiết các đồng minh / liên minh của Mỹ (kể cả một số đồng
minh chí cốt) có thể cùng chia sẻ, chưa nói đến lúc này lúc khác có những mâu
thuẫn nhất định với nhau. Điều này là lẽ tự nhiên.
(b)
Bên cạnh sử dụng sức mạnh và ảnh hưởng theo khả năng cho phép, siêu cường Mỹ
luôn luôn phải giương cao ngọn cờ chính trị để xác lập tính chính
đáng cho vai trò quốc tế của mình trong tập hợp lực lượng. Đây chính là nguồn
gốc chủ yếu của cái gọi là tính hai mặt, tiêu chuẩn kép
(doppel standard) trong không ít vấn đề đối ngoại của Mỹ. Tiêu chuẩn kép như
vậy đương nhiên không thể thiếu trong những vấn đề dân chủ - nhân quyền cũng
như trong xúc tiến Hiệp định TPP hiện nay...
Thật
ra thời nào cũng thế, đã là siêu cường, là cường quốc, thì từng bước đi của nó
trước hết đều do lợi ích của nó quyết định – chứ không phải do các chuẩn mực
phổ cập của đạo đức (ethic).
Nói
một cách trắng / đen: Trong chiến lược đối ngoại quốc gia nói chung, không gian
dành cho sự thống nhất giữa bạo lực và đạo đức (theo nghĩa các chuẩn mực phổ
cập) thường rất hẹp hoặc thậm chí có khi không có. Phạm trù đạo đức trong chiến
lược đối ngoại quốc gia thường có những tiêu chuẩn khác... Mỹ là nước đã từng ném
bom nguyên tử xuống Hirosima và Nagasaki, rải chất độc da cam lên miền Nam Việt
Nam, chủ động tiến hành chiến tranh Iraq… Song hiển nhiên hiện nay Mỹ còn là
một trong những nhân tố quyết định trong tập hợp lực lượng thế giới đấu tranh
cho các giá trị toàn cầu. (Xin lỗi đã nói dài dòng về điểm
này, vì muốn lọai bỏ những lướng vướng theo kiểu tư duy máy móc và tư duy ý
thức hệ).
Ngọn cờ chính trị
này của siêu cường Mỹ trong thời kỳ chiến tranh lạnh là chống cộng nhân
danh tự do.
Trong
thế giới của thời hậu chiến tranh lạnh ngày nay, ngọn cờ này của siêu cường Mỹ
là dân chủ và nhân quyền.
Không
phải ngẫu nhiên trong hội đàm Obama – Trương Tấn Sang trong chuyến thăm Mỹ
chính thức của Chủ tịch nước Việt Nam (25-07-13), vấn đề Mỹ quan tâm số một là dân
chủ và nhân quyền, mặc dù Biển Đông và vị thế của Việt Nam đặt ra nhiều
vấn đề chiến lược khác rất hệ trọng và nóng bỏng hơn nhiều (sẽ bàn tiếp trong
phần sau)[9].
Tuy
nhiên, sẽ là mù quáng chết người nếu phủ nhận: Sự phát triển của văn minh nhân
loại ở nấc thang hiện tại của quá trình toàn cầu hóa đang làm cho các
giá trị toàn cầu như hòa bình, phát triển, tự do dân chủ,
quyền con người, bảo vệ môi trường… ngày càng trở thành khát vọng chung
của toàn nhân loại. Xu thế này ngày càng mạnh mẽ và phổ cập hơn, thành một
quyền lực ngày càng mạnh hơn. Xu thế này, chứ không phải là ngọn cờ của chủ
nghĩa xã hội, đang tác động, đang hấp dẫn, hướng dẫn sự vận động của văn
minh nhân loại[10].
Ngọn
cờ dân chủ - nhân quyền siêu cường Mỹ đang giương cao – dù là
tính hai mặt và thực dụng lúc này lúc khác đặm nhạt thế nào (vấn đề “tiêu chuẩn
kép”) – tự nó khách quan có những điểm phù hợp với khát vọng chung của thời đại
trên những phương diện nhất định, có tác dụng hậu thuẫn ở mức nào đó khát
vọng chung của thời đại. Cần xem khía cạnh này là một nhân tố tích cực của thời
đại. Phong trào các nước đấu tranh cho những giá trị toàn cầu này là cần thiết
cho sự phát triển của chính các quốc gia đó, đồng thời khách quan thuận lợi cho
sự phát triển của mọi quốc gia khác – trong đó kể cả siêu cường Mỹ. Đấy chính
là một nội dung mới trong xu thế thời đại của thế kỷ 21, là một nét mới của
tình hình quốc tế hiện nay: Chúng ta đang sống trong một thế giới ngày
càng hướng về những giá trị chung của nhân loại - những giá trị toàn cầu.
Thời kỳ chiến tranh lạnh không thể là như vậy.
Giương
cao ngọn cờ dân chủ và nhân quyền như vậy không hề có nghĩa là nước Mỹ là toàn
vẹn hay chiếm đỉnh cao của nhân loại trên phương diện này. Chưa nói đến giương
cao ngọn cờ là một chuyện, hành xử để bảo vệ hay thực hiện lợi ích của siêu
cường lại là chuyện hoàn toàn khác.
(c)
Mỹ và các đồng mình / liên minh đã hình thành một tập hợp lực lương chung
quanh các giá trị phổ cập của nhân loại.
Bất
luận còn xảy ra nhiều điều trái ngược, còn những cái gọi là “tiêu chuẩn kép”..,
trên thực tế và về nhiều phương diện, các nước phát triển ở mọi châu lục,
hiện nay đang trở thành lực lượng dẫn dắt trào lưu tiến bộ của
thế giới; nguyên nhân chính là (1) trình độ phát triển
cao đã đạt được của họ, và (2) họ hướng về lấy các giá trị toàn cầu làm
các thành tố xây dựng các chuẩn mực chi phối quan hệ quốc tế mọi mặt. (3)
trật tự quốc tế ngày nay vừa đòi hỏi vừa cho phép thúc đảy xu thế vận động này.
(Đã đến lúc trong nghiên cứu và giảng dậy phải rỡ bỏ mọi kiêng cấm ý thức hệ
đang cố bỏ qua thực tế này).
(d)
Những thay đổi đang diễn ra trong so sánh lực lượng nhiều mặt (kinh tế,
quân sự, chính trị, công nghệ và khoa học kỹ thuật, các nguồn lực khác…) giữa
siêu cường Mỹ và toàn thế giới còn lại cho thấy Mỹ ngày càng “nhỏ hơn”
so với những đòi hỏi hay thách thức nó phải đối mặt. Nhưng mặt khác, là chủ lực
quan trọng số 1 (không phải là chủ lực duy nhất) của đội ngũ đồng minh /
liên minh trong tập hợp lực lượng mới chung quanh các giá trị toàn cầu, Mỹ
đã và đang tìm được môi trường mới, đang hình thành một chiến lược mới cho việc
duy trì và tiếp tục bảo tồn hay phát huy vị thế của chính mình trong thế giới
ngày nay. Đây cũng là sự thay đổi ngày càng rõ nét của siêu cường Mỹ trong
một thế giới đang thay đổi quyết liệt. Thực tế này bù lại được phần nào
những thiếu hụt trong quá trình vị thế “đang nhỏ dần đi” của siêu
cường Mỹ trên bàn cờ quốc tế.
Cần
hiểu rõ thực tế vừa nêu trên để thấy: Bên cạnh củng cố thực lực, Mỹ coi thực
hiện chủ trương phát huy tập hợp lực lượng chung quanh những giá trị toàn cầu
là một đòi hỏi sống còn cho sự tồn tại và phát triển của chính nước Mỹ, là một
mũi tiến công quan trọng cho việc bảo tồn vị thế hiện nay của Mỹ. Yêu cầu
này của Mỹ khách quan tạo ra không gian mới nhất định cho các mối quan hệ hợp
tác xây dựng giữa các nước với Mỹ.
(e)
Sẽ là sai lầm nếu như coi siêu cường Mỹ là anh hùng cứu nhân độ thế cho tự do
dân chủ, quyền con người, cho các giá trị toàn cầu khác... Nhưng cũng sẽ là ngu
ngốc không kém và sớm muộn sẽ phải trả giá, nếu một quốc gia không lựa chọn cho
mình con đường đi cùng xu thế tiến bộ của nhân loại, thậm chí muốn đi
ngược lại, hay không biết nương theo trào lưu của thời đại.
Nhìn
từ góc độ các nước đang phát triển, có thể và cần rút ra kết luận: Thời
đại ngày nay cho phép, một quốc gia nếu xác định được con đường đi cùng với
trào lưu của thời đại – trào lưu của các giá trị toàn cầu - để phát triển và để
khẳng định chính mình, sẽ có thể tìm được lối ra và tranh thủ được sự thừa nhận
và hậu thuẫn rộng rãi của cộng đồng quốc tế, vô luận đấy là nước lớn hay nhỏ,
rơi vào hoàn cảnh nào, và nằm ở bất kỳ đâu trên trái đất này. Thay đổi
ở Myanmar có thể được xem như một ví dụ gần đây nhất, có tính thời sự nóng hổi
nhất đang nói lên khả năng này? Phải chăng đây cũng là một kết
quả, một nét mới trong thay đổi mọi tương quan trên bàn cờ quốc tế ngày nay?
Nói
rõ hơn nữa: Cần có cách nhìn vấn đề như vừa trình bầy trên, để không xem
những vấn đề hay đòi hỏi của Mỹ đặt ra cho các đối tác của mình về tự do dân
chủ, về quyền con người đơn thuần chỉ là “vũ khí can thiệp vào công việc
nội bộ nước khác” – mặc dù điều này là không tránh khỏi. Muốn trở thành đối tác
được tôn trọng của Mỹ, cũng không phải là chỉ cần chấp nhận “dựa” vào Mỹ hay
tuân thủ các đòi hỏi của Mỹ, mà trước hết phải là một thành viên chủ động và
năng động trong trào lưu tiến bộ của thời đại ngày nay – một thành viên chủ
động và có bản lĩnh trong cộng đồng quốc tế.
(f)
Chiến tranh thế giới II đã diễn ra giữa các nước lớn. Song kể từ đó đến nay
điều này không xảy ra nữa, vì các lẽ: (1) ngày nay khả năng hủy diệt lẫn nhau
rất lớn, (2) không thể vượt qua được sự phụ thuộc lẫn nhau toàn cầu,
(3) quá trình toàn cầu hóa toàn diện – nhất là về kinh tế - tạo ra những
ràng buộc khó phá vỡ, vân vân…
Đánh
giá tình hình mọi mặt trên bàn cờ thế giới hiện nay cũng có thể nhận định: Hiện
nay và trong một tương lai có thể xác định được – ví dụ từ nay đến giữa thế kỷ
21 hay xa hơn nữa, khả năng xảy ra chiến tranh trực tiếp giữa Mỹ và Trung Quốc
có thể gần như bằng không (zero), vì nhiều lẽ, trong đó có một thực tế là: cho
dù mâu thuẫn hay xung đột lợi ích giữa Mỹ và Trung Quốc quyết liệt như thế nào,
và tính đến mọi mất/được nếu phải tiến hành chiến tranh, tất cả
hình như đều không đủ bức thiết đến mức phải lựa chọn phương án này[11]. Kịch bản hiện thực hơn có lẽ là: Đụng độ Mỹ - Trung
(xin tạm dùng khái niệm này) nếu xảy ra vì bất kỳ lý do gì, có lẽ sẽ được giải
quyết trên địa bàn hay trên trận địa nước thứ ba, hoặc là thông
qua những vấn đề của nước, các nước bên thứ ba.
Trong
dự báo nói trên (không thể, khó có thể xảy ra chiến tranh Mỹ - Trung),
có lẽ cần chú ý một ngoại lệ tuy rất khó xảy ra nhưng không phải là không tiềm
tàng: Đó là tính huống một khi xảy ra sự lầm lỡ như là một tai nạn của con
người, giả thử dẫn đến trạng thái không thể kiểm soát được tình hình. Thể giới
đôi lúc đã mấp mé ở trạng thái này khi Bắc Triều Tiên làm nhiều việc nguy hiểm
và đồng thời ngày 30-03-2013 tuyên bố chiến tranh với Hàn Quốc, bác bỏ Hiệp
định đình chiến 1953.., tình hình nhạy cảm không kém khi các tầu chiến và máy
bay Trung Quốc trực tiếp xâm phạm vùng đảo Senkaku / Điếu Ngư, vân vân…
Thật
ra, lấy nước bên thứ ba (hoặc các vấn đề của nước bên thứ
ba) làm sân chơi để các nước lớn giải quyết “nỗi buồn”
của họ với nhau là một thực tiễn khá phổ biến, đã xảy ra liên tiếp trên bàn cờ
quốc tế kể từ sau chiến tranh thế giới II cho đến ngày nay. Đây chính là điều các
nước thứ ba ngày nay đừng quên và phải luôn luôn cảnh giác.
Những
thay đổi của Mỹ trong chiến lược toàn cầu ngày nay đặc biệt quan tâm đối
phó với (a) sự bành trướng ảnh hưởng quá nhanh của Trung Quốc, và
(b) những thách thức toàn diện ngày càng khó kiểm soát của nước 1,3 tỷ
dân này[12].
Mỹ
đã công bố thẳng thắn: Những thay đổi chiến lược của Mỹ nhằm thực hiện tái
cân bằng chiến lược toàn cầu, tập trung vào khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương (Obama, H. Clinton, Kerry); trong đó ASEAN được Mỹ
coi là một trọng tâm của chiến lược này. Yêu cầu tái cân bằng chiến lược như
vậy đã trở thành một trong những yếu tố quyết định khiến cho “cuộc chơi” Mỹ -
Trung có vị trí nổi bật nhất và chi phối những “cuộc chơi” khác trên bàn cờ
quốc tế.
Các
nước hữu quan trong khu vực với tính cách là nước bên thứ ba -
trong đó có Việt Nam, đứng trước câu hỏi trực tiếp: Ngay từ bây giờ, phải
ứng xử như thế nào và với bản lĩnh nào, một khi “cuộc chơi” Mỹ - Trung này đã
bắt đầu và đang diễn ra ngay trên đầu mình, trên đất mình, hay là ngay trước
cửa ngõ nhà mình?
Như
đã nói bên trên, sẽ không có chuyện Mỹ là anh hùng cứu nhân độ thế cho tự do
dân chủ và nhân quyền. Tại đây xin bổ sung: Cũng sẽ không có chuyện siêu cường
Mỹ là lính đánh thuê giữ nhà cho bất kỳ ai. Và như mọi cường quốc khác, Mỹ đã
cũng mắc không ít sai lầm.
(g)
Chuyển hướng vào chiến lược “trục xoay CA – TBD”, không có nghĩa
siêu cường Mỹ đã được rảnh tay trong nhiều vấn đề nan giải khác thuộc chiến
lược toàn cầu của Mỹ. Có thể nói những vấn đề nan giải ấy chưa dịu đi bao
nhiêu, thậm chí không ít vấn đề vẫn còn nguyên vẹn, tiếp tục phát triển… Thực
tế này chính là một trong những nguyên nhân quyết định, dẫn tới chuyển hướng
chiến lược của Mỹ. Phải chăng điều này có nghĩa: Tìm cách ngăn chặn
nguy cơ lớn nhất là Trung Quốc, để giành lại chủ động trong thế bị động?
Chuyển hướng của Mỹ trong tình thế như vậy, càng làm rõ thêm tầm vóc của mối
nguy Trung Quốc đối với Mỹ nói riêng và đối với thế giới còn lại nói chung.
Tuy
nhiên, trong giới nghiên cứu ở Mỹ cũng có những ý kiến lo ngại chiến lược “trục
xoay” có thể tăng mối lo của Trung Quốc, qua đó khiến Trung Quốc có thể
trở nên hiếu chiến hơn. Loại ý kiến này khuyến cáo chính giới Mỹ nên tăng cường
nỗ lực lôi kéo Trung Quốc cùng đi với cả thế giới, Mỹ và cả Trung Quốc không
nên rơi vào cái bẫy Thucydides (Clifford Kiracofe)[13],
cả thế giới cần nỗ lực tìm cách chuyển đổi hệ thống một siêu cường hiện nay
sang một hệ thống thân thiện hơn (J. Cassidy, K. Rudd, M. Jacques, C. Kiracofe…)
(?!)[14]… Loại ý kiến này cần tham khảo, song khó đứng vững trước
những gì đã và đang diễn ra ở Biển Đông, ở biển Hoa Đông trong suốt những năm
qua và hiện nay.
Mọi
nỗ lực của chính quyền Obama dành cho chuyển hướng vào chiến lược “trục
xoay” đến nay vẫn kiên định. Đồng thời Mỹ cũng đẩy mạnh chính
sách chia sẻ trách nhiệm trong hàng ngũ đồng minh / liên minh để bớt
gánh nặng cho Mỹ. Chưa nói đến một thực tế khác rất quan trọng: CA-TBD,
đặc biệt là các quốc gia phía Tây TBD, là khu vực phát triển kinh tế năng động
nhất thế giới trong thế kỷ này, Mỹ nhất thiết không thể đứng ngoài.
Đối với đồng minh EU: Là đồng minh chí cốt của Mỹ, nhưng lại chìm ngập sâu vào
khủng hoảng kinh tế - trước hết là khủng hoảng tài chính và vấn đề nợ công,
nguy hiểm đến mức gần như đe dọa làm tan vỡ đồng Euro – khiến cho thế và lực
của Mỹ cũng bị suy yếu. Hơn thế nữa các nước EU – kể cả những thành viên lớn
như Đức, Anh, Pháp.., có quá nhiều mối liên hệ kinh tế với Trung Quốc, nên khó
có thể có sự cứng rắn cần thiết trong đối xử với Trung Quốc.
Đối với Nhật:
Tín hiệu tốt đối với Mỹ là kinh tế Nhật bắt đầu phục hồi sau 2 thập kỷ trì trệ
và thắng lợi bầu cử vang dội ở cả hạ viện và thượng viện tháng 7-2013 của đảng
Dân chủ Tự do (Liberal Democratic Party – LPD) của thủ tướng Abe. Đấy cũng là
tín hiệu của cả nước Nhật về sự trả lời rất kiên quyết đối với những hành động
hiếu chiến của Trung Quốc trong tranh chấp đảo Senkaku / Điếu Ngư. Trước bầu
cử, Nhật đã ban bố sách trắng về quốc phòng, trong đó biểu thị lập trường dứt
khoát của Nhật trong bảo vệ chủ quyền của mình. Sau bầu cử, LPD đang tiến hành
vận động sửa đổi Hiến pháp, dự kiến sửa đổi nhiều điều quan trọng liên quan đến
thể chế chính trị và kinh tế. Một trong những sửa đổi nổi bật sẽ là đòi
hỏi lập lại chủ quyền đầy đủ về quốc phòng và tăng cường thực lực quân sự
(bao hàm cả vấn đề tự trang bị vũ khí, vấn đề quân đội Nhật được hoạt động
ngoài phạm vi lãnh thổ của mình khi tình hình đòi hỏi…) – nghĩa là xóa bỏ tất
cả những ràng buộc hạn chế Nhật còn sót lại trong quá trình thi hành những
quyết định của Hội nghị Teheran và Hội nghị Yalta đầu năm 1945 về chiến tranh
thế giới II.
Mặc
dù trong nội bộ Nhật còn những chia rẽ nhất định chung quanh việc sửa đổi Hiến
pháp, song có thể nhận định: Nhật kiên trì còn nước còn tát trong duy trì hòa
bình với Trung Quốc, nhưng rất quyết liệt thay đổi tất cả để đáp ứng những đòi
hỏi và thách thức mới từ phía Trung Quốc. Bước phát triển mới này của Nhật là
cần thiết, Mỹ hưởng ứng. Đương nhiên sự vươn lên của Nhật về quốc phòng không
tránh khỏi những dị nghị hay lo ngại của 2 láng giềng là Nga và Hàn Quốc – cả 2
nước này đều có tranh chấp biển đảo với Nhật (vùng quần đảo Kurril do Nga kiểm
soát; đảo Tokdo / Takeshima do Hàn Quốc kiểm soát); Nhật lại là đông minh chiến
lược của Mỹ.
Đối với Nga:
Do nhiều yếu tố khác nhau của lịch sử để lại – nhất là từ thời chiến tranh
lạnh, do những va chạm có tính địa chính trị toàn cầu không tránh khỏi trong
quá trình Nga ngày nay đang theo đuổi khát vọng lấy lại vị thế một thời đã từng
ngang ngửa với Mỹ suốt thời kỳ chiến tranh lạnh.., bức tranh va chạm hay mâu
thuẫn hiện nay có vẻ đậm nét hơn bức tranh hợp tác trong tổng thể mối quan hệ
Nga - Mỹ.
Trong
các vấn đề do lịch sử để lại có vấn đề rất nhay cảm là nhiều nước XHCN Đông Âu
cũ và một số nước trong Liên Bang Xô Viết cũ nay trở thành thành viên của NATO,
qua đó hình thành trên thực tế một vòng tròn NATO bao quanh Nga. Tất cả những
quốc gia thành viên NATO mới này trong quá khứ có nhiều vấn đề lịch sử rất sâu
sắc với Liên Xô cũ. Nước Nga bây giờ vẫn đứng trước nguy cơ ly khai của Checnya
và phong trào khủng bố tại đây… Mớ quan hệ rối rắm này bây giờ được bổ sung thêm
những vấn đề nhạy cảm mới như việc NATO bố trí tên lửa giáp nước Nga (phía Đông
Âu, với lý do ngăn chặn khủng bố và những nguy cơ khác đến từ Bắc Triều Tiên,
Trung Quốc…), đàm phán chật vật Mỹ - Nga hiện nay về cắt giảm số tên lửa chiến
lược mang đầu đạn hạt nhân, vấn đề tỵ nạn của Snowden,… Những thách thức mới từ
phía Trung Quốc buộc Mỹ và Nhật phải tăng cường hợp tác để củng cố sức mạnh
chung; nhưng thực tế này lại kích thích sự ngờ vực của Nga, kích thích sự liên
kết Nga – Trung ở mức độ nhất định. Nga và Trung Quốc gặp nhau ở chỗ cả 2 đều
không muốn chính quyền Assad sụp đổ, vì Syri là vị trí duy nhất hiện nay Nga
còn có được trong thế giới Ả-rập, Trung Quốc không muốn Mỹ và phương Tây tiếp
tục mở rộng ảnh hưởng tại đây... Trong khi đó Mỹ và đồng mình không thể chấp
nhận việc Nga cùng với Trung Quốc ngăn cản những nỗ lực của Liên hiệp quốc cho
giải pháp vấn đề Syri và chống lại sự can thiệp của phương Tây.
Nhưng
mối nguy hiểm lớn nhất đối với Mỹ (và phương Tây) có lẽ không nằm trong vấn đề
chính quyền Assad tồn tại hay không tồn tại, mà là hiệp đồng Nga – Trung chống
lại Mỹ trong vấn đề Syri đang manh nha nguy cơ hình thành một kiểu trục
Nga – Trung trong những tình huống nhất định...
Những
hệ quả của sự hiệp đồng Nga - Trung này đang trở thành thách thức trực tiếp đến
vị thế siêu cường hiện nay của Mỹ, kể cả ở Liên hiệp quốc. Tâp trận chung
hải quân Nga – Trung Quốc thượng tuần than 04-2013 tại Hoàng Hải cùng mang một
ý nghĩa như vậy. Nhưng ngay sau đó tại Quân khu phía Đông (bao gồm vùng Viễn
Đông và một phần Siberia), Nga đã tiến hành tập trận lớn chưa từng có trên bộ
(vùng giáp ranh với Trung Quốc), bao gồm cả việc diễn tập trên biển tại vùng
đảo Sakhalin. Cuộc tập trận lớn này của Nga có lực lượng thủy, lục, không quân
với 10 vạn lính tham gia, có sự thị sát của tổng thống Putin. Giới nghiên cứu
cho rằng: Tập trận của Nga trên bộ là nhằm răn đe Trung Quốc đang muốn dòm ngó
vùng Viễn Đông, còn tập trận tại vùng đảo Sakhalin là nhằm cảnh báo Mỹ và Nhật.
Thế giới quả là phức tạp.
Một số người trong giới nghiên cứu Mỹ cân nhắc trên nhiều
phương diện và đi tới kết luận:
Có lẽ Trung Quốc, chứ không phải Mỹ, mới là sự uy hiếp hiện hữu lớn nhất hiện
nay đối với Nga. Họ tính toán xem có cách nào tận dụng thực tế này thúc
đẩy quan hệ Mỹ - Nga được không?
Trong khi đó cũng ở Mỹ lại có ý kiến ngược hẳn lại: Nhìn vào chính sách của Nga trong vấn đề Syrie, vào thái
độ của Nga rắn lên đối với Mỹ và một số nước phương Tây trong nhiều vấn đề kinh
tế và chính trị, gần đây lại thêm vụ E. Snowden.., vào các sự việc như đang dấy
lên hoài bão làm sống lại sự huy hoàng của Nga qua các thời Sa hoàng, thời
Stalin… phải chăng Nga đang tìm kiếm một liên minh nào đó với Trung Quốc và thế
giới đạo Hồi, với mục tiêu mau chóng lấy lại vị thế đã từng có dưới thời Liên
Xô và chống trả ảnh hưởng của Mỹ - phương Tây? Chú ý: Một số nhà
báo Nga và phương Tây nhìn nhận Putin như một sa hoàng mới giấu mình.
Đối với thế giới Ả-rập, vấn đề đạo Hồi, vấn đề chống khủng
bố…: Sau chiến tranh Iraq và
Afghanistan, Mỹ dưới thời Obama rất thận trọng trước những diễn biến ở các nước
Bắc Phi, nhất là trong việc đưa quân đội thực hiện can thiệp trực tiếp. Có
nhiều nguyên nhân cho sự thận trọng mới này. Nguyên nhân chủ yếu có lẽ ở chỗ:
Sự nổi dậy của các nước Ả-rập Bắc Phi trước hết vì những lý do bị bần cùng hóa
về kinh tế, chứ không phải khát vọng dân chủ là chủ yếu; đã thế xã hội các quốc
gia Ả-rập này chia rẽ sâu sắc về tôn giáo, sắc tộc và phe nhóm hình như không
một khát vọng dân chủ hay một thể chế dân chủ nào có thể vượt qua được.
Những
diễn biến tại các quốc gia này còn cho thấy Mỹ và phương Tây không thể gửi gắm
vào bất kể một lực lượng, phe nhóm hay sắc tộc nào… Iraq và Afghanistan đã
chứng minh là như thế, bây giờ lại có thêm Ai-cập là như thế.
Với
sự dính líu của Trung Quốc vào những quốc gia Ả-rập này, tình hình còn trở nên
phức tạp hơn (đã lộ ra trong những vụ việc có liên quan đến Syri, Pakistan,
Afghanistan...) Không phải ngẫu nhiên cuối cùng Mỹ phải tìm cách xúc tiến đàm
phán trực tiếp với Taliban tại Afghanistan, vì chính quyền Karzai quá tham
nhũng và bất lực, tất nhiên tổng thống Karzai rất phẫn nộ…
Việc
vũ khí hóa học được sử dụng trong nội chiến ở Syri (phương Tây khẳng định thủ
phạm là chính quyền Assad) đặt Mỹ và phương Tây trước sự lựa chọn khó khăn: Nga
và Trung Quốc muốn cùng nhau vận động thế giới đạo Hồi chống lại mọi quyết định
của Mỹ và phương Tây và cản trở HĐBA LHQ có quyết định về vấn đề nhạy cảm này;
nhưng nếu Mỹ và phương Tây không can thiệp vũ trang để trừng trị chính quyền
Assad cũng sẽ để lại nhiều hiểm họa khôn lường như là trường hợp can thiệp.
Trên thực tế, ngoài chuyện vấn đề Syrie trước hết là của Syrie còn có vấn đề
đây là địa bàn tranh chấp một bên là Mỹ và phương Tây, một bên là Nga-Trung và
thế giới đạo Hồi. Nhìn theo góc độ này, Syrie đang rơi vào số phận nước
bên thứ ba. Tình hình chứa đựng một nguy cơ khủng hoảng lớn có ảnh
hưởng lan ra ngoài khu vực.
Vấn đề hạt nhân của Iran ngày càng nóng
và bế tắc, sự phản ứng rất quyết liệt để tự vệ của Israel trước nguy cơ này
(bao gồm cả tuyên bố sẵn sàng đánh đòn phủ đầu) càng như đổ thêm dầu vào lửa.
Dứt khoát Mỹ không thể bỏ rơi Israel. Nhưng cũng dứt khoát Mỹ không thể chấp
nhận để vấn đề hạt nhân (bao gồm cả khả năng hay nguy cơ sản xuất vũ khí A) của
Iran vượt ra ngoài sự kiểm soát… Hiện nay Mỹ đang thúc đẩy hòa đàm Israel –
Palestin, đồng thời đang tìm kiếm khả năng lôi kéo Iran vào một sự hợp tác hòa
bình nào đó và đang ra sức khai thác việc tổng thống Hassan Rowhani thuộc phe
ôn hòa ở Iran thắng cử... Vấn đề Syri đang cản trở nỗ lực này.
Vấn đề chống khủng bố có chiều hướng tích tụ thêm những hiện tượng phức tạp mới,
đặc biệt do nguyên nhân buôn bán lậu vũ khí, mối nguy tán phát vũ khí A hay
công nghệ quân sự cao qua đường buôn lậu, hoặc qua các con đường chính trị khác
rơi vào tay các lực lượng khủng bố… Vừa qua quân khủng bố đã phá 9 nhà tù tại
các nước Đông và Bắc Phi, tại Pakistan.., hàng trăm phần tử khủng bố Al Qeada
đã trốn thoát, nguy cơ khủng bố có thể bùng nổ trở lại, Mỹ có lúc đã buộc phải
tạm đóng cửa 19 đại sứ quán trong vùng này…
Vấn đề Biển Đông:
Như đã trình bày trên, Biển Đông là một trọng tâm của chiến lược “trục
xoay”. Lập trường của Mỹ là không chấp nhận đường lưỡi bò,
đòi phải bảo đảm lưu thông hàng hải tự do, phản đối giải pháp vũ lực, đòi mọi
tranh chấp biển đảo phải được giải quyết bằng thương lượng đa phương theo luật
pháp quốc tế. Tuy nhiên Mỹ tuyên bố không can thiệp trực tiếp vào giải quyết
tranh chấp biển đảo giữa các nước trong khu vực, quan điểm này không cản trở Mỹ
giúp các đồng minh của mình theo thỏa thuận hợp tác song phương về quốc phòng.
Trước
tình hình Trung Quốc chiếm bãi cạn gần Scarborough / Hoàng Nham (2011 – 2012)
và còn lăm le mở rộng lấn chiếm nữa, Philipines và Mỹ tăng cường hợp tác quân
sự với nhau trong khung khổ ký kết hiện có giữa hai nước; 2 bên đang xúc tiến
đàm phán để Mỹ dưới dạng nào đó trở lại căn cứ Subic và Clark. Mỹ ủng hộ DOC và
thúc giục phải sớm hoàn thành COC.
Vấn đề Đài Loan:
Đây là chiến hạm không bao giờ chìm của Mỹ trên Thái Bình Dương
án ngữ trước mặt Trung Quốc (Douglas MacArthur). Vì khác nhau về chế độ chính
trị, trong một thời gian nhất định khó có thể xảy ra khả năng Đài Loan hòa bình
thống nhất hay trở về với Trung Quốc đại lục; trong khi đó Trung Quốc dứt khoát
bác bỏ quan điểm 2 Trung Quốc.
Trong
giới nghiên cứu Mỹ hiện nay có mối lo ngại: Mối quan hệ kinh tế Đài Loan -
Trung Quốc ngày càng lớn và mật thiết sẽ có thể gây ra những biến đổi gì? Hiện
nay 2/3 số công ty của Đài Loan đang đầu tư vào Trung Quốc hay kinh doanh với
đại lục, mỗi tuần có 270 chuyến bay giữa hai bờ. Trung Quốc hiện nay là khách
hàng số 1 về xuất khẩu của Đài Loan, khách hàng nhập khẩu số 2 của Đài Loan.
Hiện nay mỗi năm Đài Loan có trên nửa triệu khách du lịch đến từ đại lục, và
khoảng 750.000 người Đài Loan vào sống 6 tháng trên đại lục. Nói khái quát,
ngày nay 60 – 70% kinh tế Đài Loan là làm ăn với đại lục. Mọi tác động qua lại
giữa hai bờ không hề hấn gì đối với sức mạnh của thể chế chính trị ở đại lục,
nhưng cũng không thể kéo Đài Loan về chung sống dưới một mái nhà Trung Quốc…
(Tình hình quan hệ giữa đại lục và Hongkong, giữa đại lục và Macao cũng tương
tự).
Tuy
nhiên, nên xem xét một giả thiết khác: Với những diễn biến nhất
định nào đó (trong đó có sự suy yếu tiếp tục của Mỹ, hoặc giả định là Trung
Quốc thay đổi chiến lược và có sự nhân nhượng nào đó đối với Đài Loan…) dẫn tới
một tình huống cho phép xảy ra kịch bản một “liên bang Trung Quốc”, trong đó
Đài Loan là một bang (với những quyền tự trị rất cao) và cùng đứng chung với
đại lục dưới ngọn cờ Đại Hán thì sao? Bước đệm cho kịch bản này đã có sẵn rồi –
đấy là quan điểm “một Trung Quốc hai chế độ” đang dành cho việc
duy trì thể chế của Hongkong và Macao.
Trong
một “liên bang” như vậy, cái mà Đài Loan sẽ nhận được là (a) mối nguy bị
thôn tính từ phía đại lục sẽ không còn nữa, và (b) kinh doanh trên đại
lục càng béo bở; cái Đài Loan sẽ mất là (c) bản thân mình không còn là một
“chiến hạm không bao giờ chìm” của Mỹ nữa. Và trong một tình huống như thế,
chắc gì Đài Loan muốn đóng vai trò là chiến hạm không bao giờ chìm của Mỹ? Việc
Đài Loan đánh chiếm một số đảo của Việt Nam ở Hoàng Sa và đứng cùng một chiến
tuyến với Trung Quốc trên Biển Đông trong một số vấn đề quan trọng cho thấy máu
Đại Hán cũng tiềm tàng trong cơ thể Đài loan.
Giả
thiết về một liên bang Trung Quốc như thế có thể còn xa với, nhưng trong tham
vọng chính trị của cường quốc có điều gì là không muốn, không dám?..
Xin lưu ý:
Trong tình huống nhất định (ví dụ: xảy ra khủng hoảng mới ở Trung Đông, trong
thế giới đạo Hồi, trong lòng nội địa Trung Quốc.., hoặc trục Nga – Trung công
khai xuất hiện…)., và một khi (1) sự tha hóa các giá trị của Đài Loan, (2) sức
ép + sự quyến rũ (cái roi và củ cà-rốt) của đại lục, (3) cộng hưởng với sự suy
yếu của Mỹ đạt tới một điểm nào đó, việc xảy ra khả năng đại lục chớp thời cơ
tạo lập một “liên bang Trung Quốc” sắc thái Đại Hán có thể không hẳn là chuyện
của khoa học viễn tưởng.
Một
“liên bang Trung Quốc” sắc thái Đại Hán như thế, sẽ hệ lụy ra sao đối với (a)
các nước Đông Nam Á, (b) so sánh lực lượng và mối tương quan giữa các cường
quốc hữu quan: Mỹ, Nhật, Nga, Ấn-độ, sự tập hợp lực lượng mới… (c)toàn bộ
hệ thống liên minh quân sự của Mỹ ở CA-TBD?
Xin lưu ý:
Có không ít ý kiến cho rằng sự khác nhau về hệ thống chính trị giữa môt bên là
Trung Quốc đại lục và một bên là các thực thể lãnh thổ Trung Quốc như Đài Loan,
Macao, Hongkong là rất lớn. Do đó có thể loại trừ khả năng có một Trung
Quốc thống nhất, dù là dưới dạng liên bang. Liệu suy nghĩ này có thể đứng
vững?
Thực
tế những thập niên vừa qua cho thấy sự khác biệt về chế độ chính trị không ảnh
hưởng đến quá trình phát triển tiếp tục các mối quan hệ giữa đại lục và các
thực thể Trung Quốc khác. Thậm chí, với bản chất là chủ nghĩa tư bản
trong chế độ toàn trị một đảng đặc sắc Trung Quốc, khoảng không gian
của đại lục dành cho các mối quan hệ hợp tác và liên kết với các thực thể lãnh
thổ Trung Quốc này đang ngày càng mở rộng mà không bên nào phải thay đổi thể
chế của mình.
Một khía cạnh khác:
Trong giới chuyên gia quân sự Mỹ có ý kiến lo ngại từ năm 2020 trở đi khả năng
của Mỹ bảo vệ Đài Loan có thể sẽ ngày càng giảm. Không loại trừ tình
huống đến lúc nào đó và trong những điều kiện nhất định, đại lục có thể thống
nhất Đài Loan bằng vũ lực - (theo Kaplan, dựa vào nghiên cứu của RAND[15])… Điều gì sẽ xảy ra nếu mối lo này thành hiện thực? Rồi
phản ứng dây chuyền của sự đổ vỡ này đối với toàn khu vực Châu Á – Thái bình
Dương?.. Đã có ý kiến đề xuất từ RAND: Đối sách của Mỹ có thể là phải bằng mọi
cách kéo dài tình trạng hiện thời của Đài Loan cho đến khi có một sự phát triển
dân chủ hơn xảy ra ở đại lục Trung Quốc…[16] Lại thêm một ảo tưởng nữa?
Vấn
đề Đài Loan như vừa trình bầy làm rõ thêm sự bức thiết của chiến lược “trục
xoay” và việc Mỹ quay lại CA – TBD.
Tuy
nhiên, Trung Quốc sẽ phát triển như thế nào và có thể hành động gì? – thiết
nghĩ còn rất nhiều ẩn số ở phía trước. Mỹ cũng có danh mục khá dài các biện
pháp đơn phương, đa phương, tổng hợp… để khống chế Trung Quốc khi tình hình đòi
hỏi.
Có
thể rút ra kết luận về Mỹ:
Nhìn tương quan lực lực lượng toàn cầu và xu thế vận động
hiện nay của thế giới, có thể đánh giá: Chí ít cho đến giữa thế kỷ 21, Mỹ vẫn
là siêu cường duy nhất, vị thế này là không thể thách thức.
1.
Quá trình phạm vi ảnh hưởng của siêu cường Mỹ “đang nhỏ dần đi”
là không thể cưỡng lại. Trong khi đó Mỹ vẫn chưa ra khỏi được nhiều vấn
đề tồn tại lâu nay (trong đó có các vấn đề Iraq, Afghanistan, vấn đề các nước
Bắc Phi, vấn đề Israel - Palestin…). Đồng thời nhiều vấn đề gai góc khác tiếp
tục nóng lên (vấn đề nguy cơ vũ khí A của Iran và Băc Triều Tiên, vấn đề khủng
bố, quan hệ NATO – Nga, quan hệ Mỹ - Nga, hiện nay xuất hiện thêm vấn đề
Snowden với cả thế giới, vấn đề vũ khí hóa học đã được sử dụng ở Syri…). Trong
bối cảnh đó từ hơn một thập kỷ nay sự vận động của siêu cường đang lên Trung
Quốc tiềm tàng nguy cơ xáo trộn trật tự quốc tế hiện thời, thách thức trực tiếp
nhất vị thế siêu cường của Mỹ, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược toàn cầu của
mình.
2.
Song trong cục diện quốc tế hiện tại một siêu đa cường, Mỹ và đồng minh / liên
minh vẫn giữ vai trò chi phối – trong nhiều trường hợp là vai trò quyết
định – đối với diễn tiến hay giải pháp của hầu hết mọi vấn đề toàn cầu hay khu
vực, của mọi thách thức truyền thống hay phi truyền thống.
Về
nhiều mặt đồng minh / liên minh Mỹ - phương Tây còn là lực lượng dẫn dắt trào
lưu và xu thế phát triển của thế giới (trào lưu của văn minh nhân loại, của tự
do dân chủ, sự phát triển của khoa học và công nghệ…). Trong mối liên kết đồng
minh / liên minh này, với phương thức tập hợp lực lượng thông qua ngọn cờ dân
chủ - nhân quyền và những giá trị toàn cầu khác, Mỹ có vai trò nổi bật. Toàn bộ
thực tế này trong tình hình mới khách quan bù đắp lại đáng kể những hao mòn vị
thế xảy ra trong quá trình “đang nhỏ đi” của siêu cường Mỹ.
3.
Thay đổi triệt để nhằm tạo mọi khả năng tiếp tục giữ vị thế quyết định toàn cầu
và đồng thời nắm lấy vai trò đi đầu trào lưu phát triển của thế giới với phương
thức tập hợp lượng mới, đấy chính là con đường phát triển Mỹ lựa chọn để duy
trì và tiếp tục phát huy vị thế siêu cường của mình, qua đó tác động vào cục
diện thế giới.
4.
Thách thức lớn nhất đối với Mỹ có lẽ chính là vấn đề: Thể chế chính trị Mỹ liệu
có đủ sức kham nổi những thay đổi không ít đau đớn trong mọi lĩnh vực kinh tế,
nội trị, quốc phòng, đối ngoại.., để cùng với cả thế giới phương Tây tiếp tục
phát huy ảnh hưởng có lợi cho cục diện quốc tế chung hay không?[17].
5.
Bù lại vị thế siêu cường của mình đang nhỏ dần đi, Mỹ quan tâm đẩy mạnh tập hợp
lực lượng chung quanh những giá trị toàn cầu. Thực tế này khách quan có lợi cho
việc mở rộng quan hệ hợp tác với Mỹ như một đối trọng có ý nghĩa quyết định cho
việc xử lý ảnh hưởng bành trướng của Trung Quốc.
Trong vòng hơn
một thập kỷ nay, nhất là từ khi vứt bỏ khẩu hiệu “trỗi dạy hòa bình”, Trung
Quốc trong lời nói cũng như hành động, ngày càng biểu lộ công khai khát vọng
siêu cường của mình. Cũng trong khoảng thời gian này, trên thế giới, nhất là ở
Mỹ, ngày càng nhiều công trình nghiên cứu, sách báo… cảnh báo thế giới những
vấn đề siêu cường đang lên Trung Quốc đang đặt ra cho cả thế giới[18].
Về
kinh tế
So với khi
tiến hành cải cách năm 1978, kinh tế Trung Quốc hiện nay tăng khoảng 30 - 35
lần (về quy mô GDP). Hãy hình dung về tốc độ: Năm 1990 kinh tế TQ đạt GDP tính
theo đầu người là 350 USD; năm 2000 là 1000 USD p.c.; năm 2009 là 3000 USD p.c.
(đây là GDP p.c. danh nghĩa, tính theo thời giá, không phải tính theo sức mua
PPP)... Năm 2020 dự kiến GDP p.c. sẽ đạt 8500 USD; năm 2030 dự kiến 20.000 USD
p.c. Tập đoàn Goldman Sachs dự báo GDP kinh tế TQ sẽ vượt Mỹ năm 2041. Hiện nay
Trung Quốc có khoảng 1500 tỷ USD dự trữ ngoại tệ và là chủ nợ của hầu hết các nước
Mỹ và Tây Âu (Trung Quốc nắm giữ 1250 tỷ USD trái phiếu Mỹ)…[19] Theo IMF, GDP p.c. nominal của Trung Quốc năm 2012 là
6000 USD (trong khi đó của Mỹ là 49.000 USD, của Thái Lan là 5678 USD, của Việt
Nam là 1578 USD), vân vân...
Trước hết xin
đánh giá khái quát: Năm 1978 quy mô kinh tế Trung Quốc chỉ bằng Hà-lan lúc đó.
Ngày nay (nghĩa là trong vòng 35 năm) Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế
thứ 2 trên thế giới.
Cụ thể là: Năm
1980 GDP của Trung Quốc là 200 tỷ USD, xuất khẩu đạt 18 tỷ USD, năm 2012 GDP
đạt 7000 tỷ USD và xuất khẩu đạt 1200 tỷ USD (số tròn). Đây là hiện tượng chưa
từng có trên thế giới.
Về nguyên nhân
thành công, nói ngắn gọn là:
(a)
thắng lợi của cải cách chuyển sang thể chế kinh tế thị trường,
(b)
tận dụng tối đa lợi thế quy mô kinh tế (economics of scales) của địa kinh tế và
địa chính trị Trung Quốc – trong đó có lợi thế quy mô dân số, quy mô thị
trường…
(c)
khai thác triệt để quá trình toàn cầu hóa của kinh tế thế giới đi vào thời kỳ
rất năng động sau khi chiến tranh lạnh kết thúc,
(d)
động lực Đại Hán với khát vọng lấy lai 5 thế kỷ bị đánh mất được khai thác
triệt để gần như đồng nghĩa với khát vọng dân tộc, giấc mơ Trung Quốc..,
(e)
tầm nhìn rộng, sự tài giỏi, ý chí quyết liệt và nhất quán vươn lên siêu cường
của lãnh đạo Trung Quốc.
Nhìn theo
những giá trị và những tiêu chí kinh điển của chủ nghĩa xã hội (như vẫn được
giảng dậy và tuyên truyền về chủ nghĩa Mác – Lênin, nhất là những tiêu chí
liên quan đến công bằng, tự do dân chủ, nhân văn, bảo vệ môi trường, phúc lợi
xã hội…), không thể coi sự phát triển của Trung Quốc là thành tựu của chủ nghĩa
xã hội. Cũng theo nghĩa kinh điển này, không thể coi nền kinh tế Trung Quốc là
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Học giả Trung Quốc Minxin
Pei – được tạp chí “Prospect” của Anh xếp hạng là một trong 100 trí thức nổi
tiếng, đánh giá chế độ chính trị Trung Quốc: “Hệ thống của Trung Quốc
hiện nay là một cơ chế cho thuê – phân phối khổng lồ. Các tầng lớp cầm quyền đã
học cách sống cùng nhau không phải bằng sự chia sẻ niềm tin, các giá trị, hoặc
các quy định, nhưng bằng cách chia nhau chiến lợi phẩm của phát triển kinh tế.”[20]
Bên cạnh những
mất cân đối vỹ mô ngày càng gia tăng trong kinh tế (bao gồm cả những vấn đề
liên quan đến dân số), một loạt các vấn đề nóng bỏng trong nội trị Trung Quốc
cũng tăng theo sự phát triển của Trung Quốc: (1) chênh lệch giầu nghèo rất lớn,
bất công xã hội gay gắt[21]; (2) tham nhũng và tội phạm xã hội trầm trọng làm cho xung
đột xã hội ngày càng khó kiểm soát, (3) ô nhiễm môi trường nặng nề, (4) đàn áp
các sắc tộc (tại các vùng Tân Cương, Tây Tạng, Nội Mông…), (5) chế độ
toàn trị tước đoạt gắt gao các quyền tự do dân chủ của dân - đấy là những vấn
đề tồn tại lớn của Trung Quốc… Mặc dù vậy, Trung Quốc vẫn có thể duy trì đà
tăng trưởng hiện nay trong thập kỷ tới.
Bản thân lãnh
đạo Trung Quốc đưa ra lý thuyết chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc
để lý giải và biện minh cho sự phát triển không bình thường và gần như bằng
bất kỳ giá nào của Trung Quốc. Nếu phải diễn tả bản chất sự phát triển đang
diễn ra của Trung Quốc dưới một tên gọi, có lẽ đấy là: chủ nghĩa tư bản
của chế độ toàn trị một đảng đặc sắc Trung Quốc.
Từ hàng chục
năm nay trên thế giới có không biết bao nhiêu cảnh báo và dự đoán về nguy cơ sụp
đổ của nền kinh tế quá nóng của Trung Quốc. Những cảnh báo và dự đoán này đưa
ra rất nhiều chứng cứ và số liệu thuyết phục, song điều dự báo vẫn chưa xảy ra,
vì bản thân Trung Quốc là một thế giới cho chính nó, sẽ bàn tới dưới đây. Dẫn
chứng là một thập kỷ nay, kinh tế thế giới đi vào khủng hoảng sâu sắc có tính
cơ cấu, tác động khốn khổ đến hầu hết mọi nước, Trung Quốc cũng không được miễn
trừ. Tuy nhiên, suốt thập kỷ vừa qua và hiện tại kinh tế Trung Quốc vẫn có tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trong hàng ngũ các cường quốc kinh tế. Trung
Quốc hiện nay vẫn giữ được GDP tăng khoảng 7 – 8% p.a. (trong khi các cường
quốc kinh tế thường là 1 – 2%). Trong một hai thập kỷ tới tăng trưởng GDP của
Trung Quốc được dự báo là 5 hoặc 6% p.a. (vẫn có một số dự báo là từ 7 – 8%),
điều mà các nền kinh tế Mỹ và phương Tây không thể làm được.
Có 3 nguyên
nhân chính khiến cho hiện tượng Trung Quốc còn có thể kéo dài
một vài thập kỷ tới, đó là:
(1) dư địa cho
phát triển của lợi thế quy mô kinh tế (economics of scales) của Trung Quốc còn
khá lớn, bản thân Trung Quốc là một thế giới cho chính mình;
(2) Trung Quốc
còn có thể tiếp tục khai thác, tận dụng tốt quá trình toàn cầu hóa
kinh tế thế giới đang diễn ra;
(3) vì là một
thế giới cho chính mình, nên Trung Quốc có khả năng lớn vận dụng phương thức hy
sinh vấn đề cục bộ để giải quyết vấn đề toàn cục khi tình hình đòi hỏi.
Hiện tượng
Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới (dự báo là khoảng giữa
thế kỷ này) là một thực tế khách quan, với mọi hệ lụy thế giới phải đối mặt.
Bàn
thêm về hiện tượng Trung Quốc là một thế giới cho chính nó:
Thông thường
trong phát triển kinh tế, mọi mất cân đối về bất kỳ phương diện nào và vì bất
kỳ lý do gì, đều có thể dẫn tới khủng hoảng và sụp đổ. Quy luật thép này cũng
không lọai trừ Trung Quốc.
Nhưng nhìn lại
chúng ta thấy: Hàng thập kỷ liên tiếp, Trung Quốc đã hy sinh hoàn toàn sự phát
triển của phía Tây – bất chấp phải trả giá như thế nào, để dồn mọi nguồn lực
của cả nước và mọi cơ hội cho phát triển phía Đông, đặc biệt là toàn vùng duyên
hải. Mọi mâu thuẫn xã hội, khi cần thiết thì được giải quyết bằng vũ lực với
mọi giá, điển hình là vụ tàn sát ở Thiên An Môn 1989. Hiện nay các vụ đàn áp ở
Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông vẫn tiếp tục (tại những vùng này nhiều nơi người người
Hán có tỷ lệ cao gấp đôi người các dân tộc địa phương tại chỗ, có hiện tượng
đồng hóa…), chưa kể đến mỗi năm có hàng vạn vụ đàn áp sự phản kháng của nông
dân liên quan đến vấn đề đất đai… (Chú ý: Trước cải cách đã xảy ra thảm kịch
tàn sát trong cách mạng văn hóa khắp Trung Hoa, cướp đi hàng chục triệu sinh
mạng).
Mọi cảnh báo
hiện nay về phát triển kinh tế Trung Quốc được giới nghiên cứu nêu lên – ví dụ:
nợ công các địa phương đã chiếm tới khoảng 30% GDP cả nước, nguy cơ đổ vỡ
của hệ thống ngân hàng, nguy cơ đổ vỡ của kinh tế bong bóng bất động sản, nguy
cơ không thể cứu vãn về ô nhiễm môi trường, nguy cơ dân số lão hóa nhanh chóng
vì chế độ 1 gia đình / 1 con, vân vân… - nói chung là xác đáng.
Song (a) vận
dụng phương thức “mục tiêu biện minh cho biện pháp”, (b)
vận dụng cách tiếp cận “trả giá bộ phận để thực hiện mục tiêu toàn cục”
trong những điều kiện đặc thù của quy mô kinh tế Trung Quốc với nghĩa
Trung Quốc là một thế giới cho chính nó, rõ ràng trong những thập kỷ vừa qua
Trung Quốc đã chứng minh một cách thuyết phục khả năng phi thường của nó
trong việc “tiêu hóa” các cuộc khủng hoảng.
Ví
dụ 1: Nguy cơ đổ vỡ của kinh tế TQ
là nợ công, là yếu kém của ngành ngân hàng… Đấy là những nguy cơ hoàn
toàn xác thực, ở mức độ như đang xảy ra tại Trung Quốc chắc chắn khó một nước
nước phương Tây nào – kể cả Mỹ - có thể chống đỡ nổi. Song Trung Quốc có thể và
đang chống đỡ được, vì nó có 1500 tỷ USD dự trữ, với cách tiếp cận “muc
tiêu biện minh cho biện pháp”, với quan điểm “trả giá cục bộ để
thực hiện mục tiêu toàn cục”…
Ví
dụ 2: Chế độ chính trị Trung Quốc coi
kinh tế quốc doanh là chủ thể (hay chủ lực, họ không nói “chủ đạo”), chiếm tới
25% GDP. Nhưng trên thực tế kinh tế quốc doanh của Trung Quốc hiện nay chỉ còn
lại các tập đoàn lớn; quy mô của chúng khá lớn. Không ít tập đoàn này còn
lớn hơn các tập đoàn kinh tế của Nhật hay Mỹ… Những năm gần đây xuất hiện ngày
một nhiều tập đoàn kinh tế quốc doanh của Trung Quốc đứng trong top 100 của thế
giới; tất cả đều kinh doanh theo cơ chế thị trường như tại các nước công nghiệp
phát triển. Các tập đoàn kinh tế quốc doanh Trung Quốc cạnh tranh với nhau
quyết liệt không kém cạnh tranh với nước ngoài, chưa nói đến những chi phối
chính trị khác của nội trị Trung Quốc, tệ nạn tham nhũng lớn nhất cũng diễn ra
trong khu vực này… Có thể nói đấy là các tập đoàn kinh tế tư bản nhà nước
đặc sắc Trung Quốc, vận hành trong khung khổ cơ chế cho thuê – phân phối khổng lồ - như Minxin Pei đã phân tích. Thực tế này cũng toát lên
nội dung cơ bản của toàn bộ quá trình cải cách tiếp tục của Trung Quốc đang
diễn ra và sẽ tiếp tục diễn ra trong lĩnh vực kinh tế.
Vân
vân…
Khoảng
một thập kỷ nay TQ không còn thời kỳ tăng trưởng 2 con số nữa.
Với
mục tiêu “nước giầu quân mạnh”, Đại hội 18 của ĐCSTQ đã đề ra
nhiều cải cách quyết liệt về cơ cấu kinh tế (đặc biệt là cơ cấu đầu tư) và hệ
điều hành (nhất là của hệ thống tài chính – tiền tệ, song vẫn chưa tự do hóa
đồng Nhân dân tệ, để bảo đảm khả năng kiểm soát của nhà nước và giữ lợi
thế trong xuất khẩu). Về đối ngoai, Đại hội 18 nêu ra đòi hỏi thiết lập quan hệ
nước lớn kiểu mới – hàm ý không thừa nhận trật tự quốc tế một siêu đa cường…
(Dương Danh Dy).
Trong
những quyết định của Đại hội 18 về kinh tế, quan trọng nhất là (a) chính sách
đổi mới cơ cấu kinh tế để tăng cường sức mua nội địa, (b) kế hoạch từ nay đến
năm 2030 đưa 250 triệu dân vào sống trong đô thị (chiến lược đô thị hóa). Đây
là 2 quyết định đầy tham vọng, theo đuổi mục đích duy trì tăng trưởng kinh tế 6
– 7%/năm trở lên, nhằm thực hiện 3 mục tiêu lớn: (a) duy trì ổn định ở mức có
thể của nội trị Trung Quốc – bao gồm cả vấn đề kiềm chế thất nghiệp, (b) duy
trì tính chính danh vai trò lãnh đạo của ĐCSTQ, (c)duy trì tiến độ trở thành
siêu cường vào khoảng giữa thế kỷ. Các chuyên gia kinh tế đã phân tích: tăng
trưởng kinh tế sẽ đạt tốc độ dưới 5%/năm (nhưng lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố sẽ
phất đấu đạt 6 – 7%/năm)…
Không
có một mục tiêu hay một kế hoạch kinh tế nào Đại hội 18 đề ra là dễ khả thi,
không có một vấn nạn kinh tế nào của Trung Quốc là dễ giải quyết.
Ví dụ 1: Quyết định đẩy mạnh đô thị hóa với cái đích từ nay đến năm
2030 đưa 250 triệu dân nông thôn vào thành phố có thể được xem như một nỗ lực
quyết liệt “sống hay là chết!?”. Có lẽ đây là gói “kích
cầu” vỹ đại nhất trong lịch sử kinh tế thế giới. Quyết định táo bạo này có thể
đúng, với nghĩa công nghiệp hóa phải gắn liền với đô thị hóa. Quyết định này
được đưa ra giữa lúc nơi này nơi khác bong bóng thị trường bất động sản đã nổ
tung, nợ công của Trung Quốc vượt quá 30 GDP (một số nghiên cứu độc lập cho là
khoảng 60 GDP)… Gần đây Kiểm toán Trung Quốc đã công bố riêng nợ công của các
chính quyền địa phương hiện nay đã vượt 1700 tỷ USD – tương đương với 29% GDP,
chủ yếu do đầu cơ thua lỗ vào thị trường bất động sản... Vậy phải đặt ra câu
hỏi: Thực hiện gói kích cầu vỹ đại này bằng con đường nào? cái giá phải trả?..
Phải chăng với quyết định đô thị hóa này, Trung Quốc thời Tập Cẩm Bình - Lý
Khắc Cường đã lựa chọn phương châm “phải liều chết tiến lên phía
trước”? Nếu sự thật là như thế, phải nói đây là một quyết định đáng kính
nể và đáng gờm. Chắc bây giờ nhiều người còn nhớ cách Trung Quốc thời Mao Trạch
Đông đã chủ trương làm gang thép vượt thế giới. Nhìn lại, phải thừa nhận việc
thực hiện giấc mơ gang thép hồi ấy là một trò đùa chính trị cao thủ. Còn kế
hoạch đô thị hóa khổng lồ này? [22].
Ví dụ 2: Vấn nạn ô nhiễm môi trường không thể khắc phục, cả nước hầu
như không còn một con sông nào sạch, nhiều đô thị lớn không khí như sương mù...
Song Đại hội 18 ưu tiên duy trì tốc độ tăng trưởng cao để giữ ổn định và để
không chùn bước lên siêu cường. ĐCSTQ coi đây mới là điều sống còn, chứ
không phải vấn đề môi trường!
Hai
ví dụ vừa nêu trên một lần nữa cho thấy:
(a)
Trung Quốc là một thế giới cho chính mình, nên có thể có những quyết định mà ở
các nước khác là không thể;
(b)
“mục tiêu biện minh cho biện pháp”, và “trả giá cục bộ để
thực hiện mục tiêu toàn cục” là cách hành xử nhất quán của lãnh đạo
Trung Quốc cho mọi nơi, mọi lúc, và trong mọi vấn đề;
Vân
vân…
Tìm
hiểu Trung Quốc, 2 điều không nên bỏ qua là: (1)Trung Quốc trả giá đến đâu và
như thế nào cho sự phát triển với những quyết định kiểu liều chết tiến lên phía
trước của nó? (2) Toàn thế giới còn lại phải trả giá theo đến đâu và như
thế nào?
Các
nước phải tính toán như vậy, bởi vì hầu như chắc chắn Trung Quốc sẽ trở thành
nền kinh tế có quy mô GDP lớn nhất thế giới vào giữa thế kỷ này, sẽ tác động
đến cả thế giới…
Tác động đối với thế giới về địa kinh tế: Có thể nói sự phát triển có một không hai
trên thế giới của Trung Quốc trong những thập kỷ vừa qua là một trong những
hiện tượng quan trọng nhất tác động vào kinh tế toàn cầu[23].
Trước
hết Trung Quốc trở thành nước nhập khẩu lớn nhất thế giới về mọi nguyên liệu
thiết yếu trong các nhóm kim loại, năng lượng, các vật liệu khác... Hiện tượng
này diễn ra quyết liệt và bằng mọi giá hầu như ở mọi vùng nguyên liệu quan trọng
trên thế giới, được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn tinh vi. Thực tế này khiến
cho trong giới nghiên cứu xuất hiện các thuật ngữ như “chủ nghĩa thực dân
mới kiểu Trung Quốc” (“chinese neo-colonialism”), “chủ nghĩa thực
dân mới của quyền lực mềm” (neo-colonialism of soft power)… Phương thức
thực hiện “chủ nghĩa thực dân mới” này là đầu tư, thương mại, viện trợ, lũng
đoạn nước chủ nhà bằng mọi thủ đoạn tham nhũng… Không ít các chính khách tại
một số nước ở châu Phi, châu Mỹ Latinh công khai ca ngợi: Viện trợ của Trung
Quốc không xét nét chế độ chính trị độc tài hay tham nhũng của nước chủ nhà,
không quan tâm nước chủ nhà có những vấn đề như đàn áp sắc tộc, phạm tội hủy
diệt, hủy hoại môi trường, thuộc phe phái nào, vân vân.., không đòi hỏi những
điều kiện kèm theo về dân chủ, nhân quyền, bảo vệ môi trường, thực hiện công
khai minh bạch… như các nước phương Tây thường coi là những tiêu chí để quyết
định viện trợ...
Giới
báo chí đã tổng kết thực tiễn hoạt động của Trung Quốc: cái gì trong làm ăn
thông thường không đạt được thì mua, không mua được thì mua bằng nhiều tiền hơn
nữa… “Chủ nghĩa thực dân mới cực đoan”, “chủ nghĩa thực
dân con rồng” (R. Kaplan, P. Navarro…) không có các chính quyền thực
dân mới của mình tại bất kỳ quốc gia đối tác nào, nhưng có ảnh hưởng của tiền
và quyền lực mềm, có không hiếm các đội quân lao động người Trung Quốc ở thành
làng, thành vùng tại những vùng nguyên liệu có khai trường lớn – trước hết ở
châu Phi, một số nơi ở châu Mỹ Latinh, Trung Á, Đông Nam Á... Sự xuất hiện
những đốm dân cư Trung Quốc như thế gây nhiều hậu quả cho các nước chủ nhà (nội
trị bị xáo trộn, xuất hiện những xung đột xã hội mới, thất nghiệp của nước chủ
nhà gia tăng, những lũng đoạn về chính trị đối ngoại, tại một vài nơi ở châu
Phi đã bắt đầu ngán lao động Trung Quốc…)[24]…
Chưa nói đến việc Trung Quốc hàng năm thải ra khối lượng CO2 lớn nhất thế giới,
nhưng đang thoái thác nghĩa vụ của mình… Ngay tại Nam Mỹ, sân sau của siêu
cường Mỹ, ảnh hưởng của Trung Quốc khiến tâm lý chống Mỹ tăng lên rõ rệt tại
những nước “cánh tả”... Trong những nỗ lực này còn phải kể đến việc Trung Quốc
đang ra sức khai thác diễn đàn BRICS, diễn đàn Bác Ngao, vân vân…[25]
Trung
Quốc trở thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới các mặt hàng xưa nay vốn là các
mặt hàng truyền thống của các nước đang phát triển, bóp chết nhiều ngành công nghiệp
của những nước này. Song hàng xuất khẩu của Trung Quốc cũng xóa sổ không ít
thành thị hay các trung tâm sản xuất nhiều mặt hàng truyền thống khác của hầu
hết các nước phát triển – kể cả ở Mỹ[26].
Từ
vài thập kỷ nay, việc các nước phát triển hàng năm nhập một khối lượng ngày
càng lớn hàng công nghiệp tiêu dùng từ Trung Quốc và việc những nước này đẩy
mạnh việc đưa sang Trung Quốc sản xuất nhiều lọai mặt hàng để tận dụng chi phí
sản xuất thấp (hiện tượng “outsourcing” sang Trung Quốc), tất cả dần dần
đã và đang tạo ra cho những nước phát triển này sự mất cân đối mới trong cơ cấu
kinh tế và trong cấu trúc lực lượng lao động… Sự phụ thuộc này lớn dần lên đến
mức nền kinh tế các nước phát triển này không thể sống thiếu các hàng công
nghiệp tiêu dùng giá rẻ nhập từ Trung Quốc; chưa nói đến Trung Quốc đồng thời
là thị trường xuất khẩu không thể thiếu của các nước phát triển. Giới nghiên
cứu thừa nhận, nếu kinh tế Trung Quốc sóng gió, kinh tế nhiều nước phát triển
sẽ lao đao theo. Những năm gần đây tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chậm lại,
trong đó có nguyên nhân xuất khẩu của Trung Quốc sang các nước phát triển giảm
sút. Toàn cầu hóa là như vậy.
Trung
Quốc thuộc loại siêu giỏi trong viêc vận dụng những thực tiễn (practices) của
chủ nghĩa con buôn (mercantilism)[27],
vi phạm nhiều tiêu chí quan trọng của WTO như bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ, các tiêu chuẩn về chất lượng, các tiêu chuẩn về lao động (trong đó có vấn
đề cấm lao động là trẻ em, lao động là tù nhân), những quy định về về chống bán
phá giá, các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường, vân vân… Ngoài ra Trung
Quốc còn có những công cụ lợi hại khác như điều phối các dòng tiền để lũng
đoạn, kiểm soát chặt chẽ tỷ giá ngoại tệ có lợi cho xuất khẩu của
Trung Quốc…
Phản
ứng chống lại của Mỹ và các nước phương Tây nhìn chung chưa đạt hiệu quả mong
muốn.
Đã
thế, những quốc gia này đang quá bận rộn với nhiều vấn đề của chính mình, như
phải cấu trúc lại kinh tế, xử lý vấn đề nợ công quá nhạy cảm, tình trạng bấp
bênh của đồng Euro, tăng trưởng kinh tế sụt giảm… Trung Quốc đang ra sức
khai thác những khó khăn này để phân hóa nội bộ phương Tây. Gần đây, trong chuyến thủ tướng Đức Merkel chính thức thăm
Trung Quốc 26-05-2013, phía Trung Quốc nói thẳng: Trung Quốc - nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, và Đức
- nhân tố chính trong nỗ lực giải quyết khủng hoảng nợ, cần phải phối hợp để
đối phó với bão nợ công châu Âu…
Về địa chính trị: Thời kỳ “trỗi dậy hòa bình,
giấu mình chờ thời” đã lùi lại phía sau, từ hơn một thập kỷ nay siêu cường đang
lên Trung Quốc tận dụng mọi lợi thế và ảnh hưởng kinh tế của mình mở rộng ảnh
hưởng chính trị tại các châu lục và trong những vấn đề lớn của thế giới, song
khu vực trọng tâm số 1
là Biển Đông.
Hiện
tượng bề ngoài nổi bật và dễ nhận biết nhất là: Bước sang thế kỷ 21, hoạt động
quân sự và chính trị của Trung Quốc có tính uy hiếp và lấn chiếm trên toàn Biển
Đông gia tăng rõ rệt về tần số vụ việc cũng như về mức độ nghiêm trọng của các
hoạt động. Sang thập kỷ thứ hai của thế kỷ này, những hoạt động này lại càng
ráo riết hơn, trước hết nhằm vào Philippines (vùng Scarborough / Hoàng Nham) và
Nhật (đảo Senkaku / Điếu Ngư). Trong hội đàm kinh tế - chiến lược vòng 5, Tập
Cẩm Bình nói thẳng với Obama: Trung Quốc coi Điếu Ngư / Senkaku là “lợi
ích cốt lõi” (Kyodo 11-06-2013)[28].
Sự
phản đối của Nhật và Philippines đã lên tới mức cao nhất về mặt chính trị và
chính trị đối ngoại, đồng thời tuyên bố sẵn sàng đáp trả bằng các biện pháp
quân sự nếu Trung Quốc sử dụng vũ lực. Đỉnh điểm cho đến nay trong phản ứng
quyết liệt của Nhật là ban hành Sách trắng về quốc phòng và đang
vận động trong nước cho thay đổi Hiến pháp để có những bước đi quyết liệt hơn.
Philippines
không thể chấp nhận lập trường bất di bất dịch của Trung Quốc là “thừa
nhận chủ quyền thuộc Trung Quốc, gác tranh chấp, cùng khai thác”. Yêu
sách này của Trung Quốc có nghĩa là: Cái gì Trung Quốc đã chiếm được trên
Biển Đông thì là của Trung Quốc; cái gì Trung Quốc chưa chiếm được trên Biển
Đông thì trước hết phải thừa nhận là thuộc chủ quyền của Trung Quốc, rồi gác
tranh chấp và cùng khai thác! Vì tiềm lực mọi mặt đều yếu, nên
Philippines một mặt kiên quyết đưa vấn đề tranh chấp ra tòa án quốc tế, mặt
khác xúc tiến việc để Mỹ có mặt trở lại về quân sự trên lãnh thổ của mình để
tăng cường quốc phòng.
Các
hoạt động của Trung Quốc uy hiếp hay xâm phạm chủ quyền và lãnh hải Việt Nam
không hề giảm so với thập kỷ trước. Tuy cách tiến hành không căng thẳng về mặt
quân sự như đã áp dụng đối với Philippines và Nhật, song tính chất nguy hiểm
trong những hoạt động của Trung Quốc tiếp tục leo thang nghiêm trọng,
gắn với những tính toán và hoạt động chính trị thâm độc hơn nhiều – vì
Trung Quốc có nhiều điều kiện can thiệp vào nội bộ Việt Nam.
Đặc
biệt nghiêm trọng trong những hoạt động bành trướng không cần che giấu là việc
lập thành phố Tam Sa tại Hoàng Sa với tính chất là một đơn vị hành chính hoàn
chỉnh của Trung Quốc (26-06-2012, trong đó có việc cấp chứng minh thư của thành
phố Tam Sa cho cư dân), lập căn cứ quân đồn trú thường trực ở đây, in bản đồ
Hoàng Sa và Trường Sa vào hộ chiếu của Trung Quốc, tiếp tục khẳng định “đường
lưỡi bò”[29],
cản phá quyết liệt hợp tác khai thác dầu khí của Việt Nam với nước ngoài, ngang
nhiên mời thầu nước ngoài các lô dầu khí thuộc chủ quyền lãnh hải của Việt Nam,
v…v… Hàng năm Trung Quốc lặp đi lăp lại việc áp đặt lệnh cấm đánh cá, việc đưa
hàng trăm tầu cá dưới sự yểm trợ của các tầu hải giám và tầu ngư chính xâm phạm
vùng biển nước ta - có lúc vào sâu trong vùng lãnh hải của ta cách bờ biển chỉ
30 - 50 hải lý (06-2012)[30]…
Đầu
năm nay Trung Quốc thành lập xong hạm đội tuần giám đảm nhiệm việc tuần tra
thường xuyên toàn bộ Biển Đông, bao gồm 11 đội tầu chiến với tổng số 16000 hải
quân.
Nhìn
lại, toàn bộ hoạt động lấn chiếm của Trung Quốc trên Biển Đông là một quá
trình leo thang liên tục, bắt đầu từ các đợt đánh chiếm các đảo và
bãi của Việt Nam ở Hoàng Sa 1956 và 1974, đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi ở Trường
Sa của Việt Nam năm 1988, đồng thời ngày càng ráo riết đòi thực hiện “đường
lưỡi bò 9 vạch”; năm 1995 Trung Quốc đánh chiếm đảo Vành Khăn (Mischief
Reef), từ 2 năm nay đẩy mạnh thực hiện các hoạt đông quân sự để kiểm soát bãi
ngầm Scarborough / Hoàng Nham và bãi Cỏ Mây / Second Thomas Shoal. Đồng thời các hoạt động ngoại giao và quân sự của Trung Quốc
nhằm vào Senkaku / Điếu Ngư ở Biển Hoa Đông ngày càng dồn dập.
Nhìn
lại xa hơn nữa, đáng chú ý là: Tất cả các cuộc chiến tranh đã xảy ra
với các nước láng giềng cho đến nay đều do phía Trung Quốc chủ động gây chiến.
Đó
là: “cuộc kháng chiến chống Mỹ viện Triều” 1950 – 1953, cuộc chiến tranh biên
giới Trung - Ấn 1962, cuộc chiến tranh biên giới Trung – Xô 1969, cuộc chiến
tranh biên giới Trung - Việt 02-1979 rất đẫm máu (“Dậy cho tiểu bá Việt Nam bài
học!”, tiếp theo là các hoạt động bắn phá và lấn chiếm biên giới Việt Nam kéo
dài liên tục đến 1989 mới chính thức chấm dứt; trước đó còn phải kể đến việc
Trung Quốc là cha đẻ của chiến tranh Khme đỏ chống Việt Nam), rồi đến các hoạt
động quân sự đánh chiếm tiếp các đảo trên Biển Đông như đã nêu trên… Đương
nhiên có thể sẽ có lời biện hộ: Có cường quốc nào mà tay không vấy máu để mở
rộng quyền lực và phạm vi ảnh hưởng của mình?
Còn
một vấn đề nữa: Nhìn riêng vào quan hệ Trung – Việt, còn phải lưu ý đến những
bước đi đột xuất có tính chất thay đổi trận tuyến, xẩy ra do những
diễn biến trong cục diện quốc tế.
Hai
ví dụ điển hình là: (1)Khi Trung Quốc thấy cần xoay chuyển quan hệ Trung – Mỹ
từ đối đầu sang hợp tác, ngay lập tức có Thông cáo chung Thượng Hải 1972 – giữa
lúc Việt Nam đang ở thời kỳ quyết liệt nhất trong kháng chiến chống Mỹ; (2) vứt
bỏ mọi mối quan hệ “xã hội chủ nghĩa” và quyết tiến hành cuộc chiến tranh
02-1972 tiến công biên giới phía Bắc Việt Nam, nhằm tạo ra bước ngoặt trong vấn
đề Campuchia để thay đổi cục diện Đông Nam Á sau thất bại của Mỹ trong chiến
tranh Việt Nam và nâng cao vị thế cường quốc Trung Quốc…[31]
Phải
thừa nhận thế và lực của Trung Quốc cùng với quan điểm thực dụng “mục
tiêu biện minh cho biện pháp”, “trả giá cục bộ để thực hiện mục
tiêu toàn cục”… đã cho phép Trung Quốc xoay trở tình thế từ cực nọ
sang cực kia mau lẹ như vậy. Trong bàn cờ thế giới mọi thời đại, lúc nào
cũng có những tình huống thuận lợi cho sự trở cờ như vậy đối với
mọi quyền lực, các nước “bên thứ ba” luôn luôn đứng trước nguy cơ
trở thành nạn nhân.
Một câu hỏi phải đặt ra trong nghiên cứu nhưng chưa có câu trả
lời: Sự leo thang những hoạt động gây căng thẳng của Bắc Triều Tiên dưới thời
Kim Chong Il trong quan hệ với Hàn Quốc, Nhật và Mỹ có liên quan gì với những
bước đi vừa qua của Trung Quốc trên Biển Đông hay không?
Nếu
nhìn những nỗ lực quân sự của Trung Quốc nêu trên trong khung khổ những động
thái chính trị khác, - thời sự nhất hiện này là sự hiệp đồng Trung – Nga trong
vấn đề Syri, thái độ thụ động hoặc thờ ơ của Trung Quốc trong vấn đề hạt nhân
của Bắc Triều Tiên và Iran, những nỗ lực lôi kéo tạo liên kết Trung – Nga
để chống lại Mỹ (nhất là qua các đợt tập trận chung giữa 2 nước gần đây), những
nỗ lực kinh tế và chính trị thâm nhập vào sân sau của Mỹ ở Nam Mỹ, tăng cường
quan hệ với Pakistan (nước có nhiều mối quan hệ thù địch với Ấn Độ).., ra sức
lôi kéo các nước Trung Á (Kazakhstan, Turkmenistan, Uzbekistan, Afghanistan…)
vì mọi lý do kinh tế (để thu hút tài nguyên) và chính trị (để tác động vào Nga
và Mỹ…).., có thể hình dung được
-
mối quan hệ qua lại với nhau giữa các hoạt động quân sự và các động thái kinh
tế - chính trị của Trung Quốc,
-
vai trò các động thái chính trị của Trung Quốc trong việc chuẩn bị, dọn đường,
tổ chức triển khai… các hoạt động kinh tế, quân sự trong chiến lược toàn cầu
của Trung Quốc,
- sử
dụng rất nhiều tiểu sảo để đạt mục tiêu, nước lớn nhưng rất tiểu nhân...
Phản
ứng trước mối nguy Trung Quốc, trong những tháng đầu năm nay Nga lần đầu tiên
hiến hành tập trận trên bộ quy mô lớn chưa từng có ở vùng Viễn Đông - dưới sự
thị sát của tổng thống Putin và huy động 100.000 quân tham gia. Cử chỉ này nhằm
răn đe nguy cơ lấn chiếm của Trung Quốc tại vùng Novosibirsk và Syberia, mặc dù
Nga cùng đi với Trung Quốc trong một số vấn đề địa kinh tế / địa chính trị quan
trọng. Cũng trong những tháng đầu năm nay Ấn-độ điều thêm 50.000 quân tăng
cường cho biên giới của mình tại các bang miền Tây Bangal cho đến tận điểm cao
Kashmir; Nhật tăng cường khả năng hải quân và không quân bảo vệ Senkaku / Điếu
Ngư và tuyên bố dứt khóat sẽ giáng trả nếu bị tấn công. Mỹ đã điều phối thêm
lực lượng không quân trong vùng để hỗ trợ Nhật, song trên tất cả là Mỹ ráo riết
triển khai chiến lược pivot to Asia & Pacific và TPP…
Xin đặc biệt lưu ý, so sánh lực lượng các mặt giữa Trung Quốc và
thế giới bên ngoài, đồng thời quan sát các hoạt động của Trung Quốc, có thể kết
luận: Hướng chính bành trướng khả thi nhất, hiện thực nhất, và
cũng rõ nhất của siêu cường đang lên Trung Quốc là khu vực Đông Nam Á và
Biển Đông. Bởi hai lẽ: (a) trên các hướng khác đã có các đối thủ
lớn của Trung Quốc án ngữ, (b) Trung Quốc có lợi thế và sức mạnh áp đảo đối với
các nước ASEAN.
Ý đồ lâu dài của hướng đi xuống phía Nam này là: Nếu thực hiện
được kiểm soát Biển Đông, Trung Quốc sẽ có thể thao túng nghiêm trọng toàn bộ
các nước ASEAN, tiến thêm những bước quyết định trong việc khuất phục Đài Loan,
đẩy lùi chiến lược “Pivot to Asia & Pacific”. Theo đuổi ý đồ
này, Trung Quốc còn muốn tạo ra cho mình khả năng uy hiếp trực tiếp tuyến hàng
hải Malacca lưu chuyển khoảng 3/5 tổng lượng hàng hóa chuyên chở trên biển của
cả thế giới, chưa kể đến nguồn tài nguyên phong phú của Biển Đông.
Tất cả đang hé lộ tính đối kháng quyết liệt
(categorical antagony) của vấn đề Biển Đông đặt ra cho tất cả các nước hữu
quan, trong đó Việt Nam là điểm rất nhạy cảm.
R.
Kaplan và một số học giả Mỹ thừa nhận: Trên thực tế trong vòng hai thập kỷ nay,
Trung Quốc đã thay đổi đáng kể cán cân quyền lực ở Đông Bán cầu, mở rộng phạm
vi ảnh hưởng của mình rất bất lợi cho Mỹ, không ồn ào trong phương pháp thực
hiện như các nước đế quốc trước đây vẫn làm, nhưng tinh vi và có hiệu quả lớn,
phù hợp với thời đại toàn cầu hóa ngày nay…[32]
Một số nhà nghiên cứu khác đánh giá: Chủ nghĩa thực dân con rồng
khôn ngoan hơn và đã thành công vượt bậc so với chủ nghĩa thực dân cũ và mới… Con
rồng ngày nay đang giương nanh vuốt của mình…
Đến
đây có thể dễ dàng hình dung con rồng Trung Quốc đã và đang gây
ra những biến động địa kinh tế và địa chính trị gì ở phạm vi toàn cầu như thế
nào, gắn liền với sự bành trướng không mệt mỏi của quyền lực mềm của nó.
Hẳn
không phải ngẫu nhiên khi mở đầu bài viết “Yếu tố địa lý của quyền lực
Trung Quốc…”[33],
R. Kaplan nhắc lại việc Halford Mackinder trong cuốn “The geographical
Pivot of History” (1904) đã cảnh báo thế giới về mối nguy Trung
Quốc[34], nhắc lại hy vọng của
H. Mackinder cho rằng chỉ có lý tưởng của dân chủ mới có thể mang lại một thế
giới tốt đẹp (H. Mackinder – trong cuốn “The democratic Ideals and
Reality” - 1919).
Xin
nhắc lại, trong giới nghiên cứu ở Mỹ và phương Tây có không ít ý kiến cho rằng không
có khả năng bao vây hay ngăn chặn sự đi lên của Trung Quốc, sự việc Trung Quốc
trở thành nền kinh tế có tổng lượng GDP lớn nhất thế giới vào khoảng giữa thế
kỷ này sẽ là không thể đảo ngược.
Sự
thật có thể sẽ như vậy, bởi vì từ nay đến giữa thế kỷ này hình như cũng khó xảy
ra những biến động nào trong nội trị Trung Quốc đủ sức xoay chuyển được hướng
phát triển của nước Trung Quốc hiện tại sang bất kỳ hướng nào khác (đổ vỡ? hay
cải cách dân chủ?..).
Có
2 vấn đề lớn nên đặt ra để tìm hiểu:
(1) Kinh tế thế giới, đặc biệt là các nền kinh
tế nhỏ yếu của các nước đang phát triển, sẽ phải đối mặt với những vấn đề gì,
nếu con rồng Trung Quốc tiếp tục mô hình phát triển của nó như hiện nay trong
vòng vài ba thập kỷ tới - với cái đói nguyên liệu không bao giờ thỏa mãn, với
mọi thực tiễn của chủ nghĩa con buôn (mercantilism) và sự tác quái của quyền
lực mềm như đang tiến hành.
(2) Cùng với khát vọng nhất quán ngoi
lên siêu cường, việc ráo riết tăng cường chi tiêu quốc phòng và phát triển
nhanh chóng lực lượng quân sự, nhất là ý đồ phát triển lực lượng hải quân
nước xanh (blue marine – hải quân đại dương) đặt ra những hệ lụy gì cho
cân bằng lực lượng tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và uy hiếp như thế nào
các nước nhỏ bé hơn trong khu vực?
Dưới
đây xin bàn từng vấn đề.
Về vấn đề (1) – vấn đề kinh tế
Dù
có những nỗ lực cải tiến gì trong quản lý nền kinh tế quốc dân hay trong đổi
mới cấu trúc kinh tế, về cơ bản và còn một thời gian dài kinh tế Trung Quốc
tăng trưởng và phát triển chủ yếu vẫn nhờ vào (a) đầu tư và (b) nhờ lợi thế quy
mô kinh tế (economics of scales)[35].
Hai đặc điểm này (a và b) cho phép Trung Quốc tiếp tục giành những lợi thế trên
thị trường thế giới đối với nhiều quốc gia – kể cả các nước phát triển cũng như
các nước đang phát triển. Vì thế, cạnh tranh kinh tế với Trung Quốc, nhất là
cạnh tranh với các mặt hàng Trung Quốc sản xuất và có thế mạnh, vẫn tiếp tục là
ác mộng đối với nhiều nước.
Hơn
nữa, dù là Trung Quốc đang có những nỗ lực chiến lược nhằm đẩy mạnh hướng nội –
bao gồm tăng sức mua và tiêu dùng nội địa, đẩy mạnh đô thị hóa (gói kích cầu
đưa 250 triệu dân nông thôn vào đô thị).., nhưng với việc duy trì bằng mọi giá
tốc độ tăng trưởng kinh tế 5 – 6 hoặc 7 – 8% / năm, đòi hỏi của Trung
Quốc về nguyên liệu, về năng lượng và về thị trường ngày càng lớn. Xin
lưu ý, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp hơn đồng nghĩa với suy sụp, trì
trệ, thất nghiệp.., vì thế sẽ là thảm họa cho nội trị Trung Quốc cũng như đối
với vai trò nắm quyền của ĐCSTQ. Nghĩa là, gần như một tất yếu, thực hiện tốc
độ tăng trưởng cao là vấn đề sống còn của chế độ. Điều này cho thấy vì sao
Trung Quốc sẽ tiếp tục đẩy mạnh mọi chính sách hiện hành đối với thế giới bên
ngoài để thỏa mãn đòi hỏi bên trong. Hệ quả không tránh khỏi là sẽ gây ra những
can thiệp hay lũng đoạn mới ở bên ngoài trên nhiều phương diện, những tranh
chấp mới…
Những
dẫn chứng nổi bật là: Tháng 7 vừa qua Trung Quốc đã khánh thành đường ống dẫn
khí, và hiện nay đang
tiếp tục hoàn thành đường ống dẫn dầu từ Trung Đông qua lãnh thổ Myanmar (cảng Kyaukpyu) vào Vân Nam,
mặc dù quan hệ Myanmar – Trung Quốc hiện nay không xuôn xẻ gì; Trung Quốc đang
đẩy mạnh hợp tác với Nga, Kazkhstan, Turkmenistan, Azecbaijan… đẩy nhanh các
công trình dẫn dầu và khí từ Trung Đông và Trung Á, để hoặc dẫn dầu vào Trung
Quốc, hoặc để cạnh tranh địa kinh tế và địa chính trị với phương Tây tại Trung
Đông hay tại ngay Trung Á… Vân vân…
Tuy rằng lợi thế về giá lao động rẻ của Trung Quốc đang
giảm dần, các chi phí sản xuất ở Trung Quốc ngày càng cao lên (do mức thu nhập
tăng, chi phí về môi trường ngày càng đắt…), cả thế giới – bao gồm cả bản thân
Trung Quốc – vẫn chưa giải được bài toán khó: Làm thế nào để phát triển
kinh tế Trung Quốc trở thành một trong những động lực thúc đẩy phát triển kinh
tế thế giới?
Trong khi đó tình hình vẫn tiếp diễn là: Kinh tế
Trung Quốc càng phát triển, trên thế giới càng xuất hiện nhiều vấn đề địa
kinh tế và địa chính trị mới phức tạp hơn.
Rõ ràng những cam kết hay nỗ lực trong khung khổ đối
thoại kinh tế & chiến lược Mỹ - Trung, những chế định
trong khung khổ các thể chế hiện hành (WTO, WB, IMF, G2, G20…), quan điểm “win
– win”… cho đến nay chưa giải quyết được bài toán khó này. TPP có lẽ
càng không… Mong đợi một thiện chí của lẽ phải từ phía Trung Quốc sẽ chỉ
là ảo tưởng nguy hiểm. Nguyên nhân hàng đầu có lẽ là bản chất chế độ chính trị
và trình độ phát triển hiện nay của Trung Quốc vẫn đang ở thời kỳ chỉ
dung nạp được sự phát triển như đang diễn ra. Nói cách khác, Trung Quốc
vẫn đang ở giai đoạn phát triển mang cái tên chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc – đó là chủ nghĩa tư bản đặc sắc Trung Quốc trong chế độ
toàn trị một đảng. Mô hình phát triển này còn là bất khả kháng
trong một tương lai nhất định - cho đến khi nào đó Trung Quốc tự bên trong đủ
sức tiến hành một cuộc cải cách sâu rộng thể chế chính trị. Thực tế này cùng
với ảnh hưởng sâu xa của truyền thống văn hóa Đại Hán càng làm sâu sắc thêm
những mâu thuẫn giữa Trung Quốc và thế giới bên ngoài.
Cũng xin lưu ý, ở Trung Quốc kể từ ngày thành lập nước CHNDTH
thường xuyên có những nỗ lực cải cách. Song cho đến nay tất cả những nỗ lực này
chỉ phát huy được trên phương hướng duy nhất: “mèo đen, mèo trắng không
thành vấn đề, miễn là bắt được chuột” và đã góp phần có ý nghĩa quyết
định tạo ra chủ nghĩa thực dân con rồng hôm nay.
Trong khi đó toàn bộ những nỗ lực cải cách thể chế chính
trị ở Trung Quốc cho đến nay đều bị bóp chết – chỉ kể từ khi tiến hành cải cách
1978: đó là Hồ Diệu Bang hay Triệu Tử Dương, rất đẫm máu như vụ Thiên An Môn
(1989), hay bớt ồn ào hơn như hàng trăm vụ đàn áp các nhân sỹ trí thức khác…
Trung Quốc hiện nay rất khó tiến hành cải cách thể chế chính trị còn vì lẽ cả
nước có tới hàng trăm nhóm lợi ích thao túng toàn bộ hệ thống chính trị từ cấp
cao nhất đến cơ sở. Quyền lực thật của các nhóm lợi ích trước hết nằm
trong tay các đại gia[36].
Có lẽ không phải ý thức hệ Mác hay Mao là nguyên nhân gốc
làm cho chế độ toàn trị ở Trung Quốc hiện nay vẫn trụ được. Sự thật là Đại hội
18 của ĐCSTQ đã khéo léo vượt qua vấn đề này rồi; Mác và Mao chỉ còn vai trò
trang trí để giữ cho chế độ của ĐCSTQ danh chính ngôn thuận mà thôi[37]. Nguyên nhân sâu xa đối kháng lại cải cách chính trị có lẽ
vẫn là chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa dân tộc Đại Hán, nền văn minh thiên triều
gần như một khát vọng.., đến mức ngày nay tầng lớp trung lưu ở Trung Quốc nhìn
chung cũng chưa thoát ra được di sản văn hóa này (Willy Lam).
Có thể nói ngay đối với các nước phát triển và đang phát
triển: Làm gì để thích nghi được và để vượt qua được những hệ lụy của một
thực tế Trung Quốc nhãn tiền này? Làm gì để biến những thách thức mới
thành cơ hội?.. Đấy là những câu hỏi không thể không đặt ra, nếu như
muốn sống chung với lũ khi đang ở giữa cơn lũ.
Nhân đây lại xin nhắc lại, để định liệu công việc của mình,
mọi quốc gia hữu quan nhất thiết phải tính toán: Bản thân nước Trung Quốc phải
trả cái giá nào cho sự phát triển này của họ? Thế giới còn lại – trước hết là
các nước láng giềng và trong khu vực – sẽ phải trả giá theo như
thế nào cho sự phát triển này? Những năm gần đây không ít doanh
nghiệp hay vùng sản xuất một sản phẩm nhất định tại nhiều nước phát triển ở Mỹ,
ở châu Âu… đã tự đặt ra cho mình câu hỏi: Làm thế nào để không chết đuối trong
biển hàng hóa rẻ của Trung Quốc[38]?!... Có lẽ cũng đã đến lúc các nước đang phát triển nên
đặt thêm cho mình câu hỏi: Làm thế nào để thoát được sự kiềm tỏa của quyền lực
mềm Trung Quốc.
Vấn đề (2) – vấn đề quân sự
Trong
thời bình, không có yêu cầu tiến hành một cuộc chiến tranh nào, nhưng lại bị
thôi thúc bởi đòi hỏi chớp lấy cơ hội chấm dứt thời kỳ giấu mình chờ thời
để mau chóng vươn lên siêu cường, tận dụng xu thế siêu cường Mỹ ngày càng yếu
đi và sa lầy vào nhiều vấn đề lớn, tận dụng khoảng thời gian các cường quốc
khác còn đang bận rộn với khủng hoảng kinh tế trầm trọng mang tính cơ cấu chưa
có lối ra.., Trung Quốc từ hai thập kỷ nay ráo riết tăng cường tiềm lực
quân sự của mình - song song với bành trướng quyền lực kinh tế và quyền lực mềm
ở phạm vi toàn cầu.
Ngân
sách quốc phòng của Trung Quốc năm 2000 là 30 tỷ USD, năm 2010 vọt lên 120 tỷ
USD, năm 2012 là 160 tỷ USD (nghĩa là liên tục hàng thập kỷ tăng trưởng 2 con
số/năm) – đấy là theo số liệu được chính phủ công bố, người ta cho rằng con số
thực còn cao hơn. Quân số của Giải phóng quân Nhân dân (PLA) hiện nay là 2,3
triệu, đông nhất thế giới. PLA được hiện đại hóa rất nhanh; trang bị vũ khí,
khí tài chỉ đứng sau Mỹ và Nga. Tuy nhiên giới nghiên cứu hầu như có nhận xét
thống nhất: Thời điểm Trung Quốc có thể thách thức Mỹ và Nga về quân sự còn xa,
(có người cho rằng khoảng cách này giữa Trung Quốc và Mỹ là 20 – 30 năm).
Hiện
nay hầu như chưa có khả năng Trung Quốc có thể thách thức trực tiếp Mỹ hay Nga
bằng quân sự ở bất kỳ nơi nào. Đụng độ tranh chấp biên giới Trung - Ấn vẫn là
nguy cơ thường trực, song ngày nay tiềm lực quốc phòng của Ấn-độ và tương quan
lực lượng so sánh khác trước rất nhiều so với thời kỳ xảy ra chiến tranh biên
giới năm 1962, hơn nữa thế giới ngày nay đã thay đổi. Tranh chấp Trung – Nhật
tại Hoa Đông và đảo Senkaku / Điếu ngư dù căng thẳng thế nào, có lẽ vẫn rất ít
khả năng nổ ra chiến tranh hay đụng độ quân sự trực tiếp Trung – Nhật/Mỹ; bởi
vì không thể đánh giá thấp sức đề kháng của Nhật với sự hậu thuẫn trực tiếp của
Mỹ.
Trong
khi đó áp lực quân sự của Trung Quốc đang nhằm vào hướng chính là các nước láng
giềng Đông Nam Á.
So
sánh những gì đã xảy ra ở 2 vùng Hoa Đông và Scarborough / Hoàng Nham, kết hợp
với đánh giá so sánh lực lượng tổng thể toàn khu vực Biển Đông, không loại trừ
tình huống: Trung Quốc tuy gây áp lực quyết liệt với Nhật ở Hoa
Đông để uy hiếp, song có thể đòn tấn công chính, hay là từng đòn tấn công chính
của Trung Quốc trước hết vẫn là dành cho phía Nam. Tuy nhiên, Trung
Quốc có dám đánh lớn trên Biển Đông hay không, điều này còn tùy thuộc vào thái
độ ứng xử của từng nước hoặc cả nhóm ASEAN. “Mềm nắn, rắn buông”,
đấy thường là tâm lý phổ biến của mọi kẻ xâm lược. Mối nguy tiềm ẩn khó khắc
phục hơn của ASEAN là sự nhất trí rất có giới hạn của nhóm nước này trong đối
phó với Trung Quốc[39].
Hiện
nay, đánh giá tình hình so sánh lực lượng tại chỗ trên Biển Đông, đánh giá
những phản ứng dây chuyền có thể xảy ra ở từng nước bị tiến công, phản ứng dây
chuyền có thể xảy ra ở trong và ở ngoài khu vực, thậm chí trên toàn thế giới…
một khi Trung Quốc tiến hành đánh lớn trên Biển Đông, có thể phán đoán:
quyết định đánh lớn như vậy đối với Trung Quốc có lẽ cũng không dễ dàng gì,
chưa hẳn là cần thiết, trong khi đó Trung Quốc có những thủ đoạn khác rẻ hơn,
hữu hiệu hơn.
Bởi
vì: Xem xét toàn cục, trận đánh lớn có thể thắng, nhưng làm chủ được
những hệ quả tiếp theo thì không hẳn; bản thân Trung Quốc đã có nhiều kinh
nghiệm này[40]. Bối cảnh Đông Nam Á - Biển Đông trong cục diện quốc tế hiện
nay cho thấy đánh lớn rất ít khả năng giải quyết gọn những vấn đề có liên quan.
Vì thế nhìn tổng thể, chung cuộc đánh lớn có thể mang về bại nhiều hơn thắng.
Cho đến nay lực của Trung Quốc hoàn toàn cho phép đánh lớn trên Biển Đông (nhằm
vào các nước láng giềng), song điều này chưa xảy ra, có lẽ chỉ vì những lý do
như vậy.
Trong
khi đó Trung Quốc đang có chiến thuật gặm nhấm rất hiệu quả, có cơ hội lại ào
lên cắn trộm (1988, 1995…), rồi lại gặm nhấm tiếp. Mấy thập kỷ nay chiến thuật
này giành kết quả tốt, rủi ro ít, đỡ ồn ào, vẫn đạt mục tiêu và uy hiếp được
đối phương... Càng tác động được quyền lực mềm vào từng nước ASEAN, càng phân
hóa được nhóm ASEAN theo thủ đoạn bẻ từng que đũa của bó đũa (chỉ
chấp nhận đàm phán song phương), càng chia rẽ được ASEAN với thế giới bên
ngoài, hiệu quả của chiến thuật gặm nhấm càng cao. Có lẽ chiến thuật này – cùng
với tác động của những thủ đoạn chính trị lung lạc đi kèm, tiếp đến là các thủ
đoạn “xâm lăng không vũ khí” bằng các đợt cho hàng trăm tầu cá lấn biển,
kết hợp với các biện pháp kinh tế khác, kết hợp với tác động của thời
gian (gây mất ổn định và kìm hãm sự phát triển của các nước ASEAN…)… Đấy mới là
những đòn nguy hiểm hơn cả cho các nước ASEAN – trước hết là cho Việt Nam và
Philippines.
Thực
tế đã diễn ra là: Ngoài việc lập thành phố Tam Sa và đặt căn cứ cho quân đồn
trú thường trực ở Hoàng Sa, đến nay Trung Quốc đã xây dựng xong những công
trình cố định mới trên các đảo, các bãi ngầm và các rặng san hô ở Trường Sa do
Trung Quốc đánh chiếm trong các đợt 1988 (gồm 7 đảo và bãi), đợt 1995
(gồm Đá Vành Khăn và một số bãi). Tại những điểm này Trung Quốc đã xây xong các
căn cứ đóng quân cố định, căn cứ nổi, ụ pháo, đài quan sát, vạch ra tuyến đường
tuần tra cho hạm đội hải giám (tổng cộng 11 đội tầu với 16.000 quân)… để hoạt
động thường xuyên, qua đó nhằm khẳng định trên thực tế chủ quyền “đường lưỡi
bò”… Không thể nói khác: Một cuộc xâm lược âm ỷ, bền bỉ năm này qua năm khác,
vũ trang xen kết phi vũ trang, để gặm nhấm tiếp, để leo thang tiếp, hình thành
dần dần một hành lang án ngữ trực tiếp trên biển đối với Việt Nam và
Philippines, tiến tới khống chế toàn vùng... Chiến thuật này đang rất hữu dụng,
chưa có các yếu tố nào mới khiến Trung Quốc phải thay đổi. Trong khi đó phản
ứng đơn phương hay đa phương của các nước nạn nhân ở mức như hiện nay không thể
chặn đứng hay đẩy lùi được chiến thuật gặm nhấm này. Để lâu e rằng sẽ là chuyện
đã rồi!
Nhưng
trong trường hợp nhất định, ví dụ một biến cố lớn bất thường
xẩy ra ở bất kỳ đâu trên thế giới, kể cả trong lòng Trung Quốc, hay là ở một
nước là đối tượng xử lý (ví dụ quốc gia này lâm vào tình trạng khủng hoảng bất
thường),.. khả năng Trung Quốc đánh lớn trên Biển Đông là không thể không tính
đến. Cuộc chiến tranh 30 ngày năm 1979 của Trung Quốc chống Việt Nam là một ví
dụ thuyết phục.[41]
Hiển nhiên,
thế giới ngày nay không hiếm những biến cố lớn bất thường
rất quyến rũ. Hiện tại có thể liệt kê ra cả một danh sách dài:
- giả định Mỹ tuột tay trong dàn xếp những mâu thuẫn Israel
– Palestin;
- mâu thuẫn Israel – Iran bùng nổ;
- nguy cơ vấn đề sản xuất vũ khí A của Iran hay Bắc Triều
Tiên vượt ra ngoài mọi khả năng kiểm soát của thế giới;
- Al-Qeada có thể bất ngờ tổ chức tấn công lớn vào Mỹ hoặc
các nước phương Tây, khiến cho sự quan tâm của Mỹ bị phân tán;
- nguy cơ đồng Euro sụp đổ;
- một tính toán sai lầm nào đó của Trung Quốc hay của bất kỳ
ai (ví dụ những động thái rất nguy hiểm trong năm nay của Bắc Triều
Tiên…);
- những yếu kém của đối tượng được dự định tấn công;
- vụ sử dụng vũ khí hóa học ở Syri có thể mở ra một bước ngoặt
bi thảm;
- vân vân…
Có thể kết luận: So với Mỹ và đồng minh phương Tây, lực lượng
tiến hành chiến tranh của Trung Quốc không mạnh bằng, hay chưa mạnh như các
phát ngôn của giới diều hâu trong hàng ngũ tướng lĩnh Trung Quốc phô trương.
Tuy nhiên, lực lượng tiến hành chiến tranh của Trung Quốc mạnh áp đảo so với
các nước láng giềng phía Đông và Đông Nam Á, đã có những hoạt động đủ nguy
hiểm, đến mức Mỹ phải nhiều lần chính thức cảnh báo: Trung Quốc đang đẩy
Biển Đông đi vào chiến tranh.
Muốn hay không, các nước láng giềng của Trung
Quốc đang rơi vào một cuộc chạy đua với thời gian: Hoặc là kịp tạo ra sức mạnh
vượt lên những thách thưc mới đặt ra từ phía Trung Quốc, hoặc bị những thách
thức mới của Trung Quốc vượt qua.
Tóm lại, về nhiều phương diện như đã trình bầy trên, bao gồm cả
những hạn chế ban đầu không thể tránh khỏi, siêu cường đang lên Trung Quốc buộc
phải lựa chọn Đông Nam Á là địa bàn chính cho việc bành trướng quyền lực. Mỹ
nhất thiết phải tiến hành chiến lược “pivot to Asia & Pacific” và TPP để
kiểm soát tình hình. Thực tế này sẽ tạo ra những nhân tố căng thẳng mới trong
khu vực. Không phải ngẫu nhiên Mỹ coi Đông Nam Á là trọng tâm trong những nỗ
lực chuyển hướng mới của mình.
Gần đây nhất, nghĩa là chỉ ít lâu sau vòng đối thoại kinh
tế & chiến lược lần thứ 5 (Obama – Tập Cận Bình ngày 7 và
8-06-2013), tổng thống Obama ngày 11-07-2013 đã lên tiếng phê phán những hoạt
đông nguy hiểm của Trung Quốc ở Biển Đông và Hoa Đông, đòi Trung Quốc phải giải
quyết những tranh chấp bằng thương lượng hòa bình và tuân thủ luật pháp quốc
tế. Tiếp đến là Thượng viện Mỹ ngày 03-08-2013 thông qua nghị quyết 167 lên án
Trung Quốc cùng nội dung, thúc giục Trung Quốc phải sớm tham gia COC[42].
Trung Quốc phản pháo lại rất gay gắt: “Trung Quốc không
bao giờ từ bỏ các quyền và lợi ích chính đáng của mình trên biển, không bao giờ
hy sinh lợi ích quốc gia cốt lõi của mình… Trung Quốc sẵn sàng đối phó với mọi
diễn biến phức tạp, tăng cường khả năng bảo vệ các quyền và lợi ích của
mình trên biển, kiên quyết bảo vệ các quyền và lợi ích của mình trên biển…’’
Tập Cẩm Bình nhấn mạnh như thế với hàm ý muốn làm cho mọi người hiểu: chỉ có “thừa
nhận chủ quyền của Trung Quốc, gác tranh chấp, cùng khai thác” là lối
ra… (Reuters 31-07-2013). Phát biểu của Tập Cẩm Bình 31-07-2013 là nhiệt
kế đo điểm nóng nguy hiểm trên Biển Đông.
Xin đặc biệt lưu ý: Mỹ chuyển hướng chiến lược vào CA-TBD / ĐNA
là nhân tố kiềm chế quan trọng tham vọng bá quyền Biển Đông của Trung Quốc. Tuy
nhiên, Mỹ kiên định sự chuyển hướng này đến đâu, còn phụ thuộc không ít vào ý
chí và sự hợp tác giữa các nước ASEAN với nhau, vào ý chí của nhóm nước
này dấn thân cho hòa bình, cho bảo vệ chủ quyền và các quyền lợi chính đáng
của mình trên Biển Đông. Không có bất cứ cái gì “free lunch” cho
các quốc gia Đông Nam Á trong toàn bộ câu chuyện Biển Đông. Không phải không có
lý do, ngay từ đầu Mỹ tuyên bố đòi phải bảo đảm lưu thông tự do trên Biển Đông,
mọi tranh chấp phải giải quyết bằng thương lượng trên cơ sở luật pháp quốc tế,
nhưng nói rõ Mỹ không can thiệp vào tranh chấp biển – đảo.
Vào
khoảng giữa thế kỷ này hoặc sớm hơn chút ít Trung Quốc có thể trở thành nền
kinh tế lớn nhất thế giới, điều này là hiện thực. Nhưng cũng trong khoảng thời
gian dự đoán được như thế hoặc xa hơn chút nữa, hầu như chắc chắn không thể có
một siêu cường Trung Quốc lãnh đạo thế giới hay sắm vai trò số 1 như Mỹ đang
làm.
Sau
đây là một số lập luận chính cho nhận định nói trên.
Một là: Trước hết lịch sử thế giới chưa từng có một siêu cường nào đủ
quyền lực lãnh đạo cả thế giới. Trong lịch sử thế giới cận đại và trong nấc
thang phát triển của thế giới hiện tại lại càng không! Thế giới dù phải sống
trong một trật tự chung nào đấy của quá trình toàn cầu hóa, song vẫn là phân ra
thành các mảng lớn khác nhau. (Cũng có thể nói theo cách khác: Thế giới ngày
nay quá trưởng thành để chấp nhận một sự lãnh đạo nào đó của một ai, dù đấy là
siêu cường Mỹ).
Lịch
sử thế giới không thiếu những khát vọng điên cuồng muốn làm như thế, nhưng đều
thất bại. Thời chúng ta đang sống, có thể tổng thống Bush ít nhiều đã mơ
ước cái gì đó to tát na ná như điều này - vì những lý do dễ hiểu đã xuất hiện
trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh và sau sự kiện 11-09-2001. Song phải chăng
chính mơ ước này đã dẫn tổng thống Bush đến chiến tranh Iraq (2003 – 2010) và
chung cuộc chịu thất bại trong chiến tranh này?
Cho đến nay, nhất là trong nấc thang văn minh của thời đại ngày
nay, chỉ có tư tưởng nhân văn cùng với các giá trị nổi bật của nó mới có
thể có tác động nhất định vào quá trình hình thành xu thế phát triển, hay là
trở thành tinh thần hướng dẫn, hấp dẫn xu thế phát triển của thế giới – được
gọi dưới cái tên chung là các giá trị toàn cầu. Ở nấc thang phát triển của thế giới hôm
nay, chính xu thế này vừa ngày càng trở thành nguồn gốc sức mạnh, vừa trở thành
ngọn cờ tập hợp lực lượng của hầu hết các nước phát triển. (Điều này hoàn toàn
khác với tất cả những gì được mô tả trong cái gọi là “xu thế tất yếu của thời
đại là tiến lên chủ nghĩa xã hội” và được minh họa bằng sự tồn tại và phát
triển của 4 nước XHCN còn sót lại như đang được giảng giải trong các trường
đảng ở nước ta, trong một số giáo trình chính trị và trong không ít phát biểu
của một số người lãnh đạo).
Đối
với một quốc gia cũng như một dân tộc, một con người trong thế giới văn minh ở
trình độ phát triển hôm nay, nhận thức đầy đủ sự thật nêu trên như một chân lý
và các giá trị toàn cầu là điều vô cùng quan trọng cho việc tự định đoạt số
phận và tương lai của chính mình[43].
Hiển
nhiên Trung Quốc hôm nay không thể đề ra được bất kỳ tư tưởng, quan niệm hay
giá trị nổi bật nào có sức hấp dẫn hay là tác động tích cực vào xu thế phát
triển của thế giới. Thậm chí Trung Quốc cũng không đứng trong hàng ngũ các nước
đi tiên phong theo đuổi những giá trị toàn cầu ngày nay. Giá trị mà Trung Quốc
muốn là chính nước Trung Quốc sẽ định hướng những quan niệm và giá trị
của thế giới, chứ không phải ai khác… (“Giấc mơ Trung Quốc”
– Lưu Minh Phúc, Đại học Quốc phòng, Bắc Kinh).
Văn
hóa Trung Quốc nói chung, nền văn minh Trung Hoa rực rỡ một thời nói riêng, có
những đóng góp quý báu vào kho tàng văn minh nhân loại, trong đó có những giá
trị phổ cập đóng góp vào những giá trị chung của chân - thiện - mỹ.
Ví dụ, những giá trị như nhân – nghĩa – lễ - trí – tín ngày
nay vẫn là những giá trị bền vững trong đạo đức học (ethic). Dĩ nhiên, những
giá trị này cũng nằm trong những giá trị nhân bản phổ cập của nhân loại từ ngàn
xưa, được văn hóa Trung Quốc – trước hết là Khổng giáo – quan tâm đúc kết, và
không tránh khỏi thấm nhuộm màu sắc văn hóa Trung Quốc. Nội hàm của các giá trị
bao giờ cũng thường xuyên phát triển trong sự phát triển chung của văn minh
nhân loại qua các thời đại.
Song
văn hóa đại Trung Hoa với khát vọng lấy lại 5 thế kỷ đánh mất,
cùng với mọi chuẩn mực gói ghém trong phạm trù “chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc” đang làm nên cường quốc Trung Quốc hôm nay, hiển nhiên rất
khác, rất khó hòa nhập, hoặc thậm chí hàm chứa không ít mâu thuẫn đối kháng với
những gì nằm trong các giá trị toàn cầu đang thôi thúc sự phát triển của văn
minh nhân loại.
Văn
hóa đại Trung Hoa như vậy cùng với những chuẩn mực làm thành nội
hàm của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc có thể đang làm nên “giấc
mơ Trung Quốc” hôm nay của không ít người Trung Quốc. Người ta nói ông
Tập Cẩm Bình đã từng diễn giải ngắn gọn giấc mơ này như sau: Đó là một
Trung Quốc của tầng lớp trung lưu nhỏ và có quân đội mạnh chống lại bất kể kẻ
thù nào… (Willy Lam)[44]…
Rõ
ràng giấc mơ Trung Quốc như thế rất khác với “giấc mơ Mỹ”
như Obama đã nhiều lần đề cập khi tranh cử, và càng khác với những quan
niệm và các giá trị toàn cầu đang hướng dẫn hay hấp sự phát triển của văn minh
nhân loại ngày nay như đã trình bầy trong các phần trên của bài viết này.
Thế
giới đã chứng kiến sự thất bại của Pax Americana. Rồi đây giả thử xuất hiện một
Pax Sinica tái sinh (cứ cho là như vậy), nhân loại sẽ đón nhận ra sao đây? Từ
những gì đang diễn ra trên Biển Đông, có thể suy luận nhân dân Việt Nam và nhân
dân các nước Đông Nam Á khác hầu như chắc chắn không muốn chào đón thứ “Pax
Sinica” này.
Tuy
nhiên, đừng lúc nào quên Trung Quốc đang là mối uy hiếp thường trực ngày càng
nguy hiểm đối với tất cả các nước láng giềng phía Đông và Đông Nam Á.
Hai là: Trung Quốc về cơ bản còn đang ở nấc thang của các nước đang
phát triển, thậm chí về phương diện nhất định là còn đang ở nấc thang nước chậm
phát triển – nếu xét về các giá trị phổ cập như đã nêu trên của văn minh nhân
loại ngày nay.
Hiện
nay tổng sản phẩm quốc nội danh nghĩa tính theo đầu người (GDP p.c.) của Trung
Quốc là 6000 USD (lấy con số tròn), đứng hàng thứ 86/182 trên thế giới, chỉ
bằng khoảng 1/8 của Mỹ và bằng ¼ của Hàn Quốc – (nhưng gấp 4 lần Việt Nam: 1500
USD, đứng hàng thứ 137/182 trên thế giới)[45].
Song nếu xem xét về mức độ chênh lệch giầu nghèo, những bất công trong xã hội,
tình trạng ô nhiễm môi trường.., Trung Quốc không tiến xa được bao nhiêu so với
nhiều nước đang phát triển khác có mức GDP p.c. tương đương hoặc nhỏ hơn.
So
với họ (ví dụ: Ấn Độ), thậm chí Trung Quốc kém hơn rất nhiều trên các phương
diện thực hiện các quyền tự do dân chủ của nhân dân, quyền con người, thực hiện
các tiêu chí của nhà nước pháp quyền – đặc biệt là trong những vấn đề công khai
minh bạch, trong chế độ chịu trách nhiệm giải trình, trong chống tham nhũng…
Có
câu hỏi: Xem xét nhiều mặt, Trung Quốc và Ấn-độ gần như cùng chung một khởi
điểm phát triển, thế nhưng tại sao GDP p.c. của Ấn-độ ngày nay chỉ tương tự như
của Việt Nam (nghĩa là bằng ¼ của Trung Quốc)? Phải chăng sự phát triển vượt
bậc của Trung Quốc so với Ấn-độ nói lên tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội đặc
sắc Trung Quốc?
Nếu
muốn so sánh như vậy. có lẽ cũng sẽ phải đặt câu hỏi: Tại sao cùng là chế độ xã
hội chủ nghĩa như nhau do một đảng lãnh đạo (gọi đúng tên là chế độ toàn trị),
khi tiến hành cải cách điểm xuất phát của Trung Quốc chỉ cao hơn Việt Nam chút
ít (chênh lệch GDP p.c. ở thời điểm cải cách so với Việt Nam khoảng +100 USD),
thế nhưng tại sao GDP p.c. của Trung Quốc bây giờ gấp 4 lần của Việt Nam (chênh
lệch GDP p.c. bây giờ là +4500 USD)? Trung Quốc đã đi được chặng đường dài trên
con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa, từng vùng đã mang tính chất là một
nước công nghiệp, tại sao Việt Nam còn đứng rất xa vời mục tiêu này? Vân… vân…
Như
đã trình bầy trong phần viết về kinh tế Trung Quốc bên trên, sự phát triển của
Trung Quốc là hiện tượng độc đáo, với các nguyên nhân như đã được nêu trên
(đúng, sai đến đâu sau này sẽ bàn tiếp). Việt Nam cũng có trong tay nhiều lợi
thế tương tự, nhưng không vận dụng được. Ấn-độ có lẽ cũng như vậy, mặc dù Ấn-độ
có nền dân chủ hơn hẳn Trung Quốc.
Xin nhấn mạnh: Sự phát triển đột xuất của Trung Quốc rất độc đáo,
vô tiền khoáng hậu, nguyên nhân như đã phân tích. Hiện tượng khác thường này
chẳng liên quan gì đến chủ nghĩa xã hội theo học thuyết Mác như mọi nỗ lực hoài
công gán ghép cho nó. CNXH đặc sắc Trung Quốc chỉ là tên gọi cho một hình thái
phát triển đặc trưng không ít máu và nước mắt của chủ nghĩa tư bản mang văn hóa
Đại Hán trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay mà thôi. CNXH đặc sắc Trung Quốc
như thế đến hôm nay đã xâm phạm và đang tiếp tục uy hiếp nghiêm trọng lợi ích
chính đáng và chủ quyền quốc gia của nhiều nước khác, trong đó có Việt Nam[46].
Có
thể nói, kinh tế Trung Quốc ngày nay đủ mạnh và có một số phương tiện uy hiếp
hay lũng đoạn được nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển; có khả năng
nhất định thao túng hay can thiệp một số vấn đề nào đó của kinh tế thế giới –
ví dụ vấn đề tỷ giá, các vấn đề liên quan đến chủ nghĩa con buôn
(mercantilism), chiến tranh mạng…
Cần
tỉnh táo thấy rằng Trung Quốc vẫn đang trên đà tiếp tục tăng trưởng và phát
triển, vì các yếu tố nội tại và bên ngoài vẫn đang cho phép như vậy. Cho đến
nay có biết bao nhiêu dự báo kinh tế Trung Quốc sẽ sớm sụp đổ, vì chứa đựng
nhiều khủng hoảng không thể cứu vãn, vì nhiều thứ vân vân khác… Song chẳng có
dự báo nào đã xảy ra, vài ba thập kỷ tới chắc cũng thế[47].
Không
ít người đi thăm Trung Quốc về kể cho tôi nghe một ấn tượng chung: “Trung
Quốc phải trở thành siêu cường lãnh đạo thế giới!” - điều này gần
như là một chất keo dính kết quốc gia khổng lồ này! Một thứ chủ nghĩa sô-vanh
nước lớn kiểu Trung Quốc?
Hiện
tượng Trung Quốc khác thường này không thể dùng những quan điểm
học thuật thuần túy để lý giải. Phải chăng đây là một khúc quanh của lịch
sử: Một dạng trỗi dậy trở lại của văn hóa Đại Hán, nhờ vào những yếu tố
và đặc điểm của toàn cầu hóa thời đại ngày nay!? Chủ nghĩa dân tộc ở quốc gia
1,3 tỷ dân này đang được thứ văn hóa này nuôi dưỡng, đến mức đang xuất hiện một
giấc mơ Trung Quốc, na ná như một thứ đạo Đại Hán, tinh thần Đại
Hán, chủ nghĩa Đại Hán… – được nuôi dưỡng bằng Khổng giáo – tu thân,
tề gia, trị quốc, bình thiên hạ..! Nghĩa là trở thành lãnh đạo thế giới thì
không thể, và chắc Trung Quốc cũng chẳng cần. Nhưng khát vọng bình thiên
hạ, thì sẵn có trong hơi thở Trung Quốc từ ngàn xưa. Đượm màu sắc văn
hóa như vậy ở thời hiện đại này[48],
nên thế giới sẽ càng mệt! Vì thế vấn đề Trung Quốc càng thực sự sâu sắc,
càng trở thành vấn đề của cả thế giới.
Nếu
liều đoán, cùng lắm cũng chỉ có thể nói mò: Xu thế phát triển hiện nay của
Trung Quốc chỉ thay đổi một khi sự vận động tự thân của các yếu tố bên
trong của Trung Quốc không kiểm soát được nữa. Dù quan trọng đến mức nào, các
yếu tố bên ngoài chỉ có vai trò hỗ trợ cho sự vận động này. Hiển nhiên, đây là
câu chuyện của thập kỷ, của nhiều thập kỷ.
Song
cho dù một khi trở thành nền kinh tế số 1 thế giới (về tổng lượng GDP),
kinh tế Trung Quốc đến lúc ấy dự báo cũng chỉ chiếm tới 1/10 - 1/8 kinh
tế thế giới, có nghĩa kinh tế Trung Quốc phụ thuộc rất lớn vào kinh tế thế
giới. Điều này có nghĩa khó lòng Trung Quốc có thể làm mưa làm gió hơn hôm nay.
Bởi vì đến lúc ấy, các nền kinh tế khác cũng sẽ lớn hơn, thiên hạ cũng sẽ ngày
một khôn hơn. Chưa nói đến khoảng cách vài chục năm với phương Tây về tiến bộ
khoa học kỹ thuật, về công nghệ, về năng lực tổ chức và quản lý xã hội…
Trung Quốc không dễ gì vượt qua.
Người
Trung Quốc có câu “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” – hiểu nôm na theo
ngôn ngữ người châu Âu: xem anh chơi với ai, tôi sẽ biết ngay anh là ai![49]
Quyền lực mềm của Trung Quốc có nhiều đối tác lắm. Cứ xem các đối tác của Trung
Quốc khắp thế giới là ai, làm ăn cái gì và với ai, tìm hiểu tại sao chủ
nghĩa thực dân con rồng lại thành công hơn tất cả các bậc đàn anh của
nó ngày xưa (dù là Anh, Pháp, Bồ-đào-nha…), xem Trung Quốc hành xử với các nước
láng giềng, xem Trung Quốc ủng hộ những vấn đề gì và chống vấn đề gì trên thế
giới.., hoàn toàn không khó để nhận biết khả năng và bản chất sự tập hợp lực
lượng của Trung Quốc trong thế giới này nay, kể cả một khi Trung Quốc trở thành
siêu cường…
Một tập hợp lực lượng như thế có thể gây ra những ảnh hưởng lũng
đoạn, song không bao giờ và hoàn toàn không thể có ảnh hưởng lãnh đạo thế giới.
Có
thể dự báo khái quát:
1.
Rồi đây, dù là một khi Trung Quốc trở thành cường quốc có nền kinh tế lớn
số 1, song hầu như chắc chắn đó chỉ là trên phương diện tính toán khối lượng
GDP. Trung Quốc sẽ không đủ lực và hoàn toàn không thể có phép lạ gì để tạo ra
cho mình sứ mệnh tinh thần thực hiện một tập hợp lực lượng để dấy lên ở trên
thế giới ngày nay một cái ảnh hưởng hay trào lưu gì đó - ở quy mô và theo cách
nào đó… ví dụ như một thời Liên Xô đã từng làm – mặc dù về sau Liên Xô sụp đổ[50]. Hơn nữa,
siêu cường nước kinh tế lớn số 1 này không có hoài bão hay mục đích thực hiện
một tập hợp lực lượng như Liên Xô hồi ấy đã từng làm. Trung Quốc chỉ có giấc mơ
“bình thiên hạ” và sự nham hiểm của quyền lực đặc sắc Trung Quốc.
Vì
bản chất sự phát triển và ý đồ của nó có nhiều cái cơ bản trái chiều với các
giá trị toàn cầu, Trung Quốc không có khả năng trở thành siêu cường lãnh
đạo thế giới.
2. Nếu có làm được gì trong tập hợp lực
lượng trên thế giới, siêu cường nước kinh tế lớn số 1 thế giới này lúc ấy chắc
sẽ không thể đi xa hơn bao nhiêu những gì nó đã và đang làm được mấy thập kỷ
nay và đã được trình bầy trong các phần trên của bài viết này – về cơ bản
đấy sẽ là tập hợp lực lượng của những lợi ích thực dụng và lợi dụng lẫn
nhau. Đương nhiên, trong những bối cảnh nhất định, sự tập hợp lực lượng
như thế sẽ không kém phần nguy hiểm cho hòa bình và ổn định (ví dụ: khả năng về
hình thành một trục Trung – Nga trong một số vấn đề nhất định, quan hệ Trung –
Nga trong vấn đề Syri, Trung Quốc trong vấn đề Bắc Triều Tiên, quan hệ Trung
Quốc – Pakistan – thế giới đạo Hồi, sự leo thang tình hình căng thẳng trên Biển
Đông…).
Tuy
nhiên đến lúc ấy siêu cường Trung Quốc cũng khó có khả năng thách thức Mỹ nói
riêng và thế giới phương Tây nói chung về quân sự; nhưng đối với các nước nhỏ
láng giềng thì không hẳn thế, thậm chí tùy hoàn cảnh có khi hoàn toàn ngược
lại.
Siêu
cường nước kinh tế lớn số 1 này chắc chắn đặt ra cho thế giới nhiều thách thức
mới về kinh tế và văn hóa. Song nếu Trung Quốc quá đà và phạm sai lầm lớn, phản
ứng của thế giới còn lại sẽ không dễ gì Trung Quốc có thể vượt qua được, và sẽ
phải trả giá.
Giả
định rằng siêu cường nước kinh tế lớn số 1 này có tham vọng làm mọi việc để lấy
lại 5 thế kỷ đánh mất, thế giới còn lại có thể sẽ có thêm những thách thức
mới và những phiền toái mới – chắc sẽ không ít đau đớn. Song hầu như chắc chắn
kết cục chung cuộc của phiêu lưu này sẽ là sự phân rã: Trong kịch bản này,
ĐCSTQ sẽ không còn tồn tại nữa, đại Trung Quốc có thể phân rã thành một số nước
Trung Quốc. Kịch bản phiêu lưu đẫm máu này chắc lãnh đạo ĐCSTQ không
muốn, và có thể cũng không dám; thế giới còn lại chắc chắn càng không
muốn phải trả giá theo cho lỗi lầm này của Trung Quốc.
3. Trong một khoảng thời gian nhất định,
kể cả đến khi trở thành nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới, không thấy có
khả năng xẩy ra cải cách thể chế chính trị với đúng nghĩa ở Trung Quốc – ngoại
trừ những cải cách nhỏ và rất cục bộ, chỉ nhằm đáp ứng cho yêu cầu bảo đảm mức
độ tăng trưởng giữ cho chế độ không sụp đổ hoặc tránh được khủng hoảng lớn.
Đối với thế giới bên ngoài, thực tế vừa nêu trên có nghĩa phải tìm cách sống
cùng được và chế ngự được một Trung Quốc như hiện nay thế giới đang
có. Một thách thức hoàn toàn mới. Đối với các nước láng giềng Trung Quốc: Phải
tìm cách sống chung với lũ.
Lý
do cơ bản là: Cho đến khi có được một cuộc cải cách sâu rộng thể chế chính trị,
nhìn chung Trung Quốc không thừa nhận, không muốn đi cùng chiều với các giá trị
toàn cầu – bởi vì bản chất sự phát triển của nó đặt ra như thế, lại thêm di sản
của văn hóa Đại Hán, văn hóa thiên triều.
4. Tình hình các mặt hiện nay của Trung
Quốc cho thấy: Trong một tương lai xác định được, không có chuyện xảy ra một
Trung Quốc đổ vỡ do thất bại trong kiểm soát các vấn đề đối nội. Sự kiện Thiên
An Môn, các sự kiện gần đây ở Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông… cho thấy lãnh đạo
Trung Quốc sẵn sàng ngăn chặn và ngăn chặn được khả năng này với bất kỳ giá
nào.
5. Tuy bị đàn áp quyết liệt, thăng trầm
tùy lúc khác nhau, thực tế đang cho thấy xu thế cải cách ở Trung Quốc vẫn âm ỷ
tồn tại, không thể tiêu diệt được, đến một lúc nào đó có thể phát triển mạnh –
ví dụ đến một khi lực lượng trung lưu có vị trí áp đảo trong xã hội Trung
Quốc... Bởi vì đó là sự vận động tất yếu của những mâu thuẫn xã hội nội
tại đang ngày càng tích tụ ngay trong lòng Trung Quốc. Đã thế, càng phát triển
sự phụ thuộc của Trung Quốc vào thế giới bên ngoài sẽ càng lớn (ví dụ:
ngay từ bây giờ Trung Quốc đã phải tuân thủ ở phạm vi nhất định những chuẩn mực
của WTO, của UNO… thì mới có thể giao lưu được với thế giới bên ngoài).
6. (a) Sự vận động của các mâu thuẫn nội
tại trong xã hội Trung Quốc, (b) cùng với sự phát triển của giới trung lưu,
(c)áp lực phải thích nghi với các chuẩn mực quốc tế để phát triển – có lẽ đấy
là 3 yếu tố chính thúc đảy quá trình cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc.
Cả 3 yếu tố này đang tiếp tục tăng lên. Có một sự thật: Trong cuộc
sống hiện tại, quyền lực tuyệt đối hiện nay của ĐCSTQ đối với các nhóm lợi ích
đang ngày càng giảm; chính thực tế này mặt nào đó hé lộ sự vận động không thể
cưỡng lại của xã hội Trung Quốc hướng về cải cách. Song vì là cải cách thể
chế chính trị ở nước 1,3 tỷ dân có nền văn hóa Đại Hán, nên thước đo thời gian
có lẽ phải tính bằng nhiều năm, bằng thập kỷ,nhiều thập kỷ, cả thế kỷ...
Có người còn dự báo thế kỷ 21 là thế kỷ Trung Quốc cơ mà (Schell, Delury…)! Sống cạnh Trung Quốc thì phải tính toán
như thế. Cũng đừng phí thời giờ nghĩ hộ người Trung Quốc nên cải cách như
thế nào, họ thông minh hơn người ngoài rất nhiều trong các vấn đề của họ…
Nhưng cần lưu ý: Mối lo bị phân rã của Trung Quốc cực kỳ nhạy cảm và là
một trong những nguyên nhân chủ yếu đối kháng cải cách thể chế chính trị - bởi
vì nguy cơ phân rã gần như đồng nghĩa với xóa bỏ đế chế Trung Quốc.
7. Dù không tự
nguyện, về cơ bản Trung Quốc chủ yếu vẫn phải lựa chọn đi với cả thế giới theo
cách của Trung Quốc. Vì thế, hòa bình và phát triển phải luôn luôn
được coi là ưu tiên số một của cả thế giới, vì thế khuyến khích mọi hợp tác có
lợi cho hòa bình và phát triển trên cơ sở bình đẳng + cùng có lợi và bảo đảm
tôn trọng chủ quyền của moi bên hữu quan dù là rất khó, song vẫn phải là mục
tiêu phấn đấu của các nước hữu quan trong các mối quan hệ với Trung Quốc. Đòi
hỏi này bao gồm cả sự cần thiết dành cho Trung Quốc một vị thế quốc tế đúng với
ảnh hưởng và trách nhiệm của nó, tôn trọng những giá trị văn hóa chân chính của
Trung Quốc.
Hợp tác như vậy còn là phương thức làm cho cách đi của Trung
Quốc với cả thế giới ngày càng gần với cả thế giới.
8. (a) Nhìn cho rõ bản chất những vấn đề
Trung Quốc đặt ra cho thế giới bên ngoài và (b) tâm lý bài xích Trung Quốc là
hai việc hoàn toàn khác nhau. Bài xích bất kể một nước nào, đều là sai và chỉ
dẫn đến mù quáng. Bài xích Trung Quốc càng như thế, nhưng với hệ quả và cái giá
phải trả sẽ lớn hơn nhiều, và không thể thay đổi được tình hình. Bài xích Trung
Quốc, sợ Trung Quốc, hay dựa vào Trung Quốc đều ngu xuẩn như nhau, không thay
đổi được gì, chỉ tăng thêm cái giá phải trả.
9. Ứng xử của các quốc gia trong quan hệ
với Trung Quốc cho thấy: Chỉ thực hiện được bình đẳng + cùng có lợi trên cơ sở
tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau trong quan hệ với Trung Quốc nếu quốc
gia ấy – dù là nước nhỏ hay lớn – có bản lĩnh đối nội & đối ngoại là chính
mình. Hiểu Trung Quốc là một thách thức, điều này là cần thiết. Song làm
thế nào sống được với thách thức ấy, điều này còn quan trọng hơn nhiều. Vẫn có
khả năng, có con đường biến thách thức ấy thành cơ hội, nếu quyết cùng với cả
thế giới tiếp cận thách thức này, bằng ý chí và trí tuệ với mục đích như vậy.
10.Siêu cường nước kinh tế lớn số 1 xuất hiện
trên bàn cờ thế giới đồng thời cũng làm cho các “cuộc chơi” giữa các nước lớn
phức tạp hơn. Cụ thể bây giờ một bên là “lợi ích cốt lõi bao gồm đến 80%
Biển Đông” đang đối chọi quyết liệt với bên kia là chiến lược “Pivot to
Asia & Pacific” + TPP. Các nước bên thứ ba phải làm
thế nào để bảo tồn được lợi ích chính đáng và chủ quyền của mình, đồng thời
không cho phép biến nước mình thành sân chơi của các cuộc chơi giữa các
ông lớn, hoặc biến thành vật đổi chác với nhau của các nước lớn. Đây thật là
một nhiệm vụ rất khó. Nước bên thứ ba chỉ có sự lựa chọn: thành
hoặc bại! Không có kịch bản khác.
11.Không có “free lunch” trong tìm cách sống cùng được với
“con rồng” Trung Quốc và chế ngự nó. Mỗi quốc gia dù lớn dù nhỏ đều phải dấn
thân cho những giá trị toàn cầu, để hiệp đồng thúc đẩy xu thế tiến bộ của cả
thế giới – bao gồm cả trong lòng Trung Quốc, để các chuẩn mực của các giá trị
toàn cầu được cả thế giới – bao gồm cả Trung Quốc – cùng nhau tôn trọng, thực
hiện, phát huy. Đã lỗi thời nhìn nhận dân tộc này dân tộc nọ theo tư duy phân
biệt chủng tộc; cần trí tuệ và bản lĩnh xây dựng mối quan hệ bình đẳng và hữu
ái giữa các dân tộc mọi quốc gia trên cơ sở tôn trọng nhân phẩm và quyền con
người – đây chính là một trong những giá trị toàn cầu, vì nó chúng ta phấn đấu.
Ngày
nay, hơn bao giờ hết phẩm chất và bản lĩnh quốc gia, bản lĩnh dân tộc của mỗi
nước trở thành yếu tố tiên quyết quyết định vận mệnh mỗi nước. Chỉ một đất nước
của con người tự do, mới có thể xây dựng, vun đắp, phát huy phẩm chất và bản
lĩnh quốc gia, phẩm chất và bản lĩnh dân tộc của nước mình.
*
Nhìn toàn cục sự vận động kinh tế thế giới hiện nay trong bối cảnh trật
tự quốc tế một siêu đa cường đang ngày càng định hình rõ nét, có thể rút ra 3
điều đang lưu ý sau đây:
Một là, sự việc CA – TBD trở thành trung tâm năng động mới
của kinh tế thế giới trong bối cảnh cường quốc kinh tế số 1 (Mỹ) và cường quốc
kinh tế số 2 (Trung Quốc) đều coi khu vực này là trọng tâm, đang tạo ra những
căng thẳng mới – đặc biệt là tại khu vực Đông Nam Á và Biển Đông; trong khi đó
những vấn đề “nóng” ở các khu vực trên thế giới vẫn tiếp tục giữ nguyên cường
độ. Mọi quốc gia đều đứng trước những thách thức và cơ hội mới, đặc biệt trong
đó Trung Quốc với mọi nỗ lực vươn lên siêu cường mang sắc thái Đại Hán đang trở
thành vấn đề của cả thế giới.
Hai
là: Những thách thức và cơ hội mới
trong cục diện thế giới hiện nay, với tất cả tính triệt để và tính quyết liệt
của chúng, đang gõ cửa từng quốc gia. “Phải thay đổi!” – điều này
ngày nay trở thành thành đòi hỏi quyết liệt như một mệnh lệnh đối với mọi quốc
gia.
Ba
là: Cuộc sống cũng cho thấy tập
hợp lực lượng xoay quanh các giá trị toàn cầu đang trở thành một xu
thế, một quyền lực ngày càng mạnh trong quá trình phát triển của thế giới ngày
nay. Mỗi nước cần vận dụng khả năng mới này tạo ra tập hợp lực
lượng để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, đồng thời thúc đẩy hợp tác:
Cùng nhau vì hòa bình, vì phát triển, chống lại cái “ác” (vấn đề dấn
thân).
*
Các vấn đề
trình bầy trong các phần I – VI cho phép kết luận thế giới đang chuyển mình đi
vào một thời kỳ phát triển mới có nhiều sóng gió hơn, trong đó CA – TBD chiếm
vị trí nổi bật.
Chặng đường
đầu tiên của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời bình đến nay là
gần 4 thập kỷ, trong đó thời kỳ đổi mới đã làm xong nhiệm vụ chuyển đổi thể chế
kinh tế; ngày nay đất nước đứng trước đòi hỏi phải chuyển sang một giai đoạn
phát triển mới.
(1)Nhìn nhận
nước ta đang đứng ở đâu, mạnh yếu ra sao trước khi bước vào thời kỳ phát triển
mới này, (2) nhìn nhận mọi thách thức và cơ hội mới của thế giới đang đặt ra
cho nước ta, (3) nhìn nhận những đòi hỏi phát triển của chính nước ta trong
bối cảnh mới của thế giới để từ đó có quyết sách phù hợp, đấy là những việc bắt
buộc phải làm.
Dưới đây là
những điều trăn trở.
VII – 1. Điểm nổi bật sau khi kết
thúc thời kỳ đổi mới: Bên cạnh những thành công, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc vấp phải nhiều thất bại nghiêm trọng
VII
– 1.1 So sánh nước ta với chung quanh
Thành
công cơ bản của 28 năm đổi mới là cứu đất nước thoát khỏi đổ vỡ, xóa bỏ cơ chế
kinh tế bao cấp để đi vào cơ chế kinh tế thị trường, mở đường cho đất nước đi
vào thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH). Đã có nhiều đánh giá,
ca ngợi những thành công của thời kỳ đổi mới, thiết nghĩ như thế là đủ. Bây giờ
nên tập trung đánh giá kỹ những việc chưa làm được, những thiếu sót, tồn tại.
Tai
chúng ta đã nghiện kiểu so ta hôm nay với ta
hôm qua. Không hiếm khi cách so sánh này bị lạm dụng, với ý
đồ xấu.
Hiển
nhiên, những gì đất nước hôm nay đạt được so với hôm qua, thật là rất lớn. Đấy
là sự thật. Ví dụ, trước khi tiến hành đổi mới (1986) GDP p.c danh nghĩa của
nước ta khoảng xấp xỉ 200 USD; hiện nay GDP p.c. danh nghĩa của nước ta khoảng
1500 USD, nghĩa là cao gấp 7 - 8 lần trong vòng 3 thập kỷ (nói chính xác là 28
năm)... So sánh như vậy là cần thiết, nhưng hoàn toàn chưa đủ. Nếu chỉ đơn
thuần xem xét theo cách như vậy, tai mắt chúng ta bị khỏa lấp nhiều thứ lẽ ra
cần phải biết tường tận hơn.
Ví dụ, nếu ngó ra thế giới chung quanh để so sánh ta với
người, chúng ta sẽ thấy gì?
Thử nhìn sang Trung Quốc: Trong gần 4 thập kỷ (chính xác là 35 năm kể từ khi
tiến hành cải cách năm 1978) GDP danh nghĩa của Trung Quốc tăng 35 lần,
GDP p.c danh nghĩa tăng khoảng 20 lần.
- Bước vào cải
cách kinh tế năm 1978 GDP p.c. của Trung Quốc cao hơn của ta khoảng +100 USD,
nhưng hiện nay khoảng cách này là +4500 USD.
- Trước cải cách
năm 1978, kinh tế Trung Quốc chỉ lớn hơn kinh tế của nước ta khoảng 10 - 15
lần!.. Hiện nay GDP danh nghĩa của Trung Quốc lớn của nước ta gấp 58 lần.
- Cả 2 nước Việt
Nam và Trung Quốc – nói theo ngôn ngữ chính thống – đều là xã hội chủ nghĩa.
Nhưng hiển nhiên theo dòng thời gian, nước ta càng chạy đua với Trung Quốc,
càng tụt hậu một cách nguy hiểm…
So
với nhiều nước có mối liên hệ quan trọng với nước ta, chắc cũng phải rút ra kết
luận nhức nhối.
Ví dụ, so với Thái Lan:
Năm 1986 (bắt đầu đổi mới) GDP p.c. của Việt Nam ước khoảng 200 USD, của Thái
Lan lúc ấy là 807 USD, chênh nhau -607 USD; hiện nay của ta là 1500 USD, của
Thái Lan là 5500 USD chênh nhau là -4000 USD (số tròn),. Năm 1986 các nhà kinh
tế của ta ước tính phải mất 20 năm mới đuổi kịp được Thái Lan, bây giờ khoảng
cách này không hề thu hẹp lại. Nói riêng về hệ thống giao thông vận tải, nếu
nước ta giữ nguyên tốc độ phát triển như hiện nay, sau 20 năm nữa khó có thể
bằng Thái Lan bây giờ.
So với Hàn Quốc:
Hiện nay GDP danh nghĩa của Hàn Quốc cao hơn của nước ta khoảng 10 lần, mặc dù
diện tích Hàn Quốc chỉ bằng khoảng 1/3 Việt Nam, dân số chỉ hơn một nửa Việt
Nam. GDP p.c. danh nghĩa hiện nay (2012) của Hàn Quốc cao hơn nước ta
khoảng 15 lần (23.133 USD / 1.528 USD). Hiện nay Việt Nam đang mắc vào cái bẫy
nước thu nhập trung bình thấp, điều này có nghĩa khả năng cạnh tranh và con
đường trở thành nước công nghiệp phía trước càng thêm nhiều chông gai. Khoảng
cách phát triển giữa ta và Hàn Quốc tiếp tục doãng ra.
Một khía cạnh so sánh khác: Trong ba thập kỷ đầu tiên của đổi mới (nói chuẩn xác là 28
năm), toàn bộ nguồn lực Việt Nam nhận được từ bên ngoài dưới mọi dạng (FDI đã
thực hiện, ODA, viện trợ không hoàn lại, kiều hối các loại…) ước khoảng
200 tỷ USD (sự thật có thể hơn), nghĩa là khoảng gấp đôi toàn bộ nguồn lực
bên ngoài Hàn Quốc nhận được trong ba thập kỷ đầu tiên trên con đường kiến
thiết của nó sau cuộc chiến tranh 1950 - 1953, và đầu thập kỷ
1980 Hàn Quốc đã trở thành NIC (nước mới công nghiệp hóa). Song Việt Nam hôm
nay vẫn còn đứng rất xa cột mốc được công nhận là NIC. Mặc dù so với Hàn
Quốc, nước ta có quy mô kinh tế lớn hơn, diện tích đất nước rộng hơn, tài
nguyên thiên nhiên phong phú hơn – nghĩa là thuận lợi hơn Hàn Quốc rất nhiều.
Một con số khác nữa:
Kế hoạch Marshall của Mỹ nhằm viện trợ tái thiết cho các nước Tây Âu sau chiến
tranh thế giới II (với mục đích ngăn ngừa sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản)
được xúc tiến trong các năm 1948 – 1951, với tổng số tiền là 13 tỷ USD (tương
đương 5% GDP nước Mỹ thời đó)[51] - quy theo thời giá hiện nay ước khoảng gần 100 tỷ USD (số
tròn). Kế hoạch Marshall đã thực hiện được mục tiêu của nó, kinh tế các nước
Tây Âu thực sự đã được vực dậy nhanh chóng, từ thập kỷ 1960 đã bắt đầu bỏ xa
các nước XHCN Liên Xô Đông Âu về năng suất lao động. Không thể không băn khoăn,
nước ta đến nay nhận được khối nguồn lực từ bên ngoài khoảng gấp đôi kế hoạch
Marshall dành cho toàn bộ các nước Tây Âu, nhưng nước ta hiện nay vẫn chưa
tạo được bước ngoặt mở ra giai đoạn phát triển mới của đất nước.
VII
– 1.2. Không thể hoàn thành công nghiệp hóa Việt Nam vào năm 2020
Trong
các góp ý với các Đại hội ĐCSVN kể từ Đại hội IX (2001) cho đến nay (3 kỳ Đại
hội liên tiếp), nhiều ý kiến đã đánh giá đường lối xây dựng đất nước hiện nay
không thể đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp[52] vào năm 2020.
Kể
từ khi thực hiện đổi mới năm 1986, nếu tính đến năm 2020 như các nghị quyết của
ĐCSVN ấn định, thời kỳ công nghiệp hóa ở nước ta sẽ là 34 năm, thời gian 10 năm
trước đổi mới bỏ không tính. Hôm nay có thể nói chắc chắn: Không thể
hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hóa nước ta trong vòng 7 năm nữa.
Trong khi đó Hàn Quốc chỉ cần 25 – 30 năm kể từ khi chiến tranh Tiều Tiên chấm
dứt (năm 1953) để trở thành NIC đầu thập kỷ 1980.
Để
trở thành nước công nghiệp dù là lọai gì (đấy là NIC, hay “cơ
bản là nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại”như ghi trong các nghị
quyết của ĐCSVN), từ nay đến năm 2020 – nghĩa là còn 7 năm nữa – Việt Nam không
có cách nào có thể đưa tỷ trọng lao động nông nghiệp hiện nay là 57% xuống còn
dưới 20% - một trong những tiêu chí tối thiểu và bắt buộc. Hàn Quốc khi
được coi là trở thành NIC, tỷ trọng lao động nông nghiệp chỉ còn 16 - 17%. Cơ
cấu lao động của Hàn Quốc hiện nay (2012) như sau: nông nghiệp 6,4%,
công nghiệp 24,2%, dịch vụ và các ngành nghề khác 69,4%.
Một
ước tính thô thiển: Ví dụ, muốn giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp cả nước hiện
nay xuống = >20%, ít nhất phải giải quyết được vấn đề mỗi lao động nông
nghiệp sẽ phải có một diện tích canh tác bình quân cả nước gấp 3 - 4 lần diện
tích canh tác bình quân hiện nay; ví dụ: từ hiện nay là 1 ha /
3 lao động chuyển sang 1 ha / 1 lao động. Giả thử có duy
ý chí đến thế nào đi nữa, làm sao có thể hoàn tất việc này với quỹ thời gian là
7 năm còn lại!?
Chưa
nói đến một thực tế khác còn gay gắt hơn nhiều: Với trình độ thâm canh và trình
độ cơ giới hóa tự phát còn rất thấp của tư nhân hiện nay đã đạt được
trong nông nghiệp nước ta, mỗi lao động nông nghiệp hiện nay sẽ cần phải có
diện tích canh tác bình quân ước khoảng gấp 10 lần mức diện tích canh tác bình
quân hiện có, để có đủ việc làm quanh năm với tính cách là nông dân, ước
tính tối thiểu là 3 ha / 1 lao động nông nghiệp.[53]
Đặt
nhiệm vụ công nghiệp hóa sang một bên tính sau, bản thân vấn đề 3 ha / 1
lao động nông nghiệp đang trở thành đòi hỏi ngày càng bức xúc của nông
nghiệp nước ta. Không được giải quyết, sẽ đồng nghĩa với kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất, phát sinh thêm nhiều mâu thuẫn xã hội mới, đồng thời
cũng có nghĩa sẽ không có công nghiệp hóa!
Xin
tạm đặt cho vấn đề tích tụ ruộng đất để đi lên nông nghiệp hiện đại trong một
nước công nghiệp hóa như ở nước ta cái tên vừa cụ thể, vừa dễ nhớ là: vấn đề
3 ha / 1 lao động nông nghiệp.
Giả
định rằng chuyện 3 ha / 1 lao động nông nghiệp ngay từ đầu đã
được thiết kế thành một mục tiêu trong đường lối phát triển nông
nghiệp và nông thôn, thiết nghĩ 28 năm vừa qua kể từ khi tiến hành đổi mới,
hoàn toàn là khoảng thời gian đủ, để thực hiện xong các bước đi thích
hợp, tự nhiên theo cơ chế thị trường (có thể là tiệm tiến), tuần tự nối tiếp
nhau từ thấp lên cao trong quá trình công nghiệp hóa kinh tế cả nước, để cuối
cùng là hoàn tất mục tiêu này trong phát triển hài hòa của cả nền kinh tế,
không gây nên những xáo động nguy hiểm.
Nhưng
đường lối phát triển nông nghiệp và nông thôn của ĐCSVN cho đến hôm nay không
hề có ý niệm về vấn đề 3 ha / 1 lao động nông nghiệp như
một bước khởi đầu chiến lược mang tính tất yếu của nhiệm vụ hiện đại hóa nông
nghiệp với tính cách là một bộ phận hữu cơ của toàn bộ quá trình công nghiệp
hóa đất nước. Quan điểm của ĐCSVN trong vấn đề thiết yếu này lại là bám riết
vấn đề hạn điền và rất khắt khe với kinh tế trang trại, tất cả chỉ để giữ vững
định hướng XHCN – được hiểu ngầm là không để cho hình thành giai cấp bóc lột
mới trong nông nghiệp và nông thôn..
Toàn
bộ đường lối của ĐCSVN về nông nghiệp và phát triển nông thôn chỉ nhằm vào giải
quyết những đòi hỏi phát triển trước mắt (an ninh lương thực, xuất khẩu, an
ninh xã hội...)… Đi đến đâu lãnh đạo cũng yêu cầu nông dân vắt óc nghĩ: Trồng
cây gì? Nuôi con gì? Lẽ ra những câu hỏi bức xúc này nên để nông dân
dành cho lãnh đạo.
Lối tư duy định hướng XHCN như vậy đã rũ bỏ trách nhiệm của
hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước trong việc tìm kiếm mọi khả năng thực
hiện bước khởi đầu tích tụ ruộng đất có ý nghĩa chiến lược này một cách văn
minh và hiệu quả nhất.
Ai
cũng biết: Mô hình hợp tác xã cũ sau cải cách ruộng đất để đi lên sản xuất lớn
đã thất bại; mô hình hợp tác xã hiện hành đang thoi thóp biến tướng thành một
thứ “tổ phục vụ” và chẳng giúp được gì việc nâng sản xuất nông nghiệp lên quy
mô lớn. Trong các văn kiện chính thống hiện nay, mọi ngôn từ ca ngợi hình thái
hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp, coi đấy là một thành tố tạo nên tính định
hướng XHCN của nền kinh tế nước ta, v… v…, thật ra chỉ là sự tự đánh lừa chính
mình.
Cũng
phải nói sòng phẳng, giả định có nhìn được vấn đề và muốn thực hiện bước
khởi đầu chiến lược 3 ha /1 lao động nông nghiệp, thì hệ thống
chính trị này và bộ máy nhà nước hiện có của nó cũng bất lực – vì không
có trí tuệ và phẩm chất để thực thi, đồng thời hệ thống luật pháp của nó cũng
không kham nổi. Nhìn lại những gì đã xảy ra trong lĩnh vực đất đai hàng chục
năm qua, có thể phán đoán: Dưới chính quyền này, thực hiện tích tụ ruộng đất
chắc chắn sẽ biến thành cướp bóc ruộng đất, rồi sẽ có hàng triệu nông dân sẽ
gia nhập đội quân vô sản thất nghiệp... Chú ý: Hàn Quốc và
Đài Loan nhờ có lộ trình đúng gắn kết nông nghiệp với công nghiệp hóa và đô thị
hóa nên đã tránh được tình trạng “ăn cướp” trong quá trình tích tụ ruộng đất để
hiện đại hóa nông nghiệp.
Hiện
nay, mặc dù vẫn là 1 ha ruộng đất / 3 lao động, thế nhưng cả nước có hàng vạn
(hay hàng chục vạn?) người phải đi lao động kiếm sống ở nước ngoài – hợp pháp
hoặc không hợp pháp, không ít người phải sống chui lủi không còn là người, họ
bị bóc lột thậm tệ ở trong nước cũng như ở nơi họ đi làm thuê. Còn phải kể đến
hàng vạn phụ nữ lấy chồng nước ngoài vì muốn thoát khỏi đói nghèo ở nông thôn.
Không hiểu có ai có chức có quyền cảm thấy xấu hổ cho mình và cho đất nước mình
về thực tế này hay không, mặc dù đây là chuyện không thể ngăn cản và cũng không
nên ngăn cản trong thực trạng đất nước hiện nay. Cuộc sống xảy ra quá nhiều
chuyện khiến tôi thầm lo: Hay là chúng ta đang thiếu hoặc đang mất đi
cảm giác nhận biết thế nào là nhục (tôi lại phải xin lỗi vì dùng cụm từ chúng
ta).
Nói
theo lý luận về quan điểm giai cấp và định hướng XHCN của ĐCSVN, có thể
kết luận: Thể chế chính trị hiện thời và tư duy của nó đã kiến tạo nên một
thứ quan hệ sản xuất đang kìm hãm sức phát triển của nông nghiệp nước nhà, mặc
dù trong thời đại thông tin ngày nay nước ta có thể có bất kỳ know how nào và
có thể huy động bất kỳ nguồn lực nào cho một nền nông nghiệp phát triển cao
đáng mong muốn. Thể chế chính trị hiện thời hoàn toàn không thể làm khác, thậm
chí nó bóp chết cách làm khác.
Nhìn
lại, xin đừng quên, cho đến nay thể chế chính trị này đã 2 lần thực hiện đưa
nông nghiệp lên sản xuất lớn theo cách của nó dưới dạng các mô hình hợp tác xã,
nhưng thất bại thảm hại. Thậm chí cả nước hiện
nay có trên 75 triệu thửa ruộng, thuộc quyền sở hữu của 9 triệu 259 nghìn hộ
nông dân – nghĩa là vô cùng manh mún, cho đến ngày hôm nay vẫn chưa làm xong
việc dồn điền dồn thửa, vẫn với bình quân cả nước là 1 ha / 3 lao động nông
nghiệp.
Hiện
nay trong nông nghiệp đang tranh luận sôi nổi vấn đề giảm 2 triệu ha trồng lúa
ở đồng bằng Nam Bộ để chuyển sang canh tác cây khác, nhằm tăng
thu nhập cho nông dân đang thua lỗ. Lo nghĩ này đáng trân trọng, song chưa hẳn
chủ trương này là đúng hoặc khả thi. Hiện nay vẫn chưa tìm ra được những giải
pháp thuyết phục cho mọi khâu liên có quan trong quá trình thực hiện mong muốn
này, cũng như cho toàn bộ các vấn đề có liên quan đến tiêu thụ đầu ra mới
(các sản phẩm nông nghiệp khác không phải lúa). Nghĩa là còn thiếu rất nhiều
giải pháp đồng bộ đi kèm, còn nợ rất nhiều câu trả lời thỏa đáng cho mọi vấn đề
đặt ra, cần được khai phá tiếp.
Cứ
giả thiết là trời giúp cho tìm được các giải pháp thỏa đáng cho mọi vấn đề đặt
ra trong việc chuyển đổi 2 triệu ha thôi trồng lúa như thế, song tựu trung đấy
cũng sẽ chỉ là giải pháp tình thế, mang tính chữa cháy mà thôi. Bởi vì, với
diện tích canh tác bình quân nếu mãi mãi chỉ vỏn vẹn 1 ha
/3 lao động như hiện nay, cái nghèo và lạc hậu sẽ tiếp tục
đeo đẳng nông dân nước ta đời đời kiếp kiếp, đồng thời giam hãm tiến trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa kinh tế đất nước.
Nông
nghiệp đã và đang hoàn thành xuất sắc việc bảo đảm an ninh lương thực, ngày nay
chiếm được khoảng 1/5 – 1/4 kim ngạch xuất khẩu cả nước, đồng thời là yếu tố
căn bản góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế, ổn định quốc gia. Phải nói đấy
là những đóng góp vô giá của nông dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Những thành tựu này cho thấy tiềm năng to lớn của nông nghiệp Việt Nam. Song
tiếc rằng đường lối công nghiệp hóa – hiện đại hóa của ĐCSVN không thể nhìn
nhận vấn đề hiện đại hóa nông nghiệp như một bộ phận hữu cơ của công nghiệp
hóa, gắn kết hữu cơ với quá trình từng bước đưa lao động nông nghiệp sang các
lĩnh vực kinh tế khác (công nghiệp, dịch vụ…), do đó không đầu tư cho nông
nghiệp công sức thỏa đáng. Hệ quả là toàn bộ quá trình CNH – HĐH đã phải trả
giá đắt. Nghị quyết số 26 ngày 04.08-2008 về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn tuy có đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 đạt chỉ còn tỷ lệ 30% lao
động xã hội trong nông nghiệp – một mức còn xa với so với tiêu chí của một nước
công nghiệp, song lại tránh né hoàn toàn vấn đề nan giải số 1 là giải quyết đòi
hỏi “3ha / 1 lao động nông nghiệp” như thế nào? Vì sợ tránh né
này, tuy còn 7 năm nữa, mục tiêu 30% lao động cả nước làm nông nghiệp chắc cũng
sẽ chỉ là trên giấy mà thôi (hiện nay ước tính là 57%).
Sai
lầm nói trên trong nông nghiệp đã tiêu phí mất 28 năm (kể từ khi đổi mới) và
nhiều nguồn lực khác của đất nước. Trong khi đó tài nguyên quốc gia đã bán đến
mức cạn kiệt. Kết quả đạt được là đến hôm nay là vẫn chưa thấy bóng dáng
một nước Việt Nam công nghiệp; đồng thời quốc gia vẫn chỉ sở hữu một nền nông
nghiệp cơ bắp.
Bây
giờ vấn đề đất đai đang rối bời. Hiện tượng nông dân mất ruộng và bỏ ruộng đang
tích tụ những căng thẳng mới rất nóng bỏng trong xã hội. Thể chế điều hành đất
nước còn rất nhiều yếu kém và đang bị nạn tham nhũng lũng đoạn nghiêm trọng. Sự
cộng hưởng của quá nhiều bất cập trong mọi mặt phát triển đất nước tích tụ suốt
3 thập kỷ vừa đang đẩy đất nước đi vào ngõ cụt. Tất cả đang tạo nên một tình
trạng đình đốn rất nguy hiểm trong phát triển nông nghiệp nói riêng, trong toàn
bộ quá trình công nghiệp hóa nói chung.
Nói thêm về công nghiệp: Điều nguy hiểm không phải ở chỗ nền công nghiệp Việt Nam
hiện nay còn non trẻ, mà ở chỗ: Sau 28 năm đổi mới, đất nước đang sở hữu một
nền công nghiệp phụ thuộc[54], ô nhiễm, què quặt, trùng lặp, hoàn toàn thiếu tính quy
hoạch cho sự phát triển đồng bộ và sự phát triển tiếp theo… Nói nghiêm túc là
cho đến nay chưa có chiến lược công nghiệp hóa, chưa xác lập được lợi thế của
nền công nghiệp nước ta là gì, không làm rõ được nước ta sẽ trở thành một nước
công nghiệp như thế nào!
Lợi thế so sánh lớn nhất của Việt Nam là con người và đất
đai (hiểu theo cả với nghĩa địa chính
trị và địa kinh tế), song cả 2 yếu tố này đều bị chà đạp, hủy hoại và
lãng phí một cách không thương tiếc.
Hiện
nay, toàn bộ các yếu tố phát triển kinh tế nói chung và cho công nghiệp nói
riêng theo phương thức phát triển theo chiều rộng (extensive development) đã
được khai thác gần như hết mức, đó là các yếu tố: sức lao động rẻ, tài nguyên,
đất đai, môi trường, tăng trưởng nhờ đầu tư mới… Kết quả đạt được là một nền
công nghiệp gia công là chủ yếu, tiêu thụ nhiều nguyên liệu và năng lượng, hàm
lượng khoa học và công nghệ thấp, giá trị gia tăng rất thấp, trong khi đó tỷ lệ
mức tiêu thụ đầu vào trên một sản phẩm ngày càng cao[55]. Những lợi thế về lao động rẻ và địa lý tự nhiên (đất đai,
các nguồn tài nguyên khác) đã bị khai thác tới mức cạn kiệt, môi trường bị tàn
phá nghiêm trọng, càng phát triển càng phụ thuộc vào bên ngoài…
Đặc
biệt nguy hiểm là hiện nay các yếu tố phát triển công nghiệp theo chiều rộng đã
được khai thác tới mức trần, nhưng lại chưa tạo ra những tiền đề khả dĩ đưa nền
công nghiệp nước nhà đi vào thời kỳ phát triển theo chiều sâu và thời kỳ của
kinh tế tri thức. Trên tất cả các phương diện trọng yếu như (1)chất lượng nguồn
nhân lực, (2) tiềm lực khoa học kỹ thuật, (3) sự phát triển của kết cấu hạ tầng
vật chất và kỹ thuật, (4)tạo dựng và phát triển các giá trị, các yếu tố văn hóa
và tinh thần phải có của một xã hội công nghiệp, (5)năng lực quản lý quốc gia…
tất cả đều quá tải so với đòi hỏi của hiện tại và không thể đáp ứng những đòi
hỏi của giai đoạn phát triển mới của công nghiệp nói riêng và của cả nền kinh
tế quốc dân nói chung.
Sau 3 thập kỷ, hiện nay kinh tế nước ta vẫn chưa ra khỏi
thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản hoang dã.
Xin đặc biệt lưu ý,
khi bắt tay vào quá trình CNH – HĐH, nhất là từ khi vấn đề thu hút FDI và hội
nhập quốc tế được nhìn nhận đúng tầm quan trọng của nó, đã có không biết bao
nhiêu cảnh báo của trong, ngoài nước – từ các nhà khoa học, đến các giới kinh
tế, chính khách…: Việt Nam cần tận dụng lợi thế nước đi sau để
không đi vào vết xe đổ của nhiều quốc gia trên con đường công nghiệp hóa – đó
là phải tránh trở thành bãi thải công nghiệp của các nước phát
triển, các nước đi trước.
Tiếc
rằng, Việt Nam về nhiều mặt đã và đang trở thành một bãi thải công nghiệp
như thế.
Tuy
những xí nghiệp mía đường, xi-măng lò đứng… đã một thời là những truyện cổ tích
đau lòng, nhưng hiện nay cả nước có hàng trăm công trình công nghiệp trọng yếu
có trình độ công nghệ hạng 3, hạng 4 trở xuống (trong đó có rất nhiều công
trình công nghiệp nhập từ Trung Quốc), với chi phí sản xuất và mức độ ô nhiễm
môi trường đều rất cao. Sản phẩm của FDI chủ yếu là các mặt hàng gia công và
các sản phẩm thô mang tính nguyên liệu, nguyên liệu sơ chế, sản phẩm trung gian
là chính (như xi măng, thép, bột giấy, các loại khoáng sản khai thác trong nước,
alumina Tây Nguyên…).
Hiện
nay một số khu đất lớn ở các vùng trọng yếu trong cả nước đã được khoanh thành
những khu công nghiệp khủng, diện tích mỗi khu là hàng nghìn, thậm chí hàng vạn
ha; mỗi vùng hay khu công nghiệp như thế có tổng vốn đầu tư (dự kiến) của nước
ngoài lên đến vài chục tỷ USD, chủ yếu để sản xuất các nguyên liệu như thép,
các sản phẩm lọc dầu, các loại sản phẩm khác tiêu thụ nhiều nguyên liệu và năng
lượng... để bán cho nước ngoài. Nói thô thiển, đấy là một dạng bán lao động rẻ,
mặt bằng sản xuất, môi trường, nguyên liệu và năng lượng tại chỗ… Tiếp tục xu
hướng đi sâu vào chức năng “sân sau”, chức năng “bải thải công nghiệp” cho các
nước đi trước như thế, Việt Nam làm sao đi lên hiện đại được? làm sao tiến lên
kinh tế trí thức?...
Ví dụ,
đi thăm khu công nghiệp Vũng Áng rộng khoảng 40 km2 (4000 ha, khoảng 2/3 trên
bộ và 1/3 trên mặt biển), tổng đầu tư dự kiến trên 9 tỷ USD… tôi không sao
tránh khỏi lo lắng: Nước ngoài[56] thuê đất và biển của ta để bê vào nước ta toàn bộ một khâu
sản xuất nào đó đã quá “bẩn” và lỗi thời đối với họ[57]– cụ thể ở đây là để sản xuất thép; giai đoạn I dự kiến là 7
triệu tấn / năm, giai đoạn II dự kiến sẽ là 15 triệu tấn / năm… Quặng
nhập và mỏ sắt Thạch Khê[58] đang được triển khai và là đầu vào cho dự án này. Hàng loạt
công trình đi kèm là bến cảng, nhà máy điện…, trong đó có có công trình đưa 1
triệu m3 nước / ngày lấy từ thượng nguồn bằng đường ống để phục vụ khu công
nghiệp - không hiểu sẽ lấy nước ở đâu, mà ai cũng biết miền Trung khan hiếm
nước như thế nào, khí hậu rất nóng… Sắp tới khu này dự kiến sẽ mở rộng thêm
1000 ha nữa cho lọc dầu… Tôi không sao hình dung nổi những hệ quả về mọi
mặt sẽ xảy ra cho môi trường, cho nhân dân địa phương, cho cả nước… Chân
bước đi trên vùng đất này, nhưng trong đầu tôi ám ảnh một viễn tưởng thảm họa
môi trường cho vùng này trong tương lai, hàng nghìn công nhân khai thác mỏ và
luyện kim ở đây sẽ đưa nước ta lên nền kinh tế trí thức...
Đối
với loại công trình khủng như thế, đất nước và người dân có quyền có tiếng nói
gì? Hay là cứ quyết là xong. Quyết là thi hành! Phải chăng đất nước ta đang bị
biến thành đất nước cho thuê, người dân ta trở thành kẻ làm thuê ngay trên đất
nước mình. Mọi hậu quả về môi trường, về an ninh, về tiền đồ phát triển… nước
ta gánh chịu hết – chỉ để phục vụ cho việc làm ra một khối lượng thép khổng lồ
bán cho nước ngoài!? Trong những năm qua, đã nhiều lần tôi rãi bầy lo nghĩ này,
gần đây nhất là việc khai thác titan miền Trung, khai thác bauxite trên Tây
Nguyên, bây giờ lại đến mối lo Vũng Áng, nhiều nơi khác nữa!..
Trước
mắt đã có lời cảnh báo cho một nơi khác: Không được để khu công nghiệp Chu Lai
trở thành bãi thải!
Sắp
tới sẽ có thể có khu lọc dầu khủng 27 tỷ USD đầu tư ở Bình Định của Thái lan –
do công ty lọc dầu PPT thực hiện… Tôi thực sự rùng mình, trong lòng tự hỏi tại
sao thiên hạ và phía ta cứ thích bê những thứ “khủng” đầy ô nhiễm như
thế vào nước ta? Khủng như thế là thật đến đâu, giả đến đâu? Tiền này thực là
của ai?.. Nước ta đến nay đã ăn phải không ít những quả lừa vỹ đại, vốn Đài
Loan té ra là vốn Trung Quốc đại lục… … ... Vân vân…
Sắp
tới, bên cạnh khu công nghiệp dầu khí khủng Bình Định nói trên, lại sẽ thêm khu
công nghiệp Phú Yên chế biến 8 triệu tấn dầu / năm…
Xin
lưu ý: Nước ta mật độ dân số cao nhất châu Á, nghĩa là đất hẹp người đông, vốn
quý nhất của đất nước là con người và đất đai (bao gồm cả vị trí địa lý), song
đem dùng như thế trong thời toàn cầu hóa hiện đại ngày nay có đáng không? Đất
nước ta có thể mở mày mở mặt với nền công nghiệp “high carbon”, bán lao động cơ
bắp, bán không gian sinh tồn và bán môi trường là chính như vậy không? Là nước
đi sau, nước ta có nhất thiết phải ôm lấy những thứ “khủng” thiên hạ thải
ra như thế không? Vân vân… Trong khi đó khoảng 1/3 đến ½ diện tích các khu công
nghiệp đã xây dựng chưa có người thuê… Chẳng lẽ tôi chỉ là một kẻ yếu bóng vía
mù quáng!?
Trí
tuệ cả nước và trên thế giới không thiếu lời giải để ngay từ đầu có thể tránh cho
Việt Nam nguy cơ trở thành bãi thải công nghiệp cho thiên hạ. Đã có rất
nhiều ý kiến, kiến nghị xác đáng từ khi tiến hành đổi mới 1986 cho hướng đi
này. Tất cả chỉ là nước đổ lá khoai.
Song
thực tiễn của thể chế chính trị nước ta gần ba thập kỷ vừa qua cho thấy:
(1)quyền lực chính trị, (2) lợi ích nhóm các loại và (3) sự chi phối của tham
nhũng mới là những yếu tố quyết định, chứ không phải lẽ phải, càng không phải
lợi ích tối thượng của quốc gia.
Nơi nơi thi
nhau tranh thủ phát triển các dự án, chồng xéo lên nhau, “cheo” hay không
“cheo” không thành vấn đề. Có lẽ càng nhiều dự án và càng “khủng” thì càng dủng
dỉnh cho các túi tham[59]?… Chưa nói đến nhiều vấn đề rất nhạy cảm của an ninh quốc
gia. Có thể thực hiện công nghiệp hóa quốc gia bằng cách tỉnh nào tranh thủ
được cái gì thì làm cái đó như thế được không!? Dự án càng to càng tốt!..
Thêm vào đó,
trong tư duy và văn hóa “nhiệm kỳ” cùng với nền kinh tế GDP
tỉnh không có chỗ đứng cho tầm nhìn và những chiến lược dài hạn, không
có khả năng lựa chọn những quyết định tối ưu chung cho cả nước, trên thực tế đã
vô hiệu hóa không ít những điều đúng đắn, băm nát đất nước, xé nền kinh tế đất
nước thành những mảng hay những vùng cát cứ… (Ví dụ: Cho đến ngày hôm nay, mọi
kế hoạch hay chiến lược phát triển kinh tế vùng hoàn toàn thất bại, hay chỉ nằm
trên giấy). Càng manh mún tranh giành nhau với tầm nhìn như thế, đất nước mình
càng rẻ đi!
Hiện nay GDP
p.c. của ta mới khoảng 1500 USD, thế nhưng thể chế chính trị này và nhà
nước của nó hầu như đã không kham nổi, để xảy ra quá nhiều bất cập, đổ vỡ, bất
công và tổn thất; kinh tế hiện nay đang quá nhiều bế tắc.
Xin thử hình
dung: Con đường từ GDP p.c. 1500 USD hiện nay của nước ta đi tới cái mốc
là nước công nghiệp thấp – ví dụ GDP p.c. là 12.000 USD (nghĩa là rất
thấp, chỉ bằng ½ GDP p.c. của Hàn Quốc hiện nay) sẽ là chặng đường vô cùng khó
khăn. Bao nhiêu năm nữa mới đạt được? Hệ thống chính trị này và nhà nước của nó
dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của ĐCSVN như hiện nay liệu có khả năng
tạo ra được sự phát triển như thế không? Có quản lý nổi một nền kinh tế có quy
mô phát triển như thế không? Vân vân…
Đã đến lúc
phải quan tâm đến nhiều hơn xây dựng một khía cạnh khác nữa quan trọng không
kém: Một nước công nghiệp chỉ có thể ra đời trước hết nhờ có chế độ chính trị,
con người và văn hóa của một nước công nghiệp.
Nói đến cùng: Với
tầm nhìn và bản chất của nó, thể chế chính trị hiện nay không có khả năng đưa
nước ta trở thành một nước công nghiệp và văn minh, thậm chí đang cản trở đất
nước trên con đường này. Các lập luận của một số học giả trong nước và
ngoài nước cho rằng Việt Nam đang sa vào cái bẫy là nước có thu nhập
trung bình thấp là xác đáng. Đây chính là điều cả nước ngay từ bây giờ
phải nhìn thấy – trước hết là các đảng viên ĐCSVN.
Có
thể kết luận:
Một
nền công nghiệp đất nước hiện có như vậy đang trở thành cái bẫy giam cầm sự
phát triển của đất nước. Nền công nghiệp này là sản phẩm tất yếu của một thể
chế toàn trị, vì thiếu vắng hoàn toàn tiếng nói của xã hội dân sự và nhà nước
pháp quyền - qua đó trí tuệ và lẽ phải gần như bị loại trừ, chỉ còn lại tiếng
nói của chủ nghĩa tư bản hoang dã và nhóm lợi ích giữ vai trò quyết định.
Hoàn
toàn không có cách gì để Việt Nam năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại dựa trên 3 trụ cột là kinh tế thị trường, nhà nước pháp
quyền, xã hội dân sự.
VII – 1.3. Từ nhiều năm nay nước ta
lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế – chính trị - xã hội toàn diện
Trong 28 năm đổi mới, kinh tế nước ta trải qua một số cuộc khủng hoảng[60], trong đó cuộc khủng hoảng hiện nay là trầm trọng nhất. Điều
này cho thấy thời kỳ kinh tế đất nước phát triển năng động quá ngắn (gần như
trung bình cứ 6 – 7 năm lại có khủng hoảng)[61], nghĩa là một quá trình phát triển thường xuyên đứt quãng,
hay thiếu tính liên tục trong chiến lược phát triển của một quốc gia. Phải
chăng đấy là hệ quả không tôn trọng quy luật trong vận hành kinh tế, rồi đến hệ
quả của phân khúc nhiệm kỳ qua các Đại hội Đảng, hệ quả của tư duy và văn hóa
nhiệm kỳ… theo kiểu “tân quan tân chính sách” như ngôn ngữ dân
gian thường nói? Và trước hết, đấy là sự kém cỏi của đội ngũ lãnh đạo Đảng và
đoàn quân trí tuệ của nó.
Sự thật là
chiến lược CNH – HĐH đất nước đến năm 2020 tuy được nhất quán nhấn mạnh trong
tất cả các kỳ Đại hội Đảng, nhưng nó chỉ là một khẩu hiệu nhiều hơn là một
chiến lược, thiếu hẳn quy hoạch các bước đi tiếp nối nhau liên tục, thiếu các
chính sách lớn và các chiến lược đi kèm xuyên xuốt cho thời kỳ công
nghiệp hóa – ví dụ chiến lược giáo dục, chiến lược phát triển nguồn
nhân lực, chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng, chiến lược cải cách thể chế
chính tri, các cột mốc cho từng chặng phải đạt được, vân vân…[62]. Thậm chí trong các văn kiện các Đại hội Đảng, chiến lược
công nghiệp hóa được viết lên như các kế hoạch 5 năm của Chính phủ (nên đọc lại
các văn kiện các đại hội toàn quốc của ĐCSVN)…
Có thể nhận
xét: Ngoài các kế hoạch 5 năm cộng lại, cho đến nay khó mà nói rằng nước ta đã
có một chiến lược công nghiệp hóa đất nước theo đúng nghĩa. Nhưng khẩu hiệu
chiến lược về hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020 này không bao giờ thiếu
vắng, được tùy tiện điều chỉnh, thậm chí mặc nhiên coi quyết định của các Đại
hội Đảng là ý chí của đất nước!..
Từng Đại hội
Đảng đều kiểm điểm, đánh giá tình hình thực hiện chiến lược công nghiệp hóa và
tình hình mọi mặt của đất nước. Song cho đến nay việc kiểm điểm không bao giờ
dám đụng tới bất kỳ một sai lầm căn bản nào đã phạm phải, nhất là những khuyết
tật mang tính bản chất của hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo yếu kém của
ĐCSVN. Việc đánh giá tình hình / nhiệm vụ được làm theo một công thức cho “đủ
mâm đủ bát”, có đúng có sai, có ưu có khuyết, có thành có bại.., với kết luận
muôn thuở: Đường lối của Đảng vô cùng sáng suốt và đúng đắn, chỉ có những
yếu kém nhất định trong quá trình vận dụng, thực hiện.
Sự thật là
(1) những khó khăn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
trong thời bình vượt ra ngoài khả năng và phẩm chất của lãnh đạo ĐCSVN[63],
(2) sự nô lệ thảm hại của tư duy ý thức hệ vay
mượn,
(3) sự tha hóa không ngừng gia tăng của hệ thống
chính trị,
(4) sự dối trá trở thành vũ khí biện hộ cho vai trò
lãnh đạo hiện đang nắm giữ của ĐCSVN (được sử dụng để giấu diếm những sai lầm
và thất bại, níu kéo sự tồn tại của chế độ, là công cụ trấn áp phản ứng của
nhân dân, thực hiện các thủ đoạn tranh giành nhau giữa các nhóm lợi ích…).
Đấy chính là 4
nguyên nhân gốc chi phối xuyên suốt quá trình phát triển của Việt
Nam sau khi giành được độc lập thống nhất.
Đổi mới xóa bỏ
được hệ thống kinh tế bao cấp, tạo ra sự phát triển ban đầu rất ấn tượng, thế
giới ngạc nhiên. Nhưng vì 4 nguyên nhân gốc còn nguyên
vẹn, cho nên không bao lâu Việt Nam rơi vào các cuộc khủng hoảng nối tiếp nhau
không thể tránh được. Tiềm năng to lớn của đất nước và những thuận lợi bên
ngoài Việt Nam tranh thủ được đã làm nên không ít những dự báo của nước ngoài
về “con rồng Việt Nam”, “con hổ Việt Nam”... Tiếc
thay tất cả các dự báo này đều bị 4 nguyên nhân gốc này
làm cho phá sản, không thể đổ lỗi cho bất kỳ lực lượng thù địch nào.
Cuộc khủng
hoảng trầm trọng hiện nay đất nước đang lâm vào bắt đầu từ năm 2007 – nghĩa là
1 năm trước khi kinh tế Mỹ và sau đó là nhiều nước Tây Âu lâm vào cuộc khủng
hoảng lớn (năm 2008).
Trong vòng 3
kế hoạch 5 năm trở lại, đây là thời kỳ kinh tế Việt Nam về đối nội cũng như đối
ngoại có quy mô phát triển ngày càng mở rộng, có nhiều công trình mới, mọi
nguồn lực huy động cho phát triển kinh tế thời kỳ này ngày càng lớn hơn rất
nhiều so với những năm trước đó. Sự tiến triển mới này cùng với những nỗ lực
không nhỏ đã thực hiện được cho tự do hóa kinh tế trong khoảng thời gian này đã
mang lại những tiến bộ nhất định. Nhưng ác thay, đồng thời 4 nguyên
nhân gốc nêu trên của hệ thống chính trị qua sự phát triển này của
đất nước cũng có những cơ hội sinh sôi nảy nở tốt nhất chưa từng có để
lũng đoạn thời kỳ phát triển mới này của đất nước.
Trong 28 năm
đổi mới, khoảng gần 3 kế hoạch 5 năm trở lại đây là thời kỳ có nhiều nguồn lực
lớn nhất được huy động vào kinh tế, song cũng là thời kỳ tham nhũng tiêu cực
bùng phát mạnh nhất, làm ăn thua lỗ và thất thoát cao nhất – tiêu biểu là sự
bùng nổ và xẹp bong bóng của thị trường bất động sản và ngành ngân hàng, hiệu
quả đầu tư kém nhất, từ năm 2007 kinh tế đất nước bị đẩy vào cuộc khủng hoảng
sâu sắc nhất, lớn nhất kể từ khi đổi mới, hiện nay chưa có lối ra.
Cuộc
khủng hoảng hiện nay chỉ ra rõ nhất: Giai đoạn phát triển kinh tế ban đầu của
Việt Nam đã kết thúc, nhưng hoàn toàn không được chuẩn bị về mọi mặt (kể cả
thượng tầng kiến trúc và hạ tầng xã hội) để chuyển kinh tế Việt Nam đi vào một
thời kỳ phát triển mới.
Trong thời kỳ
này, cần đặc biệt lưu ý: Các tập đoàn kinh tế nhà nước và hệ thống ngân hàng
dưới sự chi phối của các nhóm lợi ích là những tác nhân chính và trực tiếp đã
gây ra nhiều đổ vỡ nguy hiểm cho đất nước:
- nhiều tập đoàn
kinh tế quốc doanh thua lỗ, hoặc phá sản;
- thị trường bất
động sản sụp đổ gây tổn thất hàng trăm nghìn tỷ đồng cho nền kinh tế. (Ủy ban
Giám sát Tài Chính Quốc gia ước khoảng 35% trong dự nợ của thị trường bất
động sản là nợ xấu – nghĩa là rất cao và ở ngưỡng nguy hiểm, hiện nay tồn kho
của thị trường bất động sản ước 1,6 triệu nghìn tỷ đồng; thực trạng này kéo
theo đổ vỡ của nhiều ngành kinh tế khác);
- nợ xấu của các
ngân hàng cùng với những hoạt động thâu tóm, mua bán, sáp nhập, các công ty sân sau,
sở hữu chéo trong ngân hàng... đã tạo ra những vòng luẩn quẩn nguy hiểm không
thể kiểm soát của các dòng tiền, (một số chuyên gia ước đoán nợ xấu của
các ngân hàng Việt Nam hiện nay khoảng nửa triệu tỷ VNĐ - 500.000 tỷ VNĐ)[64];
- nợ xấu của doanh
nghiệp nhà nước chiếm 70% tổng nợ xấu của các doanh nghiệp trong cả nước; đáng
ngại là riêng tổng nợ xấu cần xử lý ngay của 80 (trong tổng số 96) tập đoàn
kinh tế nhà nước cao 1,6 lần tổng vốn sở hữu, trở thành những thách đố nan
giải;
- trong thời gian
này hàng chục nghìn doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng cửa, phá sản, với rất nhiều hệ
lụy kinh tế - chính trị - xã hội nghiêm trọng, nạn thất nghiệp lan rộng..;
- lạm phát, sự
biến động của thị trường ngoại tệ và thi trường vàng, nợ công, thâm hụt ngân
sách nhà nước, nhập siêu… là những căn bệnh kinh niên; riêng nợ công số liệu
thống kê công bố chính thức là 55% GDP (nhưng các chuyên gia Việt Nam ước tính
là 95 – 106% GDP, đối với nước ta là mức rất xấu, vì khả năng trả nợ rất thấp);
- nợ xấu, hàng tồn
kho, và vốn chết không cho vay được trở thành những cục máu đông nguy hiểm cho
cả nền kinh tế;
Một nghịch lý
nguy hiểm là thị trường trong nước hiện nay không thiếu vốn, nhưng thiếu dự án
và người đi vay có tiềm năng thanh toán, trong khí đó nhiều sản phẩm làm ra đã
lỗi thời và thừa ế, nhưng năng lực đi vào sản phẩm mới và thị trường mới rất
hạn chế, lại đúng lúc kinh tế thế giới có những chuyển đổi về cơ cấu. Đây chính
là một biểu hiện nguy hiểm của những bế tắc trong kinh tế nước ta.
Chưa nói đến
chất lượng yếu kém của các công trình kinh tế đã xây dựng sẽ tiềm ẩn những hậu
quả gì cho tương lai? Ngay trước mắt, trong cả nước có hàng trăm công trình kết
cấu hạ tầng (hồ thủy lợi, cầu cống, đường xá…) đã xuống cấp ở mức nguy hiểm từ
hàng chục năm nay đang đe dọa những hiểm họa lớn, nhưng bị bỏ bễ quá lâu và
không có kinh phí duy tu, sửa chữa…
Phương thức
phát triển kinh tế theo chiều rộng của nước ta đã đi hết chặng
đường của nó, nhất thiết phải đưa nền kinh tế của mình sang thời kỳ phát
triển theo chiều sâu với chất lượng và hiệu quả cao hơn. Song toàn
bộ thực trạng kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội của đất nước như vừa trình
bầy trên đang dựng lên bức tường chắn kiên cố phía trước. Làm thế nào bây giờ?
Có ý kiến bào
chữa và phản bác: FDI và ODA vẫn đang đổ vào Việt Nam ầm ầm; hiện nay từ IMF
cho đến WB và không ít các tổ chức quốc tế khác… vẫn không thiếu lời ca ngợi
kinh tế Việt nam, tại sao lại nhận định bi quan như vậy được?
Xin đáp: Việt
Nam vẫn là một thị trường trong khu vực ĐNA hấp dẫn FDI, nên xem đây là cơ hội
của đất nước. Tuy nhiên lượng FDI (cả lượng đăng ký và lượng thực hiện) đã giảm
so với thập kỷ trước. Nhưng điều đặc biệt quan trọng: Vì nhiều lý do, tỷ trọng
FDI mang công nghệ cao vẫn rất thấp, trong đó số các dự án FDI có công nghệ cao
vẫn ít và triển khai chậm. Không thể bỏ qua một sự thật là các nước đối tác
đang rất cố gắng không muốn để Việt Nam được ôm ấp chặt chẽ trong vòng tay
Trung Quốc; ODA và các lời khen hợp khẩu vị cũng nên được xem xét dưới góc độ
này. Nước cung cấp ODA số 1 hiện nay vẫn là Nhật, mặc dù phía ta không giữ được
nhiều cam kết với Nhật trong tiến trình thực hiện, trong khi đó ODA của các
nước khác giảm dần.
Còn một sự
thật khác nữa: Nhật, Hàn Quốc vì những lý do tái cấu trúc kinh tế của họ và vì
các lý do địa chính trị tại khu vực ĐNA (trong đó có v/đ Trung Quốc) đang rất
muốn Việt Nam trở thành đối tác chiến lược về kinh tế - trước hết với nghĩa
muốn hợp tác dưới dạng chuyển giao và gắn bó với kinh tế Việt Nam. Cũng vì
những lý do địa chính trị, Mỹ và nhiều nước phương Tây khác đang rất muốn đẩy
mạnh phát triển quan hệ kinh tế với Việt Nam. Song những yếu kém hiện có của
đất nước đang kìm hãm nghiêm trọng sự phát triển này.
Cuộc khủng
hoảng kinh tế - chính trị của đất nước hiện nay đang tác động nghiêm trọng đến
mọi phúc lợi xã hội; toàn bộ các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa; đạo đức xã
hội tiếp tục xuống cấp với biết bao nhiêu sự việc đau lòng. Đồng thời nạn tham
nhũng tiêu cực đang hủy hoại các thang giá trị trong xã hội ở mức tệ hại nhất
kể từ khi đất nước độc lập thống nhất.
Trong thời kỳ khủng hoảng hiện nay,
sự trấn áp của chế độ chính trị đối với những đòi hỏi của các tầng lớp nhân dân
về công lý và công bằng xã hội, về tự do, dân chủ, quyền con người… hiện đang
diễn ra ở mức tệ hại nhất trong suốt 28 năm đổi mới. Đời sống mọi mặt của đất
nước trở nên ngột ngạt chưa từng thấy. Nhân danh bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, đã xảy ra các bản án tai tiếng dành cho những người yêu nước bất đồng
chính kiến, đã xảy ra không ít các vụ dùng bạo lực vũ trang đàn áp sự phản
kháng của nông dân…
Phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng tại Hội nghị Trung ương 4 – XI mới chỉ nói lên được phần nào tình trạng
suy thoái trong ĐCSVN và phần nào sự mất lòng tin của dân. Sự thật trầm trọng
hơn thế rất nhiều. Trong khi đó hào quang của lịch sử được đội ngũ trí tuệ của
hệ thống chính trị tận dụng đến mòn cả chữ, nhưng không phải để trang
trải trách nhiệm đối với lịch sử, cũng không phải để soi rọi cái đau, cái nhục
của nghèo hèn hôm nay so với thiên hạ, mà chỉ là để xoa dịu hay khỏa lấp cái
đau, cái nhục này.., là để át đi những khát vọng đòi thay đổi của nhân dân. Có
quá nhiều thứ bộ máy tư tưởng đưa ra để giữ lòng dân và ca ngợi sự tốt đẹp của
chế độ - nghĩa là để lên dây cót – nhưng hầu như chỉ mang nặng tính phô
trương và không thật.
Ví dụ: từ khoảng gần một thập kỷ nay việc học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là trọng tâm số một trong nhiệm vụ giáo dục
chính trị tư tưởng của toàn bộ hệ thống chính trị và cả nước. Song thập kỷ vừa
qua lại là thời kỳ xảy ra những tội ác tham nhũng tồi tệ nhất, hệ thống chính
trị tha hóa trầm trọng nhất, đời sống xã hội có nhiều mặt xuống cấp nguy hiểm,
trấn áp dân cũng ở mức độ cao nhất... Thế nhưng hiện nay các phát ngôn của lãnh
đạo cao cấp, các báo chí của toàn hệ thống vẫn đang hàng ngày tiếp tục hết lời
ca ngợi thành tựu và những kết quả đạt được của cuộc vận động chính trị trọng
đại này. Thập kỷ này còn là thời kỳ ĐCSVN tha hóa nặng nhất, có nhiều chuyện bê
bối tệ hại nhất trong lịch sử của mình. Số đảng viên bị kỷ luật và bị kết án
khá lớn, có lẽ cũng cao nhất so với thập kỷ trước đó[66].
Quyền lực
chính trị, tập đoàn kinh tế quốc doanh, ngân hàng, - 3 thành tố này câu kết với
nhau thành nhóm lợi ích. Trong từng nhóm lợi ích lại có các mối
quan hệ chéo và các mối liên kết ngang / dọc với ngoài nhóm. Nhóm lợi ích câu
kết, liên kết, tranh giành, đấu đá nhau, vô hiệu hóa pháp luật, biến ĐCSVN –
với vai trò tự nhận cho mình là đội ngũ tiên phong của giai cấp và của
dân tộc – thành cái bình phong bảo vệ nó, biến bộ máy nhà nước thành công
cụ thi hành ý đồ của nó… Nhóm lợi ích đang làm mục ruỗng hệ thống chính trị và
bộ máy nhà nước, đồng thời băng hoại mọi giá trị và đạo đức. Có bình
luận: “nền kinh tế Việt Nam đang bị phá hoại từ bên trong…” (J.
Parker).
NSƯT Phạm Nhuệ
Giang – tác giả bộ phim truyền hình nhiều tập “Trò đời” chia sẻ, “Thế
mới biết nhà văn Vũ Trọng Phụng thật tài. Xã hội Việt Nam ông miêu tả, sau một
thế kỷ sự lố lăng vẫn còn nguyên…”
Đúng ra mọi lố lăng thời Vũ Trọng
Phụng phải gọi mọi lố lăng thời nay bằng cụ, nghệ sỹ Nhuệ Giang ạ!
Tiền thuế của dân trong một nước còn
nghèo phải gồng lên gánh tải một hệ thống chính trị đồ sộ, cồng kềnh, với những
quyền lực khác nhau lồng gép vào nhau: Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các đoàn
thể quần chúng[67]. Nhưng hệ thống quyền lực này vừa hoạt động kém hiệu quả,
vừa có quá nhiều vùng chồng lấn quyền lực của nhau, có quá nhiều vùng bỏ trống
không ai quản – tất cả các thứ “vùng, miền” này là những mảnh đất
lý tưởng cho tệ nạn quan liêu tham nhũng, cho lũng đoạn… Sự thật của đất nước
những thập kỷ vừa qua cho thấy không một giá trị hay đạo đức xã hội nào có thể
tồn tại hay có tiếng nói quyết định của mình trong một hệ thống chính trị nhà
nước lồng ghép trong nhà nước như hiện nay. Rốt cuộc, chỉ những người có
thực quyền trong hay ngoài ĐCSVN mới là nhà nước đích thực; trong đó luật pháp,
lý tưởng thường được diễn giải theo cách “dân chủ của nước ta hơn gấp vạn lần
dân chủ của các nước phương Tây”[68].
Ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu cuộc sống. Hệ thống chính trị của đất nước đã
sản sinh ra những cụm từ tiêu biểu cho bản chất và cấu trúc của nó. Đó là sự
xuất hiện của những hiện tượng xã hội mang những cái tên gọi như “văn hóa
phong bì”, “đấu tranh, tránh đâu”, “sống lâu lên
lão làng”, “chính sách cơ cấu”, “tân quan tân chính
sách”, “tư duy nhiệm kỳ”, “nền kinh tế GDP
tỉnh”, “quan hệ”, vân vân… Nội hàm của những cụm từ này
phong phú đến mức ngôn ngữ gần như bất lực trong việc chứa đựng chúng.., cũng
có nghĩa là sự tha hóa đạt tới mức vượt ra ngoài khả năng diễn đạt của ngôn ngữ[69]. Vô vàn sự việc xảy ra trong đời sống cho thấy “tư
duy nhiệm kỳ”, “nền kinh tế GDP tỉnh” và “quan hệ”
là 3 sát thủ chính đang hàng ngày tìm cách giết chết mọi giá trị và hy vọng vốn
là nguồn gốc làm nên sức mạnh của một quốc gia.
Chính sách ngu
dân, sự bưng bít thông tin, cùng với sự tha hóa của đạo đức và lối sống – con
đẻ của quan liêu tham nhũng và bất công xã hội – đang tàn phá
nghiêm trọng đời sống tinh thần của đất nước. Tâm lý thờ ơ, vô cảm, mất phương
hướng, mất lòng tin, không cần quan tâm đến trách nhiệm và đến tương lai (cái
gọi là chủ nghĩa mackeno) đang lan rộng ở mức nguy hiểm trong xã hội.
Việc dư luận viên đã tới mức phải dùng đến cả sổ hưu làm công cụ
biện hộ cho các lý lẽ bảo toàn chế độ và sự vô cảm ẩn chứa nhiều tâm trạng trái
ngược nhau của người nghe cho thấy sự khốn quẫn trong trạng thái tinh thần của
đất nước đã tới mức hoàn hảo! Còn điều nào đau lòng hơn? …Giữa lúc đất nước cần
xốc lên tinh thần quật cường của cả dân tộc trong giai đoạn đầy sóng gió hiện
nay của đất nước...
Sự giả dối và
trấn áp nhân danh “giữ vững định hướng” của bộ máy tư tưởng và hệ thống
báo chí lề phải càng làm cho tình hình tồi tệ hơn. Đến mức khoảng một
năm nay, lần đầu tiên trong lịch sử đất nước xuất hiện trong ngôn ngữ chính
thống cụm từ “đội ngũ dư luận viên”!.. Nghĩa là để thực thi bạo lực trấn
áp bây giờ có thêm binh chủng “dư luận viên” bên cạnh những binh chủng
sẵn có khác. Trong lãnh đạo đã có người công khai nói lên niềm tự hào của mình
về sự đông đảo của “đội ngũ dư luận viên” này… (!) Người ta không thể
không liên tưởng đến những cụm từ “móc ngoặc”, “bọn móc ngoặc”, “con
phe”… xuất hiện trong thời kỳ bao cấp và tem phiếu cách đây ba thập kỷ. Chỉ
có điều khác biệt là những cụm từ này là do nhân dân hồi ấy tặng những người
làm các việc không chính đáng này với hàm ý phê phán; còn cụm từ “đội ngũ dư
luận viên” lại là sản phẩm trí tuệ của ĐCSVN, nói lên nội dung một
việc làm đang được ĐCSVN thực thi và tôn vinh.
Trong mọi sự tha hóa đất nước đang
phải trải qua, có lẽ sự dối trá là nghiêm trọng nhất, là cái đẻ ra mọi tha hóa
khác, đang hủy hoại mọi giá trị của đời sống mà tầm tay sự dối trá có thể với
tới!
Thất bại nào
trong đối nội cũng là tổn thất rất to lớn đối với đất nước. Nhưng điều làm tôi
trăn trở nhất là những thất bại trong nền giáo dục của nước nhà. Tôi thực sự lo
lắng không biết nước ta rồi đây – khi ra khỏi cuộc khủng hoảng nguy hiểm này và
thiết lập nên được một hệ thống chính trị mới - sẽ phải cần bao nhiêu năm
hay bao nhiêu thế hệ nữa, để có thể lấy lại được và xây dựng mới những giá trị
tạo dựng nên những thế hệ con người mới không thể thiếu cho một nước Việt Nam
phát triển, hiện đại, dấn thân và cùng đi được với cả thế giới! Cần một chế độ
chính trị như thế nào để có thể kiến tạo một nền giáo dục đất nước phải có?!..[70]
VII – 1.4. Thất bại lớn nhất của sự
nghiệp bảo vệ tổ quốc nằm trong mặt trận đối ngoại
Thời bình, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc chủ yếu diễn ra trên mặt trận đối ngoại. Vì
lẽ này, tôi xin tập trung trình bẩy một số ý kiến của mình trên phương diện
này. Những vấn đề khác liên quan đến vấn đề bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, bảo vệ biên giới trên bộ, và các vùng biển, đảo… xin được bàn vào một dịp
khác.
Cũng như các phần trên, tôi xin đặt sang một bên cho một dịp khác việc đánh giá
các thành tựu đạt được. Trong phần này xin tập trung tìm hiểu những việc chưa
làm được, những thiếu sót hoặc sai lầm.
Chuỗi các sai lầm đầu tiên rất trầm
trọng với nhiều hậu quả lâu dài
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thực chất chứa trong lòng nó 7 cuộc chiến
tranh. Đó là:
(1) cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm
lược;
(2) cuộc chiến tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa đế quốc trực tiếp xảy ra trên đất Việt Nam, nước ta tự nhận về mình nghĩa
vụ là một tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa;
(3) cuộc chiến tranh tranh giành ảnh hưởng trên thế
giới giữa một bên là Liên Xô và liên minh và một bên là Mỹ và liên minh trên
đất Việt Nam (một hình thái thể hiện cụ thể của “chiến tranh lạnh
1945 – 1991” diễn ra trên đất Việt Nam);
(4) cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Mỹ trên đất Việt Nam
- với mục tiêu giữ kẻ thù Mỹ của Trung Quốc càng xa biên giới Trung Quốc càng
tốt, với ý chí của Trung Quốc tọa sơn quan hổ đấu và quyết
tâm chống Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng..;
(5) cuộc chiến tranh tranh giành ảnh hưởng trên thế giới và
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế giữa Liên Xô và Trung Quốc;
(6) cuộc chiến tranh của phong trào độc lập dân tộc chống
chủ nghĩa thực dân, đế quốc, trong đó Việt Nam là một ngọn cờ tiêu biểu; và
(7) việc thực dân Pháp và đế quốc Mỹ hồi ấy tiến hành âm mưu
chia cắt lâu dài Việt Nam đã dẫn tới chiến tranh Bắc – Nam 1954 – 1975, đấy là
một cuộc nội chiến kéo dài và đẫm máu.
Đấy là thực tế lịch sử khách quan đã xảy ra.
Việc mổ xẻ các
khía cạnh để phân tích 7 cuộc chiến tranh trong 1 cuộc chiến tranh như vậy
không thuộc phạm vi bài này. Tuy nhiên, điều tất yếu có
thể rút ra tại đây là: Khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc, khách quan của sự vật
đòi hỏi nước ta phải giải quyết hậu quả và mọi hệ quả liên quan về sau
của tất cả 7 cuộc chiến tranh này.
Nhưng khi
kháng chiến kết thúc, chủ trương chính sách đối ngoại của nước ta hồi ấy lại
không nhận thức được hay không thừa nhận điều tất yếu này.
Sẽ phải tốn rất nhiều công sức mổ xẻ ngoại giao của nước ta thập kỷ đầu tiên
sau khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc.
Theo nhận thức
của tôi, xin được kết luận ngay như thế này: Vì bỏ qua điều tất yếu
nói trên, ngoại giao nước ta khi ra khỏi chiến tranh vừa say sưa chiến thắng,
vừa có nhiều bất cập và bị động nghiêm trọng; nhất là thiếu vắng hẳn truyền
thống ngoại giao Việt Nam của cha ông ngàn xưa: Đó là luôn luôn biết giữ thể
diện cho các kẻ thù sau khi ta đánh bại họ, chủ động bình thường hóa quan hệ
với họ… Vì mục đích “lên dây cót” cho dân, cho đến hôm nay lúc này lúc khác vẫn
ra rả làm bẽ mặt đối phương cũ, nhưng lại không rút ra những bài học cần rút
ra.
Đất nước ta đã
phải trả giá rất đắt cho thiếu vắng sự hiểu biết này sau kháng chiến chống Mỹ!
Ra khỏi kháng
chiến (7 cuộc chiến tranh), lại trong bối cảnh phe xã hội chủ
nghĩa[71] không còn là một hệ thống thế giới thống nhất (Trung Quốc
và Mỹ đi với nhau từ 1972), ngay lập tức nước ta phải đối phó với
(a)
những kẻ ta
đã đánh bại nhưng không chịu buông tha nước ta: Trung Quốc, Mỹ;
(b)
thân phận nước ta
không thể tránh được là nước “bên thứ ba” trong cuộc tranh chấp không dứt giữa
các cường quốc, giữa cộng sản và chống cộng sản, nhất là trên
địa bàn ĐNÁ thời đó - trong đó đặc biệt là 3 nước Đông Dương - là một điểm
nóng;
(c)
những nhiệm vụ vô cùng nan giải nhằm khắc phục những hậu quả sâu sắc của sự
tương tàn Bắc – Nam và phục hồi đất nước sau những thập kỷ chiến tranh tàn
khốc.
Song sự lựa
chọn của lãnh đạo lại là thừa thắng xông lên, tiến thẳng lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội: “tiến lên chủ nghĩa xã hội là xu thế tất yếu của thời đại”, “sự lựa
chọn đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của dân tộc Việt Nam”, “độc lập dân
tộc gắn với chủ nghĩa xã hội” ??? Vân vân…[72]?
Lịch sử không
làm lại được, nhưng có lẽ lịch sử có thể giúp ta suy luận: Để giải quyết 3
thách thức (a, b, c) nói trên sau khi ra khỏi chiến tranh, Việt Nam lẽ ra phải
vận dụng những kinh nghiệm sống còn đã làm nên thắng lợi của kháng chiến chống
Mỹ; đó là (1)phát huy sức mạnh dân tộc, và (2) tranh thủ sự hậu thuẫn của cả
thế giới tiến bộ.
Song
làm sao phát huy sức mạnh dân tộc, nếu không thực hiện được hòa giải dân tộc
ngay sau khi chiến tranh kết thúc?
Sự thật là
ngay sau 30 Tháng Tư, với tính cách là người chiến thắng, ĐCSVN là người duy
nhất có cơ hội và có đủ quyền lực trong tay thực hiện thắng lợi nhiệm vụ khó
khăn và vô cùng nhạy cảm này: Hòa giải dân tộc.
Nhưng tư duy ý
thức hệ dứt khoát không chịu nhìn nhận trong 7 cuộc chiến tranh của kháng chiến
chống Mỹ mà đất nước lâm vào có cuộc nội chiến. Cho đến ngày hôm nay vẫn
vậy.
Do đó đã không
đặt ra vấn đề hòa giải dân tộc. Hệ quả là (1)vết thương nội chiến cho đến hôm
nay vẫn bị bỏ qua không được hàn gắn, chẳng những thế mà còn để xảy thêm những
chết chóc, tổn thất mới đau lòng (các vấn đề “nạn kiều”, “thuyền nhân”, cải tạo
tư sản…) và bao nhiêu tổn thất khác; (2) nội hàm đích thực của phát huy sức
mạnh dân tộc là áp đặt duy ý chí tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Thực trạng đã
xảy ra sau 30-04-1975 là: Trong khi vết thương nội chiến cũ còn nguyên vẹn, đất
nước phải chịu đựng thêm những thất bại nghiêm trọng về mọi mặt kinh tế, chính
trị, xã hội, đối ngoại… của duy ý chí “độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội”. Do đó cho đến hôm nay, vẫn không thể phát huy sức mạnh dân tộc
với đúng nghĩa, đất nước bị làm yếu đi nghiêm trọng giữa lúc phải đối phó với
không biết bao nhiêu thách thức ngổn ngang.
Nói ra hay
không nói ra, không đặt ra vấn đề hòa giải dân tộc một cách thực tâm, trên thực
tế và trong thâm tâm có nghĩa ĐCSVN tiếp tục coi phía bên kia chiến tuyến cũ
vẫn là thù địch. Càng để lâu, vết thương dân tộc này càng khó khắc phục. Ngày
nay, trong tình trạng tha hóa trầm trọng của chế độ chính trị, vết thương này
tự nó sâu sắc thêm, hoặc tâm lý hận thù cũ đang cố ý làm cho vết thương này sâu
sắc thêm!.. Tất nhiên, chỉ có đất nước phải gánh chịu mọi hậu quả mới
tiếp theo. Điều vô cùng phi lý: Tại sao ĐCSVN đã thực hiện khép lại quá khứ với
Mỹ, mà lại không khép lại quá khứ với một nửa khác của chính mình bên kia chiến
tuyến thời chiến tranh?
Song
quan trọng hơn thế, chừng nào ĐCSVN hôm nay chưa thực tâm
khắc phục vết thương dân tộc này, chừng nào còn xem nhẹ vấn đề hòa giải dân tộc
mãi mãi, thực tế này phải chăng chỉ càng cho thấy: ĐCSVN của hôm nay
không muốn giương cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ chấn hưng đất nước, đơn giản
vì ĐCSVN hôm nay không có bản chất này và do đó cũng không
có năng lực làm việc này. Đơn giản là ĐCSVN hôm nay không
coi đó là mục tiêu cách mạng của mình. Có phải như vậy không? Nếu đúng như thế
thì nguy hiểm quá. Từng đảng viên trong ĐCSVN phải xem lại sự biến chất này so
với khi ĐCSVN làm Cách mạng Tháng Tám và tiến hành các cuộc kháng chiến.
Kháng chiến
chống Mỹ thắng lợi, ngoài sức mạnh kiên cường của dân tộc, còn có nguyên nhân
quan trọng không thể thiếu: Sự ủng hộ của toàn thể loài người tiến bộ. Nhân dân
ta đã nhận được sự giúp đỡ anh em của các nước xã hội chủ nghĩa hồi ấy; nhân
dân ta còn được các lực lượng yêu chuộng hòa bình và công lý khắp thế giới và
ngay cả trên nước Mỹ cổ vũ, hậu thuẫn, được phong trào phản chiến của những lực
lượng này tiếp sức.
Xin nói ngay,
sự cổ vũ, hậu thuẫn của phong trào phản chiến nói trên là dành cho những giá
trị của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam mà những lực lượng tiến
bộ này của thế giới chia sẻ. Xin đừng ngộ nhận đấy là sự ủng hộ Việt Nam lựa
chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội – mặc dù những lực lượng tiến bộ này
của thế giới biết rất rõ cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Việt Nam do ĐCSVN lãnh
đạo. Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh này còn có nguyên nhân là thế giới tiến
bộ không chấp nhận một siêu cường đem vũ lực của mình bóp chết ý chí của một
dân tộc đấu tranh giành độc lập tự do – đó là Việt Nam.
Có thể kết
luận: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chứng minh hùng hồn: Để bảo vệ mình,
Việt Nam phải đi với cả thế giới, phải đứng trong hàng ngũ tiến bộ của nhân dân
thế giới. Cuộc kháng chiến này còn là sự đóng góp trực tiếp của Việt Nam vào
hòa bình và các giá trị tiến bộ của thế giới, đó cũng là sự dấn
thân trực tiếp của Việt Nam trong trào lưu tiến bộ của nhân loại. Thực
tế này đã góp phần trực tiếp làm nên sức mạnh bất khả kháng của Việt Nam.
Trong thời
bình bảo vệ tổ quốc lại càng phải làm như vậy. Nhưng trong thời bình, ĐCSVN đã
không làm như vậy.
Nhìn lại thời
hậu chiến, nước ta làm không tốt (1)nhiệm vụ phát huy sức mạnh toàn dân tộc và
(2) nhiệm vụ phát huy sức mạnh cùng đi với cả thế giới tiến bộ ngang tầm với
những thách thức và cơ hội đặt ra. Vì 2 khuyết điểm này, nên đã vấp phải nhiều
thất bại nghiêm trọng về đối nội cũng như đối ngoại. Đất nước bị suy yếu và uy
hiếp nhiều mặt.
Những sai lầm
này đã được Khmer đỏ khai thác triệt để cho cuộc chiến tranh chống Việt Nam.
Những sai lầm này tạo thêm thuận lợi cho Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc
Việt Nam tháng 2 – 1979, vào hùa với Mỹ cô lập và bao vây cấm vận chống Việt
Nam cả một thập kỷ sau chiến tranh. Những sai lầm nay làm cho quá trình hội
nhập quốc tế sau đó của nước ta diễn ra cực kỳ chật vật, quanh co, nhiều cơ hội
quan trọng bị bỏ lỡ[73].
Đấy là những
sai lầm rất nghiêm trọng trong nhiệm vụ bảo vệ đất nước ở thời kỳ này, để lại
nhiều hệ lụy cho hôm nay.
Có không ít ý
kiến biện hộ: …Những sai lầm như thế vấp phải trong thời hậu chiến là tất
yếu, là bất khả kháng trong bối cảnh quốc tế và khu vực lúc đó… Không thể
vỗ cánh bay qua bối cảnh lịch sử và đốt cháy giai đoạn trong tư duy…
Những
lập luận như thế không hoàn toàn vô lý, thậm chí có nhiều khía cạnh xác đáng.
Lịch sử cũng không thể làm lại được. Nhưng nếu muốn lịch sử là người thầy cho
hiện tại và cho tương lai, nhất thiết cần mổ xẻ tới căn nguyên mọi sự việc đã
xảy ra.
Riêng tôi xin
thưa: Suy cho cùng, điều đau lòng vẫn là tầm trí tuệ hạn hẹp và sự nhìn
nhận thiên lệch của tư duy ý thức hệ của lãnh đạo hồi ấy về thế giới bên ngoài
cũng như về lợi ích quốc gia, khiến cho đất nước rơi ngay vào chặng đường đau
khổ mới, ngay sau khi vừa ra khỏi chiến tranh. Có phải sự thật là như
vậy không? ĐCSVN nói riêng và là người Việt Nam nói chung có lẽ nên suy ngẫm về
quãng đường lịch sử không ít máu và nước mắt này. Tôi không dám cho mình cái
quyền giữ chân lý về mình, nhưng tôi thực sự nghĩ như thế, đinh ninh như thế.
Xin được chia sẻ để cùng tham khảo. Vì không nói ra cũng sẽ là có tội với đất
nước. Còn chuyện đúng / sai, để cho sự thật phân giải, để cho mọi người sẽ phân
giải.
Hơn nữa, nhìn
rõ thế giới, hiểu đúng lợi ích quốc gia của ta – điều này luôn luôn là vấn đề
nóng bỏng và có ý nghĩa mất / còn đối với hiện tại và của tương lai của đất
nước.
Có
thể kết luận: Sau kháng chiến, không phát huy
được sức mạnh dân tộc, không cùng đi được với thế giới như vậy, thế là sai lầm.
Đất nước yếu đi nghiêm trọng cả về thế và lực, nên đã phải trả giá đắt.
Đã 38 năm trôi qua. Nhưng hôm nay nhìn lại, trong lòng tôi canh cánh nỗi niềm:
Phải chăng một cơ hội lịch sử của dân tộc ngàn năm mới có một lần đã bị bỏ lỡ?
– ngàn năm với cả nghĩa đen của cụm từ này –[74].
…Giả định rằng
ngay sau 30-04-1975, ĐCSVN với tư cách là người chiến thắng (nói theo Huy Đức
là “bên thắng cuộc”) chủ trương hòa giải dân tộc, giương cao ngọn
cờ dân chủ, và với ý thức “không gì quý hơn độc lập tự do!”, nỗ lực dẫn dắt đất
nước phấn đấu đổi đời cả dân tộc, để trở thành một quốc gia của các giá trị mà
ĐCSVN đã từng ghi trên lá cờ của mình là “dân chủ, cộng hòa, độc lập, tự do,
hạnh phúc”, đã từng nói lên thành lời ý chí này trong Tuyên ngôn Độc lập
02-09-1945, đã từng thể hiện ý chí này thành pháp quyền trong Hiến pháp 1946…
Ôi, giả thử xây dựng nên một Việt Nam như thế và cùng đi như thế với cả thế
giới!.. Ôi, nếu từ ngày ấy đi theo con đường này, hôm nay nước ta sẽ là
gì và đang đứng ở đâu! ĐCSVN hôm nay sẽ là đảng gì, thế giới sẽ nhìn nhận Việt
Nam ra sao!?..
Tôi không trả
lời được những chữ “nếu” như vậy.
Nhưng trong
lòng tôi hôm nay vẫn dào dạt tâm trạng biết ơn những tình cảm tốt đẹp nhất nhân
loại tiến bộ hồi ấy đã từng dành cho tinh thần yêu độc lập tự do của dân tộc ta
trong kháng chiến chống Mỹ: “Việt Nam là lương tri của thời đại!”,
“Việt Nam trong trái tim tôi!...”
Vâng, lịch sử
không làm lại được. Nhưng nếu ngày nay học được từ lịch sử!
Vâng, sau 30
Tháng Tư Bẩy Nhăm cái giá dân tộc ta phải trả tiếp cho ý thức hệ và sự ngu dốt
thật đắt quá, đau quá!
Xin thưa lại
chuyện cũ. Trong lịch sử cận đại, Việt Nam khi đã hoàn toàn ổn định lại dưới
thời Gia Long, đất nước đã từng bỏ lỡ cơ hội để tìm một con đường như nước Nhật
hồi ấy (thời Minh Trị) đã tìm được. Có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân gốc
có thể là thế giới quan hồi ấy của đất nước là Khổng giáo và Nho giáo, thế giới
đối với Việt Nam hồi ấy hầu như chỉ là Trung Quốc. Nói nôm na: Với cái lõi nhân
văn này và tầm nhìn này của triều Nguyễn lúc thịnh, Việt nam không thể đi xa
hơn, không thể với tới xa hơn, hệ quả cuối cùng đối với số phận của đất nước
như chúng ta đã biết. Có gì đau đớn hơn cho một dân tộc khi bỏ lỡ cơ hội lịch
sử?[75]
Làm sao chúng
ta có thể chia sẻ với nhau bây giờ và với mọi thế hệ mai sau: Đừng bao
giờ để cho đất nước bỏ lỡ cơ hội lịch sử!..
Thế nhưng…
Vâng, thế nhưng…
…
(1)
Hiện nay và trong tương lai, làm thế nào để phát huy sức mạnh dân tộc?
(2)
Làm thế nào để nước ta có thể dấn thân cùng đi với cả thế giới?
Đấy vẫn là 2
câu hỏi lớn phía trước.
(1)Tư
duy ý thức hệ, (2) sự giác ngộ chưa đúng tầm lợi ích quốc gia và lợi ích dân
tộc, (3) sự hẫng hụt của trí tuệ và phẩm chất lãnh đạo đất nước, đấy vẫn là 3
rào cản chính đang tiếp tục cản trở lãnh đạo ĐCSVN đi đến những câu trả lời
đúng đắn phía trước phải có cho 2 câu hỏi sống còn nêu trên đối với đất nước
hôm nay.
Vâng, thế nhưng… Cái giá phải trả
cho bước ngoặt định mệnh
Chiến tranh
biên giới tháng 02 - 1979 của Trung Quốc chống Việt Nam lại đột nhiên rộ lên ác
liệt tháng 04 – 1984, khi hàng nghìn lính Trung Quốc ồ ạt tấn công chiếm địa
danh Núi Đất (tại xã Thanh Thuỷ,
huyện Yên Minh, tỉnh Hà Tuyên, nay là tỉnh Hà Giang.[76]). Nhưng hồi ấy nội tình Trung Quốc
vẫn tiếp tục đầy rẫy khó khăn. Tháng 5 – 1989 xảy ra vụ đàn áp đẫm máu Thiên An
Môn là hệ quả tất yếu. Trong khi đó Trung Quốc vẫn tiếp tục bắn phá trên biên
giới nước ta; tháng 3-1988 đánh chiếm thêm 7 đảo và
bãi đá của ta ở Trường Sa, tiếp tục gây sức ép với ta trong đàm phán
bình thường hóa quan hệ 2 nước và trong giải quyết vấn đề Campuchia, cùng với
Mỹ tiếp tục bao vây cô lập nước ta.
Trong khung
cảnh như vậy, các nước LXĐA sụp đổ (1989 -1991). Việt Nam chấp nhận yêu sách
của Trung Quốc, đến hội nghị Thành Đô (ngày 3 & 4 – 09/1990) để hoàn tất
việc bình thường hóa hai nước và việc giải quyết vấn đề Campuchia. Lãnh đạo
Việt Nam hồi ấy coi bước đi này là con đường bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và
bảo vệ đất nước. Bước đi này cột chặt nước ta vào Trung Quốc đến bây giờ
chưa gỡ ra được, với mọi hệ lụy tác động nghiêm trọng vào toàn bộ con đường
phát triển của đất nước và sự nghiệp bảo vệ tổ quốc hôm nay[77].
Nhìn thực
trạng quan hệ Việt – Trung mọi mặt hôm nay, nhìn vào thực trạng đất nước từ sau
30-04-1975, chưa bao giờ nước ta bị suy yếu và bị thách thức nghiêm trọng như
hiện tại. Tôi nghĩ rằng thực trạng này bắt đầu từ hội nghị Thành Đô. Tôi nghĩ,
đây là sai lầm đối ngoại lớn nhất mang tính chiến lược của lãnh đạo nước ta kể
từ sau 30-04-1975. Rất mong bước đi này được mổ xẻ cặn kẽ, để nhìn nhận hiện
tại và tiên liệu tương lai cho đất nước[78].
Lại phải nói,
lịch sử không làm lại được, nhưng phải chăng cho phép đặt ra những câu hỏi:
- Khi các
nước LXĐA sụp đổ, có hay không cơ hội cho Viêt Nam bứt ra khỏi mọi lệ thuộc vào
bất kỳ ai, để thực sự là nước độc lập tự chủ, đi với cả thế giới tiến bộ?
- Phải chăng
lợi ích quốc gia đã bị đẩy xuống dưới, để ưu tiên bảo toàn chế độ chính trị với
bất kỳ giá nào?
- Bình
thường hóa quan hệ và thiết lập quan hệ hữu nghị với Trung Quốc là tối cần
thiết. Song có thể đi với Trung Quốc để cùng nhau bảo vệ CNXH giữa lúc quan hệ
Việt – Trung có không biết bao nhiêu sự kiện nước ta bị phản bội và rất đẫm
máu?[79]
- Đi với
Trung Quốc như thế, hôm nay nước ta mạnh lên hay yếu đi?
- Phải chăng
nhận thức thế giới và lợi ích của đất nước qua lăng kính ý thức hệ, cùng với sự
tha hóa phẩm chất cách mạng, đã tất yếu dẫn tới bước đi định mệnh này?
- Nói rốt
ráo hơn nữa: Phải chăng đã là ĐCSVN thì chỉ có thể lựa chọn như vậy trong tình
huống các nước XHCN Đông Âu sụp đổ? – Vì tư duy ý thức hệ không có chỗ cho sự
lựa chọn khác, không muốn lựa chọn khác?[80]
- …
Vận mệnh quốc
gia đòi hỏi phải mất công sức tìm ra những câu trả lời chuẩn xác.
Muốn xây dựng
quan hệ láng giềng tốt và bền vững không thể thiếu với Trung Quốc, càng phải
rút kinh nghiêm những chặng đường đã qua để có bản lĩnh thực hiện đúng đắn mục
tiêu này.
Phải
chăng có thể kết luận:
Vì bất kể lý do gì – hoàn cảnh lịch sử và tình hình phát triển thấp của đất
nước, bối cảnh quốc tế bất khả kháng, sự trói buộc của ý thức hệ, sự hẫng hụt
của trí tuệ và phẩm chất trong nhận thức thế giới và trong giác ngộ giác ngộ
lợi ích quốc gia, sự tha hóa của đạo đức, vân vân… - suốt 38 năm qua, tất cả
những hệ lụy của những sai lầm và thất bại trong lĩnh vực đối nội cũng như đối
ngoại, tất cả những việc gì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đòi hỏi phải
thực hiện nhưng chưa làm được, đất nước đều phải trả giá.
*
Sau 38 năm kể
từ khi giành lại độc lập thống nhất, nói chuẩn xác hơn sau 28 năm đổi mới, Việt
Nam đã hoàn thành giai đoạn phát triển đầu tiên của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước trong thời bình. Đây là thành tựu rất to lớn của đất nước.
Một sự thật
khách quan là sau 30-04-1975 những công việc phải làm là những nhiệm vụ vô cùng
khó khăn của một nước chịu nhiều hậu quả của chiến tranh (với nghĩa là 7 cuộc
chiến tranh trong một cuộc chiến tranh) tàn phá nặng nề và kéo dài, lại phải
tiến hành trong những điều kiện đối ngoại rất khó khăn phức tạp.
Về
nhiều mặt, những nhiệm vụ phải hoàn thành trong thời kỳ này nhìn chung đều vượt
quá tầm với của bất kể đội ngũ lãnh đạo nào đất nước hồi ấy có thể có được. Bởi
vì đấy là những nhiệm vụ rất khó, chưa có tiền lệ. Những sai lầm và thất bại
nhất định đã vấp phải là điều không thể tránh khỏi. Không thể có bất kỳ một đội
ngũ lãnh đạo toàn năng nào, dù là được thượng đế ban cho nước ta, cứ được đặt
vào vị trí là có thể hoàn thành được những nhiệm vụ phải làm ấy. Đây cũng là
một thực tế khách quan.
Tuy nhiên,
điều đáng nói ở đây là bản chất của hệ thống chính trị, trước hết là đội ngũ
nòng cốt của nó là ĐCSVN, thiếu hẳn tố chất dân chủ và học hỏi trong thời bình,
do đó rơi vào tình trạng:
- Khi nhận thức ra
sai lầm, đã tiến hành được công cuộc đổi mới năm 1986, và đã xoay chuyển hẳn
được tình thế trong phát triển kinh tế, nhưng cũng chỉ trong lĩnh vực kinh tế
mà thôi, không thể đi tiếp sang cải cách chính trị mà sự nghiệp phát triển của
đất nước đòi hỏi.
- Trong quá trình
cầm quyền, vì thiếu tố chất của dân chủ và học hỏi, lại không có một hệ thống
chính trị dân chủ làm được các chức năng: cọ sát, sàng lọc, thải loại, quyền
phải được ràng buộc với trách nhiệm giải trình, thực hiện công khai minh
bạch.., nên hệ thống quyền lực của ĐCSVN tha hóa thành hệ thống quyền lực cai
trị - (nhóm Kiến nghị 72 gọi đấy là hệ thống quyền lực của chế độ toàn
trị). Trở thành một hệ thống chính trị như thế, trước hết là ĐCSVN trở
thành một đảng toàn trị, nắm trọn mọi quyền thế. Hệ quả dẫn tới: Sai lầm xảy ra
nối tiếp sai lầm, tha hóa ngày càng tha hóa, khiến cho đất nước vấp phải những
thất bại nặng nề, và hiện đang rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng[81].
Bản
tổng kết 38 năm qua của ĐCSVN phải chăng như sau:
- So với mục tiêu
chiến lược của ĐCSVN đã đề ra trong các cương lĩnh và trong các nghị quyết của
các kỳ Đại hội Đảng,
- so với nhiệm vụ
thực hiện dân chủ, độc lập, tự do, hạnh phúc cho đất nước
và cho nhân dân mà ĐCSVN đã cam kết,
- so với công sức
và nguồn lực đất nước đã bỏ ra,
- so với các cơ
hội to lớn đến với đất nước và so với mọi nguồn lực bên ngoài đất nước ta đã
tranh thủ được,
- so với những
thành quả lẽ ra đất nước phải giành được và triển vọng phải có cho giai đoạn
phát triển tiếp theo của đất nước,
- so với hệ thống
chính trị hiện hành có quá nhiều khuyết tật đang để lại nhiều hệ quả trầm trọng
cho đất nước và đang kìm hãm sự phát triển của đất nước,
- so với những cái
giá đất nước phải trả về đối nội và đối ngoại suốt 38 năm qua,
- rồi so mức phát
triển của nước ta với các nước có liên quan,
- so một bên là
tình trạng nguy hiểm hiện nay và những thách thức lớn phía trước đang đặt ra
cho đất nước và một bên là khả năng đối phó rất hạn chế của đất nước.., vân
vân…
so như thế, phải chăng có thể đi tới
nhận xét:
- Trong 38
năm hòa bình đầu tiên kể từ khi đất nước độc lập thống nhất, ĐCSVN đã vấp phải
nhiều thất bại rất nghiêm trọng; đất nước phải trả giá và hiện nay đang lâm vào
cuộc khủng hoảng sâu sắc và toàn diện.
- Bản thân
ĐCSVN ngày nay tha hóa thành đảng cai trị, qua đó đã đánh mất phẩm chất chiến
đấu cách mạng của mình.
- Nhân danh
thực hiện sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối, ĐCSVN 38 năm qua đã thiết lập nên
một chế độ toàn trị, nguồn gốc cơ bản của biết bao nhiêu quyết sách sai lầm và
tệ nạn quan liêu tham nhũng mà ngày nay đất nước đang phải gánh chịu mọi hậu
quả[82].
Có phải như
thế không?
Nếu đúng là
như vậy, ĐCSVN hôm nay chỉ còn lại là một lực lượng chính
trị lớn nhất nắm vận mệnh đất nước; lợi ích cai trị của nó và lợi ích
đất nước thường không phải là một, và thậm chí có những xung đột hoặc đối kháng
nghiêm trọng. Rất nên trao đổi thẳng thắn trong nội bộ ĐCSVN và với nhân dân,
để làm rõ thực trạng nguy hiểm này và cùng nhau khắc phục, thay đổi.
Có
phải ĐCSVN bây giờ chỉ còn lại là một lực lượng chính trị lớn nhất trong nước
hay không?
Câu hỏi này
quá nghiêm trọng, nhất thiết các đảng viên ĐCSVN phải tìm ra câu trả lời.
Vì lợi ích của
bản thân sự tồn tại ĐCSVN đã đành, nhưng quan trọng hơn thế là vì lợi ích của
hòa giải đoàn kết dân tộc đòi hỏi nhất thiết không để xảy ra xung đột hoặc thậm
chí đổ máu giữa một bên là lực lượng chính trị lớn nhất này (ĐCSVN) và một bên
là các lực lượng chính trị khác trong nhân dân sớm muộn đến lúc nào đó sẽ xuất
hiện.
Muốn tránh cho
đất nước ta đến một lúc nào đó sẽ có thể xảy ra cái gọi là “hậu chiến
tranh Iraq”, hoặc những cái gọi là “mùa xuân Ả-rập” đang
diễn ra rất đẫm máu.., thì ngay từ bây giờ phải mổ xẻ thực trạng này, để
ĐCSVN phải tự thay đổi chính mình và tranh thủ sự hậu thuẫn của nhân dân cho
cuộc đổi đời này của Đảng. Ngay từ bây giờ nhân dân cả nước cần thấy rõ
triển vọng nguy hiểm này, chủ động đòi ĐCSVN phải thay đổi.
Có không ít ý
kiến không phải là thiếu căn cứ: “Để cho chế độ này sụp đổ đi, rồi làm
lại từ đầu. Sự ngột ngạt hiện nay hết chịu nổi, hà hơi tiếp sức góp ý xây dựng
cho nó kéo dài làm gì!.. Hơn nữa quyền lực ĐCSVN là không thể thay đổi được!”[83]
Thế nhưng…:
Sau 4 cuộc chiến tranh liên tiếp mà 3 thế hệ của đất nước phải gánh chịu, bây
giờ Việt Nam có nên chấp nhận một kịch bản như nêu trên không? đấy có phải là
kịch bản tối ưu không? Cũng xin đừng quên cảnh đục nước béo cò đã nhiều lần dầy
vò nước ta suốt 7 thập kỷ vừa qua, chắc gì không tái diễn? Xin trí tuệ cả nước
– kể cả trong ĐCSVN – hãy tỉnh táo cân nhắc. Thậm chí: Đây có phải là kịch bản
duy nhất như một định mệnh của đất nước hay không?.. …
Trước sau,
riêng tôi chỉ lựa chọn con đường hòa giải dân tộc. Chỉ đi con đường này, còn
nước còn tát.
Nếu như ĐCSVN
vẫn còn tự coi mình là một đảng cách mạng, cam kết chỉ có lý tưởng duy nhất là
phục vụ đất nước, nếu ĐCSVN không muốn phản bội truyền thống chiến đấu hy sinh
vì nước của biết bao nhiêu thế hệ đi trước của đảng mình và của dân tộc mình,
thì ĐCSVN nên mổ xẻ thực trạng hiện nay của mình để tự kết luận.
ĐCSVN hiện nay
còn đủ thời giờ và các điều kiện cần thiết cho một cuộc mổ xẻ như thế để tự
thay đổi, và hoàn toàn có thể thay đổi được. Trong lịch sử đã từng không dưới
một lần ĐCSVN đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích của đảng một khi tình hình
đòi phải làm như vậy. Trong hàng ngũ đảng viên yêu nước hiện nay không thiếu
trí tuệ và tâm huyết cho sự thay đổi này. Khi còn sống, Võ Văn Kiệt là một
trong nhưng tấm gương như thế dấn thân cho thay đổi ĐCSVN trở thành đảng của
dân tộc[84].
Quả thực, sựa
lựa chọn đặt ra cho ĐCSVN hôm nay rất khắc nghiệt: Hoặc là bảo tồn mình như là
một lực lượng chính trị lớn nhất đang cai trị đất nước – và như thế, đến một
lúc nào đó đối kháng giữa cai trị và bị cai trị là điều khó tránh khỏi. Hoặc là
phải thay đổi tất cả để phấn đấu trở thành lực lượng lãnh đạo mạnh nhất trong
nước – với tính cách là một đảng của dân tộc!?
Song cũng phải
nói lên một sự thật khác: Cho đến nay chưa có một đảng cộng sản đã cầm quyền
nào ở các nước XHCN LXĐÂ trước đây có khả năng thay đổi đến lột xác như thế,
các đảng này chỉ có chung một số phận là bị lịch sử gạt bỏ thô bạo hay lặng lẽ.
ĐCSVN có bề
dày mấy thế hệ kháng chiến cứu nước, liệu có thể là một ngoại lệ được không?
Liệu ĐCSVN có thể đặt lợi ích quốc gia lên trên hết để tự thay đổi mình được
không? Có nên thay đổi như thế không?..
Phải tìm đường
trả lời những câu hỏi này. Vì đấy là con đường đỡ xương máu và mồ hôi nước mắt
cho đất nước, đồng thời tránh cho ĐCSVN cuối cùng sẽ đi vào lịch sử với tính
cách là kẻ đối kháng lại lợi ích dân tộc. Thực ra, đây là sự thay đổi để trở
lại cái bản chất gốc, bản chất ban đầu là chủ nghĩa yêu nước của những người
cộng sản Việt Nam đã từng làm nên Cách mạng Tháng Tám và tinh thần tiên phong
hy sinh chiến đấu suốt mấy thế hệ trong kháng chiến cứu nước. Sự thay đổi này
chính là sự giải phóng của bản thân những đảng viên ĐCSVN hôm nay khỏi sự nô
dịch của ý thức hệ ăn đong và vay mượn từ bên ngoài. Ý thức hệ này đâu có phải
là sản phẩm tinh thần của dân tộc mình và của văn minh nhân loại[85]!
Nghe có vẻ kỳ
quặc, sự thật là đã đến lúc các đảng viên ĐCSVN hôm nay hơn bao
giờ hết phải đấu tranh giải phóng chính mình, để trở thành con người tự do! Nói
cay nghiệt hơn: Đã đến lúc những đảng viên ĐCSVN hôm nay cần vứt
bỏ cái lý tưởng nhân danh ý thức hệ mà trên thực tế nó hầu như chỉ còn là cái
bình phong che đậy sự sa ngã của tha hóa và phi đạo đức.
Nhiều cá nhân
đảng viên yêu nước ở các nước XHCN LXĐÂ cũ đã thực hiện được sự thay đổi như
vậy. Nhiều đảng viên có phẩm chất và năng lực sau này vẫn được nhân dân trao
cho những trọng trách trong chế độ dân chủ ở các quốc gia này. Vậy rất
nên đưa vấn đề lựa chọn sống còn này ra cho các đảng viên ĐCSVN thảo luận dân
chủ, công khai và thẳng thắn trong nội bộ để quyết định.
Chưa bao giờ ý
chí độc lập - tự chủ, chưa bao giờ tinh thần “Không có gì
quý hơn độc lập tự do!” của đất nước bị xâm phạm, bị sa sút như ngày
nay. Sau 38 năm độc lập thống nhất, hiện nay đất nước ta đang ở thời kỳ
bên trong thì lòng dân vô cùng bức xúc; trong khi đó sự uy hiếp và thách thức
từ bên ngoài đối với đất nước vô cùng nguy hiểm. Cả nước nhất thiết phải cùng
nhau nhìn nhận lại tất cả . Phải cùng nhau nhìn nhận lại tất cả!
– xin được phép nhấn mạnh như vậy, vì đất nước này không phải là của riêng ai,
mà là của tất cả mỗi người Việt Nam chúng ta!
Bàn thêm về ASEAN
Các phần trình
bầy trên đã nêu lên những thách thức đối với nước ta. Tại đây xin nêu thêm một
số ý kiến về thách thức đối với Việt Nam có liên quan đến ASEAN.
ASEAN là một tập hợp do đòi hỏi của cuộc sống tự thân các nước ASEAN, nhưng tập
hợp ASEAN vẫn còn đứng xa cái đích đã tạo ra nó: trở thành một hợp tác
khu vực mang lại phát triển phồn vinh, hạnh phúc cho các quốc gia thành viên,
bảo vệ và phát huy được vị thế quốc tế phải có của ASEAN.
Trở ngại lớn nhất cho việc thực hiện cái đích của ASEAN là (1)sự phát triển
không đồng đều và (2) một số khác biệt / mâu thuẫn giữa các quốc gia thành viên
do lịch sử (bao gồm cả những yếu tố văn hóa) và do hoàn cảnh địa kinh tế và địa
chính trị của mỗi quốc gia thành viên tạo nên. Thực tế này là mảnh đất mầu mỡ
cho mọi ý đồ can thiệp, lũng đoạn của bên ngoài[86].
Điều may mắn
là những thách thức, đòi hỏi của phát triển tự thân các nước thành viên, cũng
như đòi hỏi và sức ép đến từ bên ngoài khu vực, đang thúc đẩy ngày càng mạnh mẽ
hợp tác của tập hợp ASEAN. Những nỗ lực nhằm hoàn tất việc xây dựng Cộng đồng
Kinh tế ASEAN (CEA) vào năm 2015 phản ánh sự đang trưởng thành này. CEA được
xây dựng trên 3 trụ cột là an ninh chính trị, kinh tế, và
văn hóa xã hội; đấy sẽ là một dạng tập hợp tương tự như Liên minh Châu
Âu (EU), song ở mức thấp hơn và có những khác biệt nhất định.
Thách thức lớn
nhất đến từ ASEAN đặt ra cho Việt Nam là chính Việt Nam: Làm gì? và làm
thế nào? để thực hiện được vai trò và nghĩa vụ của chính nước ta mà sự thành
công của ASEAN đòi hỏi, mong đợi.
Muốn hay không
muốn, nói ra hay không nói ra, vụ lợi hay không vụ lợi, có sự mong đợi từ ASEAN
về một lá chắn Việt Nam đối với áp lực Trung Quốc. Cũng như vậy,
Việt Nam cần một hẫu thuẫn trực tiếp từ ASEAN chống lưng cho mình trong đối phó
với sóng bão Trung Quốc.
Thực trạng
hiện nay là:
(1) sự mong đợi từ ASEAN
nước ta đáp ứng chưa tốt – trước hết vì sự đóng góp của Việt Nam vào phát triển
và hợp tác của ASEAN còn rất khiêm tốn, Việt Nam vẫn đang thiếu một đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ và dấn thân, Việt Nam chưa có một nền tảng đối nội cho
một đường lối đối ngoại mà vị thế của Việt Nam ngày nay đòi hỏi; (theo
tôi, không thể đổ lỗi tình trạng này cho sức mạnh kinh tế còn khiêm tốn của
mình);
(2) sự hậu thuẫn chống
lưng cho Việt Nam đang có những lỗ thủng đáng lo ngại – chủ yếu
do ảnh hưởng và sự can thiệp của quyền lực mềm Trung Quốc (trước hết vào
Campuchia, Lào, Thái Lan…, chính sách bẻ từng que đũa của bó đũa…)
và phần nào do bản thân sự phát triển của chính các nước thành viên ASEAN còn
những hạn chế nhất định[87].
Nước ta đang
đứng trước một thực tế rất nhạy cảm: Hoặc là Việt Nam thực hiện được vai trò và
nghĩa vụ mà ASEAN mong đợi; trong trường hợp này ASEAN mạnh lên và Việt Nam
cũng nhận được từ ASEAN và cộng đồng quốc tế điều mình mong đợi. Hoặc là trường
hợp Việt Nam bất lực, thậm chí giả sử Việt Nam đi ngược lại mong đợi của ASEAN
(ví dụ: giả thiết rằng Việt Nam và Trung Quốc “đi đêm” với nhau trong đàm phán
song phương Việt – Trung…), Việt Nam sẽ rơi vào một thế bị cô lập nguy hiểm -
không phải chỉ trong phạm vi ASEAN, mà còn trong phạm vi quốc tế[88].
Xin hình dung
trước mắt ta là tấm bản đồ: Phía Bắc là Trung Quốc, phía Đông và Nam là sự uy
hiếp của Trung Quốc trên Biển Đông, phía Tây là các “điểm ASEAN” đã bị Trung
Quốc chọc thủng… Không thể nhắm mắt trước một tấm bản đồ như vậy.
Hễ là người
Việt Nam thì cần nhìn thẳng vào tấm bản đồ này và lựa chọn quyết định phải lựa
chọn.
Trên thế giới
ngày nay không còn liên minh ý thức hệ (ví dụ như sự ra đời và tồn tại “phe”
XHCN trước đây), song lại có đòi hỏi bức thiết về liên minh của lợi ích cùng
chiều, liên minh của các giá trị và của sự phát triển,. Điều này có nghĩa Việt
Nam chỉ có thể có được một ASEAN như mình mong đợi, nếu Việt Nam tự phát triển
và tự dấn thân mạnh mẽ.
Tự phát triển
và tự dấn thân như vậy, thực sự là thách thức khó nhất, lớn nhất đặt ra cho
Việt Nam hiện nay. Sẽ là vô ích và nguy hiểm, nếu ta chỉ một chiều trách cứ bạn
bè thế nọ, thế kia… Đơn giản vì không thể có chuyện “mủi lòng thương cảm”, “sự
thông cảm…” từ phía bạn bè khi bàn những vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia.
Thách thức do sự hội tụ của mọi
thách thức
(1) Sự tha hóa và bất cập của hệ thống chính trị trước đòi
hỏi nóng bỏng phải chuyển đất nước ta bước sang một giai đoạn phát triển mới,
(2) con rồng Trung Quốc đã bắt đầu nhe nanh vuốt của
nó,
(3) trục xoay của Mỹ hướng về CA-TBD,
(4) sự tự khẳng định ngày càng tăng của các cường quốc khu
vực hướng vào khu vực CA-TBD,
(5) kinh tế thế giới đi vào một thời kỳ phát triển mới đang
thay đổi sâu sắc sự vận hành hiện nay của quá trình toàn cầu hóa – một
phần việc cụ thể có liên quan của quá trình này là Việt Nam thực hiện các bước
đi tham gia vào TPP và phải cùng với các thành viên ASEAN hoàn thành xây dựng
cộng đồng CEA;
đấy là 5 thách thức đang đặt ra trực
tiếp cho nước ta hiện nay và trong những thập kỷ tới.
(Còn thách thức thứ 6 là nguy cơ ASEAN bị phân hóa, song nguy cơ này còn tùy
thuộc rất nhiều vào sự hiệp đồng giữa các thành viên ASEAN, cũng có nghĩa là
tùy thuộc rất nhiều vào vai trò dấn thân của Việt Nam trong cộng đồng ASEAN; vì
thế không muốn liệt kê vào đây).
Điểm nổi bật là cả 5 thách thức nói trên cũng hội tụ vào thời điểm hiện
tại, mọi mối quan hệ qua lại của chúng cùng tác động đồng thời vào nước ta, tạo
ảnh hưởng chi phối sự phát triển của nước ta trong những thập kỷ trước mắt.
Sự hội tụ này có nghĩa:
a. làm gia tăng tính triệt để của
các thách thức,
b. mọi giải pháp cho bất kỳ thách thức nào
phải đồng bộ và liên quan hữu cơ đến những giải pháp cho các thách thức còn
lại,
c. không làm chủ được thách thức này
hàm nghĩa sẽ thất bại hay khó tránh thất bại trước những thách thức khác,
d. các giải pháp cho từng thách thức có
thể hỗ trợ lẫn nhau, nhất thiết phải được thiết kế theo cách tạo ra sự hỗ trợ
lẫn nhau, các giải pháp đòi hỏi phải có tầm nhìn, trí tuệ, ý chí và sự đồng
thuận phù hợp trong toàn dân tộc;
e. trong tất cả mối quan hệ qua lại
hữu cơ giữa các thách thức, làm chủ và giải quyết thành công thách thức số 1
luôn luôn là khởi sự và là chìa khóa cho giải quyết thành công 4 thách thức còn
lại.
Để giải quyết cả 5 thách thức (1 – 5) với những đặc tính nêu trên (a – e), Việt
Nam đứng trước đòi hỏi sống còn phải tiến hành thành công một cuộc cải cách
triệt để hệ thống chính trị để trở thành một Việt Nam có bản lĩnh. Đây là chìa
khóa giải quyết mọi vấn đề, mở ra cho đất nước một giai đoạn phát triển mới bắt
buộc phải vươn tới.
Sự
thật là, dù nhìn từ bất kể phương diện nào – đối nội hoặc đối ngoại, kinh tế
hoặc chính trị hay quân sự, hoặc trên các phương diện văn hóa, xã hội.., - tình
hình bắt buộc nước ta phải tiến hành một cuộc cải cách chính trị vỹ đại, để trở
thành một quốc gia có bản lĩnh đứng vững vàng trong khu vực ngày càng trở nên
nóng bỏng này…
Cuộc cải cách chính trị này phải nhằm vào cái đích:
- Phát huy được
sức mạnh dân tộc, bắt đầu từ xây dựng một thể chế chính trị dân chủ pháp quyền,
thực hiện quyền con người, giải phóng tự do cá nhân, từ đó làm nên sức mạnh vật
chất và tinh thần của đất nước.
- Bằng đường lối
ngoại giao dấn thân tạo ra khả năng lan tỏa ảnh hưởng của Việt Nam cho một sự
tập hợp lực lượng trên thế giới hậu thuẫn sư nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước.
Không thể nói
khác, đấy phải là cuộc cải cách dưới ngọn cờ dân tộc và dân chủ với tầm trí tuệ
và ý chí của văn minh nhân loại ngày nay.
Như vậy, hy
vọng đã trình bầy rõ điểm xuất phát là thực trạng của đất nước hôm nay,
cũng như cái đích phải đi tới của cuộc cải cách chính trị phía trước.
Nghĩa
là từng người Việt Nam phải cùng nhau thay đổi, cùng nhau trưởng thành lên
ngang tầm đòi hỏi của đất nước, chứ không phải chỉ có riêng những người đảng
viên ĐCSVN.
Câu chuyện còn
lại là từ thực trạng đất nước hôm nay lựa chọn con đường nào?
và với lộ trình nào? để đi tới cái đích phải đến nói trên.
Con đường lý
tưởng của cải cách là con đường của công khai minh bạch, của thông tin, học
hỏi, dân chủ, là con đường của thiện chí xây dựng, của phát triển, là con đường
của đồng thuận xã hội ở mức cao nhất, là con đường cùng nhau thiết kế, cùng
nhau khai phá, tiến hành.., là con đường được dẫn dắt bởi trí tuệ và các giá
trị thuộc về các quyền tự do dân chủ của nhân dân… Quyết khép lại quá khứ, để
làm bằng được như vậy. Quyết không phản bội bất kỳ hy sinh nào đã ngã xuống vì
nước, không bỏ qua bất kỳ mất mát nào đất nước đã phải trả giá để có được hôm
nay. Phải chắt chiu từng đồng tiền bát gạo đã dành dụm được, để vắt óc xây đắp
lên những thành quả mới của đất nước trên con đường cải cách… Đó
chính là con đường vận động dân chủ và trí tuệ từ dưới lên, vừa đặt ra đòi hỏi
mạnh mẽ bất khả kháng của nhân dân và đồng thời vừa tạo thuận lợi cho việc tiến
hành cải cách thể chế chính trị từ trên xuống trong hòa bình, hiểu biết, hòa
giải, đồng thuận và đoàn kết dân tộc.
So với các
nước LXĐÂ cũ, so với Myanmar hiện nay, có thể nói nước ta ngày nay hội đủ mọi
điều kiện trong, ngoài tạo ra một khung khổ mang tính chất cam kết của
đồng thuận xã hội, được nuôi dưỡng bằng ý chí của dân tộc, để tiến hành một
cuộc cải cách bằng trí tuệ và hòa giải, không hồi tố, không đổ máu, không tiếng
súng, đảm bảo kinh tế tiếp tục phát triển trong cải cách. Tất cả
với mục đích duy nhất là vì Tổ quốc Việt Nam yêu quý của chúng ta, vì cuộc sống
đáng sống của người dân Việt ta – đúng với tinh thần: dân chủ, độc lập,
tự do, hạnh phúc.
Cải cách dứt
khoát không chấp nhận con đường bạo lực, và không thể thành công bằng con đường
này.
Có 2 luồng ý
kiến chính:
- Trong tình hình
đối nội, đối ngoại đều nóng bỏng đối với nước ta như hiện nay, cải cách sao
tránh khỏi dẫn đến một Ai-cập ở Việt Nam. Làm như thế để mà chết à?
- Trong tình hình nước
sôi lửa bỏng như hiện nay, cải cách là lối ra, là con đường sống.
Xin cứ nêu lên
như thế để cùng bàn luận.
Người viết bài
này xin lạm bàn:
Qua việc bàn
luận sửa đổi Hiến pháp 1992, tình hình cho thấy luồng ý kiến thứ nhất rất rôm
rả trong tranh luận bằng “độc thoại” trên nhiều báo chí chính thống (lề phải)
và trong không ít phát ngôn quan trọng. Luồng ý kiến này nhấn mạnh: Ưu tiên số
một là giữ ổn định chính trị, tình trạng yếu kém khó khăn của đất nước có thể
được cứu chữa bằng đẩy mạnh tự phê bình và phê bình (tham khảo các ý kiến của
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại các Hội nghị Trung ương 4, 5, 6; tham khảo các
ý kiến của Hoàng Chí Bảo trong tranh luận kiểu độc thoại trên báo QĐND
25-08-2013 với Lê Hiếu Đằng). Thiết nghĩ, cách tiếp cận này là lựa chọn sự nhắm
mắt để dễ bề chấp nhận cái chết lâm sàng, trước khi đi tới cái chết hẳn dù dưới
dạng nào.
Luồng ý kiến
thứ hai nêu ra nhiều kiến nghị cụ thể về sửa đổi Hiến pháp. Tiếc rằng chỉ được
đăng tải trên “lề trái”. Rất nên phổ biến công khai các ý kiến của
luồng này trên mọi phương tiện thông tin đại chúng của lề phải, để công luận cả
nước cùng thảo luận. Tại đây chỉ muốn đặt câu hỏi: Nếu người cầm quyền tin rằng
mình có chính nghĩa thì có gì phải tránh né thảo luận công khai minh bạch trong
cả nước để tìm ra chân lý?
“Đi với Trung Quốc giữ được chế độ
nhưng mất nước? Đi với Mỹ giữ được nước nhưng mất chế độ và mất Đảng?…”
Đấy là suy nghĩ nói lên thành lời của không ít vị lão thành trăn trở về vận
mệnh đất nước hiện nay.
Người viết bài này xin có lời bình: “Đi” như thế, e rằng trước sau rồi sẽ
mất tất cả, để rồi sẽ phải làm lại từ đầu tất cả.
Bởi vì đi như
thế với ai đi nữa, thân phận của đất nước ta vẫn là thân phận của nước bên
thứ ba (the third player, the third party) như đã nói tới ở các phần
trên. Gần 7 thập kỷ vừa qua nước ta đã không dưới một lần rơi vào cái thân phận
nước bên thứ ba.., không dưới một lần bị thí, bị phản bội, bị
cướp, bị móc túi.., và cuối cùng nước ta đang có chỗ đứng đầy âu lo như hôm nay
trên bàn cờ thế giới.
Lịch sử ngoại
giao nước ta 7 thập kỷ vừa qua còn cho thấy, đi với bên nào thì trước sau vẫn
rơi vào nguy cơ thường trực: Đi với một bên, chống một bên, với kết
cục không bao giờ tốt đẹp.
Trong nước và
trên thế giới có nhiều nhận xét xác đáng: Việt Nam đang thực hiện đường lối
ngoại giao “leo dây”. Qua đó, cái yên thân Việt Nam giành được
chỉ là cái yên thân luôn luôn chung chiêng, chao đảo trên dây. Cái ý chí không
gì quý hơn độc lập tự do giành được qua sự yên thân này là cái tự do có
khung trời hẹp bằng sợi dây ta đang đi trên nó. Cái dây ấy có thể bị giựt, bị
đứt bất kỳ lúc nào. Khung trời tự do này cắt nghĩa sự lệ thuộc và phụ thuộc
nguy hiểm đất nước đang mang trên mình như đã trình bầy trong các phần trên của
bài này.
Còn
phải tính toán thêm một yếu tố mới:
Trong mọi bước đi cố phục hồi lại vị thế quốc tế đã từng có thời Xô-viết và
trước nữa, Nga đang tiến hành nhiều hoạt động gia tăng sự có mặt của mình ở
phía Đông. Thực tế này làm cho yếu tố Nga ngày càng đặm
nét hơn tại khu vực biển Hoa Đông (liên quan đến đảo Kurin, đến Nhật) và trên
biển Đông (bao gồm cả những nỗ lực muốn trở lại Cam Ranh). (Hiện nay trong vấn
đề Syrie cũng vậy).
Hiện tượng mới
này có thể đặt Việt Nam trước 2 tình huống:
(1)có thể khai
thác yếu tố Nga để giảm bớt sự căng thẳng cho ta trong việc giữ cân bằng giữa
hai đối trọng Mỹ - Trung? và
(2) phải chăng
việc ta thực hiện cân bằng giữa 2 đối trọng Mỹ - Trung sẽ có thêm những khó
khăn mới, nếu Nga cùng đi với Trung Quốc như đang làm trong vấn đề Syrie?
(Chú ý: Kịch
bản Nga đi với Mỹ trong chiến lược “trục xoay” của Mỹ hoàn toàn loại trừ trong
bối cảnh quốc tế hiện nay).
Suy cho cùng,
cả 2 tình huống (1, 2) này chẳng lợi lộc gì cho nước ta. Hơn nữa, nước ta hầu
như không thể có ảnh hưởng gì trong trò chơi tay ba này,
kể cả trường hợp ta lựa chọn đối sách đi với một bên nào đó (dù là Nga). Cũng
không thể loại trừ trò chơi tay ba này mang đến cho nước
ta những vấn đề nhạy cảm và khó khăn mới. “Đi” với ai, trong trò chơi này, thân
phận nước bên thứ ba đối với nước ta vẫn là một ác mộng.
Có thể tình
huống 1 ở chừng mực nhất định có lợi cho Việt Nam – ví dụ như hiện nay Nga đang
là người bán cho Việt Nam nhiều vũ khí quan trọng, quan hệ với Việt Nam có một
bề dầy lịch sử được nhân dân cả hai bên trân trọng, vân vân… Song hiển nhiên
những mối quan hệ Việt - Nga có quá khứ tốt đẹp này làm sao có thể so sánh được
với tầm quan trọng của việc Nga đang muốn phục hồi vị thế cường quốc trước đây
của mình. Nếu hình thành một trục Nga – Trung trong những vấn đề ở Bắc Phi
(hiện nay đang manh nha trong vấn đề Syrie), liệu việc Việt Nam đi với Nga như
thế sẽ có những hệ lụy gì? Hiện nay Nga đã đồng ý bán những vũ khí tối tân cho
Trung Quốc như tên lửa S400, máy bay chiến đấu SU – 35… Vũ khí Nga bán cho Việt
Nam kém hiện đại hơn (vì ta ít tiền hay không cần đến?)
Trong tình
hình có một kịch bản Syrie ở Biển Đông (Nga đi với Trung Quốc),
giả thử Việt Nam lựa chọn đi với một bên kép là Nga - Trung Quốc
trong trò chơi tay ba này, hầu như chắc chắn Việt Nam đứng
trước một hiểm họa mới khôn lường (là tiền đồn, là khu đệm cho liên kết Nga –
Trung trong trò chơi tay ba đầy nguy hiểm này? V… v…). Chẳng lẽ bài học nóng
hổi “7 cuộc chiến tranh trong 1 cuộc chiến tranh” hôm qua không nói lên điều gì
với nước ta hôm nay?
Có một điều có
thể thấy trước: Mối quan hệ giữa các nước lớn càng rối rắm và nhạy cảm, chắc
chắn Nga sẽ càng bận bịu hơn nữa chăm lo đến vị thế quốc tế của mình. Và như
thế, quan hệ Nga – Việt sẽ chỉ còn nằm lại trong danh mục phụ lục của chính
sách đối ngoại Nga mà thôi.
Kịch bản Việt
Nam đi với Mỹ trong vấn đề Biển Đông nói riêng và trong vấn đề “chiến lược trục
xoay” nói chung – dù là có hay không có sự xuất hiện của Nga trong khu vực ĐNA
này – cũng không hứa hẹn điều gì tốt đẹp. Vì “đi” như thế, ta sẽ lĩnh đủ đạn từ
phía Trung Quốc, lại vẫn là rơi vào cái bẫy đi với một bên chống một bên.
Nếu có cả Nga tham gia vào trò chơi này, thì màn kịch sẽ càng rối rắm và không
bớt mùi máu trộn thuốc súng dành cho Việt Nam.
Kịch bản đi
với Trung Quốc?
Đi với Trung
Quốc như đã đi gần 70 năm qua? Đi với Trung Quốc như đã và đang đi từ Thành Đô
cho đến hôm nay? “Đi” như thế chắc là đủ lắm rồi! Trở thành tiền
đồn cho Trung Quốc thì nhân dân ta chắc chắn sẽ bác bỏ quyết liệt, và thế giới
cũng sẽ tảy chay. Bây giờ rất cần mối quan hệ láng giềng bình đẳng, tôn trọng
độc lập chủ quyền, tốt đẹp, tự trọng, bền vững đời đời với Trung Quốc, chứ
không phải sự mầu mè 4 tốt và 16 chữ...
Muốn được như
thế, phải chăng cái dĩ bất biến của Việt Nam là: Nhất thiết phải
có bản lĩnh không trở thành nước bên thứ ba trong bất kỳ loại
games nào của các ông lớn?
Kịch bản là
nước trung lập đứng ngoài cuộc chơi tay ba của Mỹ, Trung, Nga,
hoặc đứng ngoài cuộc chơi tay đôi (trong đó có một bên kép Nga -
Trung) không đặt ra cho Việt Nam. Đơn giản vì sẽ chẳng ai chịu để nước ta thoát
khỏi thân phận nước bên thứ ba. Nghĩa là ta có quỳ gối xin
được trung lập, chắc thiên hạ cũng không ban cho!
Tóm lại, “đi”
như nói trên với ai cũng không được!
Trung lập cũng
không được!
Nghĩa là không
còn ngả đường nào khác ngoài con đường nước ta đã lựa chọn nhưng chưa làm sao
dấn thân bước vào được, đó là: Chính ta cũng phải trở thành đối tác chiến
lược, đối tác toàn diện của các đối tác. Đơn giản là làm gì có chuyện bắt tay
nhau hay hân hoan vỗ tay bằng một bàn tay!
Xin nói huỵch
toẹt ra thế này:
Hiện nay có lẽ
Mỹ cũng chưa tin ta, mặc dù ta có vị trí và vị thế chiến lược quan trọng lắm.
Thế thì làm sao ta là đối tác hợp tác toàn diện được?.. Vậy ta làm sao thực
hiện được vỗ tay hay bắt tay nhau bằng hai bàn tay được – nghĩa là trong đó
phải có một bàn tay là của phía Việt Nam?
Hiện nay Trung
Quốc cũng ngờ vực ta. Trung Quốc thừa biết 4 tốt và 16 chữ là của rởm. Nhưng
nội bộ Trung Quốc đặt câu hỏi: Việt Nam chập chờn? Bắt cá hai tay? Lật lọng?
Việt Nam có bản lĩnh, hay khiếp nhược hay vật vờ?.. Báo chí Trung Quốc không
dưới một lần nói “Việt Nam ăn cháo đá bát!”… Nghĩa là Trung Quốc
không tin ta, coi thường ta, cũng chẳng sợ ta, cũng chẳng nể nang gì ta, có cơ
hội thì còn làm cho ta ê chề nữa…
Vậy có cách gì
làm cho cả Mỹ và Trung Quốc phải thay đổi cách suy nghĩ của họ về ta? Phải làm
thế nào cho họ hiểu: Có một Việt Nam khác – một Việt Nam tự nó, cho nó, vì nó
và vì lẽ phải, vì những giá trị toàn cầu… Đã đến lúc họ phải ứng xử đúng mực
với một Việt Nam bản lĩnh như thế!.. Nhưng hiện nay chúng ta chưa làm được như
thế.
Chúng ta cần
nhìn thẳng vào sự thật:
- Việt nam có một
vị trí chiến lược địa chính trị và địa kinh tế rất đặc biệt tại Đông Nam Á.
- Nhưng trong con
mắt của hầu hết những diễn viên chính tại sân khấu CA - TBD, Việt Nam mới chỉ
được coi là một vị thế công cụ quan trọng.
- Bây giờ Việt Nam
nhất thiết phải chủ đông chiếm được cho mình vị thế đối tác quan trọng
và được tôn trọng. Không có sự lựa chọn nào khác.
Vâng, để chiếm
được chỗ đứng là đối tác quan trọng trong chính sách đối ngoại của họ, nhất
thiết ta phải là một Việt Nam của phẩm giá – được đo bằng những giá trị của dân
tộc mình, những giá trị toàn cầu và được thể hiện thành hành động; mọi xảo ngôn
chẳng giúp được gì[89].
Một Việt Nam
biết tự trọng và muốn tạo ra lòng tin chiến lược (“diễn văn Shengri La”), nước
ta nhất thiết phải là như thế, phải làm được như thế.
Cùng nhau vỗ
tay hân hoan bạn bè, hay là bắt tay nhau hợp tác, đều phải có đủ hai bàn tay
như thế, trong đó Việt Nam phải là một bàn tay như thế.
Ta còn thua
kém các đối tác của ta về nhiều phương diện, nhưng vì thế địa kinh tế và địa
chính trị của nước ta cho phép ta tham gia và có những đóng góp vào các mối
quan hệ chung song phương / đa phương trong khu vực và toàn cầu đủ quan
trọng, để ta cũng được thừa nhận là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện.
Nhưng sự thật
là hiện nay nước ta đang thiếu trầm trọng bản lĩnh, phẩm chất và trí tuệ để dấn
thân trở thành một đối tác như thế, chứ không phải vì nước ta nghèo và lạc hậu.
Nói nghiêm khắc, nước ta vẫn chưa ra khỏi cái tâm lý đối phó, chập chờn, ỷ lại,
cầu xin, tâm lý mong được giúp, được chi viện![90]
Như
vậy hiển nhiên, cái dĩ bất biến là:
Phải trở thành một quốc gia có bản lĩnh, phẩm chất và trí tuệ - từ đó sẽ có
thực lực để dứt khoát không cam chịu thân phận nước bên thứ ba.
Nhưng làm sao Việt Nam trở thành một quốc gia như thế với chế độ chính trị toàn
trị hiện hành?[91] Xin mỗi người Việt Nam, trước hết là các đảng viên ĐCSVN,
hãy trả lời câu hỏi này.
Một
khía cạnh khác: Ngày nay,
trên ngôn từ, Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược, quan hệ đối
tác toàn diện với tất cả các diễn viên chính trên sân khấu thế
giới. Nhưng phải nói ngay, quan hệ thực chất của nước ta với tất cả
những đối tác quan trọng này, kể cả với Trung Quốc có “16 chữ và 4 tốt”..,
nước ta đều ở vị trí rất thấp trong chính sách đối ngoại của họ, đơn giản vì:
(1) về mọi phương diện thế và lực của nước ta đều yếu,
(2) đường lối đối ngoại chập chờn của ta vì phải đi
dây, nên khiến các đối tác quan trọng này của ta cũng đáp lại chập chờn theo
(vì không có chuyện “free lunch” ở đây),
(3) đi dây như thế không thể dấn thân được; điều này
có nghĩa mãi mãi cam chịu giữ vị trí thấp trong mọi vấn đề, trong mọi cuộc chơi
của các đối tác / đối thủ và của cả thế giới, chẳng bao giờ có thể bình
đẳng.
Một đường lối
ngoại giao phải gánh chịu 3 nhược điểm lớn như thế, chung cuộc làm suy yếu đất
nước, đặt đất nước trước nhiều hiểm họa.
Đến đây có thể
kết luận: Bằng mọi giá, nước ta phải là chính mình, để thiết lập được các mối
quan hệ đối ngoại mà sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước đòi hỏi. Đấy là: Bằng
ngọn cờ dân tộc và dân chủ phát huy sức mạnh dân tộc, đi với cả thế giới.
Việt Nam nhất
thiết phải đứng trên đôi chân của mình, quyết định những bước đi của mình, bởi
vì lợi ích của mình đòi hỏi như vậy, bởi vì hòa bình và xu thế tiến bộ trên thế
giới muốn có một Việt Nam như vậy. Đòi hỏi không thể thoái thác này xác
quyết: Việt Nam phải trở thành một quốc gia của dân chủ, độc lập, tự do, hạnh
phúc và hòa bình.
Xin hỏi: Có
con đường nào đổi đời đất nước, đổi đời mỗi công dân để xây dựng nên một Việt
Nam như thế, nếu không phải là con đường cải cách thể chế chính trị để tạo điều
kiện thay đổi tất cả? Xin mỗi người Việt chúng ta – dù là ai, chính kiến nào,
không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, đảng viên ĐCSVN hay không phải đảng viên
ĐCSVN, sống ở trong nước hay nước ngoài – với tất cả tình thần trách nhiệm “Nước
Việt Nam là của người Việt Nam!”[92], với tất cả tinh thần đoàn kết hòa hợp và hòa giải dân tộc,
hãy suy nghĩ về điều này.
Còn một sự
thật nữa: Nước ta có một vị thế rất quan trọng trong chính sách đối
ngoại của tất cả các đối tác quan trọng, lớn cũng như nhỏ, các nước thành viên
ASEAN…, nhìn theo phương diện tiêu cực, cũng như theo phương
diện tích cực.
Nhìn
theo phương diện tiêu cực:
Nếu thống soái được Việt Nam, sẽ làm được nhiều chuyện. Ví dụ, nếu biến được
Việt Nam thành một bàn đạp cho Trung Quốc tiến xuống phía Nam và ra Biển
Đông!..
Nêu lên như
vậy là để bàn cho hết nhẽ. Cứ cho là Trung Quốc rất muốn, nhưng có thể phương
án này trong thực tế sẽ không khả thi hay rất khó khả thi. Vì hầu như chắc chắn
nhân dân Việt Nam sẽ từ chối đến cùng một phương án như vậy, và chắc cũng sẽ
nhân dịp này quét sạch luôn mọi ảo tưởng, phản bội, hay đầu hàng ăn theo phương
án này.
Xin nhắc lại,
Trung Quốc trước đây đã đôi ba lần đề nghị với Mỹ phương án chia đôi
Thái Bình Dương. Cách đây ít lâu bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn
Toàn tuyên bố Thái Bình Dương đủ chỗ cho cả Trung Quốc và Mỹ… Bây giờ
xin lưu ý: Việt Nam có một vị trí chiến lược khá quan trọng, nên từ sau chiến
tranh thế giới II đến hôm nay không dưới một lần người ta đã bàn với
nhau các phương án “chia đôi” như thế dành cho Việt Nam.
Trong tiếp đón
Chủ tịch Trương Tấn Sang vừa qua, phía Mỹ tuy cởi mở, tiến xa hơn so với ta một
chút lên phía trước, song vẫn bầy tỏ một thái độ “wait and see!”
khá rõ rệt với Việt Nam, (ví dụ: không thể tách việc bán vũ khí sát thương cho
Việt Nam với vấn đề thực hiện dân chủ và quyền con người ở Việt Nam, nội dung
“đối tác toàn diện” hàm ý có những điều chờ đợi nhất định…). Mỹ không thể làm
khác, mặc dù ai cũng biết phía Mỹ rất muốn triển khai mạnh mẽ chiến lược “trục
xoay”. Thái độ “wait and see!” như vậy phải chăng cho thấy: Mỹ
không mơ hồ, cũng không sốt ruột trước tình trạng “chập chờn” và “ngoại giao
leo dây” khó tránh hiện nay của Việt Nam!?
Chưa nói đến
việc là siêu cường, ắt Mỹ còn nghĩ đến nhiều tính toán khác, nhiều phương án
khác, cho những tình huống khác.[93].
Trên
phương diện tích cực:
Việt Nam sẽ rất quan trọng đối với nhiều nước nếu là một thành trì bất khả xâm
phạm của hòa bình trong khu vực, là cầu nối rất cần thiết giữa các khu vực và
cho những players trong nhiều vấn đề nan giải khác…
Sự thật là
trên thế giới ngày nay rất nhiều quốc gia muốn có một Việt Nam có đủ khả năng
giữ vai trò tích cực nêu trên. Trong tất cả các đối tác chiến lược, có lẽ
duy nhất chỉ có Trung Quốc muốn có một Việt Nam suy yếu. Việt Nam thực sự đang
có tiềm năng giành lấy một vị thế quốc tế xứng đáng mà rất nhiều nước trên thế
giới mong muốn cho Việt Nam! Cơ hội này thực sự chưa từng có cho Việt Nam
kể từ khi lập quốc, do xu thế phát triển của thế giới hôm nay tạo ra.
Đã thế, bàn cờ
thế giới thay đổi như chong chóng. Vì lợi ích nào đó các cường quốc hôm nay đi
với nhau; vì lợi ích nào đó ngày mai có thể chống lại nhau. Việt Nam không thể
dựa dẫm hay ăn theo nói leo được. Nếu không đủ trí tuệ và bản lĩnh để
luôn luôn giữ được mình là chính mình và đi cùng với cả thế giới tiến bộ, để có
khả năng bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia của mình và biết dấn thân ủng
hộ lợi ích của cộng đồng, xin hỏi làm sao Việt Nam có thể có những quyết định
đúng đắn?
Một khi phải
có một đường lối đối ngoại như thế, sẽ có nhiều điều vô cùng nhạy cảm và vô
cùng gian khổ, sẽ đụng chạm với nhiều nơi và sẽ chịu sức ép mới từ nhiều nơi…
Thử hỏi, nếu không có hậu thuẫn của một nền nội trị vững mạnh, làm sao
dám có một đường lối đối ngoại như thế? làm sao dám thực hiện? Vấn đề Biển Đông
của đất nước đang là một vấn đề như thế. Vấn đề quan hệ Việt – Trung, quan hệ
Việt – Mỹ trong bối cảnh chính trị mới của khu vực và trên thế giới đang là
những vấn đề vô cùng nhạy cảm và gian khổ như thế… (Xin nói một sự thật trong
quá khứ: Trong những thập kỷ trước đây, ngoại giao Việt Nam không hiếm khi phải
chiến đấu trên 2 mặt trận: mặt trận đối ngoại, và phia sau lưng là mặt trận đối
nội!)
Một lần nữa
lại càng rõ: Thách thức lớn nhất khiến Việt Nam có thể tuột mất cơ hội lớn cũng
như dễ dàng rơi vào các bẫy mới lại chính là yếu kém của Việt Nam. Mà trong
cuộc sống không có một yếu kém nào được buông tha! Một lần nữa lại càng
rõ, cuộc cải cách thể chế chính trị phía trước của đất nước là bắt buộc. Cải
cách chỉ được phép phải thành công, điều này cũng là bắt buộc, để đất
nước có một bản lĩnh mới, một năng lực mới. Đấy cũng là tiền đề hàng đầu để
giành thắng lợi.
Có lần, một
người bạn muốn ở tôi lời khuyên, nếu được gặp lãnh đạo Việt Nam, ông ta nên nói
gì?
Đáp: Lãnh đạo
Việt Nam cần biết: (1)Vấn đề nóng bỏng nhất Việt Nam phải giải quyết ngay là
cải cách thể chế chính trị. (2) Sự bê bết lớn nhất của Việt Nam hiện nay là bất
lực trong cải cách thể chế chính trị. (3) Chỗ mạnh nhất của Việt Nam là quyết
tâm thực hiện bằng được cải cách thể chế chính trị.
Cái bóng không làm khác được cái
hình
Một số bạn lão thành khác chia sẻ với tôi: Trung Quốc không cải cách thì
Việt Nam đừng có hòng! Họ cải thì mình mới cải được!
Thật ra không
ít người trong giới quan sát nước ngoài cũng nghĩ như vậy, và điều này có những
lý do xác đáng nhất định.
Có quá nhiều
dẫn chứng lấy ra từ cuộc sống lập luận cho cách nghĩ nêu trên. Tôi không phản
bác được, nhưng cũng không chấp nhận. Tôi tìm cách đặt vấn đề theo cách khác: Giả
định, vì lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc, vì lựa chọn con đường dấn thân đi
với cả thế giới, Việt nam quyết tiến hành cải cách thể chế chính trị của mình thì
sao? Trung Quốc sẽ có thể làm gì?
Sẽ dùng quyền lực mềm can thiệp sâu vào nội bộ nước ta? Tiếp tay cho mọi nỗ lực
bóp chết từ trong trứng cải cách của ta? Lũng đoạn kinh tế, chính trị? O ép hay
can thiệp bằng quân sự - công khai hoặc trá hình? Chia rẽ? Ly gián? Gây bạo
loạn, phá hoại? Xui khiến một lực lượng nào đó gây hấn thọc vào sườn ta? Trung
Quốc trực tiếp can thiệp bằng chiến tranh? Vân vân…
Xin nhắc lại:
Bỗng dưng ngạo mạn lấy cớ dậy cho Việt Nam bài học, giữa lúc Việt Nam không hề
đụng đến một sợi tóc của Trung Quốc, để tiến hành cuộc chiến tranh 17-02-1979,
kéo dài đến tận 1989.., thử hỏi còn việc gì khác Trung Quốc không dám làm khi
cần? Nghĩa là không đánh ta, hay muốn đánh ta, Trung Quốc đâu cần đợi đến lúc
Việt Nam tiến hành cải cách!
Hoàn toàn có
thể suy luận: Trung Quốc chắc chắn không thích sau Myanmar bây giờ lại có thêm
một Việt Nam dân chủ cạnh nách mình. Hiển nhiên Việt Nam không quyết định được
“khẩu vị” và sự lựa chọn như vậy của Trung Quốc.
Song chẳng lẽ
vì Trung Quốc không thích, nên nước ta không dám làm cái việc nước ta phải làm?
Trung Quốc rất muốn duy trì một nước Việt Nam èo uột và lệ thuộc như hiện nay,
chẳng lẽ chỉ vì trung thành với 16 chữ và 4 tốt nên nước ta phải
chiều lòng họ? Thực tế từ hội nghị Thành Đô đến nay nước ta đã làm quá mức, quá
mức rất nhiều những gì có thể, chỉ để mong xây dựng được quan hệ tốt đẹp giữa
hai nước. Thế nhưng Trung Quốc không để nước ta yên. Cuộc sống đang cho thấy:
phía ta càng nhân nhượng, phía Trung Quốc càng lấn tới.
Bây giờ Trung
Quốc ngang nhiên đòi đường lưỡi bò, leo thang tiếp đòi phải thừa
nhận cái gọi là chủ quyền thuộc Trung Quốc trên Biển Đông trước
đã, rồi mới tính đến chuyện cùng hợp tác khai thác – với nghĩa chỉ hợp tác
những vùng trên Biển Đông Trung Quốc có yêu sách nhưng chưa chiếm được, chứ
đừng hòng cùng hợp tác khai thác những vùng Trung Quốc đã phi pháp chiếm giữ như
Hoàng Sa, một số nơi ở Trường Sa…[95]
Tất cả chỉ cho
thấy, việc của nước ta, nước ta phải lo, không thể chiều lòng hay sợ mất lòng
bất kỳ ai.
Việt Nam đến
nay chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ điên dại đi khiêu khích Trung Quốc. Việt
Nam cũng không thể chấp nhận việc Trung Quốc cho phép mình làm gì và bắt mình
không được làm gì. Với bất kể lý do gì, một khi nhà cầm quyền Trung Quốc rắp
tâm cản phá con đường sống của nước ta là cải cách thể chế chính trị, nước ta
không có sự lựa chọn nào khác: Sống hay chết, nước ta phải làm việc nước ta
phải làm.
Xin cứ bàn
luận rộng rãi, công khai trong cả nước để có quyết tâm: Cải cách thể chế chính
trị là con đường sống của đất nước ta, kể cả trong quan hệ với Trung Quốc. Thậm
chí đấy là con đường tạo dựng ra mối quan hệ đúng đắn, láng giềng tốt và bền
vững với Trung Quốc. Câu chuyện này chẳng có gì phải giữ bí mật!
Như đã nói ở trên, xin được dành câu hỏi “tiến hành cải cách thể chế
chính trị như thế nào?” cho một chuyên đề khác. Dưới đây chỉ xin nêu
một số nhận định khái quát.
Con đường bạo
loạn, lật đổ sẽ chỉ dẫn đất nước đến đổ vỡ, thậm chí có thể đổ vỡ rất đẫm máu,
không loại trừ sự can thiệp từ bên ngoài... Tiếp theo đó, đến lúc tình hình cho
phép, vẫn phải tiến hành nhiệm vụ cải cách không thể tránh né được, nhưng quá
trình này sẽ có thêm nhiều trở ngại mới nguy hiểm
Nhưng nếu
ngoan cố trấn áp nhân dân, dứt khoát cưỡng lại cải cách, sớm muộn cũng sẽ dẫn
đến chế độ bị lật đổ. Song vì quá trình này thiếu hẳn việc nâng cao dân trí và
xây dựng các giá trị cần thiết cho thực hiện cải cách, nên con đường cải cách
tiếp theo bắt buộc phải đi qua sẽ gian truân hơn nhiều và không loại trừ vấp
phải nhiều tổn thất, thất bại. Thực tiễn các nước Bắc Phi hiện nay đang diễn ra
như vậy.
Trong khi đó
chủ động cải cách từ trên xuống ở Myanmar đang vạch ra một triển vọng sáng sủa
hơn, không tốn một sinh mạng, kinh tế có được sinh lực mới, thể chế chính trị
đi vào con đường dân chủ, vị thế đối ngoại của đất nước được nâng cao đáng kể,
kết quả tổng hợp là độc lập và chủ quyền của Myanmar vững chắc hơn trước.
Dứt khoát
không nên dẫn giải các câu chuyện ở Bắc Phi hiện nay, hù dọa “nguy cơ
Ai-cập”.., tất cả với ý định lẩn tránh cải cách.
Câu chuyện Ram
Sainry sau bầu cử tháng 7 vừa qua ở Campuchia cũng đáng được phân tích, để
tránh cho sự nghiệp cải cách ở nước ta những bước đi quanh co không cần thiết.
Chúng ta có
nhiều thông tin về nền dân chủ hoàng gia ở Thái Lan, một nước tiếp cận với dân
chủ sớm nhất Đông Nam Á, nhưng đến nay vẫn chưa sao tránh được cứ dăm ba năm
lại đảo chính một lần.
Chúng ta cũng
có những kinh nghiệm thành công của Hàn Quốc về xây dựng nhà nước pháp quyền
dân chủ như một khâu quyết định trong việc đưa đất nước đi lên thành NIC. Giữa
thập niên 1950, lúc khởi sự con đường dẫn tới Hàn Quốc hôm nay, GDP p.c. Hàn
Quốc chỉ đạt có 80 USD (tương đương với GDP p.c. gần 200 USD của Việt Nam năm
1986 khi tiến hành đổi mới), trong một thể chế chính trị quân phiệt gần như là
tàn dư của chiến tranh, nhưng có tinh thần gìn giữ các giá trị của dân tộc
mình, quyết học hỏi, có ý chí đuổi và vượt hàng của Nhật, làm việc cật lực và
có trách nhiệm – nhất là trong cơ quan nhà nước (ở Việt Nam không thể nói như
vậy), trong đời sống kinh tế - chính trị - xã hội rất hiếm không gian cho
“làm giả, ăn thật”… Có nhiều lý do để xem việc xây dựng nhà nước pháp quyền dân
chủ ở Hàn Quốc vừa đặt nền móng, vừa tạo ra cú hích cho Hàn Quốc bước lên con
đường trở thành NIC hôm nay.
Chúng ta có
không biết bao nhiêu thông tin về quá trình cải cách liên tục, cải cách không
ngừng của các nước phát triển từ giữa thế kỷ 20 cho đến nay; rồi đến những bài
học cải cách của các nước LXĐA cũ…
Lợi thế nước
đi sau cho phép nước ta học hỏi được rất nhiều từ các nước đi trước, để dựng
lên cả một chiến lược cải cách, thiết kế một chế độ xã hội phát triển và lộ
trình của con đường cải cách để đi tới cái đích ấy.
Để
bảo tồn mọi thành quả đã giành được trên chặng đường 38 năm qua, nhờ đó có lực
ra khỏi khủng hoảng hiện nay, chống đỡ mọi biến động bất thường bên trong hoặc
bên ngoài, và mở đường cho một giai đoạn phát triển mới của đất nước, có con
đường nào hơn là cải cách thể chế chính trị?
Cái khó là sự
ngoan cố của quyền lực, chứ không phải là đất nước ta không đủ trình độ cải
cách[96]. Tình trạng lạc hậu và bối cảnh chính trị nhạy cảm hiện nay
của đất nước ta càng không phải là lý do để trì hoãn cải cách, mà là sự thôi
thúc sống còn phải cải cách. Với tính cách là đảng duy nhất cầm quyền và là lực
lượng chính trị mạnh nhất, nếu ĐCSVN đặt lợi ích quốc gia lên trên hết và chủ
động đề xướng cải cách, Việt Nam sẽ thuận lợi hơn Myanmar rất nhiều. Trước hết
các đảng viên ĐCSVN yêu nước phải nhận thức ra điều này. Rất nên có các diễn
đàn trong cả nước, trong nội bộ ĐCSVN.., thảo luận công khai và dân chủ về sự
bức thiết của cải cách, tìm kiếm mọi khả năng tiến hành cải cách thành công ở
nước ta. Đừng bắt nhân dân ta và đất nước sẽ phải một lần nữa đau khổ vì những
hiểm họa đang đến phía trước!
Tôi thực sự
tin rằng kho tàng trí tuệ của thế giới sẽ trợ giúp chúng ta thỏa đáng trong sự
nghiệp đổi đời đất nước lần này, cũng là đổi đời chính mỗi người Việt Nam chúng
ta. Có sự đồng thuận dân tộc trên cơ sở của trí tuệ có học hỏi như thế, sẽ làm
nên tất cả.
Một cơ may hay
là một cơ hội, đúng vào thời điểm này đang tiến hành việc sửa đổi Hiến pháp năm
1992. ĐCSVN nên nhân dịp này thực hiện dân chủ và công khai minh bạch trong
việc huy động trí tuệ cả nước xây dựng một Hiến pháp mới, đặt nền móng đầu tiên
cho việc tiến hành cuộc cải cách quyết định vận mệnh và tiền đồ của đất nước.
Làm như vậy là
lãnh đạo.
Không làm như
vậy, thậm chí xuyên tạc và tìm cách bóp chết mọi ý kiến đúng đắn của nhân dân
về xây dựng Hiến pháp, có nghĩa là ĐCSVN tự tay vứt bỏ vai trò lãnh đạo mà
ĐCSVN giành lấy cho mình, để tiếp tục duy trì vị thế đảng cai trị. Không có
cách gì có thể bào chữa được.
Việc sửa đổi
Hiến pháp như hệ thống chính trị hiện nay đang làm không khác bao nhiêu việc “dắt
trâu qua rào”, chỉ để bảo toàn một hệ thống quyền lực cai trị đang tiếp
tục đẩy đất nước đi sâu vào bế tắc và khủng hoảng. Làm như thế, phải chăng
ĐCSVN đang muốn bảo toàn quyền lực thống trị của mình bằng cách tiếp tục
làm thui chột đất nước?
Tại đây xin
nêu một câu hỏi có thể nhiều người không thích nghe:
Tại sao một ĐCSVN
vì nước vì dân với tính cách là người nắm trọn mọi quyền lực trong tay
không dựa vào trí tuệ và nguyện vọng của nhân dân để tiến hành một cuộc cải
cách chính trị từ trên xuống, mở đầu bằng việc phát huy dân chủ, thực hiện
công khai minh bạch, tổ chức cho nhân dân xây xựng thành công một Hiến pháp
mới?
Bất kể một
cuộc cải cách nào, có khả năng thành công nhất, với cái giá phải trả thấp nhất,
bao giờ cũng vẫn là một cuộc cải cách chủ động (cả từ phía dân và phía nhà
nước) và từ trên xuống, trong hòa bình, hòa giải, không bạo lực. Lịch sử, và
khắp thế giới đều có kinh nghiệm như vậy. Song kinh nghiệm cũng cho thấy chẳng
có cuộc cải cách nào là dễ, là không phải trả giá; vấn đề quyết định chỉ là ở
chỗ cái giá phải trả sao cho thúc đẩy được, chứ không làm đổ vỡ cải cách.
Không phải nói
đâu xa, đổi mới 1986 chính là một cuộc cải cách kinh tế từ trên xuống, do ĐCSVN
tiến hành, được thực hiện trên cơ sở dựa vào những đòi hỏi của cuộc sống, của
nhân dân và cuối cùng là chế độ chính trị chịu chấp nhận nhìn thẳng vào sự
thật. Đấy là một cuộc cải cách hòa bình. Nhờ thành công của đổi mới đất nước
mới được như hôm nay.
Cái
giá lớn nhất ĐCSVN sẽ phải trả cho cải cách và
cho Hiến pháp mới là phải rút lại cái quyền tự ban cho mình là đứng trên và
đứng ngoài Hiến pháp (Điều 4), chịu mất đi mọi đặc quyền đặc lợi vốn là cái nôi
sinh sản những quyết sách sai lầm và nuôi dưỡng sự tha hóa cũng như mọi tệ nạn
quan liêu tham nhũng của Đảng, của toàn bộ hệ thống chính trị và bộ máy nhà
nước. Tất cả những đặc quyền đặc lợi này đã và đang làm hỏng toàn bộ xã hội và
đời sống mọi mặt của đất nước. Vứt bỏ những thứ xấu xa ấy là không đáng hay
sao?
Song đổi lại, cái
được lớn nhất là ĐCSVN có những điều kiện tốt nhất trong cả nước để từ đảng
cai trị phấn đấu trở thành đảng lãnh đạo. Và nhờ có vai trò lãnh đạo có thực
chất như vậy, ĐCSVN sẽ có điều kiện tốt nhất tranh thủ lá phiếu của nhân dân
thông qua bầu cử trung thực, qua đó trở thành đảng cầm quyền một
cách chính danh và chính đáng. Nền tảng nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự
được xây dựng nên như thế trong cải cách chẳng những là cần thiết cho phát
triển kinh tế nói riêng (kinh tế thị trường) và cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước nói chung, mà còn là không gian đáng mong muốn duy nhất
cho rèn giũa lý tưởng và phẩm chất chính trị của ĐCSVN. Một sự lựa chọn như thế
là sự lựa chọn đi với dân tộc, phục vụ sự nghiệp của đất nước[97].
Chỉ có cải
cách chủ động và từ trên xuống như thế, mới có thể chắc chắn thực hiện được cải
cách trong hòa bình, không bạo lực và thành công sớm nhất: dân tộc hòa
giải, đất nước phát triển hài hòa, bạn bè thế giới hậu thuẫn. Đây
chính là thế vững như bàn thạch của đất nước, có thể làm thất bại mọi can thiệp
dưới bất kỳ hình thức nào và dù từ đâu tới. Cải cách chủ động và từ trên xuống
như thế là con đường lý tưởng nhất của nước ta lúc này. Lý tưởng cho cả ĐCSVN
trong quá trình lột xác thành một đảng mới của dân tộc.
Không có cải
cách chủ động và từ trên xuống như thế, áp lực của cải cách thường dễ biến
thành sự bùng nổ, khó kiểm soát, rất dễ dẫn tới bạo lực.
Xin
nhấn mạnh: Với tư cách là đảng duy nhất cầm
quyền và là lực lượng chính trị lớn nhất của đất nước, ĐCSVN là người có trách
nhiệm đầu tiên và trước hết đề xướng và phát huy trí tuệ, tâm huyết cả nước
thực hiện thắng lợi cuộc cải cách chính trị trọng đại này. Làm như vậy, chắc
chắn ĐCSVN sẽ nhận được từ nhân dân sự hậu thuẫn để làm nên lịch sử: Một
Việt Nam từ nay và mãi mãi là chính mình, dấn thân cùng với cả thế giới tiến
bộ.
Bác bỏ cải
cách, đấy sẽ là sự lựa chọn đối kháng với nguyện vọng chính đáng của nhân dân
và phản lại lợi ích quốc gia.
*
Sự thật là đất
nước ta hiện nay đang lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - chính trị - văn
hóa – xã hội toàn diện. Xin lưu ý, Liên Xô cũ tuy có nhiều yếu kém
dai dẳng, nhưng vẫn là một siêu cường, nhiều thập kỷ đối mặt ngang ngửa với Mỹ.
Song một khi diễn tiến của tha hóa dẫn tới sụp đổ các thang giá trị trong lòng
xã hội xô-viết và trong lòng dân, Liên Xô hùng cường tự sập đổ không ai biết
trước, không ai có thể cứu vãn được.
Sự thật là con
giun xéo mãi cũng oằn. Đất nước đã có những tiếng nói trực diện và quyết liệt
chống lại. Đó là những tiếng nói của Nguyễn Phương Uyên, Lê Hiếu Đằng, của
những người trong thế hệ trẻ đòi hủy bỏ Điều 258 của Bộ Luật Hình Sự, của những
người hiên ngang đeo giữa ngực biểu tượng “No U!” (Nói không với
“đường lưỡi bò”) bất chấp bị bắt bớ, của những người đòi hủy bỏ Nghị định 72,
là tiếng súng Đoàn Văn Vươn, là những tiếng nói của trí tuệ, của chính nghĩa và
của đoàn kết hòa giải dân tộc đóng góp vào việc sửa đổi Hiến pháp mà hiện nay
ĐCSVN đang cố tình bỏ ngoài tai…
Hơn lúc nào
hết, đã đến lúc ĐCSVN phải nhìn thẳng vào sự thật, như một lần Đảng đã từng
nhìn thằng vào sự thật năm 1986, và nhờ đó Đại hội VI đã đi tới các quyết định
đảo ngược tình thế.
Thế giới ngày
nay đang thay đổi với biết bao nhiêu vấn đề nóng bỏng liên quan đến mọi quốc
gia; trong đó ASEAN trở thành một trọng tâm của những vấn đề nhạy cảm ở CA-TBD,
Việt Nam rơi vào vị trí nhạy cảm nhất; vấn đề Trung Quốc là vấn đề của cả thế
giới – nhưng Việt Nam bị uy hiếp trực tiếp nhất. Trong bối cảnh như thế, nước
ta lại đang bế tắc đứng trước ngã ba đường: Giai đoạn phát triển đầu tiên của
đất nước đã kết thúc trong khủng hoảng, hầu như chưa chuẩn bị được bao nhiêu
cho giai đoạn sau; chẳng lẽ bây giờ chịu khuất phục quán tính để nhắm mắt bước
tiếp vào đường cụt? hay là phải cải cách để khai phá một con đường phát triển
mới cho đất nước?
Những thách
thức trong và ngoài rất quyết liệt đang đặt ra cho đất nước tại ngã ba đường
này, đồng thời cuộc sống đòi hỏi bức xúc đất nước phải trở thành một Việt Nam
của dân chủ - độc lập – tự do – hạnh phúc và đáp ứng sự tin yêu của bạn bè,
phải chăng tất cả những yếu tố này đang tạo ra cho nước ta một cơ hội lịch sử
cần nắm lấy? Một cơ hội trở thành một Việt Nam của phẩm giá mà sau 30-04-1975
nước ta đã bỏ lỡ!
Ở ngã ba đường
này, đã đến lúc mỗi người Việt Nam chúng ta phải lựa chọn quyết định cho đất
nước và cho chính bản thân mình!
Hay là trong
góc tối vẫn đang lấp ló con đường trở lại Thành Đô?
Hết
Võng Thị, Hà Nội, Tháng Tám 2013
Nguyễn Trung
Tài liệu tham khảo:
1. Các sách và bài đã được dẫn, trích dẫn
và đã được nêu trong các chú thích.
2. Nguyễn Trung, tiểu thuyết “Lũ”, tập I,
tập II
3. Nguyễn Trung, “Việt Nam trong thế
giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21”
4. Nguyễn
Trung, “Hiến pháp - và những bất cập của Dự
thảo sửa đổi”
5. Nguyễn Trung, “Đảng
– Nhà nước – Hiến pháp, Vài suy nghĩ về sửa đổi Hiến pháp 1992” http://www.viet-
studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_Dang_NhaNuoc_HienPhap.htm
6. Nguyễn Trung, “Đừng
xuyên tạc lịch sử để đưa những điều sai trái vào Dự thảo Hiến pháp sửa đổi” http://viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_DungXuyenTacLichSu.htm
7. Nguyễn Trung, “Phải
chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990” http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_ChanDungThanhDo.htm
8. Nguyễn Trung, “Diễn
văn của Tổng thống CHLB Đức, Joachim Gauck” http://viet-studies.info/NguyenTrung/MguyenTrung_DienVanTongThongDuc.htm
9. Nguyễn Trung, “Câu
chuyện Myanmar”, http://viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_CauChuyenMyanmar.htm
10. Nguyễn Trung, Thư ngỏ ngày 19-02-2013, http://viet-
studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_ThuNgoGuiLanhDao.htm
[2] Khoảng mươi năm nay, ở Mỹ xuất bản khá nhiều sách, các bài
nghiên cứu, các bài báo của những tác giả có tên tuổi nói về chiều hướng đi
xuống của siêu cường Mỹ. Có thể rút ra từ những ấn phẩm này một nhận xét khái
quát là: Xu thế chung đi xuống này của siêu cường Mỹ là rõ rệt, tuy có
những lúc thăng trầm khác nhau, nhưng đây là một quá trình dài. Khác với sự
suy vong của các đế chế trong quá khứ, siêu cường Mỹ tuy có ảnh hưởng
ngày càng thu hẹp, nhưng do bản chất sự phát triển của nó nằm trong trào lưu
phát triển chung của thế giới, nên trong một tương lai nhất định Mỹ vẫn giữ
được vai trò đi đầu , vai trò lãnh đạo với nghĩa rất có giới hạn, trong
sự vận động của thế giới; và đây là sự khác biệt quan trọng giữa siêu cường Mỹ
và các đế chế trước nó. Siêu cường Mỹ chưa bao giờ là một đế chế, mặc dù có
thời nó rất khát vọng điều này, “Pax Americana” vĩnh viễn chỉ là một ước mơ
trong quá khứ.
[3] (1) Tham khảo: J. Bradford DeLong “The Second Great Depression - Why the Economic Crisis Is Worse than you Think” –
Foreign Affairs July/August 2013.
(2) Mark Urban - “Is the United
States an empire in decline?”, BBC 20-09-2012
[4] (a) Tìm xem cuộc trao đổi ý kiến tại
London School of Economics giữa LAWRENCE
SUMMERS, AXEL WEBER, MERVYN KING, BEN BERNANKE và OLIVIER BLANCHARD - March 25, 2013
(b) Tham khảo thêm: John Kao “Innovation Nation: How America Is Losing Its Innovation Edge, Why
It Matters, and What We Can Do to Get It Back”.
© Tham khảo thêm: Các số liệu thống kê về tình hình kinh
tế Mỹ trong CIA – World Factbook 2012, phần về USA - https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/th.html
[5] Tìm xem: Charles A. Kupchan
“Tình trạng bất ổn tại các nước dân
chủ”, tạp chí Phía trước, do Trần Ngọc Cư dịch.
[6] Tìm xem: Nguyễn Trung, “Việt Nam trong thế giới
của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21” www.tapchithoidai.org/.../201018_NguyenTrung.htm
[7] Điều này không có nghĩa nếu Mỹ chẳng làm gì thì hôm nay có
thể sẽ có vị thế quốc tế cao hơn. Cuộc sống thực tế của quan hệ quốc tế không
có gì đứng yên một chỗ. Đứng yên và không phát triển đồng nghĩa với tụt hậu,
với chết lâm sàng và dẫn tới bị lọai bỏ. Vấn đề chỉ là lựa chọn quyết định hành
động nào mà thôi.
[8] Hãy đặt các vấn đề đạo lý – chính nghĩa và phi nghĩa, nhân
đạo và vô nhân đạo, tiến bộ và phản động v… v… - sang một bên, tiến hành chiến
tranh ở Iraq và Afghanistan có thể siêu cường Mỹ đã tính toán: Đây là bước mạo
hiểm phải thực hiện, với triển vọng mở ra một cục diện mới trong trật tự quốc
tế với lá cờ Mỹ sẽ được giương cao hơn, vì thời cơ xuất hiện cho Mỹ sau
sự kiện 11-9 (September 11th) rất quyến rũ! Siêu cường nào mà lại chịu bỏ lỡ cơ
hội nâng cao vị thế và uy quyền của mình? – còn thành hay bại lại là chuyện
khác! Hơn nữa không thể bỏ qua thực tế: Sự kiện 11-9 đã thách thức Mỹ chí mạng.
Là siêu cường và vì lo nhiều hậu họa khó lường, nên Mỹ không thể khoanh tay
chấp nhận. Có thể xem bước phiêu lưu này của Mỹ như một nỗ lực của chủ nghĩa
tân tự do, vốn hình thành từ thời Reagan – Tatcher và trở thành một nếp nghĩ
sâu sắc ở Mỹ, nhất là trong kinh tế? Có thể đánh giá đấy là một phiêu lưu có
tính toán, nhưng thực tế đã cho thấy Mỹ tính toán chưa hết và do đó phải trả
giá? Bởi vì trước khi bước vào 2 cuộc chiến tranh này, Mỹ đã có rất nhiều bài
học của chính mình, bài học thảm bại của Liên Xô cũ trong chiến tranh
Afghanistan… V… v… Chú dẫn này chỉ nhằm lưu ý: Cường quốc có lối suy nghĩ riêng
và hành động riêng của cường quốc – kể cả những phiêu lưu nó dám chấp nhận,
người đọc không nên hiểu cường quốc theo cách nghĩ của mình, cũng không thể dậy
khôn họ. Cách nhìn nhận đối với Trung Quốc cũng vậy.
[9] Có một khía cạnh cần lưu ý: Có thể phía Mỹ coi vấn đề dân
chủ và nhân quyền như một cái “test”quan trọng, xem Việt Nam muốn hợp tác thực
sự với Mỹ tới đâu. Bởi vì ngoài những ràng buộc về luật pháp Mỹ trong quan hệ
đối ngoại của Mỹ, vấn đề dân chủ và nhân quyền liên quan đến bản chất của một
chế độ. Một chế độ chính trị coi trọng vấn đề dân chủ và nhân quyền thường có
phạm vi hợp tác rộng hơn với Mỹ, và ngược lại…
[11] Tham khảo: (a) R. Kaplan (2010) -
“The Geography of Chinese Power: How far can Beijing reach on Land and at
Sea” Foreign Affairs, volume 89. Bài này đã được nhóm “Nghiên cứu quốc tế” nghiencuuquocte.net
dịch ra triếng Việt. (b) Joe hung, “ Can a Thucydides trap be prevented?
China Post - June 17, 2013.
[12] Cho đến nay, còn rất nhiều thách thức phi truyền thống chưa
được nhìn nhận thấu đáo mà Trung Quốc có thể gây ra cho các nước khác. Đấy là
những thách thức nảy sinh từ các vấn đề nhân chủng học, tôn giáo, di dân,
di chuyển lực lượng lao động, cấu trúc dân số, khan hiếm năng lượng, khan hiếm
nguồn nước, thiếu vùng không gian sinh tồn, ô nhiễm môi trường, vân vân…
Trong những thách thức chưa hề biết đến, hay rất ít biết đến và rất khó lường
này, ví dụ có câu hỏi: Giả sử vì bất kể lý do gì, nếu ở TQ xảy ra bạo loạn lớn,
hay kinh tế đổ vỡ lớn, điều gì sẽ xảy ra cho các nước láng giềng chung quanh?
Câu hỏi này không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng, mà đã từng xảy ra khi
tại nhiều vùng biên giới Trung Quôc người dân đã ồ ạt chay sang các nước láng
giềng để trốn tránh cách mạng văn hóa. Ngay trong hiện tại, các nhà chức trách
ở vùng Viễn Đông của Nga vẫn chưa có cách nào khả thi và ngăn chặn hữu hiệu
tình trạng nhập cư trái phép của người Trung Quốc. Trong khu vực này dân số của
Nga ước khoảng 4,5 triệu người và từ nhiều năm nay vẫn đang trong xu hướng tiếp
tục giảm, trong khi đó bên kia biên giới là trên 100 triệu dân Trung Quốc
rất đói đất đai và cơ hội làm ăn! Việt Nam đang có nhiều mối lo lớn trước việc
TQ khai thác một cách nguy hiểm vùng thượng sông Mekong, vân vân…
[13] Thucydides (460 BC – 395 BC) – sử gia Hy-lạp, đã
chứng minh cuộc chiến tranh Peloponesian (499BC – 449BC) giữa Athen và Sparta
lẽ ra có thể tránh được nếu không để cho nỗi sợ hãi và nghi kỵ lẫn nhau
thái quá chi phối, đấy chính là cái bẫy đã dẫn đến chiến
tranh mà những bên hữu quan đã vướng vào. Từ đó có thuật ngữ “cái bẫy
Thucydides” trong nghiên cứu sử quan hệ quốc tế. Kinh nghiệm này cũng
được một số học giả Mỹ và Trung Quốc nhắc đến nhân dịp TBT Tập Cẩm Bình đi thăm
Mỹ (đối thoai kinh tế - chiến lược lần thứ 5).
[14] Tiếc rằng những tác giả của ý kiến này không nói cụ thể
hơn: Hệ thống thế giới thân thiện hơn là gì? Thực hiện nó thế nào? Phải chăng
đấy là mong muốn quạt mát làm dịu nỗi đói của hổ?
[16] Tìm xem: R. Kaplan (2010) - “The Geography of Chinese
Power: How far can Beijing reach on Land and at Sea” Foreign Affairs, volume
89. Bài này đã được nhóm “Nghiên cứu quốc tế” nghiencuuquocte.net
dịch ra triếng Việt.
[17] Tham khảo thêm: Charles A.
Kupchan, bài đã dẫn. Kupchan coi
quá trình thay đổi này là liều thuốc đắng. Ví dụ: Chỉ riêng vấn
đề quốc hội Mỹ đòi cắt giảm chi tiêu ngân sách, Obama bị bó tay trong không ít
vấn đề…
[18] Một trong những ấn phẩm đáng chú ý về đề tài này có thể là
cuốn “Death by China” (“Chết dưới tay Trung Quốc”) - (2011) - của Peter Navarro và Greg Autry. Cuốn sách này đã được nhóm trí thức ở
Montréal / Canada do tiến sỹ Lê Minh Thịnh chủ trì dịch ra tiếng Việt: http://www.vietnam.ca/vi/tai-lieu/cac-bai-viet-dang-luu-y/chet-duoi-tay-trung-quoc.html
.
[19] Tham khảo thêm: “China 2030 - Building a Modern,
Harmonious, and Creative Society” do World Bank và Trung tâm Nghiên cứu
Phát triển của Hội đồng Nhà nước nước CHND Trung Hoa soạn thảo.
[20]Tham khảo: Minxin Pei, “The Politics of a
Slowing China“, Project
Syndicate, ngày 6 Tháng Bảy 2013.
[21]So sánh với những nước có GDP p.c. tương đương với Trung
Quốc , các số liệu thống kê cho thấy chênh lệch giầu nghèo ở Trung Quốc cao hơn
nhiều, chỉ số gini qua các năm gần đây ở Trung Quốc là 0,5
- 0,6.., trong khi đó ở những nước so sánh thường là 0,4 (chú ý: chỉ số gini
càng cao, mức chênh lệch giầu nghèo càng lớn).
[22] Tham khảo: Vũ Quang Việt: “Về
cải cách sắp tới ở TQ: một cuộc trốc rễ vĩ đại” trên Bô-xit Viêt Nam và các bài báo khác.
[23] Thật ra ngày nay khó tách bạch phạm trù địa kinh tế
với phạm trù địa chính trị, đến mức hai thuật ngữ này bị coi là
lỗi thời và hầu như không còn được sử dụng nữa. Tuy nhiên trong bài viết này,
để tiện cho sự theo dõi của bạn đọc, tôi vẫn “chia đôi” ra như vậy, cũng là để
tôi dễ trình bầy, mong được thông cảm.
[24] Tham khảo thêm: “Chết dưới tay Trung Quốc”,
sách đã dẫn, chương 7: “Chết dưới tay con rồng thực dân”.
[25] Khối “BRICS” bao gồm các nước Brasil, Nga, Ấn-độ,
Trung Quốc, Nam Phi; diễn đàn Bác Ngao / Hải Nam hiện nay đang được Trung Quốc
nỗ lực đẩy lên như một diễn đàn kinh tế thế giới kiểu WEF tại Davos.
[26] Tham khảo thêm: “Chết dưới tay Trung Quốc”, sách đã dẫn,
chương 4: “Cái chết của nền sản xuất của Hoa Kỳ:
Tại sao hàng Mỹ không còn ‘ăn khách’ (*) nữa?”
[27] Hiểu theo nghĩa sự can thiệp của nhà nước vào thương mại và
mọi hình thức lũng đoạn khác trái với tinh thần WTO. Chỉ cần liên hệ với thực
tiễn quan hệ kinh tế Trung – Việt và những gì thương nhân Trung Quốc hàng ngày
đang làm ở nước ta, cũng có thể hiểu được tính nghiêm trọng của vấn đề.
[28] Chính giới Trung Quốc đã nhiều lần giải thích “lợi ích cốt
lõi” có nghĩa là Trung Quốc coi các đảo và cái gọi là chủ quyền của Trung Quốc
trên Biển Đông quan trọng như Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông…
[29] Năm 1950 Trung Quốc đã nêu ra “đường lưỡi bò”. Nhưng
từ sau khi Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc mới bắt đầu
tiến hành ráo riết âm mưu “đường lưỡi bò”, năm 2009 Trung Quốc đã chính thức
đưa yêu sách này ra Liên hiệp quốc.
[30] Báo chí Trung Quốc gần đây cho biết: Trong khuôn khổ chiến
dịch Hồng kỳ rực Biển Đông, Trung Quốc huy động xong 6000
tầu cá ra Hải Nam, sẵn sàng tùy lúc thực hiện sự có mặt khắp nơi trên Biển Đông
với sự yểm hộ của các tầu hải giám và các chiến hạm…
[31] Nên tham khảo thêm Sách
trắng “Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua” , Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1979, do Bộ
Ngoại giao phát hành, để thấy rõ mọi chiều cạnh quan hệ Việt – Trung hiện
nay.
[32] Tham khảo thêm: R. Kaplan – “Geograpy of Chinese Power: How
far can Beijing reach on Land and at Sea” – tài liệu đã trích dẫn. Bài này đã
được nhóm Nghiên cứu Quốc tế dịch ra tiếng Việt.
[34] Loại trừ cách nhìn nhận vấn đề Trung Quốc của Mackinder ít
nhiều có mầu sắc phân biệt chủng tộc, song những nhận định về mối hiểm họa tiềm
tàng Trung Quốc của ông ta là có lý, nhiều nét tương đồng với nhận xét của
người hùng nước Pháp – Napoléon – cũng về vấn đề này.
[35] Trong đó có các lợi thế lao
động rẻ, lợi thế cạnh tranh về giá thành, lợi thế về quy mô thị trường, nhất là
những thực tiễn của chủ nghĩa con buôn (merchandism) luôn luôn là những vũ khí
nguy hiểm …
[36] Một ví dụ:
Tập đoàn dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) là một vương quốc riêng cho
chính nó, trên thực tế quyền lực nhà nước cũng không thể xen vào (Willy Lam /
Hongkong); cương trực như cựu thủ tướng Chu Dung Cơ cũng đành bó tay… Các tập
đoàn kinh tế quốc doanh của Trung Quốc đều là như thế.
[38] Một ví dụ tiêu biểu: Năm 2012 vùng Bordeau đã bán 23 trong
tổng số 37 vườn nho của mình cho Trung Quốc, kèm theo cả công nghệ, các phương
tiện khỹ thuật… Doanh nhân Trung Quốc dự tính phi vụ này sẽ phục vụ việc phát
triển ngành rượu vang ở những vùng thích hợp tại Trung Quốc, nhiều thương hiệu
vang Pháp nổi tiếng ở Bordeau sẽ rơi vào tay Trung Quốc. Ví dụ này là một trong
hàng trăm phi vụ đã xảy ra trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc mấy thập kỷ vừa
qua, một hiện tượng đương nhiên của quá trình toàn cầu hóa.
[39] Campuchia, Malaysia, Singapore, Thái Lan đã có lúc có tiếng
nói không phải là hướng vào hành động chung của ASEAN trong vấn đề Biển Đông.
Việc Philippines đưa v/đ Trung Quốc lấn chiếm Mischief và Scarborough ra
kiện tại tòa án quốc tế, Singapore không công khai không tán thành, các nước
ASEAN khác – trong đó có Việt Nam - im lặng…
[40] Ví dụ: Trong chiến tranh Triều Tiên, mang cái tên là “Cuộc
kháng chiến chống Mỹ viện Triều”, ban đầu Trung Quốc thắng nhiều trận đánh lớn,
nhưng chung cuộc Trung Quốc thua cả cuộc chiến vì đã thất bại trong việc thực
hiện những mưu đồ quyết định xúc tiến chiến tranh. Riêng trong chiến tranh
17-02-1979 chống Việt Nam Trung Quốc đánh lớn đúng 1 tháng 1 ngày (kết thúc
18-03-1979 với những tính toán rất kỹ lưỡng, sau đó chuyển sang bắn phá và lấn
chiếm biên giới kéo dài đến 1989. Liên Xô cũ trong chiến tranh Afghanistan, Mỹ
trong chiến tranh Iraq và Afganistan vừa qua… cũng là những ví dụ thuyết phục.
[41] Lúc đó Trung Quốc có nhiều vấn
đề nội bộ cần hướng ra ngoài để giảm áp lực, cần nâng cao thanh thế của Đặng
Tiểu Bình vừa mới được phục hồi, có yêu cầu phải kiềm chế Việt Nam trong vấn đề
Campuchia, nhận được thái độ bật đèn vàng của tổng thống J.
Carter và tâm lý hội chứng Việt Nam của giới cầm quyền Mỹ, lại vào thời
điểm Liên Xô đang trên đà đi xuống, Việt Nam đang khủng hoảng kinh tế nặng nề… Tham
khảo thêm ý kiến của Dương Danh Dy: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2011/02/110217_1979_war_history.shtml
.
[42] Tình hình thực tế này cho phép suy đoán đối thoại kinh
tế & chiến lược vòng 5 vừa qua không đem lại bước đột phá nào cải
thiện quan hệ Mỹ - Trung.
[43] Ở nước ta, rất tiếc rằng sự thật gần như là một chân lý này
đang bị ý thức hệ, những tư duy dị giáo khác và sự ngu dốt che lấp hay vùi dập.
Đây là một trong những vấn nạn gốc đau lòng của nước ta, nhất thiết phải sớm
được khắc phục - để nhìn rõ thực trạng khắc nghiệt hiện nay của đất nước,
song quan trọng hơn thế là để giải phóng nghị lực sáng tạo và mọi tiềm năng
kiến tạo lại và phát triển của quốc gia.
[46] Tham khảo: Tổng bí thư ĐCSVN
Nguyễn Phú Trọng, diễn văn tại trường đảng cao cấp Cuba Nico Lopez – VOV
11-04-2012.: “…Trung Quốc, Việt Nam, Lào,…đang
đổi mới thành công, giành được nhiều thành tựu và tiếp tục vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Cuba vẫn hiên ngang đứng vững, vẫn là tấm gương sáng về tiến bộ
và công bằng xã hội, về đoàn kết quốc tế, về tinh thần bất khuất vì tự do cho
các dân tộc và phẩm giá con người. Và những bước tiến cách mạng đang diễn ra ở
Vênêxuêla, Bôlivia, Êcuađo... cùng sự lớn mạnh của các phong trào cánh tả tại
nhiều nước Mỹ Latinh khác thể hiện trào lưu hướng tới chủ nghĩa xã hội đang nổi
lên mạnh mẽ tại Tây Bán cầu này. Các nước xã hội chủ nghĩa khác tại Châu Á vẫn
tiếp tục con đường tiến lên phía trước. Nhiều đảng cánh tả, các phong trào nhân
dân tiến bộ các nước tại các châu lục ngày càng giương cao khẩu hiệu đấu tranh
vì chủ nghĩa xã hội và xác định ngày càng rõ rằng đây là sự lựa chọn duy nhất
đúng để vượt qua những bế tắc của mô hình phát triển đang khủng hoảng hiện nay.
Đó là những bằng chứng đầy khích lệ về sức sống của chủ nghĩa xã hội…”
[47] Xin nhắc lại: Goldman Sachs và không ít cơ quan nghiên cứu
khác dự báo Kinh tế Trung Quốc sẽ lớn vượt Mỹ vào đầu thập kỷ 2040. Nên thấy rõ
những đặc trưng của Trung Quốc đã được trình bày trong các phần trên để cắt
nghĩa tại sao Trung Quốc với mô hình hiện này vẫn có thể tiếp tục thời kỳ phát
triển của nó trong một tương lai nhất định.
[48] S. P Huntington trong “The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order”, xuất bản 1996, cho rằng thời đại đấu
tranh ý thức hệ đã chấm dứt; ngoài những mối quan hệ mọi mặt vốn có trong đời
sống giữa các quốc gia, đang ngày càng nổi lên sự đụng độ có nguồn gốc từ các
nền văn minh khác nhau, thường dẫn đến sự đụng độ giữa nhóm nước này với nhóm
nước kia. Đặt vấn đề như vậy, Huntington chủ yếu cảnh báo phải nhìn thấy đặc
thù này trong khi tìm cách xử lý các đụng độ và qua đó tái tạo lại trật tự thế
giới.
[50] Xin lưu ý: Một sự thật lịch sử là Liên
Xô đã một thời giương cao được ngọn cờ của chủ nghĩa xã hội, có ảnh hưởng quyết
định trong việc hình thành hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa, hậu thuẫn mạnh
mẽ phong trào giành độc lập dân tộc của các nước thuộc địa sau chiến tranh thế
giới II, hình thành được một tập hợp lực lượng chế ngự 1/3 địa cầu. Ngoài lực,
sự tập hợp này còn do Liên Xô đã phát huy được những giá trị lúc đó đang là
khát vọng của một bộ phận đông đảo nhân loại trên 2 phương diện: (a) Những lý
tưởng tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội; (b) khát vọng độc lập dân tộc của các nước
thuộc địa. Khi phong trào giành lại độc lập dân tộc đã hoàn thành sứ mệnh của
nó và kết thúc, khi những lý tưởng của chủ nghĩa xã hội sau này chứng tỏ không
thể trở thành hiện thực trong thể chế chính trị toàn trị, Liên Xô sụp đổ, tập
hợp lực lượng do Liên Xô đứng đầu tan biến. Trên thế giới bây giờ chỉ còn lại
một số rất ít đảng cộng sản. Nhưng phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế như một thời đã từng tồn tại đã hoàn toàn đi vào dĩ vãng.
[52] Mệnh đề “…Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm
2020…” được ĐCSVN sửa đi sửa lại qua các kỳ đại hội, không hỏi ý kiến cả
nước, cũng không giải thích. Hiện nay, ngôn từ chính thống trong các văn kiện
của ĐCSVN là “…Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
vào năm 2020…” - được ngầm hiểu là mục tiêu này điều chỉnh thấp xuống một chút,
hay đây là cách nói co giãn thời gian.
[53] Tai các nước công nghiệp như Mỹ, Canada, Úc, các nước ở Tây
Âu, các nước ở Nam Mỹ… diện tích canh tác bình quân của một lao động nông
nghiệp tùy nơi là vài chục ha hoặc lớn hơn nhiều.
[54] Có qua nhiều mối nguy lớn: 70% phụ tùng cho các xí nghiệp
FDI trong cả nước phải nhập khẩu, nguyên liệu cho công nghiệp dệt may hầu như
nhập ngoại 80 – 100%, đầu ra của sản phẩm trung gian (ví dụ như xi-măng,
thép…) vượt xa khả năng tiêu thụ trong nước nên phụ thuộc nghiêm trọng vào xuất
khẩu nhưng giá thành cao, phần lớn phôi thép cũng phải nhập…
[55] Mức tiêu thụ đầu vào cho một sản phẩm công nghiệp ở nước ta
hiện nay cao hơn hầu hết các nước trong khu vực.
[56] Trên danh nghĩa là của tập đoàn FORMOSA – Đài Loan. Trên
thực tế thì còn nhiều điều phải thận trọng.
[57] Vì làm ô nhiễm trầm trọng môi trường tự nhiên, tiêu thụ quá
nhiều tài nguyên và năng lượng như nước, điện, các loại khoáng sản hay nguyên
liệu khác, chiếm quá nhiều diện tích đất đai…
[58] Mỏ sắt Thạch Khê đang là một thách đố lớn- trước đây Liên
Xô cũ và tập đoàn Krup (lúc đó còn tồn tại Tây Đức) đã bỏ không đi tiếp triển
khai dự án này, trước hết vì còn nhiều vấn đề về môi trường quá lớn liên quan
đến biển – nơi mỏ gần biển nhất chưa đến 1 km, sẽ rất tốn kém…
[59] Trong một hai thập kỷ nay, cứ nhìn khối lượng nhập khẩu xe
ô-tô du lịch tăng vọt qua các năm, nhìn khối lượng các quan chức các tỉnh mua
nhà tại các thành phố… sẽ có thể suy luận ra nhiều điều.
[60] Có những ý kiến đánh giá khác nhau về vấn đề này; ý kiến
của tôi là có 4 cuộc khủng hoảng, trong đó cuộc khủng hoảng năm 1997 và cuộc
khủng hoảng hiên nay bắt đầu từ năm 2007 là lớn nhất.
[61] Ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia, một số nước Nam Mỹ… thời
kỳ phát triển năng động ở giai đoạn khởi đầu quá rình CNH kéo dài hơn ở nước ta
– thường là vài thập kỷ liên tục.
[62] Như đã chứng minh cụ thể trong phần nói về nông nghiệp,
trong đó có các quan điểm về hiện đại hóa nông nghiệp, vấn đề tích tụ ruộng
đất, kinh tế trang trại, vấn đề 3ha / 1 lao động nông nghiệp, vân vân…
[63] Không thể không đặt ra câu hỏi, tại sao một đảng kiên cường
và giầu kinh nghiệm đấu tranh trong thời kháng chiến, lại thất bại như thế
trong thời bình? Đây là vấn đề chính bản thân ĐCSVN phải quan tâm mổ xẻ trước
tiên - vì lợi ích sự tồn tại của đảng mình, song quan trọng hơn thế nhiều lần
là vì ĐCSVN cần kiểm điểm trách nhiệm không thể thoái thác của mình trước đất
nước với tính cách là đảng cầm quyền duy nhất, toàn diện và tuyệt đối.
[64] Các số liệu thống kê đưa ra thay đổi soành soạch và không
tin cậy được – ví dụ có số liệu nói nợ xấu của ngành ngân hàng ước 6% tổng dư
nợ, nhưng vài hôm sau lại có số liệu nói là 35%, vân vân…
ecna.gov.vn/ct/ht/Lists/HoiThao/View_Detail.aspx?...
và Báo cáo của Ngân hàng Thế giới – Hội nghị các nhà tài trợ cho
Việt Nam – Hà Nội 10-12-2012;
(2) Thủ tướng Dũng có cứu vãn được kinh tế Việt Nam?
(3) Kinh tế Việt Nam 2012-2013: Cơ hội
xoay chuyển tình thế?*
(4) Thực trạng nợ xấu tại các ngân hàng Việt Nam
và giải pháp tháo gỡ
http://www.tapchitaichinh.vn/Trao-doi-Binh-luan/Thuc-trang-no-xau-tai-cac-ngan-hang-Viet-Nam-va-giai-phap-thao-go/16290.tctc
& 'Nửa triệu tỷ đồng nợ xấu ngân hàng' - VnExpress
Kinh Doanh
kinhdoanh.vnexpress.net/.../ngan-hang/nua-trieu-ty-d...
www.doimoi.org/.../qua-khu-dong-nhat-tuong-lai-va-...
·
(6) Một số vấn đề về nợ xấu của doanh nghiệp nhà
nước
(7)
“Vietnam’s Economy: Sabotaged From Within” January 29, 2013 By James Parker,
tìm trong The Diplomat http://thediplomat.com/pacific-money/2013/01/29/vietnams-economy-sabotaged-from-within/
Vân vân…
[67] Một giai thoại: Lúc là đương kim thủ tướng, Võ Văn Kiệt
nhiều lần đề xuất phải cải cách hệ thống chính trị của đất nước, nhưng không
được chấp nhận. Để phục vụ minh họa những lý lẽ của ông về sự cần thiết phải
thực hiện cuộc cải cách này, đã có lần ông yêu cầu các chuyên gia của mình vẽ
lên một sơ đồ phác họa toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước bao gồm 4 thành
tố: Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đòan thể quần chúng. Kết quả: Các
chuyên gia đành bó tay: Một sơ đồ có thể dựng lên dù rối rắm đến thế nào cũng
không thể minh họa hết được cấu trúc phức tạp và các mối quan hệ quyền
lực qua lại trong không gian nhiều chiều giữa 4 thành tố này của hệ thống quyền
lực. Nhưng cái sơ đồ bất thành này lại cho thấy: Luật pháp trở thành vô nghĩa
trong một hệ thống quá rối rắm như thế, sự lũng đoạn hay là ảnh hưởng hoặc sự
thâu tóm của vai trò cá nhân mới là điều quyết định.
[68]Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan tin như vậy. Song khi đi
khảo sát địa phương, chính bà cũng phải kêu lên: “Người
ta ăn của dân không từ cái gì!”
[69] Ví dụ: Có những affairs các nhóm lợi ích mặc cả với nhau: Giải
quyết việc này sẽ hết bao nhiêu “quan hệ”? Khái niệm “quan hệ” này chứa
đựng những gì? Khối lượng tiền?, “sổ đỏ”, “dự án”, “cơ chế”, cái bằng? cái ghế?,
“cặp chân dài”, trao đổi giữa “tội” với “tội”, trao đổi giữa “tội” và “cơ
hội”… vân vân và vân vân… Chỉ có chúa trời mới biết được đích xác!
[70] Có một sự thật đang bị trối bỏ: Gần 3 thập kỷ nay công cuộc
cải cách giáo dục của nước nhà hoàn toàn thất bại, cho đến nay đất nước ta chỉ
có một nền giáo dục đào tạo ra con người công cụ, không phải là con
người của chính nó và sáng tạo. Một nền giáo dục như thế trên thực tế
đang góp phần không nhỏ vào việc hủy hoại các giá trị chân chính và đạo đức xã
hội. Qua những con người trong các bộ máy của hệ thống chính trị do nền giáo
dục này (bao gồm cả hệ thống trường Đảng) đào tạo nên, đất nước
đang bị làm hỏng và biến dạng nghiêm trọng về mọi mặt. Nền giáo dục hiện
tại đang trực tiếp làm hỏng các thế hệ con người của đất nước, vì trong bản
thân nó ngấm ngầm tồn tại quá nhiều cái sai trái, cái lạc hậu… Những nỗ
lực bỏ ra cho cải cách giáo dục là rất lớn và rất tốn kém, nhưng cho đến nay
đều không mang lại kết quả mong muốn. Nguyên nhân chính là những nỗ lực này
không thắng nổi 2 kẻ tử thù của giáo dục là tham nhũng và dối trá. Đó lại chính
là 2 kẻ thù có chỗ ẩn náu rất sâu trong hệ thống chính trị của đất nước, được
nuôi dưỡng bằng mọi giá trị và văn hóa của chính hệ thống chính trị này sản
sinh ra. Đã đến lúc cần rút ra kết luận: Cải cách giáo dục chỉ có thể thành
công khi đồng thời cả nước tiến hành cuộc cải cách chính trị sâu sắc. Lịch sử
ngàn năm của nước ta các thời đã chứng minh: Không thể nào có một nền giáo dục
chân chính trong một chế độ xã hội bất lương (tham khảo: Hoàng Lê Nhất
Thống Chí).
[72] Tham khảo các văn kiện của ĐCSVN sau chiến thắng
30-04-1975, các văn kiện các Đại hội toàn quốc ĐCSVN từ đại hội IV.
[73] Xin đừng quên: Sau 30-04-1975, cơ hội bình thường hóa quan
hệ với Mỹ và với các nước ASEAN đến sớm hơn rất nhiều so với việc bình
thường hóa đã diễn ra. Đã gần 4 thập kỷ đã trôi qua, thiết nghĩ lưu trữ quốc
gia Việt Nam nên sớm bạch hóa chuyện này.
[75] Tham khảo: YOSHIHARU TSUBOI Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa - Lịch sử
Việt Nam www.lichsuvietnam.info/index.php?... Không phải ngẫu nhiên một số học giả đã đề ra ý tưởng
“thóat Á luận”, “thoát Trung Quốc luận” để giải thoát nước ta khỏi cái quán
tính đầy tai ác của lịch sử.
[76] (1) Năm 2009, nhân dịp 20 năm ngày nổ ra chiến tranh
17-02-79, sách và báo Trung Quốc có một số bài thừa nhận cuộc chiến 1984 của
quân Trung Quốc chiếm vùng Núi Đất của ta vấp phải sự kháng cự vượt sức tưởng
tượng của họ, gọi đấy là một trận “tiểu Stalingrad”, mỗi bên thương vong hàng
nghìn binh sỹ.
(2) Trận chiến núi Đất
năm 1984 giữa Việt Nam và Trung Quốc
[77] Tham khảo: Nguyễn Trung, “Phải
chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990” http://www.vietstudies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_ChanDungThanhDo.htm
[79] Xin lưu ý, khi bình thường hóa quan hệ với Việt Nam theo
lập trường của phía Trung Quốc, phía Trung Quốc nhấn mạnh: Khép lại quá khứ,
hướng tới tương lai, là đồng chí (ý nói cùng là xã hội chủ nghĩa), chứ không
phải là đồng minh (ý nói không có chuyện đứng chung với nhau một chiến tuyến
trong bất kể việc gì). Như vậy đây là thứ quan hệ gì?
[80] Đối với ĐCSVN, tôi nghĩ câu hỏi này vô cùng quan trọng tới
mức sống còn (to be or not to be?!); bởi lẽ câu hỏi này đòi ĐCSVN
phải xem lại chính mình: Tổ quốc trên hết, hay ý thức hệ trên hết!
[81] Sau khi ra khỏi cuộc chiến tranh Trung – Triều 1950 – 1953,
chính thể Hàn Quốc dười thời Lý Thừa Vãn và Pác Chung Hy là một chính thể độc
tài, quân phiệt khét tiếng. Tuy nhiên, đặt trên nền móng dù chưa hoàn hảo của
kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền, sự phát triển của Hàn Quốc
dần dần dựa trên một nền móng hoàn hảo hơn của kinh tế thị trường – nhà
nước pháp quyền – xã hội dân sự, được nuôi dưỡng bởi một nền giáo dục
coi trọng phát huy các giá trị. Đấy là những yếu tố cơ bản chuyển hóa Hàn
Quốc thời hậu chiến thành nước công nghiệp phát triển như ngày nay.
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/Lu_T2_Final.pdf
[83] Tổng thống Nga Yeltsin đã từng nói như vậy và đã làm mọi
việc xóa bỏ ĐCSLX qua tòa án hiến pháp.
[84] Nhìn lại, có thể có căn cứ xác đáng để nhận định: Võ
Văn Kiệt đã sớm có ý tưởng này giữa lúc ông là đương kim thủ tướng. Trong bức
thư ngày 09-08-1995 gửi Bộ Chính trị ĐCSVN ông nêu ra 4 vấn đề: (1)Phải nhìn
nhận lại thế giới; (2) Phải xem lại đường lối phát triển đất nước; (3) Phải xây
dựng nhà nước pháp quyền; (4)Phải xây dựng lại ĐCSVN về tổ chức và về đường
lối, loại bỏ cái gọi là nguyên tắc tập trung dân chủ. Cho đến khi đi xa..., ông
vẫn kiên trì quan điểm phải xây dựng lại ĐCSVN trở thành đảng của dân tộc.
[85] Tham khảo bài đã dẫn: Nguyễn Trung, “Diễn văn của Tổng thống CHLB Đức, Joachim Gauck” http://viet-studies.info/NguyenTrung/MguyenTrung_DienVanTongThongDuc.htm
[86] Ví dụ gần đây nhất là Sam Rainsy, người cầm đầu
đảng đối lập - “đảng Cứu quốc Campuchia” (CNRP) - trong và sau
tranh cử tháng 7 vừa qua đã nhiều lần nói các vùng biển – đảo Trung Quốc đòi
hỏi trên Biển Đông đều thuộc chủ quyền Trung Quốc, ông ta hoàn toàn ủng hộ, các
phát biểu rất xấu của ông ta trực tiếp chia rẽ mối quan hệ Việt Nam –
Campuchia, vân vân… Cách xử sự của Campuchia hiện nay trong vấn đề Biển Đông
rất đáng lo ngại… Hiện nay sự can thiệp trực tiếp dưới nhiều hình thức của
quyền lực mềm Trung Quốc vào Lào và Campuchia là toàn diện và ở mức độ rất nguy
hiểm.
[87] (1)Thái độ dè dặt của Campuchia đối với lập trường các nước
ASEAN trong vấn đề Biển Đông, đối với COC, và (2) sự hậu thuẫn của Campuchia
dành cho lập trường Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông trong các cuộc họp của
ASEAN là những động thái được lặp đi lặp lại. Sự việc này cắt nghĩa nhiều điều.
[89] Một trong những ví dụ gần đây nhất là phía Việt Nam bào
chữa cho nghị định 72, phản bác ý kiến phê phán của Mỹ; trong khi đó nhiều trí
thức Việt Nam đã công khai đòi hủy bỏ nghị định này.
[90] Một doanh nhân là bạn của tôi kể cho tôi nghe mẩu đối thoại
của anh ta với một doanh nhân Israel, đại ý: Các bạn Việt nam
thường nói nhiều về áp lực từ Trung Quốc; điều này đúng. Nhưng dù sao áp lực
như thế nhìn về mặt dân số thì khó khăn ở Việt Nam cũng mới chỉ là tỷ lệ
1 / 13, còn Israel chúng tôi tỷ lệ áp lực này là 1 / 35, lại còn thêm Đạo
Hồi nữa. Hai nước chúng ta chẳng có quyền chọn hay không chọn vị trí địa
lý chúa ban cho như thế, mà chỉ có mỗi con đường phải sống!..
[91] Lịch sử quan hệ quốc tế cận đại và hiện nay có không
ít quốc gia ở vào thế bị các quyền lực bên ngoài o ép, co kéo, giằng xé tứ
phương. Thành công điển hình trong bảo vệ chính mình trước tình huống này có lẽ
là Thụy Sỹ từ trước đến nay, và hiện nay là Israel, ngoài ra cũng phải kể đến
một số nước vùng Scandinavie (BẮc Âu).
[93] Trong giới nghiên cứu Mỹ có ý kiến đại ý: Kinh nghiệm với
Iraq, Afghanistan, các nước Bắc Phi… cho thấy Mỹ không thể gửi trứng cho đối
tượng mình không chắc chắn hợp tác được, chờ cho Việt Nam qua giai đoạn chập
chờn Mỹ sẽ quyết định cũng không muộn.
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/Lu_T2_Final.pdf
[95] Cho đến thời Hồ Cẩm Đào, phía Trung Quốc chỉ nêu “gác tranh
chấp, cùng khai thác”. Từ cuối nhiệm kỳ Hồ Cẩm Đào và đặc biệt là sau Đại
hội 18 của ĐCSTQ, lập trường của Trung Quốc bây giờ là “chủ quyền thuộc Trung
Quốc, cùng khai thác”.
[96] Nếu so nước ta bây giờ với lúc Liên Xô tiến hành Glasnos và
Perestroika thời Gorbachov / Yeltsin, Việt Nam ngày nay có nhiều hiểu biết và
thông tin cần thiết cho cải cách chính trị hơn Liên Xô thời ấy rất nhiều, chưa
nói đến kinh nghiệm trên thế giới bây giờ về thắng / bại của cải cách chính trị
vô cùng phong phú.
(1)
thư của luật sư Trần Vũ Hải ngày 22-08-2013 gửi UB Thường vụ Quốc hội Việt Nam
về “THÀNH LẬP VÀ THAM GIA MỘT ĐẢNG NGOÀI ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁP LUẬT VIỆT NAM”
(2) Hoàng Xuân
Phú, “Uẩn khúc trong Điều 4 của Hiến pháp” http://hpsc.iwr.uni-heidelberg.de/hxphu/index.php?page=readwriting&w=UanKhuatTrongDieu4HienPhap-20130829
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét