Số 19 - Tháng 7/2010
Góp
ý kiến Đại hội XI
Trách
nhiệm lịch sử*
Việt Nam phải sang trang
Nguyễn
Trung
Hà Nội
Kính
dâng Tổ quốc nhân dịp 1000 năm Thăng Long
Hà
Nội, 05-07-2010
*Bài này nên đọc cùng với bài “Việt Nam
trong thế giới thập kỷ thứ hai thế kỷ 21” Thời Đại Mới, số 18,
tháng 3/2010
***
- Viết xong tại Georgia/Wisconsin
tháng 12-2009.
- Hà Nội, đã gửi đến những
người có trách nhiệm của ĐCSVN:
*lần thứ nhất: tháng 01-2010
*lần thứ hai: tháng 04-2010.
- Hà Nội, tháng 6-2010 và tháng 3-2017: đã xem lại.
***
Lịch
sử đầy máu và nước mắt của nước ta trong thế kỷ 20, đặc biệt trong nửa sau
của thế kỷ này cho thấy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước đòi hỏi phải có
tầm nhìn thấu đáo cục diện và xu thế của thế giới hiện tại - với lý tưởng lợi
ích quốc gia là duy nhất và trên hết, để có đủ trí tuệ và bản lĩnh tạo ra cho
đất nước bên trong là sự đồng thuận không gì phá vỡ được, bên ngoài là một
bối cảnh hòa bình tối ưu cho phép – bao gồm những mối quan hệ quốc tế thuận
lợi có thể tranh thủ được. Đòi hỏi này ngày nay rất cấp bách, vì đất nước
đang cần có mọi điều kiện thuận lợi nhất để chuyển sang một giai đoạn phát
triển mới - trong một thế giới đang có nhiều bất trắc mới vì những biến đổi
sâu sắc cả về kinh tế và chính trị đang diễn ra.
Bước
vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ này, thế giới tiếp tục đi sâu vào cục diện đa
cực. Mỹ vẫn là siêu cường duy nhất, song đang xuống dốc nhanh. Trung Quốc
đang ngoi lên nhanh trên con đường trở thành siêu cường.
Điểm
lại, trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh Mỹ chiếm được vị thế quốc tế mạnh
nhất trong lịch sử của nó, song cũng là thời kỳ Mỹ chịu nhiều thất bại và tổn
thất nhất, là thời kỳ quyền lực và ảnh hưởng của Mỹ sa sút nhanh nhất so với
mọi thời kỳ từ sau chiến tranh thế giới II đến nay. Nguyên do là “tham vọng
và gánh nặng đế chế” quá lớn và sự đổ vỡ thảm hại của chủ nghĩa tân tự do
trong kinh tế! Tình hình nghiêm trọng đến mức trong khi tranh cử và kể cả sau
khi thắng cử Obama chủ trương phải thay đổi cấu trúc kinh tế Mỹ, từ bỏ học
thuyết Bush trong chiến lược toàn cầu, Mỹ phải tìm cách tiếp cận mới để không
thu hút mọi gánh nặng toàn cầu vào Mỹ - thực chất là chấp nhận một bước lùi
chiến lược.
Thất
bại của Mỹ kéo theo vị thế toàn cầu của cả phương Tây xuống thấp. Trong
bối cảnh như thế, người ta càng bị ấn tượng sâu sắc là Trung Quốc đang đi
nhanh quá trên con đường trở thành siêu cường - gần như với bất kỳ giá nào:
khai thác lao động rẻ trong nước, chấp nhận môi trường trong nước bị ô nhiễm
tệ hại, thẳng tay trong các vụ Tây Tạng, Tân Cương, chủ nghĩa thực dân mới
kiểu mới ồ ạt ở mọi nơi trên thế giới liên quan đến thu hút tài nguyên, ráo
riết vũ trang, uy hiếp Biển Đông… Trung Quốc 2009 có trong tay 2100 tỷ USD để
giữ vai chủ nợ lớn nhất thế giới và sẽ còn tăng nữa (hiện nay là 2400 tỷ
USD).
Chưa
bao giờ như hiện nay sách báo và các phương tiện truyền thông Mỹ lại đầy dẫy
các nhận định, đánh giá, về Hiện tượng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc trở thành chủ nghĩa tư bản toàn trị đặc sắc Khổng giáo, về Sự
giới hạn của quyền lực Mỹ, về Chiến lược toàn cầu của
Washington đang hủy hoại nước Mỹ, về Triển vọng chẳng lấy gì
làm sáng sủa của Obamanomics, về Sự cáo chung của đế chế Mỹ, vân
vân, - và về …Các chủ thuyết và mô hình phát triển hiện có xuất hiện
nhiều vấn đề phải xem lại. Thế giới trong thập kỷ tới này phải chăng đang
nghiêng về phương Đông?!.. Đang manh nha một trật tự thế giới mới... [1]
Thật
rất khó thờ ơ trước những ý kiến hay nhận định như vậy. Tình hình này liên
quan đến mọi quốc gia, trong đó có lẽ đặc biệt là Việt Nam – vì nước ta
ở sát nách cái “công xưởng thế giới” và nằm ngang con đường độc đạo thuận lợi
nhất cho siêu cường tương lai Trung Quốc vươn ra Thái Bình Dương. Cường quốc
quân sự lớn nhất này trong khu vực đang hàng ngày có nhiều hành động
trực tiếp uy hiếp nước ta trên Biển Đông – mặc dù lãnh đạo Trung Quốc vẫn
khẳng định quan hệ 16 chữ với Việt Nam.
Trên
thế giới đã thấp thoáng các mối lo: Một khi do Mỹ ngày càng suy yếu và vì thế
có thể xuất hiện khả năng Mỹ -Trung Quốc thoả hiệp tay đôi chi phối thế giới,
tình hình sẽ ra sao? Lác đác đã có dự báo về một khả năng lúc nào đó sẽ tái
hiện trở lại “mối quan hệ các quốc gia triều cống” dưới dạng mới nào đó và
Trung Quốc sẽ có một số nước chư hầu thời hiện đại!.. Nếu lại thêm tình hình
một nền kinh tế lớn nào đó – ví dụ Trung Quốc – nổ bong bóng, hay các nền
kinh tế phương Tây chưa có lối ra – ví dụ như căn bệnh “Hy Lạp”[2]… sẽ
chấn động đến nước ta như thế nào? Nếu hai đồng tiền USD và Nhân dân tệ
sẽ “đánh nhau” hay “bắt tay nhau” (vấn đề tỷ giá và phá giá đồng tiền)?..[3] Nếu
quan hệ Mỹ - Trung nóng lên cũng rất phiền toái cho nhiều nước, trước hết là
Việt Nam, vân vân…
Tóm
lại, thế giới vừa bước vào một thời kỳ mới của khủng hoảng mô hình phát triển
kinh tế - đến mức phải nhìn lại nhiều vấn đề của các chủ thuyết,[4]
vừa có nhiều thay đổi lớn trong các mối tương quan chính trị, phía trước có
nhiều chuyện khó lường. Tất cả đặt nước ta đứng trước nhiều thách thức mới.
Nhìn
xa thêm chút nữa, hiện nay Việt Nam là một trong nhóm 11 quốc gia sẽ chịu ảnh
hưởng tàn phá nặng nề nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu, thời gian không còn
nhiều để chuẩn bị đối phó với những nguy cơ đang đến gần – ví dụ khoảng gần
cuối thế kỷ này có thể mất tới 20% diện tích trồng trọt vì mất ruộng và vì
ngập mặn trong khi dân số nước ta vào khoảng thời gian ấy sẽ tăng gấp đôi
hiện nay. Thậm chí ngay từ năm 2020 sự gia tăng của nhiệt độ và biến đổi khí
hậu sẽ tác động nghiêm trọng đến nông nghiệp nước ta…[5] Ngay
trước mắt thiên tai ngày càng nhiều và lớn, nước và năng lượng ngày càng trở
nên khan hiếm, v.v. Đó là những vấn đề nóng bỏng của phát triển của nước ta,
đòi hỏi phải được xử lý ngay từ hôm nay, không thể tiếp tục mô hình phát
triển cũ. Thế hệ hôm nay không có quyền sống nước đến chân mới nhảy, không có
quyền để lại mọi gánh nặng cho các thế hệ sau, càng không được phép đời
cha ăn ốc, đời con đổ vỏ!
Trên
hết cả, sau chặng đường 25 năm đầu tiên của đổi mới, mô hình phát triển
theo chiều rộng[6] đã làm
xong chức năng của nó, đất nước ta nhất thiết phải chuyển sang một giai đoạn
phát triển mới, đòi hỏi phải có những thay đổi sâu sắc và toàn diện. Tình
hình cấp bách đến mức có thể nói: Vì đã đi tới cái ngưỡng của nó, mô hình
phát triển theo chiều rộng ngày càng phát sinh những yếu kém nội tại; nổi bật
là càng tăng trưởng kinh tế như hiện nay càng có nhiều ách tắc, thể chế chính
trị đang tích tụ ngày càng nhiều bất cập, trở thành trở lực chính kìm hãm đất
nước ta phát triển, đang làm tê liệt khả năng của nước ta đối phó với thách
thức cũng như tranh thủ cơ hội mới. Chuyển sang mô hình phát triển theo
chiều sâu – mô hình phát triển dựa trên phát huy sức mạnh của nguồn
lực con người, thực chất cũng là phát huy sức mạnh của dân chủ - ngày nay trở
thành đòi hỏi khách quan của nước ta trong tình hình mới.[7]
Chính
thực tế vừa trình bày trên xác định nhiệm vụ chính yếu đặt ra cho nước
ta trong thập kỷ tới là phải cơ bản khắc phục mọi yếu kém, để mở đường cho
đất nước đi vào một giai đoạn phát triển mới, xử lý thành công mọi thách thức
phía trước trong một thế giới nhiều biến động mới.[8]
Muốn
thế, trước hết cần dũng cảm và nghiêm túc nhìn lại cả chặng đường dân tộc ta
đã trải qua từ khi Thế Chiến II kết thúc cho đến nay. Đơn giản vì lẽ: Có dân
tộc nào muốn thành công trên con đường trở thành một quốc gia phát triển và
văn minh mà không phải nghiêm khắc nhìn lại mình? Lịch sử không làm lại được,
nhưng bài học thì phải rút ra.
Câu
hỏi nên đặt ra là: Vì sao một dân tộc có bề dày lịch sử và văn hóa như dân
tộc ta, vào thời đại ngày nay đã hoàn thành sự nghiệp giành lại độc lập và
thống nhất đất nước trong bối cảnh quốc tế khốc liệt, song lại vẫn là một
quốc gia phát triển lạc hậu sau 35 năm nỗ lực kiến thiết đất nước? Cái gì là
những yếu kém của tự thân nước ta, cái gì là do nguyên nhân cản trở hay kìm
hãm từ bên ngoài? Đối với mọi người Việt Nam quan tâm đến vận mệnh đất nước,
câu hỏi này sẽ nhức nhối hơn nếu so sánh mức độ phát triển mọi mặt nước ta đạt
được hôm nay với những hy sinh, mất mát dân tộc phải chịu đựng trong những
thập kỷ kháng chiến, và sau này là công sức đã bỏ ra cho 35 năm xây dựng và
bảo vệ đất nước, so sánh với các nước cùng điều kiện tương tự nhưng đi nhanh
hơn nước ta!.. Nói đơn giản, nhìn lại 35 năm qua, GDP tính theo đầu người của
nước ta hôm nay tăng khoảng 10-12 lần so với sau khi ra khỏi chiến tranh,
trong khoảng thời gian này Trung Quốc tăng gần 20 lần, Hàn Quốc và Đài Loan
tăng khoảng 40 lần, v.v… Tụt hậu là tụt hậu, cạnh tranh là cạnh tranh, trong
thế giới của hội nhập toàn cầu hoá không có sự chiếu cố “tại vì nước ta
thế này, tại vì nước ta thế nọ…”, cạnh tranh với Trung Quốc càng không có
chuyện chiếu cố “tại vì…” này nọ!..
Những
thành tựu đạt được có thể mở ra một triển vọng tốt đẹp cho đất nước, nhưng
đồng thời thực trạng hiện nay cũng đang thai nghén những hiểm họa khôn lường.
Triển vọng, hay hiểm họa nặng nhẹ hơn nhau như thế nào? Cái nào sẽ lấn át cái
nào?.. Tình hình mọi mặt của đất nước hôm nay đang đặt ra nhiều điều lo âu.
Tất cả nói lên: Đất nước chí ít từ Đại hội IX (2001) đã đứng trước ngã
ba đường: hoặc là dấn thân đi vào hướng phát triển phồn vinh của dân
chủ tự do, hay sẽ ngoặt vào đổ vỡ - do sự tham nhũng độc tài bên trong và do
sự o ép từ bên ngoài![9]
Thành
tựu đạt được dù to lớn đến đâu cũng chưa thể nói là vững chắc, nguy cơ kiếm
củi ba năm thiêu một giờ hoặc rơi vào khốn quẫn luôn luôn cận kề. Nguy cơ
này đang gia tăng. Trong nhiều năm qua khắp nơi trong nước không lúc nào ngớt
tiếng nói nặng lòng với đất nước, với Đảng, đã nêu lên những cảnh báo nghiêm
khắc. Có đảng viên đã chiến đấu gần hết cuộc đời trong hàng ngũ Đảng phải
thốt lên: Đảng trong tim tôi và Đảng ngày nay là hai Đảng khác nhau mất
rồi! Có đảng viên đã lên tiếng cảnh báo về mối nguy của “nội
xâm”[10] và
“ngoại xâm”.
Nếu
tổng hợp những ý kiến đóng góp với thiện chí, một mặt chẳng những sẽ thấy rõ
thực trạng đất nước hiện nay nguy hiểm đến mức nào, mặt khác cũng thấy rõ
ràng lối ra sáng sủa của đất nước nếu quyết tâm lựa chọn.
Không
một sự quy chụp hay xuyên tạc nào có thể bác bỏ những ý kiến phân tích thấu
đáo và thiện chí như vậy. Chỉ riêng việc những người tâm huyết này đặt vấn đề
Đảng phải chủ động tự đổi mới để đất nước thoát tụt hậu và tránh nguy cơ sụp
đổ của Đảng, cũng là tránh nguy cơ tổn thất và đổ máu cho đất nước, đã đủ nói
lên ý thức trách nhiệm của họ.
Còn
bạn bè xa gần đã lên tiếng cảnh báo Việt Nam cần rút ra các bài học trên thế
giới để tránh bằng được rơi vào cái bẫy các nước có thu nhập trung bình
– nghĩa là đi dần đến chỗ bế tắc và không thể trở thành một nước công nghiệp
hóa hay một nước phát triển – với triển vọng cuối cùng là sẽ đi tới hỗn loạn
và sụp đổ - như đang lặp đi lặp lại năm này qua năm khác ở hàng chục nước
đang phát triển khắp nơi trên thế giới. Ngay cạnh nách ta là tình trạng bế
tắc của Thái Lan, Myanma[11]…
Giả
sử đặt ra một cuộc thăm dò ý kiến trong các tầng lớp nhân dân thế hệ đã tham
gia kháng chiến với câu hỏi: Nếu biết cái đích đi tới được sau 35
năm độc lập thống nhất là thực trạng mọi mặt đất nước như hôm nay, liệu dân
tộc ta trước đây có dám hy sinh chiến đấu hết thế hệ này đến thế hệ khác như
vậy dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam hay không? Câu
chuyện có lẽ sẽ còn trầm trọng hơn nhiều nếu tổ chức thăm dò ý kiến nhân dân
về thực trạng hiện nay của đất nước và lòng tin của dân đối với chế độ.
Tuy
rằng chưa có cuộc thăm dò ý kiến với chữ “nếu” như thế này,
song ngày càng nhiều tiếng nói của những đảng viên chân chính bầy tỏ sự thất
vọng về nhiều vấn đề trong thực tại cuộc sống hiện thời. Trong số những người
ấy, có không ít là đảng viên thuộc bậc khai quốc công thần, lão thành cách
mạng... Có những bà mẹ từng mang đơn đi kiện cơ quan chính quyền các tội tham
nhũng đã phải thốt lên: Biết các người hư hỏng như hôm nay, chắc chắn ta
đã không che chở cho các người trong những khi bị địch bố ráp năm nào!
Dù chưa có hay không có những cuộc thăm dò ý kiến rất đáng
làm như nói trên, trong tư duy chúng ta không thể tránh né các chữ “nếu”
để có thể nhìn hết mọi chiều cạnh của sự vật.
Xin đơn cử hai trường hợp cụ thể:
- Một
là: Cố Tổng bí thư Lê Duẩn đã từng
nói chiến thắng giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước là chiến thắng của
toàn dân tộc. Giả thiết rằng với tinh thần như vậy, ngay sau chiến thắng 30
Tháng Tư, nếu Đảng giương cao ngọn cờ dân chủ và thống nhất dân
tộc, thu nhân tâm về một mối, không phân biệt bên này bên kia, kêu gọi mọi
người một lòng đem hết tài sức ra hàn gắn vết thương chiến tranh và phát
triển đất nước… Nếu làm được như vậy, cái bẫy vấn đề Campuchia liệu có
tác dụng ghê gớm đến thế không? Kẻ thù trong, ngoài nào sẽ làm gì được Việt
Nam? Tổn thất mới nào sẽ tránh được, thương đau nào sẽ dịu bớt? Và ngày hôm
nay Việt Nam sẽ đứng ở đâu trong hàng ngũ các quốc gia trên thế giới?..
- Hai
là: Mùa đông 1990-1991 Liên Xô tan
rã, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của phe (hệ thống) xã hội chủ nghĩa, chiến
tranh lạnh kết thúc; trong khi đó Trung Quốc sau khi tiến hành cuộc chiến
tranh biên giới chống Việt Nam tháng 2-1979 chưa ra khỏi chấn động Thiên An
Môn (1989); Mỹ đang bận rộn với chiến tranh vùng Vịnh trừng phạt Iraq
xâm lược Kuwait trong một cục diện quốc tế đã thay đổi (Mỹ chú trọng những
mục tiêu chiến lược toàn cầu khác ngoài khu vực Đông Dương). Giả thiết rằng
trong bối cảnh không còn hai phe như vậy, nếu Việt nam giương
cao ngọn cờ độc lập tự chủ, về đối nội thì phát huy đoàn kết, hòa hợp và hòa
giải dân tộc xây dựng đất nước (mà như vậy cũng có nghĩa là phát huy dân chủ
xây dựng đất nước), về đối ngoại bang giao và hợp tác với mọi quốc gia vì hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, Việt Nam có cần phải tìm kiếm liên
minh ý thức hệ không[12]?
Việt Nam có cần chấp nhận những nhân nhượng không đáng có và liệu có rơi vào
tình thế bị bao vây cấm vận kéo dài đến tận giữa thập kỷ 1990 hay không? Lựa
chọn phương án này, ai làm gì được Việt Nam? Lựa chọn phương án này, Viêt Nam
đương nhiên chẳng phải dựa vào ai, và ngày hôm nay Việt Nam sẽ đứng ở đâu
trong bàn cờ thế giới, trong ASEAN?..
Trên thực tế Đảng đã lựa chọn quyết sách gì vào hai thời
điểm lịch sử nêu trên?
Xin gợi ra đôi điều.
■ Về trường hợp chữ “nếu” thứ nhất:
Sau
khi giành lại được đất nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước cực kỳ
quan trọng. Nhằm mục tiêu này, sau chiến thắng 30 Tháng Tư 1975, Đảng đã lựa
chọn con đường đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội, với niềm tin sâu sắc đó là con
đường mở ra tương lai cho Việt Nam và giành lấy vị thế quốc tế xứng đáng. Về
căn bản, đấy là sự lựa chọn của duy ý chí và lòng yêu nước trên nền tảng
ý thức hệ mà Đảng hằng nuôi dưỡng và theo đuổi.
Sự
lựa chọn này phải chăng đã bỏ qua thực tế cuộc kháng chiến chống Mỹ mang
trong nó 5 hay 6 cuộc chiến tranh khác nhau: (1) Cuộc chiến tranh của nhân
dân ta chống Mỹ xâm lược, (2) cuộc chiến tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa đế quốc mà Việt Nam là tiền đồn – nói khác đi, đó là một cuộc chiến
tranh nóng trong thời kỳ chiến tranh lạnh trực tiếp giữa 2 “phe” diễn ra trên
đất Việt Nam, (3) cuộc chiến tranh trá hình (proxy war) giữa Mỹ và Liên
Xô trên đất Việt Nam, (4) cuộc chiến tranh trá hình giữa Trung Quốc và Mỹ
trên đất Việt Nam, (5) cuộc giành giật ảnh hưởng toàn cầu giữa Liên Xô và
Trung Quốc trên đất Việt Nam, và (6) trên hết cả, và đau lòng hơn tất cả - do
nhiều nguyên nhân chính trị, lịch sử và do bối cảnh quốc tế rất phức tạp
(nhất là những hệ quả của chính sách chia để trị và chủ nghĩa thực dân mới
đang rất thịnh hành hồi đó, những hệ quả của ba dòng thác cách mạng[13] cuốn
hút hầu như toàn bộ thế giới thứ ba trong thời kỳ này, của 2 phe 4 mâu
thuẫn, sự xô đẩy của các trào lưu trên thế giới...) - cuộc chiến tranh
này còn mang tính chất nội chiến Bắc-Nam kéo dài, rất đẫm máu và sâu sắc, bắt
nguồn rất sớm từ thời kỳ nước ta mới bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, và
đấy cũng là tình huống nước ta bị xô đẩy vào, là bi kịch dân tộc, là cái giá
bắt buộc phải trả vô cùng đau xót cho thống nhất đất nước[14].
Nhìn
lại có thể nói: Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược kết thúc, mọi vấn
đề thời hậu chiến đặt ra từ 6 cuộc chiến tranh này không được nhìn nhận thấu
đáo, không được xử lý thỏa đáng. Về đối nội không làm tốt được hòa giải, dung
dưỡng sức dân, thu nhân tâm về một mối và tạo ra sinh lực mới của đất nước để
giữ cho trong ấm. Về đối ngoại là thực hiện không tốt bài học của cha ông:
đánh giặc xong còn phải lo trải chiếu hoa mời giặc cút về để giữ cho được ngoài êm. Mọi nỗ lực
sau khi kháng chiến kết thúc chủ yếu chỉ được dành cho quan điểm thừa thắng
xông lên giành chiến thắng cho xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mọi sai lầm chủ
quan và duy ý chí bắt đầu từ đây.
Sự
lựa chọn nói trên của Đảng sau 30 Tháng Tư 1975 còn dựa trên lòng tin chủ
nghĩa xã hội là xu thế tất yếu và đang chiến thắng của thời đại (mặc dù chủ
nghĩa xã hội cho đến nay còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ). Suy nghĩ chủ
quan này không nhìn nhận đúng thực tế tình hình thế giới lúc đó là: Lợi ích
quốc gia và lợi ích chiến lược toàn cầu cũng như thực lực của từng bên hữu
quan giữ vai trò chủ chốt trên bàn cờ thế giới lúc đó. Những bên hữu quan ấy
là Mỹ và phe cánh, Trung Quốc và phe cánh, Liên Xô và phe cánh… Chính ba thế
lực này mới là các nhân tố chủ yếu chi phối trực tiếp tình hình thế giới thời
kỳ này – nhất là tại khu vực nước ta, chứ không phải là chủ nghĩa xã hội với
tính cách là xu thế tất yếu của thời đại như những người cộng sản Việt Nam
thời đó tin tưởng[15].
Chính
sự lựa chọn nói trên của Đảng có lẽ cắt nghĩa được vì sao ngay sau 30 Tháng
Tư 1975 Việt Nam mau chóng rơi vào cái bẫy “Campuchia” do Trung
Quốc sắp đặt[16], bị
cô lập trên thế giới cả một thập kỷ sau đó, để cho Trung Quốc và Mỹ tha hồ
khai thác tình trạng cô lập này và cố “gỡ” lại những gì họ đã mất![17]
Trong
khi đó duy ý chí đã khiến cho đường lối phát triển đất nước của Đảng đi vào
ngõ cụt, dẫn đến khủng hoảng trầm trọng,[18]
chế độ chính trị của đất nước đến gần miệng hố sụp đổ, các vết thương chiến
tranh và các vết thương trầm trọng khác trong lòng dân tộc chẳng những không
được nỗ lực hàn gắn mà có những mặt còn bị những chính sách sai lầm khoét sâu
thêm.
Nói
rốt ráo, có thể coi đấy là sự lựa chọn của chủ quan duy ý chí cho chiến thắng
và vinh quang của Đảng sau khi đã hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước,
mặc dù - và xin nhấn mạnh - sự lựa chọn này dựa trên chủ nghĩa yêu nước với
niềm tin sâu sắc của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Tình trạng này gây nên bị
động chiến lược nguy hiểm cho đất nước, kéo dài cả một thập kỷ với nhiều hệ
quả lâu dài về sau.
Đặt
lại vấn đề như thế, riêng về đối nội, liệu có thể nói: Với sự lựa chọn nêu
trên, Đảng đã đánh mất cơ hội là người duy nhất lúc ấy có khả năng và
uy tín lớn nhất thực hiện sự nghiệp thống nhất dân tộc một cách bền vững và
mãi mãi trên nền tảng của dân chủ cho một đất nước đã từng mấy thập kỷ bị
nước ngoài xâu xé và xô đẩy vào trạng thái nội chiến đẫm máu. Phải
chăng là như vậy?
Xin
lưu ý, sau giải phóng miền Nam ngày 30-04-1975, với tư cách là người chiến
thắng, quan trọng hơn nữa là với tư cách là lực lượng duy nhất lãnh đạo dân
tộc trong thời kỳ hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, Đảng Cộng sản
Việt Nam là người có tính chính đáng và có thực lực nhất, thậm chí có nghĩa
vụ cao cả và nặng nề nhất, thực hiện sự nghiệp thống nhất dân tộc - chẳng
những để vĩnh viễn khép lại quá khứ đau thương của dân tộc mà còn vì tương
lai lâu bền của đất nước. Sự nghiệp độc lập thống nhất của quốc gia sẽ
là gì nếu chưa hoàn thành sự nghiệp thống nhất dân tộc?
Nắm
quyền lãnh đạo, Đảng không thể thoái thác nhiệm vụ lịch sử trọng đại này.
Bởi
vì sau khi có độc lập thống nhất quốc gia, sự nghiệp thống nhất dân tộc
như thế là bảo đảm vĩnh viễn tính bất khả xâm phạm của non sông đất nước, là
nguồn gốc sức mạnh phục hồi đất nước và xây dựng một Việt Nam cường thịnh,
hạnh phúc, là làm cho đất nước trở nên mãi mãi bất khả kháng trong tương lai.
Thực hiện được sự nghiệp thống nhất dân tộc như thế sẽ có thể là con đường
ngắn nhất để Việt Nam mau chóng có đủ lực trở thành một đối tác bình đẳng
trong cộng đồng quốc tế hôm nay! Có phải như vậy không?
Trên
đây là bàn lại về lịch sử.
Nhìn vào hiện tại, cần nhấn mạnh trong 25 năm đổi mới đã có
nhiều chính sách khắc phục những yếu kém vấp phải, và đã tăng cường đáng kể
khối đoàn kết thống nhất dân tộc. Kết quả của những chính sách đúng này đã
góp phần nào vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, vết thương dân tộc, và
tăng cường khối đoàn kết toàn dân. Chính những thành quả này đã đảo ngược
tình thế hiểm nguy của đất nước, phát triển đất nước về nhiều mặt 25 năm qua,
khẳng định tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết thống nhất dân tộc. Nếu so tình
hình hôm nay với 10 năm đầu sau khi hoàn thành thống nhất đất nước rõ ràng đã
đạt được một bước tiến bộ trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Điểm
lại, cốt lõi của sự chuyển biến quan trọng này là những việc đã làm được
trong thực thi dân chủ trên nhiều phương diện. Thực tế đã diễn ra cho thấy: Dân chủ được thực hiện tới
đâu, khối đại đoàn kết thống nhất dân tộc trở thành hiện thực đến đấy, chỗ
nào là dân chủ hình thức thì chỉ có đại đoàn kết thống nhất dân tộc hình thức
– và đây là điều cần rút ra cho tương lai để đi tiếp.
Tuy
nhiên cũng cần thẳng thắn nhận xét: Con đường phải đi còn rất dài cho việc
thực hiện sự thống nhất dân tộc có khả năng tạo ra hào khí mới cho đất nước
mà sự nghiệp xây dựng nước đất nước dân chủ, giàu mạnh, công bằng, văn minh
không thể thiếu. Đó là sự thống nhất dân tộc với tính chất là:
(a) làm nền tảng cho quyền làm chủ của nhân
dân – nghĩa là nền tảng cho quyền lực của dân,
(b) bảo đảm gìn giữ kỷ cương nhất thiết phải
có của thể chế chính trị dân chủ và
(c) trở thành cội nguồn sức mạnh của đất nước.
Thống
nhất dân tộc với chức năng như thế sẽ không thể là một sự thống nhất
“tả-pí-lù”, thống nhất của “bầy đàn” có người chăn dắt. Đấy phải là sự thống
nhất của nhân dân, được xây dựng trên sự giác ngộ của nhân dân về quyền và
nghĩa vụ của mình, có ý thức cùng hợp nhất lại để tạo ra sức mạnh cho dân
tộc, cho quốc gia. Đấy chính là sự thống nhất dựa trên sự giác ngộ sâu
sắc của dân về dân chủ.
Tạo ra thống nhất dân tộc trên cơ sở phát huy trí tuệ và
quyền năng của nhân dân như thế, tạo ra sự thống nhất dân tộc với ba chức
năng cụ thể nêu trên như thế, nhất thiết đòi hỏi phải có sự lãnh đạo để thực
hiện, phải giác ngộ từng người dân để thực hiện. Xin nhấn mạnh: Cốt lõi của
sự thống nhất dân tộc với nội dung và chức năng như thế chính là dân chủ.
Từng người dân giác ngộ quyền và nhiệm vụ của mình đối với đất nước sẽ chỉ
giống như “một cây làm chẳng nên non”, nhưng toàn dân thống nhất được như thế
về quyền và nhiệm vụ đối với đất nước trên cơ sở giác ngộ về dân chủ, với ý
thức hợp nhất lại với nhau, sẽ là tiền đề tất yếu làm cho quyền lực của dân
thuộc về dân và được thực hiện, không thế lực nào tước đoạt được.
Sự
thống nhất dân tộc như thế sẽ là tiền đề tất yếu của một Việt Nam hưng thịnh,
về bên trong thì đủ khả năng trấn áp bất kỳ “nội xâm” nào và có sức phát
triển năng động, về bên ngoài thì đủ mạnh để tạo ra được chỗ đứng phải có cho
đất nước và để trở nên bất khả kháng đối với bất kỳ thứ “ngoại xâm” nào.
Thống nhất dân tộc với chức năng như thế vẫn là cái đích quan trọng phía
trước, nhất thiết phải hướng tới.
Đã
có nhiều ý kiến tâm huyết nhấn mạnh:
Cho
đến nay Đảng vẫn chưa làm xong nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân hoàn thành sự
nghiệp thống nhất dân tộc đúng với tinh thần (a) hàn gắn vết thương quá khứ,
(b) thu phục nhân tâm về một mối, (c) thống nhất ý chí vì một Việt Nam dân
chủ, giàu mạnh, công bằng, văn minh và về con đường cho mục tiêu này (xin
nhấn mạnh: sự thống nhất về con đường) [19].
Chưa có thể nói đã tạo ra được sự thống nhất dân tộc với tinh thần hòa hợp
hòa giải, nhằm tạo ra sự đồng thuận lớn nhất làm động lực xây dựng và bảo vệ
đất nước. Nhìn lại càng chưa thể nói Đảng đã mở ra được một trang sử
mới cho đất nước trên con đường xây dựng một chế độ chính trị gồm những giá
trị khiến người dân cảm nhận được chế độ chính trị ấy của đất nước gắn bó với
mình gần như đồng nghĩa với Tổ Quốc. Mọi việc còn đang ở phía trước![20]
Ba
mươi lăm năm qua tình trạng thiếu vắng sự thống nhất dân tộc ở tầm cao như
thế một mặt đã kìm hãm nghiêm trọng sự phát triển của đất nước, mặt khác
không tạo ra được sức mạnh cần thiết kiểm soát sự tha hoá của hệ thống chính
trị. Tình hình và nhiệm vụ mới đặt ra cho đất nước ở bước ngoặt hiện nay lại
càng đòi hỏi thực hiện thống nhất dân tộc với nội dung và chức năng như vậy.
Nhận về mình sứ mệnh lãnh đạo, chẳng lẽ một sự nghiệp thống nhất dân tộc như
thế không đáng ghi vào Cương lĩnh của Đảng để toàn Đảng phấn đấu, không đáng
để cho Đảng mang hết ý chí, nghị lực và tâm huyết lãnh đạo nhân dân xây dựng?
Xin
nói thêm:
Vết
thương dân tộc của quá khứ ngày nay phải được hàn gắn không phải chỉ có
chuyện Bắc - Nam, mà còn bao gồm tất cả mọi tổn thất, sai lầm và yếu kém khác
của đảng cầm quyền, bao gồm hệ quả của biết bao đoạn trường quanh co rất đau
lòng của đất nước đã xảy ra vì bất kỳ lý do gì sau khi thống nhất đất nước mà
ngày nay không lấy lại được.
Xem
xét vết thương quá khứ còn có nghĩa phải xem xét rất nhiều các vết thương
khác chia rẽ dân tộc xuất hiện trong các thời kỳ lịch sử khác nhau của đất
nước, kể cả những thời kỳ trong lịch sử Việt Nam cận đại từ khi Pháp đô hộ
nước ta cho đến nay – bao gồm cả chia rẽ chính trị, chia rẽ các đảng phái,
chia rẽ tôn giáo đang để lại nhiều tàn dư tiêu cực… Khép lại vết thương của
quá khứ còn đòi hỏi có cái tâm và trí tuệ gạt bỏ mọi tư duy cũ, thành kiến
hay định kiến cũ, để trân trọng từng hy sinh, mất mát – dù trong hoàn cảnh
nào, máu nào đổ cũng là máu Việt Nam, để bao dung, vị tha với nhau, để cùng
động viên nhau vắt óc tìm đường đi lên cho đất nước.
Cho
đến hôm nay vẫn chưa xây dựng nên được cho đất nước một chế độ chính trị gắn
bó toàn dân tộc gần như đồng nghĩa với Tổ quốc, nguyên do chủ yếu là lãnh đạo
Đảng và Nhà nước chưa thiết kế và chưa xây dựng được cho đất nước một thể chế
dân chủ đích thực: Người dân là chủ của chính mình và là chủ của đất nước,
không có độc quyền yêu nước, nước Việt Nam là của mọi người Việt Nam yêu nước
dù chính kiến, tôn giáo, địa vị xã hội hay giai cấp nào, tất cả đều bình đẳng
và không phân biệt quá khứ bên này bên kia, giá trị cao nhất – và cũng là lý
tưởng cao nhất – để xác định, đánh giá và tôn vinh vị trí của mỗi người là sự
cống hiến cho một nước Việt Nam cường thịnh… Nói cách khác, giải phóng
xong đất nước, nhưng cho đến nay vẫn chưa hoàn thành được nhiệm vụ giải phóng
đích thực: Mỗi người dân có quyền sống vì mình và vì đất nước, để từ quyền
này xây dựng sự đồng thuận tối đa và bất khả xâm phạm của toàn dân tộc cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc;[21]
nghĩa là người dân chưa thực sự có tự do dân chủ, chưa phải là chủ của chế độ
chính trị cai quản đất nước. Không có gì quý hơn độc lập tự do
cần được hiểu là cho đất nước và cho cả từng công dân của nó. Sự thật là có
cái này thì phải có cái kia, mới có được cái kia: Làm sao một nước có thể độc
lập tự do mà dân của nó không được độc lập tự do, và ngược lại cũng
thế.
Hơn
nữa, để hàn gắn vết thương dân tộc, mỗi người còn nên khép lại quá khứ với
chính mình - vì một bước tiến mới cho bản thân mình, cho đất nước, và vì một
điều tốt đẹp gì đó đáng mong đợi cho mình trong tương lai, để không thỏa mãn
ngồi xổm trên vinh quang của quá khứ, hoặc cũng không ủ dột với những vấp
váp, và càng không nên để cho quá khứ nuôi dưỡng thù hận riêng mà làm yếu sơn
hà xã tắc. Khép lại quá khứ như thế là mỗi người tự mở ra cho chính mình một
thế giới mới, trước hết là vì sự tiến bộ và hoài bão chính đáng của chính
mình, và cùng nhau đóng góp chung vào sự tiến bộ của đất nước...
Khép
lại quá khứ, hướng về tương lai với tinh thần nêu trên là việc nên làm của từng
người Việt Nam, để tất cả bắt tay nhau mở ra một trang sử mới cho Tổ quốc,
dốc lòng làm rạng rỡ đất nước mình, coi đấy là báo đáp tổ tiên và phấn đấu
hết mình cho tương lai của bản thân mình và con cháu.
Thu giang san về một mối thực chất là như vậy. Là nhiệm vụ
của lực lượng lãnh đạo đất nước và nhiệm vụ của từng người!
Có
gì ngăn cấm mỗi người Việt Nam chúng ta ước mơ sống như vậy và quyết tâm sống
như vậy? Suy nghĩ và sống như vậy là không yêu nước? là trái với định hướng
xã hội chủ nghĩa? là phi giai cấp? Là ảo tưởng? Hay là nghĩ như vậy mới rõ
ai là ai? Không dám suy nghĩ như vậy mới là thấp kém? Nước ta đã khép
lại quá khứ với tất cả các nước đã xâm lược ta, để bình thường hóa quan hệ,
để hũu nghị và hợp tác; vậy giữa người Việt chúng ta với nhau và trong từng
người tại sao không?
Thực
tế thiếu vắng sự thống nhất dân tộc ở tầm cao trên nền tảng của dân chủ như
vậy khiến cho trong 35 năm qua đã mắc bao nhiêu sai lầm; lãng phí biết bao
nhiêu trí tuệ, nhân tài và tiềm năng to lớn của dân tộc; bỏ lỡ biết bao nhiêu
cơ hội lớn; đã thế còn gây thêm biết bao nhiêu khó khăn và đau thương không
đáng có; quá khứ đầy máu và nước mắt của dân tộc vì thế cho đến hôm nay vẫn
chưa sao khép lại được; nguy cơ rạn nứt vẫn tiềm tàng. Đấy là chưa nói đến
ngay trong nội bộ Đảng vẫn chưa sao loại bỏ được hết sự phân chia vùng, miền,
tính công thần, cục bộ địa phương nặng nề... Trong lương tri người dân nặng
lòng với đất nước riết róng những câu hỏi rớm máu: Người Việt ta sao không
lo chung lưng đấu cật vươn lên và đối mặt với cả thế giới mà cứ lo cào xé,
ghen tị, đố kỵ nhau? Việt Nam hôm nay sẽ đứng ở đâu trên thế giới này nếu đã
hoàn thành được sự nghiệp thống nhất dân tộc với nội dung và chức năng như
thế? Nếu thống nhất dân tộc như thế trở thành một trong những giá trị
cao cả nhất của lẽ sống của mỗi người Việt Nam chúng ta!..
Nhiệm
vụ thống nhất dân tộc này đến hôm nay chưa thể nói là đã hoàn thành, không
phải chỉ vì còn những vấn đề của quá khứ chưa được giải quyết thỏa đáng, mà
còn vì các nguyên nhân trong hiện tại:
(a) chưa tạo ra được ý chí thống nhất của toàn dân tộc về
con đường phát triển đất nước,
(b) tệ nạn quan liêu tham nhũng đang tích tụ những bất
công mới và huỷ hoại ghê gớm mọi nỗ lực cho sự thống nhất này,
(c) đang xảy ra những phân hóa và chia rẽ mới trong nội bộ
các tầng lớp nhân dân với nhau và giữa nhân dân với chính quyền.
Trong
thực tế cuộc sống vẫn tồn tại không ít quan điểm, chính sách, cách cư xử
không dung nạp sự thống nhất dân tộc đáng mong muốn này, khiến cho lời nói và
việc làm khác nhau. Trên hết cả, nguyên nhân chủ yếu vẫn là thiếu hẳn
một thể chế dân chủ thực hiện được đại đoàn kết dân tộc, hòa hợp và hòa giải
dân tộc - nhằm một mặt là khép lại quá khứ, mặt khác là đẩy lùi tham
nhũng tiêu cực, tất cả nhằm tạo dựng đồng thuận và khơi dậy sức mạnh cả nước.[22]
Chính vì thiếu vắng sự thống nhất dân tộc ở tầm cao như vậy trên nền tảng dân
chủ, nên các quyền của dân được ghi trong Hiến pháp không thực hiện được,
thiếu vắng sức mạnh cần thiết của nhân dân gìn gữ sự trong sạch của chế độ
chính trị, không đủ sức đẩy lùi được sự tha hoá của hệ thống chính trị đang
ngày càng tự diễn biến thành bộ máy cai trị.
Tổ
quốc chúng ta đang đứng trước những hiểm nguy và thách thức lớn, chẳng lẽ
điều này không đáng để mỗi người Việt Nam chúng ta vươn lên đứng ở tầm quốc
gia của mình, để suy nghĩ, để tự giác ngộ và giành lấy quyền của chính mình,
để phấn đấu và hành động xây dựng sự thống nhất dân tộc trên nền tảng dân chủ
như vậy hay sao? Tự nhận lấy vai trò tiền phong chiến đấu, thiết nghĩ
người đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam phải là công dân đầu tiên trả lời câu
hỏi này! Để cho đất nước còn phải chịu nhiều trở lực của tha hoá và tham
nhũng trong hệ thống chính trị như hôm nay, có phần còn thiếu sự giác ngộ và
phấn đấu nêu trên của từng người dân, từng công dân. Cần thừa nhận là đang
tồn tại thực tế này, để mỗi người dân hiểu rõ và chủ động tìm cách thực hiện
quyền và trách nhiệm của chính mình, bởi vì quyền lực không biết làm từ
thiện.
Đảng
cầm quyền muốn xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân mà
không dành mọi nỗ lực xây dựng bằng được quyền lực của nhân dân dựa trên nền
tảng thống nhất của dân chủ như vậy, nhà nước định xây dựng nên sẽ chỉ còn là
khẩu hiệu, trong thực trạng này bản thân đảng cầm quyền cũng tự tha hoá dần
thành đảng cai trị.
■
Về trường hợp chữ “nếu” thứ hai:
Trước
khi trình bày, xin nhắc lại một điểm: Tinh thần độc lập tự chủ và ý chí đặt
lợi ích quốc gia trên hết là một trong những yếu tố quyết định của Đảng lãnh
đạo làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước! Rồi đây
lịch sử có lẽ sẽ công bố cho mọi người biết cuộc kháng chiến này đã phải vượt
qua những tác động gay go hay kiềm chế từ bên ngoài như thế nào, lúc thì sợ kháng
chiến của ta loang thành chiến tranh lớn, lúc thì cần Viêt Nam ta đánh Mỹ
đến người Việt Nam cuối cùng, lúc thì muốn ta hòa hoãn, với lý do chổi
ngắn không quét được rác xa, thống nhất đất nước (Việt Nam) là sự nghiệp hàng
trăm năm!.. Những sự can thiệp như thế diễn ra trong tình hình cuộc kháng
chiến của ta phải dựa vào nguồn chi viện rất lớn của các nước bạn! Có lúc ta
đã phải nói thẳng với bạn: Không giúp, người Việt Nam chúng tôi cũng chiến
đấu chống Mỹ xâm lược đến cùng!
Câu
hỏi đặt ra là: Tinh thần, ý chí độc lập tự chủ và Tổ quốc trên hết ấy
của Đảng trước tình hình sụp đổ của các nước Liên Xô Đông Âu cuối thập kỷ
1980 như thế nào?
Thay
vì khôi phục quan hệ bình thường, hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc trên cơ
sở độc lập tự chủ và lợi ích quốc gia trên hết, lãnh đạo Đảng lúc ấy đã lựa
chọn liên minh ý thức hệ với Trung Quốc. Thậm chí lúc ấy hy vọng có thể cùng
với Trung Quốc xây dựng liên minh còn lại cuối cùng của chủ nghĩa xã hội trên
thế giới, bảo vệ chủ nghĩa xã hội!
Quá
trình đi tìm liên minh này mở đầu từ hội nghị Thành Đô năm 1990, trong bổi
cảnh Trung Quốc đã tiến hành cuộc chiến tranh biên giới tháng 2-1979 và tiếp
tục kéo dài xung đột vũ trang lấn chiếm biên gới nước ta đến năm 1989, xâm
chiếm thêm 7 đảo của ta trên Biển Đông 1988 – nghĩa là trong thế yếu của ta
trước sức ép mọi mặt của Trung Quốc. Kết quả là chỉ được Trung Quốc công nhận
là đồng minh, chứ không phải là đồng chí – trước hết vì chính Trung Quốc cũng
không muốn giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội trước thế giới, sau nữa Trung
Quốc chỉ muốn coi ta là một đối tác có nhiều khác biệt với Trung Quốc. Xem
những gì được viết trong các sách báo chính thống của Trung Quốc ngày nay,
còn phải kết luận: Trong thâm tâm những người lãnh đạo Trung Quốc từ đó đến
nay đặt nước ta ở vị trí thấp hơn nữa trong chính sách đối ngoại của họ.
Hồi
ấy trong lãnh đạo Đảng có những ý kiến không tán thành quyết sách đi tìm liên
minh kiểu như thế này, nhưng đã bị gạt đi.[23]
Rất
nên đặt ra câu hỏi: Phải chăng sự lựa chọn như vậy của lãnh đạo Đảng nói
lên sự hoang mang dao động trước bước ngoặt lịch sử của thế giới: Chiến tranh
lạnh kết thúc với sự sụp đổ của các nước Liên Xô Đông Âu!?
Nếu là như vậy, phải chăng thực chất và trước tiên sự lựa
chọn này hầu như chỉ nhằm bảo vệ quyền lực và chế độ chính trị của Đảng, nhân
danh bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trong nước, nhân danh bảo vệ trào lưu và
con đường của chủ nghĩa xã hội trên thế giới?
Trong
các thời kỳ cách mạng trước, quan điểm độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa
xã hội được gắn kết với lợi ích quốc gia, với chủ nghĩa yêu nước theo
quan điểm ý thức hệ của Đảng. Nhưng bước vào thời kỳ này trở đi, với cách đi
tìm liên minh như vậy, phải chăng quan điểm này ngày càng được nhấn mạnh, trở
thành tiêu chí và kim chỉ nam cho mọi đường lối chính sách và hành động của
Đảng trong đối nội cũng như đối ngoại – nhưng lại với mục đích tối thượng là
bảo vệ chế độ chính trị của Đảng; lợi ích quốc gia bị đánh đồng với mục đích
tối thượng này và trên thực tế tụt xuống vị trí thứ hai?
Đặt
ưu tiên như vậy, phải chăng có nghĩa quyền lợi quốc gia chỉ được thực hiện
trong phạm vi không thách thức quyền lực của Đảng?
Cứ
giả định rằng bảo vệ chế độ chính trị trong tình hình các nước LXĐÂ sụp đổ
như vậy cũng hoàn toàn xuất phát từ lập trường bảo vệ lợi ích quốc gia,
nghĩa là không mảy may có vấn đề đặt lợi ích quốc gia xuống hạng hai, thì chí
ít cũng phải kết luận: Ý thức hệ và tầm nhìn lúc ấy đã ngăn cản lãnh đạo Đảng
đi tới một nhận định khác có lẽ đúng hơn, cần rút ra để lựa chọn quyết định
tối ưu nhất cho đất nước: Việt Nam trong tình hình này cần đứng lên
giữa thế giới với tính cách là một quốc gia - với tất cả tinh thần độc lập tự
chủ, hòa bình và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, tự tìm ra con
đường phát triển cho nước mình, không cần đi theo ai hoặc dựa vào ai!
Nếu chọn con đường như vậy, ai sẽ làm gì được ta? Hay là: Nếu chọn con đường
như vậy, nước ta sẽ bước lên một vị thế mới chưa từng có, sẽ là phương thức duy
nhất hữu hiệu gìn gữ được quan hệ hợp tác hữu nghị đời đời với Trung Quốc
trên cơ sở 5 nguyên tắc chung sống hòa bình mà chính Trung Quốc đề xướng[24]?..
Chọn con đường như vậy, cả dân tộc ta sẽ vùng đứng lên như thế nào cho một
Việt Nam mới?!..
Đương
nhiên, nói gì bây giờ cũng chỉ là nói hậu. Nhưng xin nhấn mạnh: Lịch sử không
làm lại được, nhưng bài học thì phải rút ra. Rất đáng nghĩ lại lắm! Vì cuộc
sống của nước ta phía trước đang rất cần một Việt Nam hiểu biết sâu sắc thế
giới và có bản lĩnh như thế! Chọn con đường như vậy, có lẽ không có một sức
ép hay sự ngăn cản nào từ bên ngoài nước ta không thể vượt qua được. Nhưng
nếu chọn con đường như vậy, chắc chắn Đảng phải vượt qua trở ngại lớn nhất
của chính mình: Phải thực hiện dân chủ!
Cần
nói thêm, vào thời điểm này:
·
Mỹ bận tâm với các mối quan hệ
chiến lược toàn cầu ở Trung Đông và Đông Âu (khi các nước xã hội chủ nghĩa ở
đây khủng hoảng và đi vào quá trình sụp đổ).
· Trung Quốc sau khi thất bại trong chiến tranh biên giới
đánh Việt Nam đang chưa ra khỏi chấn động của sự kiện Thiên An Môn năm 1989,
chiến tranh biên giới Việt-Trung đi dần vào thời kỳ kết thúc hẳn.
· Trên mặt trận phía Tây Nam vấn đề Khmer đỏ ở Campuchia cơ
bản đã giải quyết xong: Ta đã hoàn thành tốt nghĩa vụ cứu nhân dân Campuchia
thoát khỏi nạn diệt chủng do bè lũ Pol Pot gây ra. Ngoại trừ Trung Quốc bảo
vệ Khmer đỏ nên ngoan cố đòi “giải pháp đỏ cho vấn đề Campuchia”[25],
toàn thế giới còn lại – trước hết là các cường quốc phương Tây có liên quan -
đều lên án Khmer đỏ, những điều kiện cho giải quyết hòa bình vấn đề Campuchia
đã hội đủ và chín muồi, đồng thời qua việc giải quyết hòa bình vấn đề
Campuchia như vậy sẽ mở ra cho ta nhiều thuận lợi bình thường hóa quan hệ với
Mỹ và Trung Quốc.
Nghĩa
là tình hình lúc ấy không thể hay rất khó có thể xảy ra một cuộc chiến tranh
ngoại xâm mới bất kỳ từ đâu tới chống lại Việt Nam. Trung Quốc lúc này chỉ có
thể tiếp tục cuộc chiến tranh biên giới chống ta đang tàn lụi dần, chứ không
thể mở rộng thêm hay tiến hành một cuộc chiến tranh mới chống ta; chính bản
thân Trung Quốc lúc này cũng lúng túng vì có nhiều chuyện khác phải lo – nhất
là lo ảnh hưởng của Liên Xô sụp đổ tác động vào nội tại Trung Quốc và các dư
chấn sâu sắc khác. Còn về phía nước ta, sau những thành công đầu tiên
của đổi mới (được tiến hành từ Đại hội VI, 1986) kinh tế bắt đầu khởi sắc, kể
từ 1987-1988 trở đi chế độ chính trị nước ta đã được củng cố vững chắc, hầu
như lúc ấy không có một sự uy hiếp đáng kể nào từ bên trong.
Nghĩa
là vào thời điểm các nước Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, tình hình nội trị bên
trong của nước ta cũng như bối cảnh quốc tế bên ngoài lúc ấy không nhất thiết
buộc lãnh đạo Đảng phải đi tìm liên minh ý thức hệ bằng cách thỏa hiệp với
Trung Quốc, với kết cục từ đấy trở đi chính sách o ép, lũng đoạn Việt Nam của
Trung Quốc cho đến hôm nay ngày càng leo thang, cái giá phải trả là tình hình
hôm nay! Có phải như vậy không? Trong khi đó các bài học khác cho ta về Trung
Quốc ở Hội nghị Geneva 1954, về cuộc gặp Mỹ-Trung ở Thượng Hải 1972, về hải
quân Trung Quốc tấn công đẫm máu chiếm Hoàng Sa 1974 và chiếm thêm một số đảo
nữa ở Trường Sa 1988… còn nóng bỏng! Hay là ấn tượng của chiến tranh
Campuchia và chiến tranh “dạy cho Việt Nam bài học” tháng 2-1979 quá sâu
sắc?
Phải
chăng đặt ra những câu hỏi như vậy sẽ thấy rõ được nhiều điều cay đắng!?[26]
Sau khi kháng chiến chống Mỹ xâm lược kết thúc, sự việc
diễn ra là:
(1) đất nước rất sớm rơi vào cái bẫy của “vấn
đề Campuchia”,
(2) để cho Trung Quốc trở thành thế lực đối kháng
thù địch đến mức ghi vào Hiến pháp, rồi sau đó lại phải tìm đường liên minh ý
thức hệ với Trung quốc ở hội nghị Thành Đô năm 1990, với kết quả hôm nay
không đúng như mong đợi,
(3) kháng chiến kết thúc 20 năm mới bình thường hóa
được quan hệ với Mỹ (1994-95),
(4) sau kháng chiến 35 năm vị thế quốc tế của Việt
Nam và ảnh hưởng của nó đối với thế giới bên ngoài không đáp ứng thỏa đáng
đòi hỏi của xây dựng và bảo vệ tổ quốc –
Bốn
điểm nổi bật này nói lên sự lạc lõng của nước ta trong bối cảnh hậu chiến,
được sách báo nước ngoài, kể cả ở Trung Quốc, từ niều năm nay tổng hợp lại và
phân tích khá sâu sắc, đương nhiên mỗi bên hữu quan ra sức khai thác theo
những cách khác nhau cho lợi ích riêng của mình[27].
Ngày
nay khoảng cách thời gian đã đủ để đánh giá bốn điểm này là những thất bại
nghiêm trọng của nền ngoại giao Việt Nam mang nặng tính ý thức hệ trong thời
bình, vì nó (a) không đủ sức tránh cho quốc gia những đòn hiểm độc của bên
ngoài, (b) không tạo ra được bối cảnh bên ngoài thuận lợi cho quốc gia sau
khi vừa mới bước ra khỏi chiến tranh tàn khốc kéo dài[28]!
Đường lối đối ngoại như thế vẫn còn nhiều dấu ấn nặng nề trong hiện tại, nhất
thiết phải được thay đổi, dựa trên thay đổi nhìn nhận về thế giới, và trước
hết là phải dựa trên thay đổi đường lối đối nội và phát triển đất nước. Bởi
vì ngoại giao nào cũng phải xuất phát từ đối nội.
Thực
tế nêu trên càng khẳng định cần thấm nhuần bài học của cha ông ta: Phải có đủ
trí tuệ và bản lĩnh để trải chiếu hoa mời giặc cút về sau khi đánh bại chúng,
và trong hòa bình phải xác lập ý chí thực hiện nền ngoại giao dấn thân đi với
cả thiên hạ - vì mình, mình vì người, và từ đó tạo ra tình thế mọi người vì
mình[29].
Rõ
ràng là phải mất bao nhiêu hy sinh xương máu và thời gian trong các cuộc
kháng chiến mới hoàn thành được giải phóng và thống nhất đất nước, rồi
lại phải chờ đến lúc xảy ra biến cố lịch sử rất quan trọng của thế giới là sự
kết thúc chiến tranh lạnh, rồi còn phải nhờ cả hai điều quan trọng này hội tụ
với nhau về thời gian nên mới tạo ra được cho nước ta hai cơ hội lớn:
(a) cơ hội thực hiện sự thống nhất dân tộc ở tầm cao của trí tuệ và ý chí dựa
trên dân chủ, (b) cơ hội bức phá đứng lên là một quốc gia độc lập tự chủ đi
với cả thế giới . Nhưng rút cuộc cả hai cơ hội lớn này không được tận
dụng! Hơn nữa, sau đó đất nước bị đẩy vào một chặng đường không mong đợi, lận
đận mất mấy thập kỷ về nhiều mặt cho đến hôm nay. Ngoài ra trong suốt 35
năm thời bình đầu tiên còn biết bao nhiêu cơ hội và lợi thế khác của đất nước
không khai thác được:
· vị thế “cầu nối” của Việt Nam trong địa kinh tế, trong địa
chính trị của khu vực và trên thế giới,
· vai trò của Việt Nam trong ASEAN,
· vai trò của Việt Nam 2 năm là ủy viên không thường trực
của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc,
· vân... vân...
Trong
35 năm qua nước ta có không ít nỗ lực và sáng kiến ngoại giao, nhưng đường
lối đối ngoại và thực lực nội trị như vậy khiến cho kết quả đạt được còn xa
mong đợi, nhiều sáng kiến thiếu sức sống, chưa kể là có không ít những bước
đi trống đánh xuôi kèn thổi ngược (ngoại giao đi một đằng, nội trị đi một
nẻo).
Nếu
kết luận được là đã bỏ lỡ mất 2 cơ hội lớn như vừa trình bày trên
(*thực hiện sự thống dân tộc ở tầm cao, *trở thành một nước độc lập tự chủ đi
với cả thế giới), sẽ có thể kết luận tiếp là nước ta hiện nay vẫn đang còn
hội đủ điều kiện đẩy mạnh việc hoàn thiện sự nghiệp thống nhất dân tộc ở tầm
cao của ý chí và trí tuệ trên nền tảng dân chủ, và đủ điều kiên dấn thân độc
lập tự chủ hợp tác với cả thế giới để đi vào giai đoạn phát triển mới, để sớm
trở thành một nước phát triển và giành lấy vị thế quốc tế xứng đáng với nước
ta. Đương nhiên việc chậm trễ mất hai, ba thập kỷ như vậy gây ra những khó
khăn mới nhất định và phải trả giá, nhưng điều quan trọng là vẫn còn điều
kiện tìm cách nắm lại 2 cơ hội lớn này. Cần nói ngay: Tình hình và
nhiệm vụ trước mắt đặt ra cho nước ta đang đòi hỏi phải khẩn trương dốc toàn
lực và trí tuệ chuyển sang giai đoạn phát triển mới này, những bài học như
vậy rút ra từ lịch sử còn nguyên giá trị.
Nói
riêng về Đảng, để mất hai cơ hội lớn như vừa
nêu trên còn là hậu quả của bảo thủ trì trệ, của sự thiếu vắng phát huy trí
tuệ trong Đảng, tình trạng mất dân chủ trong Đảng. Tính tiền phong chiến đấu
của lãnh đạo và của từng đảng viên sa sút cũng góp phần quan trọng gây ra
tình trạng này. Vì vậy, toàn Đảng phải chịu trách nhiệm trước đất nước. Phải
nhấn mạnh điều này, vì đây là kinh nghiệm xương máu cho lãnh đạo và cho toàn
thể đảng viên đối với sự nghiệp của Đảng và của đất nước từ nay về sau. Cần
nhấn mạnh: Để cho Đảng có nhiều vấp váp lớn, đất nước có nhiều vấn đề nghiêm
trọng như ngày nay, không một đảng viên nào được phép đứng ngoài phủi tay,
rồi nói là mình vô can!
■ Xin nêu thêm một chữ “nếu” lớn khác thứ ba không kém
phần quan trọng:
Nếu
đem vấn đề cải tạo tư sản hôm qua, nhất là đợt cải tạo tư sản ở miền Nam sau
30 Tháng Tư, đặt bên cạnh những việc đã làm trong 25 năm đổi mới để suy
nghĩ... Nếu đem thực trạng của “giai cấp tư sản” bị cải tạo lúc đó ở miền Nam
ra so sánh với tình hình phân bổ - tích tụ của cải, và tình hình các hình
thái và quy mô các doanh nghiệp các thành phần kinh tế, các loại hình tích tụ
sở hữu, các hình thái kinh tế đang có trong nền kinh tế nước ta hôm nay...
Nếu làm như vậy, sẽ không tránh được phải tự hỏi: Phải chăng với cuộc cải
tạo tư sản ở phía Nam, sau những năm đổi mới kinh tế đất nước đã đi trọn một
vòng tròn để trở lại đúng điểm xuất phát, và giờ đây đất nước đang tìm cách
xuất phát / cất cánh từ điểm đã xuất phát ấy cách đây 35 năm? Phải chăng cải
tạo tư sản như thế hiển nhiên là thừa và sai, với biết bao nhiêu hệ lụy đến
hôm nay chưa khắc phục xong? Tệ hại hơn nữa là cải tạo tư sản ở miền Nam đã
bỏ qua tất cả những sai lầm đã vấp phải khi tiến hành cải tạo công thương ở
miền Bắc…[30]
Song
quan trọng hơn thế, cho đến hôm nay đường lối phát triển kinh tế của Đảng vẫn
chưa tự giác và chưa giải quyết thành công vấn đề sở hữu nhà nước và sở hữu
tư nhân trong kinh tế, mối quan hệ tối ưu giữa hai thành phần kinh tế này cần
tạo ra cho quốc gia (chứ không phải cho cái nhân danh giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa). Hiện nay Đảng vẫn nhấn mạnh kinh tế quốc doanh là chủ đạo với
nội dung không rõ ràng, luật pháp và thể chế cho quốc doanh còn nhiều sơ hở.
Đảng vẫn giải thích đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa của nước ta là dựa trên công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu…
Trên
thực tế là: Nhân danh độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, nhân
danh giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và nhân danh kinh tế
quốc doanh là chủ đạo với nội dung nêu trên, quyền lực trong Đảng đang tiếp
tục duy trì những phân biệt đối xử giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế tư
nhân, với kết quả là tình trạng độc quyền của khu vực kinh tế quốc doanh –
nhất là của các tập đoàn nhà nước – vẫn tiếp tục gây thiệt hại lớn cho nền
kinh tế, dẫn tới hiệu quả kinh tế thấp; vốn liếng thuộc sở nhà nước, đất đai
và tài nguyên bị thất thoát lớn; môi trường kinh tế bị bóp méo, môi trường tự
nhiên bị hủy hoại trầm trọng. Tất cả cái nhân danh này muốn
nhằm vào mục đích cuối cùng là bảo vệ vai trò và quyền lãnh đạo của Đảng, nhưng
kết quả cuối cùng đạt được lại là: Chính bản thân Đảng đang bị quyền lực
kinh tế này lũng đoạn, sẽ còn tiếp tục bị lũng đoạn! Đây là mối nguy hàng
ngày và trực tiếp đối với Đảng.
Nước
ta đang đứng trước thực tế: So sánh tổng cái thu về với tổng cái vốn bỏ ra
(kể cả những cái “mất”) cho kinh tế quốc doanh với cái vai trò chủ đạo Đảng
biệt đãi nó, ta sẽ chỉ thu được một hiệu số âm. Tình trạng này đang bị căn
bệnh nan y làm trầm trọng thêm, đó là sự câu kết tự nhiên giữa “tập
đoàn kinh tế quốc doanh + nền kinh tế GDP tỉnh + tư tưởng nhiệm kỳ”. Bộ
ba này được thiết kế với mục đích làm cấu trúc nền tảng cho duy trì quyền lực
của Đảng. Nhưng bản chất tự nhiên của từng yếu tố này tự nó lại tạo ra sự
liên kết 3 trong 1 và 1 trong 3 , cái này có
trong cái kia; thậm chí tự nó phát triển theo hướng cái này tạo ra cái kia,
cái này muốn tồn tại phải dựa vào cái kia… Kết cục cấu trúc này tạo ra sự
câu kết giữa cả 3 yếu tố với nhau. Chính câu kết bộ 3
này tự nó tạo ra - thực chất là tự nó tha hoá thành một thứ quyền lực
trong Đảng, ngày càng vượt ra ngoài sự kiểm soát của Đảng. Đó cũng là
cấu trúc điển hình của câu kết giữa quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế,
trở nên bất khả kháng, thậm chí đang ngày càng ngấm ngầm đối kháng đối với
Hiến pháp và Điều lệ Đảng.
Câu
kết giữa quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị luôn xảy ra trong bất kỳ
hình thái xã hội nào ở bất kỳ quốc gia nào, bắt buộc đặt ra cho nhà nước pháp
quyền nhiệm vụ phải kiểm soát và tìm cách vô hiệu hóa sự câu kết này. Ở nước
ta sự câu kết của bộ 3 nêu trên, đang vận động theo xu hướng tự
nó trở thành một thứ quyền lực riêng cho chính nó, đang tìm cách lũng
đoạn Đảng và toàn bộ đời sống mọi mặt của đất nước. Thực tế này thể hiện rõ
nhất qua sự hình thành các nhóm lợi ích, không hình không bóng,
hoặc đôi khi rất ngang nhiên dưới những “chính danh” nào đó[31] đang
chi phối đất nước… Thực tế này là nguồn gốc hình thành những quyết sách và
quyết định kinh tế mà lẽ phải không sao giải thích nổi, quan liêu và tham
nhũng trở thành quốc nạn ngày càng khó kiểm soát. Không thể không đặt ra câu
hỏi vai trò các nhóm lợi ích này tác động tới đâu trong việc hình thành những
quyết định về bauxite Tây Nguyên, sáp nhập Hà Tây vào Thủ đô, phá nhà Quốc
Hội Ba Đình, việc Trung Quốc lần lượt thắng thầu liên tiếp nhiều công trình
kinh tế lớn quan trọng tầm quốc gia, vân vân…
Hiện
nay dư luận cả nước đang nhức nhối việc từ mấy năm nay 10 tỉnh cho nước ngoài
– chủ yếu là Trung Quốc – thuê rừng, đến nay đã lên tới khoảng trên 30 vạn
hecta – trong đó có nhiều địa điểm xung yếu của quốc gia (dù mới chỉ thực
hiện được một phần)… Hiện tượng này cho thấy các nhóm lợi ích đang từng
bước làm tê liệt và làm mục ruỗng chế độ chính trị của đất nước, xâm hại
nghiêm trọng an ninh và lợi ích quốc gia. Vấn đề cho thuê rừng còn trở nên
rất nghiêm trọng ở chỗ việc làm này chưa được nhìn nhận là một tội lỗi không
thể tha thứ của “sự câu kết bộ 3” này: bán rẻ lợi ích và an
ninh quốc gia mà không ý thức được hoặc cố tình không ý thức được là bán rẻ[32]. Nói
theo ngôn ngữ của Marx và Engels: Sự câu kết “bộ 3” này đang
từng giờ, từng ngày vô hiệu hoá Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng, cản trở thực
thi luật pháp của nhà nước, đang trực tiếp gây ra cho Đảng những thách thức
hiểm nghèo không một lực lượng chống đối nào có thể làm được! Đó cũng là
những thách thức nguy hiểm cho đất nước.
Xin lưu ý, sở hữu nhà nước nói chung và đặc biệt là các tập
đoàn kinh tế nhà nước đang là vấn đề tồn tại lớn chưa có lời giải. Hiệu quả
kinh tế thấp và khả năng lũng đọan lớn là hai tác động chính kìm hãm sự phát
triển mọi mặt của đất nước.
Đại
hội XI đứng trước thực tế: Nhìn chung mức thành tựu nước ta đạt được là cao
nếu so ta hôm nay với ta hôm qua, song lại là rất thấp so với cái giá phải
trả và so với nhiều nước chung quanh. Ta có rất nhiều công trình kinh tế lớn
giá xây dựng đắt (có khi đắt gấp đôi, gấp ba), công nghệ thấp, không bền,
không đẹp bằng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, tuổi thọ kém... Cuối năm
2008 dự trữ ngoại tệ của nước ta ước khoảng 23 tỷ USD, cuối 2009 còn khoảng
15 tỷ USD (thấp nhất kể từ 1994 tính theo khối lượng nhập khẩu/tháng và hiện
nay có chiều hướng còn giảm nữa – theo đánh giá của Fitch), trong vòng 3
tháng (từ 11-2009 đến 1-2010) đồng tiền Việt Nam phá giá hai đợt tổng cộng là
-8,4%, thâm hụt ngân sách quốc gia hiện vượt quá mức Luật cho phép, lãi suất
tín dụng cao ngất ngưởng chưa từng có trong 25 năm đổi mới vì mối lo lạm phát
cao... Chỉ số ICOR nước ta những năm gần đây đã vượt con số 6, cao nhất trong
khu châu Á – Thái Bình Dương và ngày càng cao, kinh tế quốc doanh chiếm tới
2/3 vốn liếng toàn xã hội và được dành cho nhiều đặc quyền lớn nhưng chỉ làm
ra non nửa của cải cho xã hội, những vụ việc tiêu cực ngày càng khó kiểm
soát, quyền lực và ảnh hưởng chi phối của các tập đoàn quốc doanh ngày càng
lớn. Đời sống kinh tế văn hóa của một bộ phận đông đảo dân cư lao động còn
thấp và bấp bênh, nhu cầu về việc làm gay gắt; đời sống và tiền đồ của thanh
niên có nhiều vấn đề rất đáng lo; bất công trong xã hội còn nhiều, v.v. Ngay
trước mắt, triển vọng tình hình cho thấy sau 45 năm (1975-2020) xây dựng đất
nước trong hòa bình, có lẽ hầu như không thể hoàn thành sự nghiệp công nghiệp
hóa đất nước vào năm 2020.[33]
Quan
điểm kinh tế quốc doanh là chủ đạo đang ngăn cản những cải cách rất cần
thiết đối với chính bản thân kinh tế quốc doanh. Hơn nữa, bản thân vấn đề cải
cách khu vực kinh tế quốc doanh và vấn đề sở hữu nhà nước là việc khó, đến
nay chưa được nghiên cứu nghiêm túc để tìm ra giải pháp nào là tối ưu nhất
cho nước ta với tính cách là một quốc gia có xuất phát điểm rất thấp và rất
cần vận dụng hợp lý các hình thái tích tụ vốn khác nhau mà nền kinh tế hiện
có. Tình hình phức tạp đến mức các Đại hội Đảng vừa qua tiếp tục khẳng định
kinh tế quốc doanh là chủ đạo, song chưa làm sao đưa ra được một định nghĩa
nhất quán thế nào “chủ đạo”. Hiện nay định hướng xã hội chủ nghĩa được
nhấn mạnh một cách khiên cưỡng ở chỗ nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng
của công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu![34]
Chủ trương phát huy tất cả các thành phần kinh tế trên cơ sở bình đẳng trước
pháp luật vì thế không thực hiện được như đã ghi trong các nghị quyết của
Đảng.
Vân
vân…
Nhìn
vào mọi lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước hiện nay, cũng thấy
việc thực hiện các quan điểm kinh tế quốc doanh là chủ đạo, giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội… có
nhiều hiện tượng mang nội dung nhân danh như vậy. Tình trạng này đang
ngày càng trầm trọng thêm do hiện tượng “đảng hóa” toàn bộ hệ thống chính
trị, nhà nước và xã hội cũng như việc thiết kế các chính sách và phương thức
thực hiện.
Tóm
lại, thời kỳ ban đầu chỉ có những hạn chế của ý thức hệ gây ra những khó khăn
và sai lầm của Đảng. Song càng về sau, nhất là trong những năm gần đây, những
hạn chế về tư duy, về tầm nhìn, cùng với sự tha hóa ngày càng gia tăng, đã
làm cho những yếu kém và sai lầm này ngày càng trở nên trầm trọng hơn, nhất
là trong khi đó tình hình mọi mặt của đất nước ngày càng đề ra những đòi hỏi
khó khăn phức tạp hơn trước rất nhiều.
Điều
đặc biệt nguy hiểm là quá trình “đảng hóa” đang được coi là phương thức
lãnh đạo toàn diện và tối ưu, song kết quả đạt được lại là cản trở nghiêm
trọng việc xây dựng nhà nước pháp quyền, làm cho cả Đảng và hệ thống chính
trị ngày càng cồng kềnh, yếu kém, ngày càng bất cập và quan liêu hơn, cũng có
nghĩa là sự quan liêu ăn bám của toàn bộ hệ thống chính trị đang gia tăng (sẽ
bàn sâu thêm ở phần sau);[35]
đất nước ngày càng gặp nhiều khó khăn, đời sống văn hóa - xã hội xuống cấp.
Mong rằng rồi đây sẽ có những công trình nghiên cứu đánh giá khách quan và
chuẩn xác đoạn đường 35 năm đầu tiên nước ta đã trải qua sau khi giành được
độc lập thống nhất.
Nói
thêm về văn hóa: Nếu nhìn nhận văn hóa là nguồn
lực gìn giữ những giá trị truyền thống, tạo ra những giá trị mới để làm nên
tố chất và đạo đức con người và đúc kết thành bản lĩnh của một dân tộc, nếu
nhìn nhận văn hóa được kết tinh thành ý chí tự lực tự cường của một dân
tộc dám vươn lên sánh vai với thiên hạ.., có lẽ có thể nói văn hóa nước ta
hiện đang ở thời kỳ sa sút nhất kể từ Cách mạng Tháng Tám đến nay – thậm chí
có những mặt sa đọa đến thảm hại.
Chỉ
cần lướt qua các tội ác hình sự, các đổ vỡ và biết bao nhiêu bê bối, tệ hại
khác được đăng tải trên các trang báo giấy và báo mạng hàng ngày, nạn “đạo
văn” và bằng giả, hội hè liên miên mọi miền đất nước, đọc các thông tin bị
cắt xén, các tin tức có định hướng một cách sai lệch, các bài chính luận vô
hồn... cũng đủ thấy đau buồn về đời sống văn hóa – xã hội của đất nước. Đời
sống văn hóa – xã hội của giới trẻ nước ta càng nhiều vấn đề nan giải.
Bên cạnh một số thành tựu nhất định đạt được trong lĩnh vực văn
hóa – xã hội 25 năm qua (đáng nói nhất có lẽ là việc giảm tỷ lệ đói
nghèo), nhìn chung sự sa sút văn hóa là một hiện tượng trầm trọng,
trước hết do hai nguyên nhân chủ yếu gây ra: (a) Sự băng hoại kỷ cương quốc
gia từ thượng tầng kiến trúc, (b) nghèo đói và mọi tha hóa khác đến từ tình
trạng bất bình đẳng và bất công trong kinh tế.
Nếu
coi suy đồi về văn hoá là tấm gương phản chiếu suy vong của đất nước, có lẽ
sẽ còn đau lòng hơn nhiều!
Tình
trạng sa sút về văn hóa nguy hiểm tới mức dối trá trong không ít trường hợp
gần như vừa là phương tiện vừa là cứu cánh trong hành xử của con người cũng
như của những bộ phận dân cư nhất định trong xã hội. Có lẽ nên coi đây là yếu
kém trầm trọng nhất trong đời sống văn hóa – xã hội nước ta, là yếu kém gốc
đẻ ra mọi tha hóa trong xã hội, bởi vì nó đảo lộn hoặc vô hiệu hóa nhiều giá
trị, luật pháp, thước đo và chuẩn mực. Sự sa sút về văn hoá đang gây ra nhiều
tác động có tính tàn phá, để lại hệ quả lâu dài, thậm chí nó có thể đánh cắp
hoặc hủy hoại niềm tin. Có thể thấy rõ sự tàn phá này trong lĩnh vực giáo
dục, trong thực thi pháp luật, trong phẩm chất và tính chất tin cậy được của
con người cũng như bộ máy của hệ thống chính trị đất nước, vân vân...
Nhiều
hiện tượng tiêu cực phổ biến gần như trở thành một loại văn hóa sống của
không ít người trong hàng ngũ chức sắc đã tới mức gây nhức nhối trầm trọng
trong xã hội, có thể khái quát như sau:
·
Cơ hội
tranh thủ vơ vét
·
Tài
nguyên tranh thủ khai thác
·
Đất đai
tranh thủ chia chác
·
Thi nhau
phô trương địa vị, bằng cấp (chất lượng thấp, giả và rởm)
·
Việc khó
đùn cho tương lai hoặc cho người khác
·
Giả vờ
đạo đức và giả vờ yêu nước...
Vì
sa sút văn hóa nói chung, nên chất lượng con người, chất lượng cuộc sống,
chất lượng xã hội – suy rộng ra nữa là chất lượng của dân tộc – đang đặt ra
nhiều vấn đề mới nghiêm trọng, trí tuệ và nhuệ khí của dân tộc đang bị kìm
hãm, mê tín dị đoan phát triển.
Trong
đời sống kinh tế - xã hội nước ta, tiêu cực và các mặt xuống cấp đang tạo ra
một sức ỳ nguy hiểm, tổng hợp nhiều tính xã hội sâu sắc: thờ ơ,
thất vọng, trần tục... Sức ỳ này hủy hoại vốn xã hội, nuôi dưỡng tâm lý thờ ơ
hay chịu khuất phục trước mọi sai trái, tạo thuận lợi cho lối sống tạm bợ,
chụp giựt (vô luật pháp) hay ngu dân… Trong cuộc sống, ngày càng nhiều tội ác
hình sự rùng rợn chưa từng có, các tội ác kinh tế gây nhiều thiệt hại lớn,
các hiện tượng không nghiêm minh trong luật pháp ngày càng trầm trọng… Song
điều vô cùng đáng lo là sự phản ứng trong xã hội vô cùng yếu ớt, hoặc thậm
chí nhiều khi trở nên vô cảm. Đó là cách phản ứng của xã hội? Hay là tình
trạng mất dân chủ, tình trạng bất minh, bưng bít thông tin và những sai trái
khác của hệ thống chính trị nhân danh là “giữ lề phải”, giữ
vững “định hướng” đã làm tê liệt mọi phản ứng lành mạnh lẽ ra cần phải
có của xã hội để hậu thuẫn cho kỷ cương quốc gia và thực thi pháp luật? Đảng
cầm quyền rất cần lo lắng thực trạng này, bởi vì nó phản ánh lòng dân không
yên. Bên cạnh hiện tượng tham nhũng tiêu cực trong hệ thống chính trị, sức
ỳ này trên thực tế là tăng thêm mất ổn định xã hội, tác động nghiêm
trọng vào sức đề kháng của dân tộc, cản trở ý chí dân tộc phải vươn lên trên
con đường hiện đại hóa đất nước.
Xin
đừng quên, sự đổ vỡ của các triều đại hiển hách trong lịch sử nước ta thường
bắt đầu từ tha hoá, sa đoạ về văn hoá và đạo đức. Điển hình gần đây nhất là
sự đổ vỡ thời Lê mạt, dẫn đến Trịnh – Nguyễn phân tranh và
nhiều hệ quả lâu dài về sau.[36]
Giữ ổn định xã hội nhân danh “giữ lề phải” như đang làm, muốn
hay không là đang trực tiếp hay gián tiếp nuôi dưỡng tha hoá về văn hoá và
đạo đức, kìm hãm ý chí xả thân vì những giá trị cao đẹp, đồng thời làm tê
liệt khả năng đề kháng của dân tộc chống lại xâm lăng văn hoá đang diễn ra
không ít quyết liệt!
Như một lẽ tự nhiên của phát triển, cuộc sống mọi mặt của
đất nước ở thời kỳ ban đầu này không thể tránh được những hiện tượng thực
chất là thuộc về thời kỳ phát triển hoang dã của giai đoạn đầu của chủ nghĩa
tư bản, nhất là hiện tượng bất công xã hội và phân hóa giàu nghèo diễn ra gay
gắt. Song lẽ ra cần nhìn nhận nghiêm túc thực tế này để tìm ra đối sách xử
lý, thì lại đơn thuần đổ lỗi cho cơ chế thị trường. Thậm chí thực tế này bị
xuyên tạc, che đậy, lạm dụng, thỏa hiệp, ru ngủ… Thêm vào đó là tình trạng
bưng bít thông tin và sự thiếu công khai minh bạch là thủ phạm chính của tình
trạng dân trí thấp, khiến cho sự xuống cấp về văn hóa trầm trọng thêm. Mặt
khác lại duy ý chí nhận định nước ta đang phát triển, đang xây dựng
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện hoặc cho phép thực hiện nhiều
hoạt động văn hóa thực chất là giả tạo, hình thức, không mang tính thúc đẩy
tiến bộ xã hội.
Thậm
chí không hiếm những hoạt động văn hóa trên thực tế là khuyến khích, nuôi
dưỡng cái lạc hậu, cái ngoại lai, cái ngu dân: văn hoá phong bì, văn hoá
“quan hệ”, văn hoá hàng mã (của giả, cái giả), văn hoá lễ hội, văn hoá hội
thi hội thảo, văn hoá “cái loa”, văn hoá “chăn dắt”… Có thể nói, không tiền
bạc, của cải, công sức nào đổ ra cho những chủ trương hay hoạt động văn hoá
lạc hậu, hình thức, giả dối… như thế có thể làm nên cái tốt, cái đẹp và sự
vững chãi của đất nước, mà chỉ nuôi dưỡng cái xấu, cái ác và chuẩn bị thêm
cho thảm hoạ mới mà thôi. Trong khi đó hầu như hiếm có một nỗ lực văn hoá nào
đem lại hiệu quả mong muốn, ngõ hầu cổ suý hay làm chỗ dựa tinh thần cho
những giá trị một quốc gia như nước ta nhất thiết phải hun đúc – ví dụ như ý
chí và đạo đức không gì quý hơn độc lập tự do của từng người
dân và của cả quốc gia, pháp luật là tối thượng, sống và làm việc theo pháp
luật, sự thật và lẽ phải là trên hết, tôn vinh trí tuệ, ý chí bảo vệ nền kinh
tế quốc gia, ý thức và đạo đức sống vì tương lai của đất nước và các thế hệ
con cháu, vân vân… Song làm sao có được những nỗ lực này nếu thiếu dân chủ và
bưng bít thông tin? Và trên hết cả là thượng bất chính hạ tắc loạn, trong
tình hình như thế làm sao có được sự thôi thúc tạo ra những nỗ lực này? Nguy
hiểm hơn nữa, trong khi hầu hết các nước lớn nhỏ trên toàn cầu đang hừng hực những
nỗ lực trên mặt trận văn hoá, tuyên chiến quyết liệt với những yếu kém
của chính nước mình, thúc đẩy tinh thần dân tộc, để có sức đối phó với tình
hình thế giới đang biến đổi sâu sắc, để nước mình đua tranh thắng lợi và
không chịu thua kém ai (thậm chí nhiều khi rất “sô-vanh” – chỉ cần ngó sang
Trung Quốc là thấy ngay điều này; ngay ở Mỹ hiện nay có không ít những sách
báo của giới trí thức nổi tiếng theo tinh thần Phải lấy lại nước Mỹ đang
bị đánh mất!…[37])..,
thế nhưng mặt trận văn hoá nước ta do Đảng lãnh đạo đang cổ suý cho cái
gì? - Cho giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa? - Cho gì nữa?
Trên
góc độ dân tộc, phải chăng có thể nói chưa bao giờ chúng ta đang tự đánh mất
mình như ngày nay, ươn hèn như ngày nay: Trước cái sai trái hàng ngày trong
đời sống, dân không dám đối mặt. Trước cái nghèo hèn lạc hậu, lương tri đất
nước không biết tủi hổ. Trước sự o ép và uy lực của bên ngoài, thể diện và
danh dự đất nước không giữ được tự tôn tự trọng… Mâu thuẫn giữa đường lối văn
hóa bất cập hiện hành và thực tế cuộc sống đang diễn ra tự nó đang góp phần
mình vào quá trình tàn phá văn hóa trong hiện tại.
Hơn
nữa, trên thực tế vẫn đang thiếu vắng hẳn một mặt trận hay là một cuộc
sống văn hóa có sức sống năng động, mang tính giáo dục, phát huy các giá
trị truyền thống, cổ xúy cho dân chủ tự do, khơi dậy hào khí của dân tộc,
hướng dân tộc đi vào giai đoạn phát triển mới. Trong khi đó văn hóa theo
lề phải dù được đổ tiền của và công sức như nước cũng không tạo ra
sức sống cho đất nước, nếu chưa muốn nói là nuôi dưỡng độc hại mới. Tình hình
đã chín muồi phải khẩn thiết đặt ra vấn đề chấn hưng văn hóa, rất đáng được
cả nước quan tâm. Rất không nên để cho những thành tựu nhất định đạt được
trong lĩnh vực văn hóa – xã hội che lấp thực tế nguy hiểm được nói tới trên
đây. Đứng trước yêu cầu chuyển đất nước sang một giai đoạn phát triển mới, có
thể nói đòi hỏi về chấn hưng văn hóa bức xúc không kém các đòi hỏi về làm
lành mạnh kinh tế và hệ thống chính trị quốc gia. Chấn hưng văn hóa để có lẽ
sống chân chính và để có nhuệ khí càng là đòi hỏi bức xúc của thế hệ trẻ nước
ta!
Không
phải là trăm dâu đổ đầu tằm, nhưng vấn đề hệ trọng đến mức không thể nói khác
được: Đảng phải đổi mới triệt để, mới hy vọng đề ra được đường lối văn hóa
mới. Không thể có một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc làm linh
hồn cho chủ nghĩa yêu nước chân chính trong một thể chế chính trị lạc hậu!
Đại hội XI nên có ý kiến.
Cũng
xin nói thêm, những thất bại trọng trong nền giáo dục hiện tại đang để lại
nhiều hậu quả lâu dài có thể xem như một hoạ lớn cho sự rèn luyện của nhiều
thế hệ tới, thậm chí còn trở thành một di sản văn hoá tai hại không biết đến
bao giờ mới khắc phục được. Vấn đề giáo dục tự nó luôn luôn là một vấn đề hóc
búa đối với mọi quốc gia. Song ở nước ta, lỗi của giáo dục không chỉ đơn
thuần do sự bất cập của ngành này, mà trước hết do hệ thống chính trị của đất
nước trên thực tế là đề kháng đối với những giá trị mà một nền giáo dục chân
chính nhất thiết phải theo đuổi. Nói đơn giản: Dạy và học tốt làm sao được
nếu bằng giả và nhiều thứ hàng giả khác còn đắc dụng, thậm chí chiếm
ưu thế?
Chỉ
có văn hoá và giáo dục dục mới có thể làm nên diện mạo một nước Việt Nam mới,
sau đó mới đến công nghiệp hoá –hiện đại hoá! Có văn hoá, có giáo dục, mới có
thể công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại.
Từ
những điều đã trình bày trong các phần I và II, phải chăng có thể kết luận:
Sau 30 Tháng Tư 1975 quyền lực trong Đảng dần dần và lúc này
lúc khác không còn lựa chọn nhiệm vụ phục vụ lợi ích quốc gia là mục
tiêu hàng đầu và tối thượng nữa, mà đang ngày càng chuyển hẳn sang ưu tiên
lựa chọn yêu cầu duy trì quyền lực của Đảng? Xin nói ngay, quyền lực
trong Đảng như vậy và quyền chính đáng của một đảng lãnh đạo
là hai thứ khác nhau.
Qua
tiếp xúc, có lẽ có thể nói từng người trong lãnh đạo Đảng hình như đều nhận
thức rõ được thực trạng đất nước, thực trạng của Đảng hiện nay. Có ý kiến còn
cho rằng những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước còn biết nhiều hơn những gì
được viết ra ở đây! Song tại sao “biết” như thế nhưng cái quyền
chính đáng của đảng lãnh đạo không đảo ngược được cái quyền lực
trong Đảng? Tại bất cập? Tại không muốn đảo ngược? Tại
sao cái quyền chính đáng của đảng lãnh đạo cứ để cho cái quyền
lực trong Đảng lựa chọn chính nó là chính chứ không phải lựa chọn đất
nước? Phải chăng vì những lẽ này ưu tiên đất nước bị đẩy xuống hạng hai? Tính
tiền phong chiến đấu trong toàn Đảng bị đẩy lùi từng bước và hôm nay đang bị
tha hóa lấn át?.. Sự lựa chọn này của quyền lực
trong Đảng thực chất là sự giảm sút chất lượng chính trị của Đảng,
nói lên Đảng đang tự diễn biến hoà bình!
Lúc
này Đảng đứng trên đỉnh cao nhất của quyền lực, song cũng là lúc Đảng yếu
nhất, có nhiều yếu kém hư hỏng nhất về mọi mặt, giữa lúc chưa bao giờ công
sức và thời gian được bỏ ra cho xây
dựng Đảng nhiều như ngày nay! Nói một cách khác: Đảng, trước hết là các
đảng viên chân chính, đang phải bước vào một cuộc chiến đấu khó nhất kể
từ khi thành lập – cuộc chiến đấu để chiến thắng chính mình, để trở lại đặt
ưu tiên đất nước lên hàng đầu, để mãi mãi đi với dân tộc, chỉ vì dân tộc[38]: cuộc
chiến đấu của mọi đảng viên chân chính bảo vệ phẩm chất và quyền chính đáng
của đảng lãnh đạo!
Thực
trạng của đất nước và của Đảng trình bày trong các phần I và II cho thấy lý
tưởng của Đảng đã không chiến thắng được chính mình. Tệ hại hơn nữa là quyền
lực trong Đảng đang nhân danh bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, biện minh
cho gia tăng việc nắm quyền, qua đó nhiệm vụ lãnh đạo
ngày càng teo dần, công việc cai trị tăng lên.
Những
cái được và mất, những cái làm nên
và thất bại của 35 năm đầu tiên trong hòa bình xây dựng và bảo
vệ đất nước cho thấy: Hầu như mọi việc bám lấy ý thức hệ và nhằm nâng cao quyền
lực trong Đảng – trên thực tế là nhân danh Đảng và nhân danh bảo vệ
vai trò lãnh đạo của Đảng – đều không kết quả, hoặc chỉ mang lại thành tích
giả tạo, thậm chí nhiều khi vấp phải thất bại nặng nề, đất nước phải trả
giá đắt và bị kéo lùi. Cứ so sánh những phát biểu hàng ngày của lãnh đạo với
thực trạng của đất nước và của Đảng sẽ rõ. Việc nào gắn với hoặc phù hợp với
lợi ích dân tộc với dân chủ đều thành công, thúc đẩy đất nước phát
triển. Đời sống mọi mặt của đất nước cũng đang chứng minh: Nhiều điều
cốt yếu ghi trong Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng đã bị cuộc sống đất nước
vượt qua, hoặc bị quyền lực trong Đảng vô hiệu hoá trên thực
tế. Hiện nay chủ nghĩa hình thức và sự giả dối không buông tha sự thiêng
liêng nào và đang tiếp tục bành trướng trên chính trường của Đảng.
Với
tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đất nước đang chứng kiến tình hình: Qua mỗi
kỳ Đại hội toàn quốc của Đảng, chất lượng của Đảng thêm một sa sút – Đại hội
sau thấp hơn Đại hội trước – về năng lực lãnh đạo cũng như về phẩm chất.
Nhiều báo cáo của Đảng và nhiều tin tức trên các phương tiện truyền thông cho
thấy: Cứ gần đến kỳ Đại hội Đảng, các vụ khiếu kiện giữa các đảng viên với
nhau, giữa người dân và các đảng viên, lại đột biến gia tăng, những vấn đề
phải xử lý trong Đảng cũng ngày một nhiều và nghiêm trọng hơn, các tội phạm
và tính chất các tội phạm đảng viên mắc phải có xu hướng ngày càng nghiêm
trọng, trong khi đó nhiệm vụ của Đảng đối với đất nước ngày một khó khăn phức
tạp hơn. Chất lượng đảng viên nói chung đáng lo ngại – thể hiện qua trình độ
và ý thức trách nhiệm đối với đất nước và đối với Đảng nói chung thấp, không
dám bảo vệ lẽ phải và đấu tranh chống mọi sai trái (vấn đề “đấu tranh –
tránh đâu?” ngày càng tinh vi hơn, trầm trọng hơn).
Xin
lưu ý, vai trò lãnh đạo hiện nay của Đảng là do hoàn cảnh lịch sử xác lập
nên. Nói thế hàm nghĩa là vai trò và ảnh hưởng của Đảng ngày nay chủ yếu sống
nhờ vào vốn liếng các thế hệ trước của Đảng để lại. Nghĩa là Đảng đang ăn
vào vốn lịch sử của mình! Thực tế này cùng với việc đặt ưu tiên duy
trì quyền lực của Đảng lên trên lợi ích quốc gia là những nguyên nhân trực
tiếp nhất gia tăng tốc độ tha hóa của Đảng.
Nếu
coi Đại hội VI là điểm sáng mang tính bước ngoặt có tính cách mạng về đường
lối (chủ yếu là đường lối kinh tế), các Đại hội tiếp theo là những bước đi dè
dặt chứ không phải thận trọng, thậm chí có mặt tụt hậu, và nhìn chung là đã
không phát huy được bước tiến đột phá quan trọng của Đại hội VI. Nhất là phẩm
chất và sức chiến đấu của Đảng hiện nay đang tụt xa so với Đại hội VI, ít
nhất là không dám nhìn thẳng vào sự thật, không dám từ bỏ những tư duy lỗi
thời, không dám đối mặt quyết liệt với các thói xấu... Nói một cách khác,
giữa một bên là phẩm chất, bản lĩnh và năng lực của Đảng, và một bên là những
đòi hỏi phát triển ngày càng cao của đất nước, khoảng cách bất cập này đang
ngày càng rộng ra, làm giảm sút nghiêm trọng ảnh hưởng và vai trò lãnh đạo
của Đảng. Chiều hướng của Đảng từ Đại hội VI đến nay là: Những yếu kém của
Đảng đang kéo theo sự suy yếu toàn bộ hệ thống chính trị đất nước.
Đảng
nói chung từ người yêu nước, lãnh đạo thành công dân tộc giải phóng đất nước,
giành lại độc lập thống nhất, ngày nay đang bị tha hóa thành người nắm quyền.
Khái niệm “đảng cầm quyền” bị hiểu rất sai lệch thành nắm
quyền, đang bị lạm dụng, và trên thực tế biến Đảng trở thành ông chủ cai trị
đất nước. Sự nắm quyền này đã phát triển thành một hệ thống
chằng chịt trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, xuyên xuốt từ cơ sở thấp nhất
lên đến thượng tầng cao nhất trong toàn bộ hệ thống kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hóa của quốc gia. Đó chính là hiện tượng “đảng hóa” toàn diện. Làm
như vậy, bao nhiêu lý lẽ, chủ thuyết, chủ nghĩa Đảng đề ra và tôn thờ cuối
cùng vẫn không đủ sức chiến thắng được quán tính lịch sử muôn đời: cái quán
tính người chiến thắng trở thành kẻ cai trị! Cái quán tính ngày xưa dân gian
gọi là: Được làm vua,…[39]
Chính cái quán tính này đang lấy đi mất tính tiền phong chiến đấu của Đảng và
đang kìm hãm nghiêm trọng khả năng xây dựng nhà nước pháp quyền.
Hiện
nay đã vậy, từ Đại hội XI trở đi sẽ ngày càng ít đảng viên giữ cương vị lãnh
đạo có quá khứ tham gia cách mạng đầy thử thách. Điều này có nghĩa đội ngũ
lãnh đạo của Đảng từ nay trở đi chủ yếu là do cơ cấu quyền lực và chính
sách cán bộ của Đảng tạo thành – thực chất đấy là một dạng biến
tướng nào đó của hình thái cha truyền con nối. Bởi vì Đảng đang
ngày đêm tạo ra, vun đắp, gìn giữ cho mình hệ thống chính trị và môi trường
tồn tại như thế - để duy trì quyền lực, duy trì vai trò lãnh đạo và vai trò
nắm quyền của mình:
Khác với thời chiến, ngày
nay trong thời bình Đảng không lựa chọn con đường phấn đấu đứng mũi chịu sào
đối với mọi thử thách quốc gia đang đối mặt để thử thách chính mình, Đảng
không thông qua sự lựa chọn của nhân dân để xây dựng, bảo vệ và duy trì vai
trò lãnh đạo của mình, để phát triển chính mình. Trên thực tế, ngày nay trong thời bình Đảng lựa chọn
con đường của cơ chế và cơ cấu để duy trì quyền lực của mình. Vì thế,
tính ủy thác của nhân dân với tính cách là yếu tố làm nên vai trò lãnh đạo
của Đảng trở thành vấn đề, trên thực tế là dần dần không còn.
Thực
tế trình bày trên đòi hỏi Đảng càng phải phấn đấu nghiêm khắc hơn nữa với
chính mình để vươn lên giữ lấy bằng được cho mình khả năng và vai trò lãnh
đạo đất nước, chứ không phải là để củng cố sức mạnh nắm chặt hơn nữa trong
tay quyền lực để cai trị đất nước. Tiếc rằng toàn bộ sức mạnh của hệ thống chính
trị và quyền lực chuyên chính hiện nay của Đảng lại được ưu tiên huy động cho
việc phục vụ mục đích sau, và đây là nguyên nhân trực tiếp nhất dẫn tới thỏa
hiệp và nuôi dưỡng tha hóa trong Đảng, tiếp tục hủy hoại tính tiền phong
chiến đấu của Đảng.
Hơn
thế nữa, là lực lượng chính trị duy nhất nắm trọn vẹn quyền lực đất nước,
không chịu sự cọ sát hay giám sát nào, Đảng ngày nay trở thành một thứ nhà
nước siêu quyền lực, trong khi đó nhà nước của dân, do dân vì dân thông qua
hiện tượng “đảng hóa” trên thực tế chỉ còn lại là một công cụ của Đảng. Tình
hình này “đương nhiên” đến mức được chính đại biểu Quốc hội nói lên công khai
trước báo chí: Bộ Chính trị và BCHTƯ Đảng là cấp trên của Quốc hội! Thậm chí
sự gò ép các quyết định quan trọng, cùng với thái độ thiếu lễ độ và ngôn từ
không nghiêm túc đôi khi xảy ra tại họp Quốc hội của một vài người có trọng
trách trong chính phủ nhưng có cương vị cao trong Đảng.., có thể được xem là
những biểu hiện rõ nét của thực trạng này.
Xin
lưu ý: Nhân dân ta thế hệ này đến thế hệ khác hy sinh chiến đấu dưới sự lãnh
đạo của Đảng là để xóa bỏ áp bức thống trị của nước ngoài, để tự giải phóng
chính mình và giành quyền làm chủ đất nước, chứ không phải là để thiết lập
nên một hệ thống của người trong nước cai trị lại chính mình. Sự tha hóa đang
diễn ra trong Đảng đang từng giờ từng ngày đẩy lùi Đảng từ vị trí đảng
lãnh đạo xuống vị trí đảng cai trị như thế[40].
Ngay
cả lúc này lúc khác xử một số vụ án chính trị với tội danh chống đối hay lật
đổ chế độ, tình hình của đất nước cũng cho thấy không một lực lượng chính trị
nào dù là ở trong nước hay ở nước ngoài có thể đủ sức lật đổ quyền lực của
Đảng. Song diễn tiến của tha hóa và bất cập đang làm suy yếu Đảng nhanh nhất
và toàn diện nhất, đang là nguy cơ lớn nhất trực tiếp đe dọa vai trò
lãnh đạo và sự tồn tại của Đảng. Không phải ngẫu nhiên đã có nhận xét: Chỉ
có sự tự sụp đổ do tha hóa mới có thể lật đổ Đảng mà thôi! Đảng,
trước hết là những người lãnh đạo, cần nhận rõ thực trạng này, kiên quyết đấu
tranh cho sự trong sạch vững mạnh của Đảng, và nhất thiết đừng để cho một
ngày nào đó những mâu thuẫn này diễn biến hòa bình Đảng thành đối
kháng dân tộc.
Cần nói rõ thêm: Sự câu kết bộ 3 như đã nói
trong phần II, quyền lực trong Đảng (trong nhiều trường hợp,
tên gọi đầy đủ của nó phải là quyền lực nhân danh Đảng), tình
trạng quan liêu và những yếu kém khác đang tha hóa con người và tha hóa bộ
máy của Đảng và hệ thống chính trị của đất nước, hình thành ra một hiện tượng
quan liêu ăn bám. Sự quan liêu ăn bám này thiên hình vạn
trạng, - đó có thể là những con người cụ thể nào đó trong những trường hợp
nhất định và trong những mối tương quan nào đó, có khi xuất hiện như một bộ
máy, có khi hiện hình như một cơ chế, thậm chí có khi như một tác phong làm
việc hay một tập quán kinh niên... Sự câu kết bộ 3 này đang ra
sức bảo vệ quyền lực trong Đảng[41] nhân
danh bảo vệ Đảng và bảo vệ chế độ, nhân danh nhiều thứ khác nữa...
Điển hình nhất của sự quan liêu ăn bám này là một thứ cơ chế
không thành văn “giữ quyền quyết định tất cả nhưng không chịu trách nhiệm,
khi xẩy ra sự cố thì rất khó bề truy cứu”, đang diễn ra ở nhiều nơi trong
cả nước và trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống – lộ liễu và dễ nhận biết
nhất ở các vụ tham nhũng lớn..
Có
thể nói sự quan liêu ăn bám này đang ngày càng vô cảm hoặc quay lưng lại với
sự thật, chỉ quan tâm theo đuổi những mục đích của quyền lực. Sự quan liêu ăn
bám này thậm chí không hiếm trường hợp biện minh những sai trái, nói dối hay
hù dọa Đảng, trấn áp lẽ phải, che đậy hay làm nhẹ nguy cơ diễn biến lớn nhất
đối với Đảng là sự tha hóa trong Đảng, nhưng lại nhấn mạnh một chiều nguy cơ
diễn biến hòa bình do bên ngoài can thiệp vào là nghiêm trọng nhất đối với
Đảng, vân vân... Đây là sự chệch hướng của mọi chệch hướng, Đảng dứt khoát
cần làm rõ và ngăn chặn.
Tệ
hại vô cùng là ở chỗ sự chệch hướng này đang diễn ra giữa lúc:
(a) Đảng ở đỉnh cao của quyền lực, ảnh hưởng và quyền lực của Đảng đang là
lực lượng chính trị duy nhất và mạnh nhất trong nước, (b) trên dưới 70% tài
sản vốn liếng cả nước là sở hữu quốc doanh, (c) cả nước có nguyện vọng nóng
bỏng muốn vươn lên con đường phát triển văn minh hiện đại và (d) yêu cầu bảo
vệ tổ quốc đòi hỏi phải sớm kiện toàn đất nước mọi mặt. Hơn thế nữa sự chệch
hướng này đang diễn ra giữa lúc Đảng có trong tay mọi điều kiện tốt
nhất để tự giác chủ xướng một cuộc cải cách chính trị đã trở nên vô cùng cấp
thiết, đưa đất nước chuyển sang giai đoạn phát triển mới và để chiến thắng
mọi uy hiếp từ bên ngoài. Cách đây 25 năm khi phải tiến hành đổi mới, Đảng
thậm chí lúc đó không có nhiều thuận lợi như ngày nay để tiến hành cuộc cải
cách này. Nói ngắn gọn: Chính sự chệch hướng này đang
ngày đêm làm tê liệt Đảng, cướp đi vai trò và khả năng của Đảng là đảng lãnh
đạo.
Thoạt
kỳ thủy, quan liêu chỉ là một yếu kém, một thứ bệnh không một hệ thống chính
trị nào có thể miễn nhiễm nếu không có một thể chế pháp quyền kiểm soát hữu
hiệu căn bệnh này. Sự yếu kém của Đảng dần dà biến thứ bệnh quan liêu
này (tự giác) hoặc để cho thứ bệnh này (không tự giác) tự nó phát triển thành
một cơ chế. Như đã nói, hiện nay cơ chế quan liêu đã trở thành một thứ quyền
lực, thành công cụ đắc lực cho thứ quyền lực trong Đảng nhân danh
Đảng. Càng có nhiều khó khăn và yếu kém, Đảng càng bị chính sự quan liêu ăn
bám này của mình diễn biến. Vì sự tồn tại của chính nó, sự quan liêu ăn bám
này đang lăm le biến quyền lực chính thống của Đảng được ghi trong Điều lệ
Đảng thành một thứ của sở hữu riêng cho nó và vì nó.
Cùng
với thời gian, sự quan liêu ăn bám này và sự câu kết bộ 3
ngày càng thâm nhập vào nhau, nuôi dưỡng nhau – trước hết và chủ yếu thông
qua chính sách tổ chức cán bộ, nhất là chính sách cơ cấu – để dần dà phát
triển quyền lực trong Đảng thành một thứ quyền lực nhân
danh Đảng. Chết nỗi, đấy chính là thứ quyền lực
thực tế cao nhất trong Đảng, nó không thành văn, không được ghi trong
Điều lệ Đảng và vì thế thật ra nó không có tính pháp lý ngay cả đối với Đảng.
Ví
dụ, những quy định không thành văn
trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống được toàn Đảng tuân thủ đến mức trở thành
thông lệ từ Đại hội này đến Đại hội khác: Quyền lực cao nhất của Đảng là Đại
hội Đảng toàn quốc, trên thực tế chỉ còn lại là hình thức; những tập quán,
những phương thức không thành văn chuẩn bị và tiến hành Đại hội Đảng các cấp;
những quy định mang tính tiền lệ như không là ủy viên Trung ương Đảng không
thể là Bộ trưởng; tổng giám đốc tập đoàn quốc doanh cần bố trí vào BCHTƯ
Đảng; không phải tỉnh ủy viên thì không thể làm giám đốc Sở... Việc áp dụng
những “tiêu chuẩn chính trị”, những cái “nhãn mác về chức
vụ Đảng” như vậy không có trong Điều lệ Đảng, trong Hiến pháp, hầu
như đứng trên mọi tiêu chuẩn thiết yếu khác, khiến cho toàn bộ hệ thống chính
trị và bộ máy quản lý nhà nước trở nên yếu kém, với những hệ quả nghiêm
trọng. Với cách bố trí người và sắp xếp tổ chức, bộ máy như thế, với phương
thức hoạt động hiện nay, trên thực tế trong toàn bộ hệ thống đảng, nhà
nước, kinh tế xã hội... đã và đang hình thành một nếp vận động mang tính một
hệ thống bị đảng hoá, tạo thành một kiểu bộ máy vận hành theo
hoặc vận hành trong cơ chế “đảng hóa”, hoặc bị “đảng hóa” chi
phối. Đó chính là con đường “đảng hóa” toàn diện.
Thứ
quyền lực nhân danh Đảng như thế đứng trên Hiến pháp và Điều lệ
Đảng, thường thể hiện muôn hình vạn trạng bên trong các hình thái mang tải
nó. Trong từng trường hợp cụ thể, thứ quyền lực này có các tên gọi khác
nhau: “sự lãnh đạo”, “sự chỉ đạo”, “quán triệt”, “học tập”, “tinh thần
chỉ thị...”, “tập trung dân chủ”… Thứ quyền lực này thực chất là kết
quả sự vận động qua lại giữa các “mối quan hệ” (mối quan hệ này
dẫn tới quyết định này, mối quan hệ kia dẫn đến quyết sách kia…).
Thứ
quyền lực nhân danh Đảng như thế và sự ràng buộc của nó không
hiếm trường hợp vô hiệu hóa trực tiếp người được Đảng giao trách nhiệm – (Ví
dụ: Lúc sinh thời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có lúc phải kêu lên “Tôi
không làm sao cách chức nổi lấy một chủ tịch xã!”.. Nhiều đoàn kiểm tra,
thanh tra của Đảng và Nhà nước khi đi thực tế để điều tra thường bị ém nhẹm
hay bưng bít thông tin, vân vân...). Không ít quyết định quan trọng đối với
vận mệnh đất nước và của Đảng hình thành thông qua sự vận động qua lại giữa
những “mối quan hệ” như thế - nghĩa là do thứ quyền lực
nhân danh Đảng quyết định, chi phối.
Thứ
quyền lực nhân danh Đảng như thế rất tiện lợi cho việc cầm
quyền, nắm quyền, song tự nó tước bỏ hay đối nghịch với nhiệm vụ lãnh đạo của
một đảng chính trị.
Xin
nhắc lại, thứ quyền lực nhân danh Đảng như thế do bản chất và
lợi ích sống còn của chính nó, luôn luôn có xu hướng muốn biến Đảng thành
công cụ cho nó. Vì thế không phải ngẫu nhiên từ lâu nhiều ý kiến tâm huyết
cảnh báo: Đảng đang trở thành đối tượng của tham nhũng![42] Thứ
quyền lực nhân danh Đảng như thế đang tồn tại song song với hoặc lồng
vào bên trong quyền lực chính thống của Đảng (quyền lực
được Điều lệ Đảng quy định – ví dụ: Quyền của các Đại hội
toàn quốc và các cấp, quyền của Ban Chấp hành trung ương Đảng, quyền và trách
nhiệm của các tổ chức Đảng và các tổ chức cơ sở Đảng, quyền và nghĩa vụ của
các đảng viên…). Song vấn đề nóng bỏng đối với vận mệnh của Đảng – cũng nóng
bỏng như thế đối với đất nước – là: Thứ quyền lực nhân danh Đảng như
thế đang vi phạm dân chủ trong Đảng, đang nhân danh tăng cường sự lãnh đạo
toàn diện của Đảng đẩy mạnh vấn đề “đảng hóa” – mà trên thực tế là chuyển hóa
Đảng ngày càng mạnh sang xu hướng nắm quyền, với nguy cơ tha hóa Đảng từng
bước trở thành đảng cai trị... Chính diễn biến hòa bình này,
chứ không phải hành động chống đối hay lật đổ nào từ bên ngoài Đảng, mới là
mối nguy lớn nhất đối với sự tồn tại của Đảng và tương lai quốc gia.
Mặt
khác, sự đầu hàng, tránh né hay thái độ bàng quan của không ít đảng viên
trong Đảng trước thực tế nêu trên đang gián tiếp hay trực tiếp hậu thuẫn cho sự
diễn biến hòa bình Đảng như vậy. Không phải ngẫu nhiên người đời đã nói:
Sự im lặng của lương tri nuôi dưỡng bạo hành của quyền lực!
Với
tư cách là đảng cách mạng, Đảng phải tuyên chiến với diễn biến hòa bình
này và mọi hành động phụ họa nó – đây là một trong các nhiệm vụ cụ thể của
đổi mới Đảng, rất đáng đặt ra tại Đại hội XI[43].
Điều trước tiên là toàn Đảng không có một ngoại lệ nào phải nghiêm chỉnh thực
hiện Hiến pháp, Cương lĩnh và Điều lệ Đảng hiện hành. Điều gì trong
Hiến pháp, trong Cương lĩnh và Điều lệ không còn đáp ứng đòi hỏi phát triển
của đất nước thì phải thay đổi.
Không lâu sau chiến thắng 30 Tháng Tư, đã có trí thức kiến nghị: Sau khi hoàn
thành sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, sự nghiệp vinh
quang nhất của Đảng là xây dựng nên cho đất nước một thể chế dân chủ làm
giường cột cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước lâu dài, phát huy sức
mạnh của toàn thể dân tộc cho sự nghiệp này, chuyển đất nước đi vào một kỷ
nguyên lịch sử mới: Từ một quốc gia phong kiến lạc hậu, thậm chí là một thuộc
địa, sang kỷ nguyên của một quốc gia dân chủ phù hợp với văn minh tiên
tiến của nhân loại ngày nay.
Từ
đó đến nay, nhất là từ khi đất nước lâm vào khủng hoảng và phải tiến hành đổi
mới, rồi đến sự sụp đổ của các nước Liên xô Đông Âu, ngày càng có nhiều ý
kiến của những người có tâm huyết với đất nước, - trong Đảng và ngoài Đảng,
kể cả những ý kiến của một số đảng viên lão thành - yêu cầu Đảng rút ra
những bài học của thực tế này cũng như khai thác các giá trị của văn minh
nhân loại, để xây dựng nên một thể chế dân chủ của Việt Nam, cho Việt Nam, để
sớm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, xây dựng được đất nước dân
chủ, giàu mạnh, công bằng, văn minh.
Trong
những kiến nghị giàu tâm huyết và trí tuệ được nói tới trong bài này hầu như
chưa có ý kiến nào đặt vấn đề phải làm ngay đa nguyên đa đảng. Trong kiến
nghị này cũng không ai đòi phế bỏ vai trò lãnh đạo Đảng đang nắm giữ. Song
những kiến nghị này thống nhất đòi hỏi Đảng phải vươn lên trau giồi phẩm chất
và năng lực lãnh đạo, thực hiện đúng và thực hiện tốt lãnh đạo, chứ không
phải nắm quyền hay cai trị như đang làm. Lẽ đơn giản là yêu cầu phát triển
của đất nước đòi hỏi nhất thiết phải có sự lãnh đạo đúng đắn. Nghĩa là:
Đảng phải thực hiện các quyền tự do dân chủ của toàn thể nhân dân, xóa bỏ
những định kiến giai cấp, những định kiến các thành phần kinh tế, xây dựng
thể chế dân chủ để đảm bảo thực hiện… Những đề nghị này đặt sang một bên mọi
thứ “chủ nghĩa”, “học thuyết”, “mô hình” hay ý thức hệ theo kiểu chủ nghĩa,
để lấy việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân, việc thực hiện lý tưởng
độc lập tự do hạnh phúc, việc thực hiện lợi ích quốc gia và sự nghiệp phát
triển đất nước làm trung tâm. Có thể khẳng định dứt khoát:
Chỉ có một ý thức hệ duy nhất của toàn thể dân tộc ta,
cũng là cho Đảng, đó là Tất
cả cho xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và
giàu mạnh, do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng!
Ai
không tán thành? Ai không muốn?
Trong
một thể chế dân chủ như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng hoặc các cá nhân đảng
viên tùy thuộc vào sự phấn đấu của Đảng và những đảng viên của mình trở thành
lực lượng tinh hoa của dân tộc, trở thành đảng của dân tộc.
Những
ý kiến vừa nêu trên đặt vấn đề Đảng phải chủ xướng, phải huy động trí tuệ cả
nước thiết kế và xây dựng nên một thể chế dân chủ thực sự và của dân thực sự
như thế, trong đó quyền lực của dân và lợi ích quốc gia là tối thượng, Đảng
phải là người gương mẫu đi đầu trong việc xây dựng một thể chế như thế, và
phải hoạt động trong khung khổ thể chế ấy.
Đặt
vấn đề như thế chính là thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, giao cho Đảng
trách nhiệm lịch sử lãnh đạo đất nước xây dựng nên một thể chế chính
trị dân chủ - nhiệm vụ hàng đầu và cũng có thể nói là nhiệm vụ duy nhất
và thường trực của Đảng trong thời bình xây dựng và bảo vệ đất nước, sau khi
Đảng đã làm xong nhiệm vụ lãnh đạo kháng chiến giành lại độc lập thống nhất
– đúng với tinh thần cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, xây
dựng và bảo vệ đất nước là sự nghiệp của toàn thể dân tộc.
Đặt
vấn đề như thế cũng có nghĩa mọi quyền lực đều là của dân, đại diện là nhà
nước do nhân dân xây dựng nên và của toàn dân. Quyền lực nhà nước như thế là
tối thượng, không một cá nhân hay đảng phái chính trị nào có thể đứng ngoài
hoặc đứng trên hiến pháp, luật pháp. Lãnh đạo là như vậy.
Cần
phải nói thêm: Trong điều kiện Đảng giữ độc quyền chân lý và trong khung khổ
hệ thống được gọi là chuyên chính vô sản, những ý kiến tâm huyết như vừa nêu
trên đã không được lắng nghe, mà còn bị quy chụp, bị xử lý, không hiếm trường
hợp bị xử lý nặng nề.
Những
tha hóa và bất cập đang gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng, trực tiếp cản trở
sự phát triển của đất nước, đặt đất nước trước ngã ba đường nguy hiểm. Không
ít người đã lên tiếng yêu cầu Đảng với tính cách là đảng duy nhất cầm quyền
phải đẩy mạnh cải cách chính trị, coi đây là chìa khóa của mọi giải pháp và
là tiền đề quyết định chuyển đất nước đi vào một giai đoạn phát triển mới, để
dứt khoát không bị đẩy sang ngả đường đi vào lệ thuộc và lạc hậu.
Tựu
trung lại, những ý kiến này đòi hỏi phải đẩy mạnh cải cách với nội dung xây
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội
dân sự cho Việt Nam, trên cơ sở phát huy trí tuệ và nghị lực Việt Nam, tận
dụng lợi thế nước đi sau, và khai thác những thành quả của văn minh nhân
loại. Những khái niệm kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân
sự nói lên thì đơn giản, nhưng thiết kế và thực hiện nó là cả triệu
triệu công việc, là cả một quá trình phấn đấu, xây dựng lâu dài và vô cùng
gian khổ, là trường học rèn luyện và là môi trường phát triển cho từng người
và cho mọi người. Chung cuộc đó là con đường từng bước tạo ra sự phát triển
bền vững, năng động, và sẽ đưa nước ta trở thành nước phát triển.
Xin đừng quên con đường xây dựng một thế chế dân chủ ở nước
ta cho đến nay về nhiều mặt mới chỉ là một ý tưởng, một nguyện vọng, cho dù
là nóng bỏng đến đâu đi nữa cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ một đòi hỏi, chưa
thể nói chúng ta đã có đầy đủ những hiểu biết xác đáng về thực trạng của đất
nước và đặt trúng được những vấn đề phải cải cách để làm căn cứ cho việc
thiết kế, thực thi thể chế dân chủ đáng mong muốn ấy. Vì không đặt ra một mục
tiêu như thế, nước ta đang thiếu hẳn những khảo cứu khoa học của chính
mình, những ý tưởng có căn cứ vững chãi, vận dụng thành tựu văn minh nhân
loại, chứ không vay mượn của bất kỳ học thuyết nào, để thiết kế một chiến
lược và các bước đi cho việc xây dựng, hoàn thiện tòa nhà dân chủ đó như thế
nào là phù hợp nhất và khả thi cho nước ta.
Câu hỏi lớn đặt ra là một nước có bối cảnh lịch sử như nước
ta trong thế giới ngày nay, do một đảng lãnh đạo, lại trong quá trình chuyển
đổi, thể chế chính trị dân chủ cần được thiết kế và xây dựng như thế nào nhằm
đảm bảo tạo ra sự phát triển tốt nhất cho kinh tế thị trường, nhà nước
pháp quyền và xã hội dân sự - ba thành tố không thể thiếu để giải
phóng được mọi tiềm năng của đất nước, để sớm trở thành một nước phát triển.
Ngay trước mắt, sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá cũng đòi hỏi đất
nước phải phát huy ba thành tố này. Quan trọng hơn, những đòi hỏi bức bách
của hội nhập toàn cầu, những thách thức trực tiếp đối với an ninh quốc gia,
và yêu cầu tập hợp lực lượng trong bàn cờ quốc tế đặt ra cho nước ta trong
cục diện thế giới mới đang đòi hỏi gay gắt Việt Nam phải sớm trở thành một
nước phát triển. Đấy là đòi hỏi để tồn tại, để phát triển! Nói
riêng về Đảng, toàn bộ yêu cầu mới này đặt ra cho Đảng hai vấn đề lớn: (a)
Làm thế nào lãnh đạo đất nước xây dựng thành công một thể chế chính trị dân
chủ như vậy, (b) Đảng phải đổi mới như thế nào và lựa chọn chỗ đứng nào trong
một thể chế chính trị dân chủ đích thực như vậy của một nhà nước pháp quyền.
Đảng muốn giữ quyền lãnh đạo thì phải trả lời những câu hỏi này.
Đảng
hiện nay chưa có câu trả lời nào, thậm chí không muốn nghĩ tới, mà đang nghĩ
theo hướng củng cố cầm quyền và nắm quyền.
Chắc
chắn tòa nhà dân chủ phải xây dựng nên này không thể là thể chế định hướng
xã hội chủ nghĩa như Đảng đang xây. Thậm chí có thể nói cho đến ngày hôm
nay xây dựng thể chế dân chủ ở nước ta mới chỉ dừng lại ở các ý tưởng mang
tính khai sáng được Phan Châu Trinh nêu lên và được dựng lên lần đầu tiên
trong Hiến pháp 1946, nhưng chưa có điều kiện thực hiện. Sau đó Hiến pháp
1946 đã bị thay thế bằng các Hiến pháp khác.
Ngày
nay việc thực hiện các khái niệm chưa Đại hội Đảng nào làm rõ được như thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ
nghĩa... đang được coi là thực hiện dân chủ. Gần đây còn có ý kiến nêu
lên xây dựng xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa! Song cuộc sống
cho thấy không thể cứ gắn thêm cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa”
là mọi việc đã được giải quyết cho việc xây dựng một thể chế dân chủ.
Trong
khi đó quan điểm chính thống hiện nay trong Đảng vẫn
cho rằng thể chế dân chủ cần xây dựng cho đất nước để chuyển sang giai đoạn
phát triển mới như được đề cập bên trên là thứ dân chủ tư sản, là mưu đồ đi
vào tam quyền phân lập với chủ định loại bỏ sự lãnh đạo thống nhất, tập trung
và toàn diện của Đảng.., là phi giai cấp... Đảng vẫn đang cho rằng thể chế
chính trị hiện nay của nước ta còn vạn lần dân chủ hơn!.. Xin dành cho
các nghiên cứu khoa học đánh giá. Trong khi đó dân chủ, dù mới chỉ được thực
hiện ở mức đô khiêm tốn, chưa thể nói được là tự giác, và chủ yếu là trong
lĩnh vực kinh tế, là nhân tố hàng đầu làm nên những thành tựu của 25 năm đổi
mới vừa qua thì lại chưa được tổng kết, phát triển, để đi tiếp, thậm chí có
lúc còn bị coi là nguyên nhân của nguy cơ diễn biến hòa bình.
Chắc
chắn con đường xây dựng một thiết chế dân chủ ở nước ta đòi hòi phải phát huy
truyền thống dân tộc và nhiều giá trị văn hóa của đất nước, đồng thời phải
khắc phục rất nhiều trở ngại do hoàn cảnh lịch sử rất đặc thù và khắc nghiệt
của nước ta, nhất là hoàn cảnh lịch sử cận đại.
Nói
một cách khái quát, con đường xây dựng một thể chế dân chủ ở nước ta là con
đường chuyển đất nước từ một thể chế kinh tế, chính trị, văn hóa còn mang
nặng nhiều di sản của một nền kinh tế manh mún, chậm phát triển, có nhiều tàn
dư phong kiến lạc hậu, dân trí thấp, sang một thể chế hiện đại mà văn minh
nhân loại hôm nay đã thiết kế được. Trong những tàn dư và hệ quả phải khắc
phục còn phải kể đến mặt trái của tình hình đất nước hiện tại, đó là ảnh
hưởng của tư duy ý thức hệ, những hệ quả kinh tế - chính trị - xã hội - văn
hóa của hệ thống chính trị một đảng, những hiện tượng “đảng trị”, những
tác động của khoảng cách giàu nghèo quá lớn, những tác hại khác của
nhiều điều không đúng khác do tình trạng tha hóa của thể chế chính trị hiện
nay gây ra...
Xây
dựng thể chế dân chủ cho đất nước cần đặc biệt cải cách sâu sắc hệ thống giáo
dục hiện nay của đất nước và thực hiện công khai minh bạch để nâng cao dân
trí - đây là hai việc đầu tiên phải làm trong các việc đầu tiên phải
làm ngay từ bây giờ. Xây dựng một thể chế dân chủ như thế đòi hỏi phải duy
trì và phát huy những giá trị chân chính đang bị những tha hóa trong cuộc
sống hiện tại mai một hoặc hủy hoại.
Chắc
chắn con đường đáng mong muốn nhất để xây dựng một thể chế dân chủ như thế
phải có sự phát triển kinh tế bền vững, năng động là nền tảng, làm động lực –
nghĩa là phải trên cơ sở phát huy những ưu điểm, những thành quả đã đạt
được trong 25 năm đổi mới, trong hội nhập kinh tế, trong hội nhập thế giới,
tiếp tục đẩy mạnh cải cách kinh tế hiện nay với ý thức thúc đẩy mạnh mẽ cải
cách chính trị theo kịp đòi hỏi phát triển của đất nước. Đúng là tình
hình bức xúc hiện nay đòi hỏi phải đẩy mạnh cải cách chính trị đã quá tụt hậu
so với tình hình phát triển của kinh tế, song tuyệt đối không được lấy
kinh tế hay lấy đất nước ra làm thí nghiệm cho cải cách chính trị -
như trong suốt thời kỳ nền kinh tế chỉ huy và bao cấp đã từng gò ép
kinh tế và đất nước vào các khung khổ duy ý chí để chứng minh cho chủ nghĩa
xã hội!
Tóm
lại, trước sau vẫn phải kiên định phương châm phát triển kinh tế là nền tảng
trong đẩy mạnh xây dựng thể chế dân chủ, mặc dù bây giờ là lúc phải đẩy mạnh
cải cách chính trị, phải lấy cải cách chính trị làm đòn bẩy thúc đẩy sự tiến
bộ mọi mặt của đất nước. Nói dân dã: Có no và có học mới có hy vọng cải cách
được.
Xin
đặc biệt lưu ý một thể chế dân chủ đáng mong muốn cho đất nước đòi hỏi phải
có sự thống nhất dân tộc cao độ, để luôn luôn có được sự đồng thuận dân tộc
tối ưu cho mọi quyết định và bước đi vô cùng khó khăn trong việc xây dựng thể
chế này. Nếu hiểu rõ lịch sử và tình hình đất nước, hiểu rõ những mặt còn yếu
kém của dân tộc ta, đòi hỏi này là rất cao – nhất là lâu nay thông tin bị bó
hẹp, thiên lệch, hoặc thậm chí bị bưng bít... Đã thế cái tai chúng ta
chỉ quen nghe đến mức nghiện những tiếng nói một chiều về truyền thống tuyệt
vời của dân tộc Việt Nam ta, về những điều cũng tuyệt vời như thế của con
người Việt Nam, vân vân...
Thực
ra về phương diện phát triển đất nước thời hiện đại, phải thẳng thắn thừa
nhận tri thức và ý thức dân tộc ta, tố chất con người Việt Nam chúng ta...
còn nhiều vấn đề, còn tồn tại nhiều yếu kém - thậm chí đã có ý kiến than vãn:
Hình như ý thức dân tộc Việt nam ta chỉ trỗi dậy khi mất nước!.. Làm được
một việc nhỏ con con đã coi trời bằng vung!.. Chủ nghĩa “makeno” trong hàng
ngũ cán bộ đang là một căn bệnh xã hội nguy hiểm!... Trong khi đó chưa
thể nói Đảng đã ý thức đầy đủ thực trạng đất nước trong bối cảnh thế giới
hiện nay, mũ ni che tai trước nhiều điều sai trái!.. Trong hàng ngũ đảng viên
chưa nhức nhối quyết liệt gì trước tình hình đất nước đang biến thành đất
nước cho thuê, người dân chúng ta đang biến thành kẻ làm thuê theo cả nghĩa
đen và nghĩa bóng. Chưa có thể nói người Việt chúng ta đã đủ lòng tự
trọng đến mất ăn mất ngủ vì cái nhục độc lập xây dựng đất nước trên ba thập
kỷ rồi mà nay quốc gia vẫn còn thua kém nhiều mặt! Càng đuổi thiên hạ, càng
bị thiên hạ bỏ xa, càng bị chèn ép!.. Vẫn đầy dẫy các chợ vợ cho người
nước ngoài, các chợ bằng giả và biết bao điều ê chề khác về phẩm giá con người,
về thể diện quốc gia bao lần bị đánh vỗ mặt!..
Cần
thức tỉnh trong cả nước nỗi nhục nghèo hèn và những mối nguy trước mắt, để
quyết tâm tạo ra thống nhất dân tộc với tri thức và ý thức rất cao, đồng tâm
gắng sức vượt qua mọi yếu kém để mở mày mở mặt cho đất nước. Cần tạo ra thống
nhất dân tộc với tri thức và ý thức rất cao như vậy để kiên quyết chống lại
tham nhũng tiêu cực, đồng thời có thể tránh hoặc giảm xuống mức thấp nhất mọi
đổ vỡ trong quá trình tìm đường đi lên cho đất nước. Như vậy, sự thống nhất có
trí tuệ và ý chí này sẽ thúc đẩy sự nghiệp xây dựng thể chế dân chủ phát
triển, mang lại sức sống mới cho đất nước.
Đứng
trước những khó khăn lớn về đối ngoại, lại càng phải lấy sự thống nhất dân
tộc làm sức mạnh, làm hậu thuẫn cho thế và lực để bảo vệ đất nước, dứt khoát
không được bỏ sang một bên sức mạnh này của đất nước trong bất kỳ bước đi đối
ngoại nào.
Xây
dựng thể chế dân chủ cho đất nước như thế là con đường xây dựng một quốc gia
mạnh về đối nội để có thể vững vàng trước mọi can thiệp bất kể màu sắc chính
trị nào từ bên ngoài. Nếu nhìn vào bản đồ thế giới, nhất là bản đồ khu vực
nước ta, nhìn vào mối nguy của các loại quyền lực mềm từ bên ngoài tác động
vào, yếu tố đối nội này rất quan trọng. Ai không muốn một Việt Nam giàu mạnh
và độc lập tự chủ, đều không muốn Việt Nam lựa chọn con đường dân chủ dựa
trên sức mạnh thống nhất dân tộc như thế?
Mặt
khác, nếu Việt Nam thành công trên con đường phát triển dân chủ và trở nên
giàu mạnh, sẽ có sự hoan nghênh, hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ, sẽ là một
nhân tố mới trong xu thế tiến bộ của thế giới. Thử hình dung, một nước đang
phát triển là Việt Nam tìm được con đường xây dựng thành công thể chế dân tộc
và dân chủ như vậy để phát triển, các nước đang phát triển trên thế giới sẽ
hân hoan chào đón và cổ vũ như thế nào. Ngược lại 180 độ là những
thế lực không muốn Việt Nam độc lập tự chủ và giàu mạnh sẽ tìm mọi cách ngăn cản
Việt Nam tiến lên trên con đường dân chủ
như thế, vì muốn kìm
hãm nước ta để dễ bề chi phối, song cũng
vì dân chủ là chỗ yếu, là nỗi sợ, là mối nguy,
và là kẻ thù của chính họ.
Cái mới của cục diện thế giới ngày nay trực tiếp liên
quan đến nước ta là sát nách nước ta bây giờ không phải là một quốc gia bình
thường, mà là “cái công xưởng thế giới” đang vươn lên thành siêu cường. Điều
này diễn ra trong một thế giới đầy những thách thức chính trị mới bất định, gắn liền như hình với
bóng một cuộc khủng hoảng mới trên thế giới về mô hình phát triển[44]. Nước
ta nằm án ngữ ngay trên con đường đi xuống phía Nam Thái Bình Dương của siêu
cường đang lên này. Có thể nói tác động của toàn bộ cục diện quốc tế và nhất
là của cục diện khu vực Đông Nam Á như vậy rất nhậy cảm đối với Việt Nam[45]. Đấy
không phải là điều nước ta tự lựa chọn cho mình, mà là biến động của cục diện
mới trên thế giới và trong khu vực từ đầu thế kỷ 21 áp đặt nước ta vào tình
huống như vậy, chỉ cho phép nước ta lựa chọn cách ứng xử nào mà thôi.
Trong khi đó bản thân Việt Nam cũng đang đứng trước yêu cầu
phải chuyển sang mô hình phát triển theo chiều sâu trên cơ sở phát huy lợi
thế hàng đầu là nguồn lực con người.
Chìa khoá để xoay chuyển mọi nguy
cơ nội – ngoại hiện đang uy hiếp đất nước, thành thời cơ bứt phá đi lên thành
một quốc gia dân chủ, giàu mạnh, văn minh, là thiết lập bằng được cho đất
nước một thể chế chính trị dân chủ. Đó là con đường hiện thực nhất tạo ra cho
Việt Nam có chất, có lực và có thế để trở thành láng giềng tốt, đối tác tốt và được tôn trọng của Trung Quốc; mà như thế cũng là tranh thủ
được cả thế giới và được cả thế giới tôn trọng. Một Việt Nam èo uột, không có dân chủ, sẽ không phát triển, không có
trong ấm ngoài êm, dù có quỳ xuống
cũng sẽ chẳng đối tác được với bất kỳ ai, và cũng
không giữ được độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Đã đến lúc dân tộc ta cần xác định: Sau khi giành được độc lập thống
nhất đất nước, dân tộc ta phải bước vào cuộc đấu tranh mới sống còn thiết lập
cho quốc gia mình một thể chế chính trị dân chủ làm nền tảng cho sự phát
triển trường tồn của đất nước trong thế giới đương đại ngày nay.
Cuộc sống hiện tại và tương lai của đất nước trong
thế giới này khách quan đặt ra cho dân tộc ta chiến trường mới như thế, cả
nước phải thực hiện hoà hợp, hoà giải, đại đoàn kết dân tộc để dấn thân bước
vào chiến trường mới này. Nhận về mình sứ mệnh lãnh đạo đất nước, nhất thiết
Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay phải lựa chọn chiến trường mới này của dân
tộc, đi tiên phong trong chiến trường mới này của dân tộc, Đảng không có
quyền lựa chọn chiến trường riêng cho mình.
Hiển nhiên con đường đi tới một thể
chế dân chủ đáng mong
muốn như thế ở nước ta sẽ vô cùng gian truân,
phải chia ra làm nhiều chặng trong một lộ trình được cân nhắc thấu đáo, và
phải luôn luôn tranh thủ được sự đồng thuận tối đa của toàn thể nhân dân.
Chắc chắn đấy sẽ phải là con đường tự học hỏi và tự dậy lại chính mình
và dậy lẫn nhau của từng người dân và của toàn dân – vừa là để khắc phục
những thành kiến và di sản văn hóa cũ cũng như những yếu kém do tình trạng
tha hóa hiện nay, vừa là xây dựng và nâng cao nhận thức mới về quyền, về
trách nhiệm, về khả năng và kỹ năng của từng công dân xây dựng cuộc sống hạnh
phúc của chính mình cũng như thực hiện nghĩa vụ đối với cộng đồng, đối với
quốc gia.
Xây dựng một thể chế chính trị dân chủ của học hỏi, của
phát triển như thế chưa có dự án, chưa có lộ trình và cũng chưa ai nói
được quá trình này sẽ kéo dài bao lâu – mươi
mười lăm năm, một thế hệ? Hay
có thể ngắn hơn? Nhưng sự nghiệp nào cũng phải có sự bắt đầu, càng không được để muộn.
Đảng cầm quyền phải là người đi học, học lại tất cả, là
người học trước tiên.
Bất
chấp mọi tha hóa, trong Đảng vẫn còn đội ngũ đông đảo các đảng viên ở tất cả
các cấp có hiểu biết tường tận và trung thành với sự nghiệp của đất nước. Trí
tuệ và tâm huyết trong Đảng và trong nhân dân nếu được khơi dậy hoàn toàn cho
phép xây dựng thành công một thể chế trong đó mọi quyền lực là của dân như
thế - đúng với tên gọi là nhà nước của dân, do dân, vì dân, phát huy khả năng
và quyền năng của từng công dân. Chỉ riêng những kinh nghiệm được rút ra từ
thành và bại của đất nước trong 35 năm qua, chỉ riêng trí tuệ của đất nước đã
tích lũy được hoàn toàn cho phép xây dựng nên một thể chế dân chủ như thế,
chưa kể đến kinh nghiệm phong phú của văn minh nhân loại. Vấn đề còn lại là ý
chí và sự lựa chọn của Đảng lãnh đạo.
Sự
phát triển năng động hiện nay của đất nước đang bị sự tụt hậu của cải cách
chính trị kìm hãm. Khả năng phát triển năng động hiện nay của đất nước vừa
cho phép, vừa đòi hỏi xây dựng thành công một thể chế chính trị dân chủ như
thế, bắt đầu từ nhiệm vụ đổi mới Đảng: Tổ chức học lại, nhìn nhận lại tất cả,
với tinh thần cởi mở và phê phán. Hơn bao giờ hết người đảng viên cần tự giải
phóng mình khỏi mọi ràng buộc giáo lý hoặc ý thức hệ, nâng cao trí tuệ, tiếp
thu những thành quả ngày nay của văn minh nhân loại, vắt óc tìm đường đưa đất
nước đi lên với tất cả nhiệt tình yêu nước và tính tiền phong chiến đấu của
người đảng viên. Người cộng sản xin đừng quên một điều đã từng làm nên chính
mình khi bước chân vào con đường cách mạng: Có cả gan giải phóng được
chính mình, mới kỳ vọng giải phóng được giai cấp, giải phóng được dân
tộc! Khi được bồi dưỡng để kết nạp vào Đảng thời trai trẻ tôi đã được
học, đã tin và đã phấn đấu như thế! Ngày nay mọi đảng viên đều phải tự giải
phóng mình như thế khỏi cái “hôm qua”.
Từ
nhận thức mới về thực trạng hiện nay của Đảng và của đất nước, về tình hình
và nhiệm vụ, cần phát huy dân chủ trong Đảng, để thống nhất ý chí: Đưa
đất nước chuyển lên một giai đoạn phát triển mới trong một thế giới đang thay
đổi, lấy xây dựng một thể chế dân chủ làm giường cột và động lực cho giai
đoạn phát triển mới này của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Xin
coi đây là mục tiêu phấn đấu thiêng liêng nhất và duy nhất của Đảng. Đừng đẩy
Tổ quốc xuống hạng hai!
Tình
hình đòi hỏi phải phát huy trí tuệ toàn Đảng và lắng nghe trí tuệ của cả nước
để xây dựng được một chương trình hành động đúng và thiết kế được các bước đi
phù hợp, tạo ra sự thống nhất cao nhất (không thể trông đợi có sự thống nhất
hoàn toàn) trong toàn Đảng và cả nước cho việc thực hiện chương trình này.
-
Trước mắt cần đẩy mạnh thực hiện
công khai minh bạch để làm rõ các thuận lợi và khó khăn, thực hiện tốt luật
pháp và những chính sách đúng đắn đã xây dựng được[46],
phát huy những tiến bộ mọi mặt đã đạt được của đổi mới, đẩy lùi quan liêu
tham nhũng và cách làm ăn thiếu trách nhiệm, chạy theo số lượng.., tất cả
nhằm sớm đưa kinh tế ra khỏi khủng hoảng hiện nay.
-
Trên cơ sở đẩy mạnh dân chủ hóa và
công khai minh bạch, cần tập trung sức, từng bước khắc phục tình trạng “đảng
hóa” và lấy đó làm nền tảng tiếp tục cải cách hệ thống chính trị, trước mắt
nhằm đẩy mạnh việc thực thi pháp luật, nâng cao quyền lực và năng lực của bộ
máy nhà nước.
-
Báo chí không có “lề phải”, không
có “lề trái”, mà chỉ tuân thủ lẽ phải, cổ vũ cho xây dựng thể chế dân chủ,
nâng cao sức chiến đấu của cả nước cho một Việt Nam cường thịnh.
-
Sự lãnh đạo của Đảng cần bảo đảm
thực hiện bằng được những bước đi đầu tiên nói trên, nhằm kế tục các thành
tích đã đạt được trong 25 năm đổi mới, tạo ra tình hình thuận lợi, sao cho
trong vòng vài năm tới BCHTƯ khoá XI có thể huy động trí tuệ toàn Đảng và cả
nước xây dựng nên môt chiến lược phát triển có hai vế gắn bó hữu cơ với nhau:
(a) cải cách hệ thống chính trị của đất nước, (b) phát triển kinh tế theo
hướng đưa đất nước vào giai đoạn phát triển mới (phát triển theo chiều sâu);
lộ trình thực hiện chiến lược này. Đảng viên phải gương mẫu và là người
đi đầu thực hiện các bước đi này.
Trên
đây mới chỉ là những bước đi đầu tiên tạo mọi điều kiện cho việc hình
thành được một chiến lược chuyển đất nước sang thời kỳ phát triển trong thể
chế dân chủ. Một chiến lược phát triển như thế, nhất thiết phải là thành quả
lao động trí tuệ của toàn Đảng và toàn dân, đạt được sự đồng thuận cao nhất
của toàn Đảng và toàn dân, để sẽ được thực hiện với quyết tâm cao nhất của
toàn Đảng và toàn dân.
Một
chiến lược như thế nhất thiết không phải là, và dứt khoát không được phép là “một cuộc cách mạng xóa đi tất cả và làm lại từ đầu!”
Cốt lõi của cải cách thể chế chính trị, của đường lối phát
triển đất nước trong giai đoạn phát triển mới là giương cao ngọn cờ dân tộc,
dân chủ. Những thành tựu đạt được trong đổi mới – nhất là trong kinh tế -
chính là và trước hết là thành quả của phát huy yếu tố dân tộc và dân chủ.[47]
Những tiến bộ đạt được trong chính trị cũng xác nhận như vậy. Suy cho cùng,
dân chủ là phương thức phát triển, phát huy khả năng, bản lĩnh và vai trò của
từng cá nhân cho lợi ích của chính mình và lợi ích của đất nước. Sớm muộn
phương thức này tất yếu sẽ dẫn tới đa nguyên, đa đảng.
Cần
nhìn thẳng vào sự vật: dân chủ là nguồn gốc của hệ thống kinh tế, chính trị,
xã hội đa nguyên, đa đảng. Nước ta đang đi những bước đầu tiên của chặng
đường đa nguyên này. Ở chặng đường này, cái mà ngôn ngữ chính thống gọi là định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, về nhiều mặt thực chất đang là một dạng
tích tụ tư bản sơ khai ban đầu của chủ nghĩa tư bản trong chế độ chính trị
một đảng. Xem xét trên các phương diện thể chế chính trị, văn hoá, xã hội và
so sánh với các nước phát triển cũng có thể nhận định như vậy. Vấn đề còn để
ngỏ không phải là tình hình quá độ lên chủ nghĩa xã hội sẽ ra sao, vì cho đến
nay chưa một đầu óc vĩ cuồng nào có gan nói rõ ra được nó là cái gì, sẽ kết
thúc vào thế kỷ nào...
Vấn
đề còn để ngỏ rất hiện thực là từ nay cho đến khoảng giữa thế kỷ 21 này, con
đường nước ta đang đi sẽ dẫn tới một đa nguyên của dân chủ, của phát triển,
Việt Nam sẽ trở thành một nước phát triển?
Hay
là con đường nước ta đang đi, sớm muộn sẽ dẫn tới một đa nguyên của máu, nước
mắt, hỗn loạn.., mà thực chất là tạo ra một dạng chuyên quyền mới như đã phân
tích bên trên – với kịch bản A đa đảng sẽ là một Thái Lan náo loạn như vừa
qua – nếu xảy ra ở nước ta sẽ vô cùng đẫm máu, hay với kịch bản B một đảng sẽ
là thêm một Myanma mới? Tiếp tục con đường định hướng xã hội chủ nghĩa như
đang diễn ra hiện nay, rất có thể sẽ dẫn đến một trong hai kịch bản A hoặc B
như vậy.
Dân
chủ giả tạo khỏi cần bàn ở đây.
Xoay
đi xoay lại, lại đụng phải vào câu hỏi: Lựa chọn hệ thống đa nguyên và đa
đảng nào? Đầy hỗn loạn như ở một số nước đang phát triển, hay là một thể chế
vững chắc và ngày càng phát triển như ở các nước công nghiệp tiên tiến?
Hiển
nhiên, giữa hai mô hình này là cả một giai đoạn phát triển – song như đã nói ở trên: …Giai
đoạn phát triển này sẽ là mươi mười lăm năm hay một thế hệ? Hay có thể ngắn hơn? Ai nói trước được giai đoạn này sẽ dài bao lâu? Rồi còn
phải xây dựng tiếp, hoàn thiện tiếp...
Vậy
vấn đề đặt ra là lựa chọn dân chủ nào, lựa chọn như thế nào, chứ không phải
vì sợ đa nguyên đa đảng mà vứt dân chủ.
Nên,
thậm chí nhất thiết nên loại ngay từ đầu phải thông qua con đường dân chủ đa
nguyên hỗn loạn tìm đường đi lên thể chế dân chủ của phát triển. Thiết nghĩ
nước ta ngày nay hội đủ các điều kiện lựa chọn con đường dân chủ của học hỏi
và phát triển, với điều kiện tiên quyết Đảng nhận thức được và lựa chọn cho
mình nhiệm vụ chính trị này, nguyện phấn đấu hết mình thực hiện nó.
Điều
kiện tiên quyết này là không tưởng?
Xây
dựng một thể chế dân chủ của học hỏi và phát triển, nhất thiết phải có lãnh
đạo của lực lương tinh hoa của đất nước. Rất đáng Đảng vận dụng mọi vốn liếng
truyền thống lịch sử kiên cường của mình, tuyên chiến với mọi tha hoá của
mình, ráng tự rèn luyện để trở thành lực lượng tinh hoa như thế và khơi dậy
tinh hoa của cả nước. Tiền phong chiến đấu và lãnh đạo chính là như vậy. Tại
sao không?[48] Trừ
phi Đảng muốn tự mình tước bỏ trách nhiệm lịch sử của mình.
Mặt
khác, không thể có một Đảng Cộng Sản Việt Nam tồn tại vĩnh viễn, dù là một
đảng trong sạch vững mạnh. Hơn nữa, vấn đề là trong hệ thống chính trị một đảng
không có các thách đố, cọ sát sống còn, không tuân theo các quy luật của phát
triển và đào thải.., thì làm sao có được đảng trong sạch vững mạnh? Đây chính
là điều chúng ta đang thấy trong đời sống nước ta và tại mọi nơi khác trên
thế giới. Như vậy sự tồn tại của Đảng trong chế độ một đảng là hữu hạn, và
dứt khóat đảng viên cũng như người ngoài đảng có ý thức trách nhiệm với đất
nước không thể lựa chọn cách sống được tới đâu hay tới đó, rồi sẽ
liệu… Ngày nay không thể có chuyện nước đến chân mới nhảy như khi
tiến hành đổi mới năm 1986.
Hơn nữa quan liêu tham nhũng đang tích tụ
những ách tắc mới, nhiệm kỳ
khoá Đại hội X trầm trọng hơn các khoá trước. Cố gò ép, hay buông thả nhờ
trời được tới đâu hay tới đó – kiên trì chế độ một đảng như thế (và
hiện nay đang diễn ra như thế) chẳng khác gì khuyến khích chụp giựt, khuyến
khích quan liêu tham nhũng, khuyến khích tư tưởng nhiệm kỳ, tư tưởng “múc”
được đến đâu hay đến đấy... – thực tế đấy là khuyến khích sống gấp, là hy
sinh tương lai một cách ghê sợ, là tích tụ ngày một nhiều các mâu thuẫn nội
tại – như bao nhiêu quyết định kinh tế sai lầm và những yếu kém khác đã
chứng minh. Bản thân các nhóm lợi ích và sự thao túng luật pháp của chúng
cũng dẫn đến băng hoại các thiết chế quốc gia, chia rẽ nội bộ, phân hoá hệ
thống chính trị một đảng. Trong tình hình này, kinh tế càng phát triển sự
thao túng của các nhóm lợi ích sẽ càng gia tăng... Mà tiếp
tục trạng thái hiện nay như thế, càng
muốn ổn định sẽ càng phải mất dân chủ, càng phải trấn áp, tới một lúc nào đó sẽ khó tránh
khỏi đổ vỡ – như đã diễn ra tại
các nước Liên Xô và Đông Âu cũ... Để
xảy ra như thế ở nước ta, sẽ là hiểm họa nồi da xáo thịt, đất nước sẽ lai rơi vào vòng luẩn quẩn của ách nô dịch mới – của
ngoại bang hay do chính mình dựng nên.
Xin
đừng quên bài học Thái Lan: Chừng nào các nhóm “dưa hấu” (xanh
vỏ đỏ lòng), “cà chua” (trong đỏ ngoài đỏ, nát bét), “dưa gang” (ngoài vàng
trong trắng)… – người dân Thái hài hước đặt các tên như vậy cho các phe nhóm
đặc quyền khác nhau của nước họ – từ nhiều thập kỷ nay giữ vai trò thao túng
Thái Lan còn đứng trên luật pháp, hoặc luật pháp không thể đụng tới họ, phân
biệt giàu nghèo tiếp tục gia tăng, tham nhũng nẩy nở.., đừng nói tới dân chủ
của phát triển. Tất cả những gì Thái Lan đạt được cho đến hôm nay, mặc dù đã
có những bước đi khá xa so với nước ta, song vẫn là một nền dân chủ dang dở,
là thứ đa nguyên “xanh, đỏ, vàng”[49] đứng
trên và đứng ngoài luật pháp, câu chuyện vài năm đảo chính một lần ở quốc gia
này là không tránh khỏi. Tình hình Thái Lan hiện nay càng không phải là kết
quả của dân chủ đa nguyên, mà là hệ quả tất yếu của xâm phạm dân chủ![50]
Lúc
này lúc khác đã có người nói đến chế độ một đảng độc tài sáng suốt – có thể
là như thế trong hội thảo hàn lâm, trong trí tưởng tượng… Song ở đây chúng ta
đang bàn chuyện sống còn của nước ta, tìm lối đi và giải pháp cho nước ta -
trước một bước ngoặt lịch sử do tình hình trong nước và bên ngoài đã hoàn
toàn thay đổi, trên một chiến trường mới đất nước ta phải chấp nhận bước vào,
chứ không phải ngồi bàn chuyện phiếm trong phòng trà!
Đảng
cần xem xét mọi khía cạnh như trên cho hết nhẽ, để lựa chọn con
đường tự giác lãnh đạo cả nước dốc sức xây dựng một thể chế chính
trị dân chủ như tình hình đất nước trong thế giới ngày nay đòi hỏi. Quỹ
thời gian, thực lực và vốn chính trị Đảng đang có trong tay hoàn toàn đáp ứng
yêu cầu đổi mới Đảng thành Đảng của dân tộc, để Đảng có phẩm chất thực hiện
thành công sự nghiệp vinh quang này. Cách mạng là như vậy. Nhất quyết
Đảng không thể chỉ vì sự hù dọa nào đó về đa nguyên đa đảng mà theo đuổi dân
chủ nửa vời, dân chủ giả hiệu, hay thậm chí vứt bỏ dân chủ. Chỉ những kẻ yếu
bóng vía, quen ăn bám mới có thể cho phép mình hoang phí quỹ thời gian, thực
lực và vốn chính trị vô cùng quý báu Đảng hiện đang có trong tay, lẩn tránh
lý tưởng phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước mà Đảng đã ghi trên lá cờ của
mình.
Lựa
chọn xây dựng một thể chế chính trị dân chủ là kết quả bền vững của học
hỏi và phát triển có nghĩa là lựa chọn và xây dựng một thể chế
để cho trí tụê và dân chủ dẫn dắt đất nước, chứ không phải là lựa chọn
dân chủ với hệ quả chỉ đem lại đa nguyên đa đảng của đổ vỡ. Lựa chon một thể
chế chính trị của trí tuệ và dân chủ như thế còn là phương thức sàng lọc hiền
tài đảm đương công việc quốc gia. Mặt khác, việc loại bỏ những kẻ quan liêu
ăn bám, đắc dụng được người tài cũng sẽ thúc đẩy mạnh mẽ quá trình xây dựng
thể chế chính trị dân chủ. Bia trong Quốc Tử Giám ghi: Người
tài là nguyên khí của quốc gia. Điều này cần được hiểu cả theo nghĩa: một thể
chế chính trị, một quốc gia đề kháng, thải loại hiền tài và chỉ còn đất dụng
võ cho giả dối và vô đạo đức, thì suy tàn là tất yếu. Lịch sừ hàng nghìn năm
của nước ta cũng nói lên như vậy.
Nếu
phải đặt một tên gọi chung cho tất cả các nhiệm vụ cải cách phải thực hiện,
để từng bước xây dựng nên một thể chế chính trị cho sự nghiệp phát triển đất
nước như đã trình bày trên, thì cái tên chung đó sẽ là: quá trình
dân chủ hóa![51]-
phải thực hiện trước tiên từ trong Đảng.
Trở lại vấn đề cốt lõi của mọi vấn
đề là dân chủ và thực thi dân chủ.
Đó sẽ là dân chủ của bầy đàn, của đám đông, của hỗn lọan, mà thực chất là mất
dân chủ hoặc là một thứ lũng đoạn nào đấy của quyền lực? Hay là dân chủ dựa
trên nền tảng của giáo dục và trí tuệ, của phát triển, trong một thể chế được
thiết kế khúc chiết, minh bạch, có sự kiểm soát lẫn nhau và ngày càng phát
triển cùng với sự phát triển mọi mặt của đất nước?
Cuộc sống sòng phẳng một cách lạnh lùng: Cho đến nay chưa một nền
dân chủ giả hiệu nào thành công trên bất kỳ quốc gia nào của hành tinh này!
Mặt khác dân chủ đích thực tới đâu, thành tựu đạt được tới đấy. Dân chủ bền
vững thành quả cũng bền vững. Dân chủ bị ăn bớt, thành quả cũng sẽ bị ăn bớt,
kể cả vấn đề tam quyền phân lập.
Cuộc
sống thừa nhận văn minh nhân loại ngày nay mang lại cho các quốc gia trên thế
giới nhiều con đường và giá trị dẫn tới một thể chế dân chủ của học hỏi và
phát triển. Song cũng là sự thật là nhiều quốc gia độc lập, có chế độ đa
nguyên đa đảng, mà từ nhiều thập kỷ nay chưa làm sao thành công được trên con
đường phát triển của dân chủ, thậm chí có những nước đang rơi vào hỗn loạn.
Vấn đề còn lại là đội ngũ tinh hoa và các tầng lớp dân cư của mỗi quốc gia có
khả năng lựa chọn, thiết kế, xây dựng và phát triển con đường nào, thế chế
dân chủ kiểu nào cho quốc gia mình. Trước sau chân lý vẫn là: Chuẩn bị
tiền đề ra sao, sản phẩm dân chủ sẽ là thế nấy, gieo gì gặt nấy. Lịch sử
chẳng cho không dân tộc nào bất kể thứ gì, cũng chẳng để cho một quy
luật nào có thể ăn bớt!
Dân
chủ và chất lượng dân chủ còn tùy huộc vào mối tương quan được kiểm soát hay
không được kiểm soát của các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa
giữa các nhóm quyền lực hay các tầng lớp dân cư, các địa phương, nghĩa là rất
tùy thuộc vào thiết chế hữu hiệu được xây dựng nên để điều tiết các mối tương
quan này. Không thể có dân chủ nếu còn duy trì các loại hình đặc quyền, đặc
lợi.
Dân chủ của học hỏi và phát triển như vừa trình bày là cả một
quá trình phấn đấu, xây dựng và phát triển. Quá trình này dài, ngắn thế nào
trước hết tùy thuộc vào ý chí, văn hóa, những điều kiện kinh tế, hoàn cảnh
lịch sử… của quốc gia đó, tùy thuộc vào đội ngũ tinh hoa và tình hình
dân trí của quốc gia đó... Dù quá trình này dài, ngắn thế nào, cũng bắt buộc
phải có sự khởi đầu, có dự kiến, thiết kế, và lộ trình triển khai nó – nghĩa
là cũng phải có lãnh đạo – trước hết là sự lãnh đạo của trí tuệ và ý chí, của
tinh thần yêu nước bất khuất và sự giác ngộ sâu sắc lợi ích quốc gia trên
hết! Theo tinh thần này, yêu nước không phải là “độc lập dân tộc gắn
với chủ nghĩa xã hội!” một cách mơ hồ. Theo tinh thần này, đứng trước những
thách thức mới của đất nước, yêu nước là xây đựng bằng được cho nước ta một
thể chế chính trị dân chủ có khả năng phát huy tối đa mọi tiềm năng của dân
tộc phấn đấu cho một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và
giàu mạnh! Trong trường hợp của nước ta hiện nay, đấy chính là
sự lãnh đạo mà Đảng Cộng sản Việt Nam phải cố phấn đấu đạt lấy.
Những điều trình bày trên cho thấy sẽ là sai lầm nếu muốn trong một đêm
nhảy phắt sang chế độ đa nguyên đa đảng với hy vọng để có dân chủ. Và càng
sai lầm hơn nếu để cho tình hình rối loạn, dẫn đến đổ vỡ rồi mới đi tìm đường
xây dựng dân chủ theo kiểu hụt hơi, đụng đâu làm đấy, với cái màn kết chung
cuộc sẽ là chỉ hình thành được một đa nguyên hỗn loạn – mà thực chất và cuối
cùng là hình thành một loại hình quyền lực độc đoán mới, với đủ mọi loại
mafia mới đầy sức thao túng nguy hiểm.
Vậy chỉ còn lại con đường tự giác thực hiên quá trình dân chủ hoá, đưa đất
nước tiến lên kinh qua con đường dân chủ của học hỏi và phát triển.
Đối
với nước ta, một quốc gia còn ở trình độ kém phát triển, vừa mới trải qua
những cuộc chiến tranh khốc liệt và phức tạp, nếu để tình hình xảy ra đổ vỡ
dẫn đến đa nguyên của hỗn loạn sẽ rơi vào tình cảnh không thể tưởng tượng
nổi! Mặt khác cũng sẽ là sai lầm tệ hại không kém, nếu cứ vin vào điều này để
duy trì mãi mãi chế độ toàn trị một đảng với ưu tiên đặt bảo vệ quyền
lực của Đảng lên trên lợi ích quốc gia.
Xin
lưu ý, kinh nghiệm “shock therapy” (cải cách theo liệu pháp “sốc”) của Nga và
các cuộc “cách mạng da cam, da quýt” tại một số
nước trong Liên bang Xô viết cũ là những bài học cay đắng cho các quốc gia
này. Mười năm sau cải cách, Nga và tất cả các nước Đông Âu cũ (không kể Công
Hòa Dân Chủ Đức cũ đã thống nhất vào nước Đức) vẫn chưa lấy lại được mức sống
trước đó và gặp nhiều khó khăn lớn trong thời kỳ này. Đó là những kinh nghiệm
phải trả giá của những quốc gia này. Cho đến nay đã 20 năm trôi qua, song mấy
năm gần đây một số trong các nước này mới bắt đầu có đà phát triển. Nước
ta sau khi chịu đựng gần nửa thế kỷ chiến tranh khốc liệt (1940-1989), lại
kém phát triển rất xa so với những quốc gia này, không thể bắt chước họ để
chịu đựng thêm một cuộc bể dâu mới nào nữa[52]. Một
số phong trào cánh tả đang thắng thế trong bầu cử ở một số nước châu Mỹ
Latinh, đang giương cao các khẩu hiệu xã hội chủ nghĩa, thực hiện một số
chính sách tạm gọi là “đốt cháy giai đoạn” của chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam
đã từng thực hiện trước thời đổi mới..; hiển nhiên những bước đi này mang đầy
tính toán của những trò chơi chính trị của đảng thắng cử. Dứt khoát đấy không
thể là kinh nghiệm cho Việt Nam trong xây dựng thể chế dân chủ. Càng không
nên tự đánh lừa mình như một số báo chí và phát ngôn đang làm, nói liều rằng
đây là sự trỗi dậy trở lại của chủ nghĩa xã hội theo cách tư duy của ý thức
hệ.[53]
Đúng ra phải nói: Việt Nam tự mình đã có quá đủ các bài học cay đắng về con
đường xã hội chủ nghĩa này, những bài học cho hôm nay tìm đường xây dựng một
thể chế dân chủ đích thực của nước ta và cho nước ta.
Đã
thôi duy ý chí xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì cũng xin đừng duy ý chí đi tìm
hay áp đặt dân chủ, mà phải kiên định xây dân chủ trên cơ sở của học hỏi và
phát triển!
Có thể sẽ có ý kiến phản biện: Trung Quốc một đảng toàn
trị mà phát triển nhanh, trong khi đó tại sao Ấn Độ có
dân chủ mà phát triển chậm? Xin cứ thảo luận cho hết lẽ. Chỉ xin đừng quên thể chế một đảng toàn trị của
Trung Quốc đã huy động được toàn lực của nước đông dân nhất thế giới cho phát
triển chủ nghĩa tư bản gần như với bất kỳ giá nào – từ cách mạng văn hóa với hàng chục triệu sinh mạng, đến Thiên An Môn, Tây Tạng, Tân
Cương, chiến tranh biên giới đánh Việt Nam, chủ nghĩa thực dân mới “made by China”,[54]
v.v... Sự phát triển hiện nay của Trung Qụốc còn dựa trên huy
động rất quyết liệt (hay bóc lột?) công sức của khoảng 800 triệu dân tầng lớp
lao động Trung Quốc với mức sống nghèo khổ và chịu tác động nặng nề của ô
nhiễm môi trường, để có sức tập trung vào phát triển bứt phá các trọng điểm.
Tình hình kinh tế Trung Quốc tiềm tàng nhiều vấn đề nghiêm trọng. Tuy nhiên,
phải thừa nhận chính sách quốc gia khôn ngoan đến tàn bạo của Trung Quốc đã
làm được nhiều việc lớn và lợi dụng được triệt để bối cảnh thế giới ngày nay,
không hiếm trường hợp trên cơ sở hy sinh lợi ích các nước khác. Chính trị là
như vậy. Ấn Độ vì nhiều
lý do nội tại, trước hết vì phân biệt đẳng cấp và tôn giáo trong xã hội –
không làm được như
vậy.
Việt
Nam không phải là Trung Quốc hay Ấn Độ. Vậy Đảng Cộng Sản Việt Nam với tư
cách là đảng duy nhất lãnh đạo và nắm trọn quyền lực của đất nước lựa chọn
con đường nào?
Hiển
nhiên đó chỉ có thể là con đường dân chủ của
tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển mọi mặt của đất nước mà công cuộc đổi mới từ Đại hội
VI đã lát viên gạch đầu tiên, con
đường của học hỏi và tiếp tục phát triển. Nói ngắn gọn đó là con đường
cải cách của quá trình dân chủ hoá. Nó nhất thiết không thể là con
đường “định hướng xã hội chủ nghĩa” chung chung như hiện nay, hoặc là con
đường bỏ ngỏ cho mọi thử nghiệm của những suy nghĩ nôn nóng.
Kết
quả thành hay bại trong việc mở ra con đường dân
chủ của học hỏi và phát triển cho đất nước hoàn toàn tùy thuộc vào việc Đảng
lựa chọn và duy trì một chế độ chính trị phục vụ ưu tiên số một là bảo vệ sự
tồn tại và quyền lực của Đảng, hay là ngay từ bây giờ Đảng bắt tay vào xây
dựng một hệ thống kinh tế - chính trị - xã hội – văn hóa của đất nước phục vụ
yêu cầu phát triển đất nước là tối thượng, và coi đấy là môi trường thử thách
sự phấn đấu của Đảng - để trở thành lực lượng tinh hoa của dân tộc, thành
đảng của dân tộc, để lãnh đạo dân tộc.
Mở ra cho đất nước con đường phát triển của dân chủ như thế để có sức mạnh
bên trong thì yên ấm và bên ngoài thì bảo vệ được bờ cõi là nhiệm vụ bức bách
của đất nước. Đấy là trách nhiệm Đảng không thể thoái thác. Nói cách khác, thực
hiện trách nhiệm không thể thoái thác này là cách Đảng trang trải món nợ lịch
sử của mình đối với dân tộc – người đã thế hệ này tiếp theo thế hệ khác không từ hy sinh nào chiến đấu dưới lá cờ của Đảng cho sự
nghiệp độc lập thống nhất đất nước, người đã nuôi dưỡng, xây dựng và bảo vệ
Đảng trong mọi hiểm nguy, và hôm nay vẫn bao dung giữ mối quan hệ ruột thịt coi Đảng là con đẻ của mình, người đã tạo dựng ra cho Đảng vị thế hôm nay trong cộng
đồng dân tộc.
Xin đặc biệt lưu ý, trong xã hội
nước ta, Đảng Cộng Sản Việt Nam với tính cách là đảng cầm quyền có vị thế cao nhất và có ảnh hưởng rất
lớn. Nếu Đảng – trước hết là cấp lãnh đạo cao
nhất – tận dụng được thực tế này
để trở thành người chủ
xướng, người đi đầu trong việc xây dựng thể chế dân chủ, chắc chắn đấy là con
đường thuận lợi nhất, an toàn và đỡ tổn thất nhất cho đất nước, đồng thời cũng hứa hẹn thành công nhất. Đặt vấn đề như vậy có nghĩa là: Đảng ngày nay, trước hết
là cấp lãnh đạo cao nhất, có dám tận dụng ưu thế tuyệt đối của mình trong xã
hội phấn đấu thực hiện một cuộc cải cách chính trị triệt để hay không?
Thực
chất cuộc cải cách chính trị này sẽ là một cuộc cách mạng dân chủ từ trên
xuống, một cuộc cách mạng hòa bình. Đây cũng là phương án chiến lược tối ưu
nhất cho việc đổi mới xây dựng Đảng, tối ưu nhất cho việc bảo vệ Đảng. Đối
với đất nước, đây cũng là con đường tối ưu tiết kiệm xương máu của nhân dân:
con đường dân chủ của học hỏi và phát triển.
Như
đã nói trong phần bàn về chữ “nếu” thứ nhất (trang 8), quyền
lực không biết làm từ thiện, song nói về trách nhiệm đạo lý của Đảng đối với
dân tộc, những người lãnh đạo Đảng, nếu còn nặng lòng với đất nước, nhất
thiết phải tính đến và tìm đường thực hiện cho đất nước một cuộc cải cách
chính trị mang tính chất một cuộc cách mạng dân chủ từ trên xuống như vừa nêu
trên. Lựa chọn như vậy cho đất nước, chắc chắn những người lãnh đạo Đảng ngày
nay phải chấp nhận chiến đấu vô cùng trí tuệ và dũng cảm chống lại thứ quyền
lực trong Đảng[55]
- về nhiều mặt cũng là chống lại quyền lực riêng của chính mình, để xác
lập quyền lực của nhân dân trong một chính thể dân chủ (quyền lực của một nhà
nước của dân, do dân, vì dân), để từ đó xác lập quyền lực mới của Đảng chỉ
là một bộ phận trong quyền lực của nhân dân và chỉ có lý do tồn tại nếu giữ
được phẩm chất lãnh đạo (nghĩa là xác lập quyền lực chính đáng của
một đảng lãnh đạo). Điều này là không tưởng? Hay là thực hiện mục đích thiêng
liêng PHỤC VỤ TỔ QUỐC như đã ghi trên lá cờ của Đảng thì phải làm như vậy?
Nói học tập đạo đức và tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nhất thiết càng
phải làm như vậy, nếu không là nói suông, nói dối.
Xin
lưu ý, đổi mới ở nước ta xuất phát từ cuộc sống, trở thành một đòi hỏi, một
sự vận động bất khả kháng, cuối cùng trở thành một sự vận động có tính cách
mạng từ dưới lên. Đại hội VI chấp nhận thực tế này và đã đưa thực tế này vào
đường lối của Đảng, biến thành quan điểm chiến lược làm cơ sở cho việc thực
hiện những cải cách tiếp theo – làm như thế, về nhiều mặt trên thực tế
Đảng đã tiến hành một cuộc cải cách từ trên xuống – mặc dù mới ở mức độ cải
cách kinh tế là chủ yếu. Thực tế này không còn xa lạ đối với Đảng
nữa, câu hỏi đặt ra bây giờ là: Đảng có gan dấn thêm một bước nữa hay không?
– Để làm cuộc cách mạng dân chủ của thể chế chính trị từ trên xuống và
từ trong Đảng ra – cuộc cải cách của quá trình dân chủ hoá –
như đã trình bày trên. Đại hội VI đã dám làm và thành công, còn lần này? Tình
hình hiện nay thúc bách quyết liệt không kém khi tiến hành Đại hội VI, nếu
không muốn nói là có một số vấn đề phức tạp hơn; tuy nhiên những điều kiện
cho phép tiến hành một cuộc cải cách chính trị triệt để phong phú hơn nhiều;
duy nhất chỉ có sự tha hoá trong Đảng ngày nay trầm trọng hơn so với thời kỳ
đó, chất lượng bộ máy quản trị quốc gia cũng ngày càng sa sút hơn, với hệ quả
kinh tế - xã hội lớn hơn.[56]
Có
thể nói, so sánh nước ta với tất cả các nước thành viên ASEAN (trừ Singapore
là ngoại lệ với tính cách là quốc gia thành phố) cũng như so sánh với nhiều
nước đang phát triển khác trên thế giới, dù sao Việt Nam trong hoàn cảnh
chính trị - kinh tế - xã hội hiện tại vẫn là nước có điều kiện thuận lợi nhất
để tiến hành một cuôc cách mạng dân chủ từ trên xuống như thế do Đảng Cộng
sản Việt Nam đề xướng, mở ra một tiền đồ phát triển tươi sáng cho đất nước.
Trong bối cảnh quốc tế ngày nay, con đường phát triển của dân chủ như thế là
tiềm năng, là sức mạnh quyết định nhất bảo vệ bất khả kháng độc lập chủ quyền
và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, và tạo ra cho Việt Nam vị thế quốc tế xứng
đáng. Kẻ thù của Việt Nam không sợ lực lượng vật chất của Việt Nam đâu,
nhưng họ rất sợ những gì có thể được tạo ra từ sức mạnh tinh thần của một dân
tộc thực hiện được dân chủ cho mình, rất sợ ảnh hưởng lan tỏa của sức mạnh
tinh thần ấy vào cộng đồng thế giới.
Đảng
xưa nay có một thuận lợi: Đấy là truyền thống một khi cấp lãnh đạo cao nhất
của Đảng chuyển động, toàn Đảng sẽ chuyển động, nhờ đó sẽ vận động được cả
nước chuyển động và hậu thuẫn, không lực nào cản nổi. Làm được như thế, chắc chắn đấy sẽ là điều may mắn và phúc lớn của dân tộc
ta, của đất
nước ta. Truyền
thống này còn không? Đảng ngày nay không thể, không được phép bỏ phí thuận
lợi có một không hai này!
Vâng
phải nói đến mức là phúc lớn, có thể do hồn thiêng sông núi và
vận nước tác thành, song thực ra là do cái tâm cao cả nhất và tình yêu thiêng
liêng dành cho Tổ quốc của mọi người Việt Nam yêu nước có thể làm nên. Những
người lãnh đạo Đảng ngày nay có cái tâm và tình yêu thiêng liêng như thế dành
cho Tổ quốc? Làm được như vậy, cũng sẽ chắc chắn không kém Đảng chỉ
mất mọi đặc quyền đặc lợi không nên giữ (và cũng không đáng giữ), nhưng đổi
lại Đảng sẽ trở thành đảng chân chính của dân tộc. Hiện nay tình hình vừa
là đã chín muồi, đồng thời cũng là lúc thuận lợi nhất để Đảng thực hiện cuộc
cải cách chính trị với nội dung dân chủ hóa như thế. Một cuộc cách mạng hòa
bình như thế đang hoàn toàn trong tầm tay của Đảng. Và làm được, sẽ gắn kết
lịch sử của Đảng với lịch sử vinh quang của dân tộc. Không làm được, sau này
sẽ là một vết nhơ trong lịch sử dân tộc về Đảng.
Đảng
phải lựa chọn. Phải khép lại quá khứ của chính mình để lựa chọn.
Tới đây Đảng lại phải tự hỏi: Có dám không? Có làm nổi
không? Cái gì bó tay Đảng? Đất nước trên hết hay Đảng trên hết?.. Nếu Đảng lựa chọn mình, thì không thể chờ đợi nhân dân
chọn Đảng.
Xin lưu ý, “perestroika” thất bại, không phải vì
“perestroika”, hay Gorbachov, hay Yeltsin là phản bội; càng không phải là các
đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô và quân đội Liên Xô tê liệt, vô cảm hay hữu
khuynh… như một số người muốn giải thích. Đừng nghĩ rằng chúng ta yêu nước
Nga, hiểu nước Nga và trí tuệ hơn người Nga!.. Và cũng xin đừng
quên nước Nga (hay Liên Xô cũ) có trình độ phát triển mọi mặt cao hơn nước ta
rất nhiều! Đổ vỡ đã xảy ra vì tình hình Liên Xô lúc ấy không thể cứu vãn
được nữa, không còn khả năng cải cách nữa! Vì “perestroika” không thành
công toàn diện! Nhất là “perestroika” đã không thành công trong cải cách
chính trị! Do đó “perestroika” chỉ đi tới được cái việc nó không chủ định
làm: Làm Liên Xô sụp đổ hẳn. Cái kết cục không muốn mà tới này đã bắt
nước Nga phải trả cái giá ngày hôm nay có lẽ chưa thể nói là đã trả xong, nếu
rơi vào Việt Nam chắc sẽ không chịu đựng nổi. Hiển nhiên, ngày nay sẽ không
phải điều gì khác mà là nạn tham nhũng và sự hoành hành nghiêm trọng của
mafia nếu không bị đẩy lùi, sẽ có thể lại chôn chân nước Nga! Con đường dân
chủ của nước Nga vẫn còn dài ở phía trước. Cho nên đa nguyên / đa đảng với
bất kỳ giá nào rõ ràng không phải là bài thuốc tiên cho phép có ngay dân chủ.
Sự lựa chọn tối ưu gian khổ hơn, đòi hỏi trí tuệ và ý chí nhiều hơn, đó chỉ
có thể là: dân chủ của học hỏi và phát triển.
Trước
sau, vấn đề sống còn của nước ta là tạo ra được một thể chế dân chủ cho phát
triển, mọi bước phát triển tiếp theo – kể cả trong một tương lai nào đó sẽ
dẫn tới tình huống đa nguyên đa đảng – đều phải là thành quả với tính chất là
các hệ quả tất yếu của phát triển, và phải dựa trên nền tảng của con đường
này – con đường dân chủ của học hỏi và phát triển. Mà như thế, đa nguyên đa
đảng không phải là con ngoáo ộp.
Nhưng
bây giờ ĐCSVN đứng trước tình thế: Trong khi phải lấy kinh tế làm nền tảng,
phải kế thừa các thành tựu đạt được để phát triển, ĐCSVN phải lấy đẩy mạnh
cải cách chính trị làm tiền đề giải phóng kinh tế và đưa đất nước vào giai
đoạn phát triển mới không thể né tránh! Cải cách chính trị với nội dung
dân chủ hóa như thế và là đòn bẩy của phát triển, sẽ không sai nếu muốn gọi
đó là “cửa tử” rất quyết liệt, Đảng bắt buộc phải đi qua. Nếu
không còn sự né tránh nào thì chỉ có con đường duy nhất là vận dụng trí tuệ
và ý chí để đi qua. “Cửa tử” như thế là cửa của bản lĩnh. Chắc
chắn trí tuệ và ý chí có thể đi qua được “cửa tử” này, nhất là một khi giành
được hậu thuẫn của cả nước! Một lần nữa càng rõ trí tuệ và dân chủ là đi với
dân tộc, là chìa khóa giải quyết những vấn đề sống còn của Đảng!
Xin đặc biệt nhấn mạnh, để quá trình dân chủ hóa được thực
thi có kết quả, tiết kiệm xương máu và dứt khoát không dẫn đến đổ vỡ, trước
hết đòi hỏi phải có trí tuệ và kỷ cương rất cao với tinh thần dám hy sinh
mọi lợi ích riêng, dám vượt lên mọi yếu kém riêng, hoàn toàn một lòng vì dân
vì nước của đội ngũ lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước. Có tinh
thần và ý chí như vậy trước hết của đội ngũ lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà
nước, sẽ phát huy được trí tuệ, ý chí và nghị lực trong Đảng và của cả nước
để hoàn thành nhiệm vụ cực kỳ khó khăn này. Kinh nghiệm đớn đau dầy dạn của
dân tộc ta trên con đường phát triển của mình, kinh nghiệm của các quốc gia
trên thế giới, trí tuệ của văn minh và tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày nay đủ
sức giúp chúng ta giải được bài toán dân chủ hóa hóc búa này
cho đất nước! Đảng đang nắm quyền lãnh đạo đất nước, cho nên đội ngũ lãnh đạo
cao nhất của Đảng và Nhà nước mang trên vai mình trách nhiệm không thể thoái
thác về thành / bại của quá trình dân chủ hóa này.
Sẽ có câu hỏi thẳng thắn: Chất lượng lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước kể từ Đại hội VI đến nay có tình trạng Đại hội sau thấp hơn Đại hội
trước, trong tình hình như vậy mà không chờ xuất hiện một minh quân, đội ngũ
lãnh đạo cao nhất hiện nay của Đảng và Nhà nước làm sao có thể hoàn thành được
nhiệm vụ không thể thoái thác nói trên?
Tiếc
rằng cuộc sống không biết chờ đợi, thiết nghĩ toàn Đảng và cả nước phải vắt
óc tìm câu trả lời.
Ngày
xưa thường nói tam ngu thành hiền. Nói thế có lẽ chỉ để khuyến
khích mọi chuyện nên được bàn bạc cho vỡ lẽ mà thôi. Ngày nay trí tuệ và
quyết định đúng đắn không thể đơn thuần đến từ sự bàn bạc chay như vậy. Trong
những vấn đề sinh tử của đất nước, thiếu thông tin hay trí tuệ càng bàn bạc
có khi càng nguy hiểm hơn, hoàn toàn không thể có tam ngu thành hiền, không
thể có một sự sáng suốt nào bẩm sinh hay trời cho nào cả!
Cho
nên trước sau hướng của câu trả lời chỉ có thể dựa vào cái tâm và ý chí thực
hiện dân chủ của tập thể những người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, để
từ đó huy động được, phát huy được tốt nhất trí tuệ và ý chí của toàn Đảng và
của cả nước. Tóm lại trước sau vẫn là vấn đề phát huy dân chủ. Tất cả cho
việc thực hiện cải cách chính trị với nội dung dân chủ hóa. Tất cả trước hết
với ý chí: Việt Nam không quỳ gối trước nghèo hèn! Từ ý chí với định hướng
như thế mà tìm lối ra, thiết kế đường đi, thiết kế lộ trình cho cải cách
chính trị thành công. Trí tuệ Việt Nam sẽ làm được việc này, hoàn toàn có thể
làm được việc này. Tất cả thông qua sự sàng lọc của mọi thử thách trong cuộc
sống, để quyết định, để tuyển chọn; tất cả với tinh thần thượng tôn pháp
luật; kiên quyết gạt bỏ mọi tập quán của “chỉ đạo và quán triệt” đứng trên
luật pháp; xóa bỏ mọi hủ tục theo kiểu “đến hẹn lại lên”, “sống lâu lên
lão làng”, “cơ cấu”...
Ý
chí không chịu để đất nước quỳ gối, ý chí thực hiện công khai minh bạch và
dân chủ với tinh thần nêu trên có lẽ sẽ giúp tập thể lãnh đạo cấp cao nhất
của Đảng và Nhà nước hoàn thành trọng trách không thể thoái thác này của
mình. Hình như các nước phát triển nhất trên thế giới cũng phải làm như
vậy!
Xin
nói thêm: Cải cách chính trị ở các nước phát triển nhất cũng muôn vàn khó
khăn và không hiếm thất bại, ngay cả ở nước Mỹ hiện nay! Sự xuống dốc nhanh
chóng hiện nay của nước Mỹ có nguyên nhân từ những thất bại trong cải cách những
mặt yếu kém. Từ hai chục năm nay chính phủ Mỹ bị các giới nghiên cứu khác
nhau trong nước phê phán gay gắt, đến mức coi Washington D. C. (Chính
quyền Mỹ - kể cả 2 Viện và Chính phủ) là kẻ phá hoại giấc mơ Mỹ từ A đến Z;
chính sách của chính quyền đang biến nước Mỹ thành con nợ lớn nhất thế giới –
năm 2010 nợ quốc gia sẽ là 9 nghìn tỷ USD, năm 2019 sẽ lên tới 23 nghìn tỷ
USD; Mỹ đang tụt hậu về hệ thống bảo hiểm xã hội và cả trong giáo dục; chính
quyền Mỹ có thể cắt giảm 20% biên chế dư thừa mà đến nay không chịu làm;
chính sách “outsourcing” (đưa các nguồn lực ra khai thác và phát triển bên
ngoài nước Mỹ) đang hút máu sinh lực Mỹ và chỉ đem lại hệ quả cuối cùng là “5/1”
– nghĩa là về tổng thể Mỹ phải nhập khẩu tới 5 USD mới xuất khẩu được 1 USD,
rõ nhất là trong buôn bán với Trung Quốc, thương mại tự do trở thành thương
mại sai lầm; tất cả khiến cho nước Mỹ bây giờ phải hạ mình, phải cúi đầu,
phải ve vãn thiên hạ, chính quyền Obama đang tiếp tục với đôi chút cải biên
chứ không phải là đảo ngược chiều hướng nước Mỹ đang đi; ... “và Washington
D. C. đang là trung tâm của tham nhũng đến tê liệt về mặt trí tuệ của nước Mỹ
(America’s nucleus of anguish and intellectual corruption – M L Gross
“National Suicide” tr. 324)”…[57]
Đương nhiên, ở Mỹ còn nhiều trường phái tư duy khác nữa.
Thậm chí bây giờ đã có ý kiến cho rằng Obama nói “Change. Yes we can!”,
nhưng chắc gì Obama đã làm được? Nếu nước Mỹ không giảm được cơ bản các gánh
nặng hiện nay, sẽ khó mà có một nhiệm kỳ hai cho Obama!..
Nêu
lên ví dụ Mỹ như vậy chỉ muốn nhấn mạnh cải cách chính trị hay thể chế là rất
khó, ở nước nào cũng khó và rủi ro lớn, song phải huy động trí tuệ và dân chủ
để thực hiện, chứ không phải để bàn lùi. Vì lẽ sống còn của đất nước, tập thể
lãnh đạo cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước cần quyết tâm theo đuổi đến cùng
quá trình dân chủ hóa, không thể để bất kỳ một yếu kém hay lợi ích riêng tư
nào trói buộc mình.
Tất cả càng cho thấy: Dân chủ hóa là nguồn lực tạo ra nội
lực bất khả xâm phạm cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước và tập hợp sự
hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ cho sự nghiệp này. Dân chủ hóa vì vậy là
dân tộc tất thắng, là đất nước tất thắng!
Thách
thức lớn nhất của dân chủ hóa ở nước ta không phải là diễn biến hòa bình, mà
là cám dỗ chính trị rất lớn của quyền lực và của lợi ích cá nhân; lịch sử
hiếm hoi ghi lại được các chiến công đánh bại được sự cám dỗ này. Nhưng cũng
xin nói ngay: Ngu dốt, vô đạo đức, cuồng tín hay bảo thủ thì chỉ có một đường
dẫn đến đổ vỡ mà thôi! Thách thức của sự can thiệp từ bên ngoài muốn ngăn cản
Việt Nam lựa chọn con đường dân chủ của học hỏi và phát triển không thể nói
là nhỏ. Nhưng một khi sự can thiệp này càng lớn, càng lộ liễu, sẽ càng hun
đúc ý chí không có gì quý hơn độc lập tự do của dân tộc ta,
toàn dân tộc sẽ là một khối thống nhất và một ý chí sắt đá cho con đường mình
lựa chọn.
Thế
còn nguy cơ “diễn biến hoà bình” mà báo chí Đảng và các cơ quan chuyên
chính luôn luôn cảnh giác? Lựa chọn con đường Không có gì quý hơn độc
lập tự do, con đường dân chủ của học hỏi và phát triển, nhân dân ta
hoàn toàn đầy đủ khả năng tước vũ khí tất cả mọi người tham gia vào tấn trò
ác ý này: Lấy cái gọi là “nguy cơ diễn biến hòa bình” ngăn cản khát vọng đổi
đời của dân tộc.
Thực
hiện cải cách chính trị với nội dung dân chủ hóa toàn bộ đời
sống đất nước là trách nhiệm lịch sử và cũng là thách thức lớn nhất, khó nhất
của Đảng kể từ ngày thành lập cho đến nay![58]
Nhiệm vụ không thể thoái thác này ngày nay
đặt Đảng trước tình huống phải tự chứng minh: Là Đảng vì dân tộc, vì đất
nước, hay là Đảng chỉ vì mình?
Thực
hiện trách nhiệm lịch sử này chính là Đảng quyết tâm chiến thắng chính mình,
gìn giữ, bảo vệ phẩm chất, chí khí của mình với tính cách là đội tiền phong
của dân tộc. Thực hiện trách nhiệm lịch sử này là Đảng trung thành với chính
mình chống lại mọi diễn biến của tha hóa, là Đảng tự bảo vệ mình với nghĩa
chân chính: Không để cho tha hóa chiếm mất Đảng, biến Đảng thành kẻ thù của
dân tộc.
Sự
lựa chọn nói trên của Đảng sẽ khiến cho các loại nhóm lợi ích phản ứng
hay chống đối quyết liệt. Sự phản kháng này có thể diễn ra công khai và trực
diện, hoặc trá hình dưới các dạng nhân danh, hoặc gián tiếp. Sự phản
kháng này rất nguy hiểm. Nếu cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước xểnh
tay, sẽ dễ dẫn đến oan khiên, đàn áp và sát phạt lẫn nhau. Phải ngăn ngừa
bằng được tình trạng này. Một trong những bài học đẫm máu cho tình huống này
là sự đổ vỡ tương tàn của Rumani năm 1989, do 3 lực lượng tạo ra:
(a)lực lượng đảo chính nằm trong chính quyền, (b)lực lượng cơ hội
phản cách mạng, và (c)lực lượng cách mạng dân chủ nổi dậy trong nhân dân;
ngày nay vẫn chưa khắc phục xong các hậu quả.
Bước vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ
này, hầu hết các quốc gia – nhất là Mỹ và Trung Quốc – đều ráo riết thay đổi,
Việt Nam không thể đứng yên một chỗ! Sự thay đổi không cưỡng lại được này
đang gây áp lực trực tiếp nhiều khi đến mức uy hiếp đối với Việt Nam trên
nhiều phương diện đối nội và đối ngoại. Đảng Cộng Sản Việt Nam phải hành
động. Sự lựa chọn của Đảng một khi đã trở thành ý chí, sẽ lựa chọn được các
giải pháp và bước đi. Đảng hiện nay vẫn đang nắm trong tay trọn vẹn
quyền lực và ảnh hưởng chính trị để thực hiện ý chí này, và thành công của
đổi mới cho thấy khả năng cải cách của Việt Nam rất lớn. Hai điều kiện cực kỳ
quan trọng này Liên Xô không có khi thực hiện Perestroika. Việc đầu tiên của
mọi việc đầu tiên cần làm là phát huy dân chủ tập hợp thông tin và trí tuệ
toàn Đảng và cả nước, nhằm đánh giá đúng thực trạng đất nước và những thách
thức phía trước, cái đích phải đến. Cũng có thể nói, việc đầu tiên là phải mở
rộng dân chủ trong Đảng, để thay đổi hẳn tư duy và tầm nhìn của Đảng, nâng cao
trí tuệ và ý chí của Đảng cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới đất nước
đang đối mặt.
Nhìn lại lịch sử đau thương của đất nước từ khi chiến tranh
thế giới II kết thúc đến nay, nhìn lại những cơ hội quan trọng bị đánh mất,
nhìn vào những đoạn trường quanh co lận đận đất nước ta lâm vào sau Đại
thắng 30 Tháng Tư 1975, phải chăng có thể kết luận:
(1)
Nhận thức phiến diện và không đúng thế giới chúng ta đang sống (vấn đề trí
tuệ), (2) sự giác ngộ không đúng tầm lợi ích quốc gia trong bối cảnh quốc tế
luôn luôn biến động và vô cùng phức tạp, (3) sự trói buộc vào ý thức hệ hoặc
các niềm tin mù quáng, đó chính là ba nguyên nhân khởi thủy làm ra các sai
lầm về đường lối chính sách và thể chế, kìm hãm sự phát triển của đất nước ta
35 năm qua và làm suy yếu Đảng? Ngày nay còn phải cộng thêm nguyên nhân (4)
là sự tha hóa mới của toàn bộ hệ thống chính trị đang diễn ra trên nhiều
phương diện của đời sống đất nước, do đường lối chính sách của Đảng tạo ra,
do lợi ích quốc gia bị đẩy xuống hạng hai!
Nên
thẳng thắn nhận diện bốn yếu kém này, nhận thức sâu sắc thực trạng đất nước
cũng như những đòi hỏi phát triển hiện nay, để đặt lại một cách cơ bản vấn đề
xây dựng Đảng, soạn thảo lại Cương lĩnh và Điều lệ Đảng, với ý tưởng xây dựng
Đảng Cộng Sản Việt Nam thành đảng của dân tộc, của dân chủ và trí tuệ. Thiết
nghĩ Đại hội XI nên coi nhiệm vụ đổi mới Đảng một cách căn bản như vậy là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng trong xuốt khóa và cần được hoàn
thành những bước mở đường đầu tiên trong khóa này, sau đó còn phải làm tiếp.
Đây cũng là nhiệm vụ đầu tiên của Đảng mở đầu quá trình dân chủ hóa đất nước,
nếu Đảng muốn tiếp tục thực hiện và phát huy được vai trò tiền phong chiến
đấu, vai trò lãnh đạo của mình. Đặt vấn đề như vậy sẽ mở ra mọi vấn đề và sẽ
làm rõ được con đường phát triển của đất nước. Vô luận các văn kiện dự thảo
chuẩn bị cho Đại hội XI đã được soạn ra như thế nào, Đại hội XI đứng trước
nhiệm vụ lịch sử: Đổi mới Đảng để mở đầu quá trình dân chủ hoá của đất nước
phải trở thành nghị quyết quan trọng nhất của Đại hội. Có lẽ không phải cái
gì khác, mà chính điều này sẽ cho thấy Đảng ngày nay lựa chọn cái gì, sẽ là
thước đo Đại hội XI thành công hay thất bại.
Hoàn toàn có thể khẳng định Đảng Cộng Sản Việt Nam có khả
năng thực hiện thắng lợi một cuộc cách mạng dân chủ từ trên xuống, đưa đất
nước tiến nhanh theo xu thế tiến bộ nhất ngày nay trên thế giới: Phát triển
trên cơ sơ phát huy nguồn lực con người.
Đảng thực hiện một cuộc cách mạng hòa bình với nội dung như thế sẽ là sự kế
tục duy nhất xứng đáng với Cách mạng Tháng Tám, là trung thành với truyền
thống yêu nước vẻ vang của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến vỹ đại chống
ngoại xâm, và đấy cũng là con đường ĐCSVN tiếp tục đưa công cuộc đổi mới hiện
nay lên một giai đoạn phát triển mới về chất. Đấy cũng là con đường Việt Nam
tạo ra cho mình năng lực tinh thần và vật chất để có phẩm chất thực hiện được
mong muốn của mình là đời đời hữu nghị và hợp tác bình đẳng với Trung Quốc,
là bạn của mọi quốc gia trên thế giới.[59]
Đảng
đã lãnh đạo đất nước làm nên cách mạng dân tộc thực hiện được độc lập và
thống nhất đất nước.
Bàn
cờ thế giới ngày nay đặt ra tình huống khắc nghiệt: Muốn thành công trong xây
dựng và bảo vệ đất nước ta, nhất thiết phải lập nên một thể chế chính trị dân
chủ của học hỏi và phát triển. Đây là một sự nghiệp vinh quang nhưng vô cùng
gian khổ, chắc chắn gian khổ hơn bất kể giai đoạn cách mạng nào trước đây[60], có
ý nghĩa thay đổi vĩnh viễn số phận của đất nước sau khi đã giành được độc lập
thống nhất, và chỉ có như thế mới trụ được trong thế giới ngày nay. Sự nghiệp
này đòi hỏi sự lãnh đạo sáng suốt của lực lượng tinh tuý nhất của dân tộc.
Đảng với truyền thống tiên phong cách mạng của mình, sẽ phấn đấu thực hiện
được sứ mệnh lãnh đạo này? Hiện nay, Đảng có vị thế thuận lợi nhất đồng thời
cũng có trách nhiệm lịch sử nặng nề nhất thực hiện sứ mệnh này. Nhưng Đảng sẽ
phấn đấu thực hiện được, có phẩm chất để thực hiện được? Đây thực sự là câu
hỏi “tồn tại hay không tồn tại?” của Đảng.
Con
đường dân tộc và dân chủ là nguyên nhân gốc làm nên mọi thắng lợi của ĐCSVN
kể từ ngày thành lập. Vứt bỏ con đường dân tộc và dân chủ là nguyên nhân gốc
của mọi thất bại của ĐCSVN và đã dẫn tới quá trình tha hóa Đảng rất nghiêm
trọng như hôm nay: Từ đảng lãnh đạo trong kháng chiến biến thành đảng độc
quyền cai trị đất nước trong thời bình, đang cản trở con đường phát triển của
đất nước.
Lịch
sử Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến nay chứng minh: Bản chất của con
đường dân tộc dân chủ là đoàn kết và phát huy sức mạnh của mọi tầng lớp và từng
người dân cho sự nghiệp tối thượng xây dựng và bảo vệ đất nước – nghĩa là
tính đa nguyên/đa đảng là yếu tố cấu thành – là những tiền đề tất yếu –
tạo nên bản chất này. Cần
hiểu sâu sắc thực tế khách quan này để mỗi đảng viên tự giải phóng mình khỏi
mọi hù dọa, sự thiển cận, hoặc bất kỳ sự nô dịch nào của ý thức hệ.
Kết luận:
Nhận thức như vậy, ĐCSVN hôm nay phải tự quyết định cho mình một trong hai sự
lựa chọn cơ bản:
-
Chủ động
khai thác kinh nghiệm thành/bại của chính mình suốt chiều dài lịch sử và của
tri thức nhân loại trong thế giới hôm nay, để thiết kế được con đường dân tộc
và dân chủ đổi đời đất nước mà cuộc sống hôm nay đòi hỏi, trên cơ sở này trau
giồi cho mình khả năng và ý chí dẫn dắt thành công đất nước đi trên con đường
này trong một thế giới đã sang trang. Hay là:
-
Đầu hàng
quá trình tha hóa hiện nay, tiếp tục xô đẩy đất nước trượt dài tiếp vào những
khủng hoảng, và cuối cùng dẫn tới đổ vỡ, tất yếu đất nước sẽ rơi vào một đa
nguyên đa đảng hỗn loạn đầy máu và nước mắt, và trở thành con mồi cho giành
giật nhau giữa các quyền lực bên ngoài – như đã và đang diễn ra ở nhiều nơi
trên thế giới.
Là
đảng viên, tôi đề nghị Đại hội XI đưa vấn đề này ra thảo luận và lựa chọn
quyết định sống còn này: Đổi mới Đảng và khởi động cuộc vận động cả
nước đi vào quá trình dân chủ hoá đất nước.
***
Chắc chắn các nhóm lợi ích và sự
bảo thủ sẽ có thể khép tội những đánh giá, nhận định, đề nghị… nêu trong bài
viết này là bôi đen, là tấn công trực diện vào Đảng và cơ sở tồn tại của
Đảng, là muốn thủ tiêu Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, là tiếp giáo cho bè
lũ phản động khắp nơi trong ngoài chống Đảng, chống chế độ... Xin thảo luận
thẳng thắn để tìm ra lẽ phải. Tinh thần nhìn thẳng vào sự thật của Đại hội VI
đã cứu nguy Đảng và mở ra bước ngoặt cho đất nước. Cho nên chẳng có sự
hù dọa nào đáng sợ hơn là nhắm mắt trước sự thật để lùi bước.
Kinh
nghiệm lịch sử cũng cho biết những mong muốn nêu trong bài viết này, cứ giả
thử là đúng, nhưng hầu như cũng là hoàn toàn ảo tưởng, đơn giản vì quyền lực
vận động theo quy luật riêng của nó. Như vậy chỉ còn trông chờ vào trí tuệ.
Một hy vọng thật vô cùng mong manh!? Mong được thảo luận thẳng thắn trong
Đảng và trong toàn dân.
Tôi biết nói lên những điều trong bài này là đứng giữa
nhiều làn đạn. Người này có thể sẽ lên án tôi là tội đồ phản động, cực kỳ
phản động, hơn bất kể một sự chống đối nào!.. Người nọ có thể sẽ phỉ
báng tôi là kẻ ngu trung, đến giờ phút này mà còn lo níu kéo Đảng, cứu
Đảng!.. Kẻ khác có thể nói: Già rồi mà còn ngu, còn háo danh… Thậm chí tôi bị
người thân và bạn bè tâm huyết nhiếc mắng té tát về cái tội “gái góa lo việc
triều đình”, làm cái việc “nước đổ đầu vịt”, và họ lo bị liên lụy.
Song
tôi đã được đi tới nhiều vùng miền của đất nước. Có thể nói tôi thấy hầu như
không có một làng xã nào ở nước ta là không có nghĩa trang các liệt sỹ các
thời kháng chiến cứu nước – trong đó có không ít mộ các đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam. Rồi còn biết bao nhiêu đau thương mất mát không kể xiết của cả
dân tộc nằm bên ngoài những nghĩa trang như thế!.. Là đảng viên và là người
dân, tôi muốn Đảng phải trả món nợ đối với dân tộc bằng cách hoàn thành trách
nhiệm lịch sử đang đặt ra cho Đảng là xây dựng nên thể chế chính trị dân chủ
của học hỏi và phát triển. Tôi nghĩ: Đảng không được thoái thác trách nhiệm
này! Đảng chỉ có sự lựa chọn thành công hay thất bại mà thôi!.. Vì đất nước
cũng chỉ có sự lựa chọn: Một nước độc lập chịu quỳ gối, hay đứng lên hiên
ngang trong thế giới quyết liệt này!? Tôi không muốn đất nước ta đã giành
được độc lập thống nhất rồi mà dân tộc lại phải một lần nữa bị đẩy vào vòng
nô dịch do nghèo hèn, rồi mới lại tìm cách giác ngộ con đường phát triển của
mình. Cái giá đã trả là quá đủ rồi, nếu để đất nước rơi vào một tình trạng nô
dịch mới sẽ là quá đắt không thể chấp nhận được![61]
Xin
hãy bình tâm, thẳng thắn nhìn lại tất cả: Kể từ ngày thành lập, Đảng mới chỉ
hoàn thành sự nghiệp lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập thống nhất, còn sau
35 năm lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, ngày nay nước ta đang
ở đâu? đất nước này được gì mất gì? người dân nước này được gì mất gì? nguy
cơ phía trước đối với đất nước là nhãn tiền hay không phải vậy?
Thành
tựu to lớn của 25 năm đổi mới cũng như những cái giá đã phải trả cho nó tự nó
đang đặt ra những đòi hỏi phát triển mới rất bức xúc, đồng thời cũng gợi mở
một triển vọng mới. Trong khi đó sự uy hiếp mới từ bên ngoài đối với vận mệnh
đất nước đang cận kề. Tổ quốc Việt Nam độc lập thống nhất của chúng ta đang
đứng trước một ngã ba lịch sử. Một lần nữa xin nhấn mạnh: Tất cả những công
việc phải làm của đất nước đang diễn ra trong một thế giới có nhiều bất định.
Trước tình hình đó, dù đúng sai thế nào, xin ngửa
mặt giữa trời thưa thốt điều tôi ngẫm nghĩ. Tất cả mới chỉ là một ước vọng cháy
bỏng:
Mọi
người Việt Nam chúng ta - trước hết những người đảng viên Đảng Cộng Sản Việt
Nam – xin hãy cùng nhau khép lại quá khứ và cùng nhau hướng về phía trước, để
khai sinh một chặng đường đời mới cho chính mỗi chúng ta – vì những hoài bão
cao cả của riêng từng người và cho niềm tự hào dân tộc Việt Nam ta, khai sinh
một kỷ nguyên mới cho đất nước bước vào con đường dân chủ của học hỏi và phát
triển, với tất cả lòng tự trọng của một quốc gia độc lập trong cộng đồng thế
giới ngày nay! Danh dự và an ninh của đất
nước lúc này càng đòi hỏi như vậy!
Xin
nhắc lại đối với mọi đảng viên của Đảng: Các bậc tiền bối thuộc thế hệ làm
nên Cách mạng Tháng Tám và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, dù là trong Đảng hay
không phải đảng viên, đã bắt đầu sự nghiệp vinh quang của mình từ chỗ bỏ lại
phía sau quá khứ của nình, dể dấn thân cho sự nghiệp của đất nước. Đơn giản
vì vinh hoa phú quý nào có thể so sánh với lương tâm làm người và danh dự của
Tổ quốc.
Ngày
nay không nằm trong hoàn cảnh mất nước, tạo ra mẫu số chung lớn nhất khó khăn
phức tạp hơn xưa rất nhiều, cho nên ước vọng cháy bỏng nêu trên hiện thực tới
đâu, các bước đi thực hiện trước sau phải tính toán thế nào.., tất cả còn
phải bàn thảo rất nhiều. Dù sao Tổ quốc yêu quý của chúng ta trong bối cảnh
thế giới ngày nay rất xứng đáng để mỗi chúng ta dấn thân tìm đường cống hiến.
Cứ xin mạnh dạn xới lên như vậy, hy vọng để rộng đường dư luận
- trong Đảng, trong cả nước và trong mọi bà con người Việt chúng ta khắp nơi
trên thế giới, với tất cả tấm lòng tìm kiếm một kịch bản phát triển an toàn
nhất mà tôi thiết tha mong mỏi cho đất nước, với tất cả ý chí còn nước còn
tát.
Cả
nước ngẫm nghĩ, chắc chắn sẽ tìm ra con đường và giải pháp đúng ■
Nguyễn Trung
1. Nguyễn
Trung: “Việt Nam
trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21”
2. Hoàng
Tùng – Những kỷ niệm về Bác Hồ.
3. Trần
Quang Cơ: Hồi ký và suy ngẫm.
4. Đặng
Phong, “Phá rào trong kinh tế vào đêm trước đổi mới” – NXB Trí thức, Hà Nội,
2009.
5.
Martin Jacques “When
China Rules the World: The End of the Western World and the Birth of a New
Global Order” USA,
12-2009.
6. Jerome
R. Corsi, America for Sale, 3-2009
7. Robert
Service, Comrades! A
History of World Communism - Harvard 2008
8.
Martin L. Gross “National
Suicide – How Wasington is destroying the American Dream from A to Z” N.Y.
2009; -
9.
Jerome R. Corsi “America for
Sale”, N.Y. 2009
10. Newt Gingrich “Real change” , N.Y. 2009 và một số sách khác chung quanh chủ đề này.
11. Nguyễn Mạnh
Tường, “Qua sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo”
Tham luận đọc tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội ngày30.10.1956 http://www.viet-studies.info/NMTuong/NMTuong_CaiCachRuongDat.htm
12. Nguyễn Trung, “Dòng
đời” (tiểu thuyết), NXB Văn Nghệ, TPHCM 2006.
13. Nguyễn Trung “Ngã ba
2007”- http://www.viet-studies.info/.../NguyenTrung_NgaBa2007.htm
14. Nguyễn Trung, “Việc
của Đảng là việc của quốc gia” - Tuanvietnam 07- 03-2010.
15. Nguyễn Trung, “Chủ tịch Hồ
Chí Minh – điểm tựa cho tinh thần dân tộc của chúng ta”
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_HoChiMinh.htm,
và một số bài báo khác.
Chú thích
[1]
Tìm xem: (1) Các phát biểu của Klaus Schwab và của nhiều chính khách khác tại
Diễn đàn kinh tế Davos, Thụy Sỹ, 28-1 đến 1-2-2009. (2) Martin Jacques “When
China Rules the World: The End of the Western World and the Birth of a New
Global Order” 12-2009 - “Khi Trung Quốc làm chủ thế giới: Sự
cáo chung của thế giới phương Tây và sự ra đời của một trật tự thế giới mới”
– 12-2009, và Pete Engardio: “Chindia: How China and India Are Revolutionizing Global
Business”, USA – 2007, và một số tác giả khác chung quanh đề tài
này.
[3]
Tìm xem Niall Ferguson: “The decade the world tilted east”
http://www.ft.com/cms/s/0/ac26eb9a-f30a-11de-a888-00144feab49a.html
(Financial Times 27 tháng 12, 2009), và nhiều sách báo khác liên quan của các
tác giả: Andrew Bacevich, Noam Chomsky, Timothy P. Carney, Willy Lam,
John Tkasik, Francis Fukuyama, Martin Jacques…
[4]
Ví dụ: giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa con người và tự nhiên, sự biến đổi
khí hậu toàn cầu, giữa con người và xã hội trong xã hội thông tin, giữa nền
kinh tế thật và nền kinh tế “mềm” (nền kinh tế tiền tệ, nền kinh tế “ảo”…),
giữa phát triển và xung đột giữa các nền văn hoá, sự lạc hậu của các thể chế
chính trị trước những biến đổi mới của phát triển, giữa hoà bình ổn định và
mất hoà bình ổn định, giữa hoà bình và chiến tranh, chiến tranh vì các nguồn
nước, chiến tranh vì các nguồn tài nguyên… Đặc biệt là xu thế phát
triển xanh, sạch, công nghệ cao… đang đặt ra triết lý mới của phát
triển, đang ngày càng trở thành đòi hỏi bức bách của phát triển, chính đòi
hỏi này lại đặt ra những đòi hỏi và thách thức mới đối với con người, xã hội,
đốivới thể chế quản lý (chế độ chính trị)... Xu thế này là
thách thức rất lớn, và đồng thời cũng là cơ hội rất lớn đối với mọi quốc gia.
[5]
Tác động của biến đổi khí hậu đối với kinh tế Việt Nam - http://www.longan.gov.vn/tintuc/Pages/200912/20091211082751
[6]
Mô hình phát triển theo chiều rộng có những đặc điểm: (1) phát triển chủ yếu
dựa trên lao động cơ bắp, nguồn nhân lực kém phát triển, (2)chú trọng khai
thác tài nguyên và đất đai, (3) tăng trưởng chủ yếu nhờ vào đầu tư mới chứ
không phải do phát triển công nghệ và nâng cao năng suất lao động, (4)sản
phẩm làm ra có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng đều thấp, (5) chế độ
chính trị và phương thức quản trị quốc gia lạc hậu.
[7]
Mô hình phát triển theo chiều sâu chủ yếu dựa trên 4 yếu tố: (1) Phát huy
nguồn lực con người, (2) vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, (3)
chiếm lĩnh thị trường và giành được chỗ đứng thích đáng trong các chuỗi
cung -ứng của thị trường thế giới, (4) đổi mới thể chế chính trị và
năng lực quản trị quốc gia để thực hiện được 3 đòi hỏi trên.
[8]
Xem Nguyễn Trung, “Việt Nam
trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21” - http://www.viet-studies.info/kinhte/NguyenTrung_TDM_201018.pdf
[13]
Dòng thác cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc, dòng thác cách mạng của chủ
nghĩa xã hội, dòng thác cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân cũ và
mới của các nước thuộc địa…
[14]
Đây là một thực tế vô cùng đau lòng, rất nhạy cảm, một vấn đề kiêng cấm, cho
đến nay vẫn còn cố tránh né trong nghiên cứu, trong tư duy và trong phát
ngôn. Thiết nghĩ đã đến lúc cần nghiên cứu khách quan hiện tượng này để
thấy rõ dân tộc ta hồi ấy là nạn nhân nhiều lần (nạn nhân đơn, nạn nhân
kép...) của bối cảnh quốc tế và sự can thiệp từ bên ngoài, của sự chi phối
trầm trọng về ý thức hệ và phải trả giá đắt, để thức tỉnh vĩnh viễn dân tộc
ta không bao giờ một lần nữa cam chịu bị xô đẩy vào cảnh huynh đệ tương tàn,
và trên hết cả là để thúc đẩy quá trình hòa hợp hòa giải dân tộc trước sau
nhất thiết phải thực hiện - vì sự nghiệp bảo vệ đất nước, và nhất là vì một
nước Việt Nam hùng cường, có vị thế quốc tế xứng đáng trong tương lai.
Nghĩ đến những khó khăn trước mắt đất nước phải vượt qua, tôi suy nghĩ miên
man đến mức dám nói rằng, cho đến hôm nay, có lẽ người Việt Nam chúng ta chưa
đánh giá hết cái giá đã trả cho độc lập thống nhất đất nước đâu! Cái giá này
đắt lắm. Đắt và lớn hơn rất nhiều so với sự nhận biết của chúng ta. Việc rút
ra các bài học càng trở nên khẩn thiết! Tôi có thể sai? Tôi không tin là tôi
sai!.. Dù sao suy nghĩ này đã thúc giục tôi viết bộ tiểu thuyết Dòng
đời. - Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, Dòng đời
(tiểu thuyết), sách đã dẫn, quyển một, tập I, tr. 356 – 359; và quyển một,
tập II, tr. 496 – 499, vân vân...
[15]
Thật ra, trên rất nhiều phương diện, Liên Xô và Trung Quốc ngay từ rất
sớm đã hành động trên cơ sơ lợi ích quốc gia của mình là chủ yếu và tìm mọi
cách mở rộng ảnh hưởng riêng của mình. Trong quan hệ quốc tế “chủ nghĩa xã
hội” trên thực tế và về nhiều mặt chỉ là ngọn cờ cả hai bên Xô Trung đều ra
sức khai thác... Cái gọi là hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa, phe xã hội
chủ nghĩa... chưa bao giờ là một khối thống nhất chặt chẽ, và càng không
phải là một thực thể tất yếu và tồn tại mãi mãi của trật tự thế giới. Vì
những lẽ này, nhất là sau những gì Trung Quốc đã dàn dựng nên với Khmer đỏ từ
1975 và sau cuộc chiến tranh của Trung Quốc chống Việt Nam tháng 2-1979, chủ
nghĩa xã hội không thể có lý do gì để được xem là xu thế tất yếu của
thời đại, nhất là trong thời kỳ này tại khu vực Đông Nam Á - trong đó có nước
ta. Phong trào cộng sản tại các nước đang phát triển ở vùng này
cũng đi vào sụp đổ từ thập kỷ 1960 và ngày nay coi như mất hẳn. Đấy là chưa
nói 1976 Trung Quốc cũng phải tiến hành cải cách, 1989-1990 phe xã hội chủ
nghĩa sụp đổ, 1986 Việt Nam cũng phải tiến hành đổi mới. Về hiện tại và
tương lai, còn có thể nói một cách thô thiển: Tình hình thế giới từ nay
đến giữa hoặc cuối thế kỷ 21, chắc chắn chưa thể có chủ nghĩa xã hội như đang
được hiểu theo ý thức hệ của Đảng là một xu thế tất yếu của thời đại, hiện
thực hơn có thể là sẽ có thêm siêu cường Trung Quốc, và chưa ai dám nói trước
được thế giới thêm có siêu cường Trung Quốc sẽ là thế giới gì! Còn bài học
Việt Nam tự rút ra cho mình từ quan hệ Việt – Trung thì hoàn toàn không ít!
[16]
Cái bẫy “vấn đề Campuchia” có thể được xem là một “quái tác” mẫu mực (một
kiệt tác đầy tội ác) gần như có một không hai trong nền ngoại giao nham hiểm
của Trung Quốc hiện đại. Muc đích của “cái bẫy” này là
đẩy lùi mọi ảnh hưởng tích cực trong và ngoài của cuộc kháng chiến của Việt
Nam chống Mỹ xâm lược, đảo ngược thế thắng của Việt Nam sau cuộc kháng chiến
này, tạo điều kiện đẩy Việt Nam vào khủng hoảng trầm trọng sau kháng chiến,
tạo cớ “cho Việt Nam bài học” để tiến hành cuộc chiến tranh 17-02-1979 và từ
đó tạo điều kiện buộc Việt Nam trở lại quỹ đạo của Trung Quốc... Trung Quốc
tranh thủ được Mỹ trong các bước đi này… Nghĩ cho riêng mình, đây là bài học
tôi nhớ đời, chết mang theo chứ không được phép quên – không phải để đời đời
thù hận, mà để không bị mắc lừa một lần nữa.
[17]
Xin đừng quên: Mỹ thì đương nhiên rồi, nhưng cả Trung Quốc lúc này cũng
đều không muốn chấp nhận chiến thắng giải phóng miền Nam của Việt Nam. Ngoài
việc Trung Quốc tiến hành cuộc chiến tranh biên giới chống Việt Nam 2-1979,
Trung Quốc và Mỹ đã công khai câu kết với nhau rất chặt chẽ chống lại Việt
Nam rất quyết liệt trong đàm phán về vấn đề Campuchia (1979-1989), lôi kéo
nhiều nước khác tham gia. Trong tình hình này Việt Nam đã bị đẩy vào thế bị
bao vây, cô lập, cấm vận một thời gian dài. “Cái bẫy vấn đề Campuchia”
có lẽ là một bài học vô cùng đau đớn của ngoại giao Việt Nam sau 30 Tháng Tư
1975! Đừng bao giờ bỏ phí bài học đẫm máu này: Lẽ ra kẻ giương bẫy phải bị
vạch mặt và lên án, nước ta lại là người mắc bẫy và gánh chịu mọi hậu quả ê
chề!
[18]
Tham khảo: Đặng Phong, “Phá rào trong kinh tế vào đêm trước đổi mới” – NXB
Trí thức, Hà Nội, 2009.
[19]
Thống nhất về mục tiêu chưa đủ, mà còn phải có thống nhất về con đường đi tới
mục tiêu. Thống nhất con đường đi tới mục tiêu là vấn đề khó, thậm chí rất
khó, nhưng mới là quyết định.
[20]
Tham khảo thêm Nguyễn Trung: “Việt Nam
trong thế giới thập kỷ thứ hai thế kỷ 21” – phần nói về cải cách chính
trị với nội dung dân chủ hóa. http://www.viet-studies.info/kinhte/NguyenTrung_TDM_201018.pdf
[21]
Sự đồng thuận xây dựng từ quyền này chính là sự đồng thuận tối đa, chính là
dân chủ, là dân chủ bao gồm đầy đủ quyền và trách nhiệm ràng buộc trong pháp
luật. Cuộc sống không thể có sự đồng thuận tuyệt đối cũng như không thể có
nền dân chủ tuyệt đối hay hoàn hảo. Nền dân chủ ở các nước phương Tây dù được
hoàn thiện đến đâu cũng đầy dẫy khuyết tật. Song sự đồng thuận tối đa
về những giá trị cơ bản đạt được về quyền con người, về kinh tế thị trường
– nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự ở các nước phương Tây là cơ sở của
nền dân chủ cùa những quốc gia này.
[22]
Thậm chí ngày nay vẫn còn dè dặt khi nói về hòa hợp, hòa giải và đồng thuận
dân tộc! Song vấn đề không chỉ có nói.
[24]
Trung Quốc đề xướng 1954: (1)tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của nhau, (2)không xâm lược lẫn nhau, (3)không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, (4)hợp tác bình đẳng cùng có lợi, (5)chung sống hòa bình. Lúc này
chưa có 16 chữ.
[25]
Yêu sách này của Trung Quốc muốn tạo cho Khmer đỏ có vị trí ngang bằng các
lực lượng khác trong chính phủ sẽ được thành lập theo giải pháp của vấn đề
Campuchia, mặc dù trên thực tế Khmer đỏ đã bị đánh bật khỏi Campuchia và bị
cả thế giới lên án về tội ác diệt chủng; Mỹ và phương Tây nói chung không ủng
hộ “giải pháp đỏ” của Trung Quốc.
[26]
Giả định rằng ta kiên định con đường định hướng xã hội chủ nghĩa để xây dựng
nước ta – vì ta muốn như vậy, thì đây sẽ hoàn toàn là vấn đề nội bộ, là
vấn đề đối nội, của riêng nước ta, không nhất thiết đòi hỏi phải đi
tìm và xây dựng liên minh ý thức hệ với Trung Quốc hoặc với bất kỳ nước nào;
bởi vì trong bối cảnh quốc tế lúc này – như đã trình bày – nước CHXCNVN
không còn là đối tượng phải xóa bỏ của chủ nghĩa đế quốc như cao điểm thời
chiến tranh lạnh nữa! Lực lượng người Việt chống CHXHCNVN dù ở trong nước hay
nước ngoài vào thời điểm này không thể trở thành mối đe doạ hiện thực và cũng
không thể câu kết với lực lượng nước ngoài nào gây nên thách thức nguy hiểm
cho CHXHCNVN. Trong đàm phán bình thường hóa qua hệ với ta chưa bao giờ Mỹ
nêu yêu sách ta phải từ bỏ chế độ chính trị một đảng và chủ nghĩa xã hội, mặc
dù Mỹ có những quan điểm rất khác ta về những vấn đề như dân chủ, nhân
quyền... Hơn nữa, dù muốn xây dựng đất nước ta đi theo con đường nào, muốn
thành công vẫn phải là hợp tác hòa bình với cả thế giới và không thể đi với
bên này chống lại bên kia! Muốn thực hiện công nghiệp hóa/hiện đaị hóa lại
càng phải tìm cách đi với cả thế giới, liên minh với những giá trị tiến bộ
của nhân loại như độc lập tự do, bình đẳng, dân chủ, nhân quyền, hòa bình,
hợp tác, phát triển, bảo vệ môi trường.., đặc biệt là càng không thể ỷ lại
vào bất kỳ sự giúp đỡ nào.
[27]
Tìm xem các bài phân tích, các tài liệu đăng trên các mạng của Rand
Corporation, CIA, Foreign Affairs, Biên niên sử 60 năm ngoại giao Trung
Quốc, các bài chính luận của Trung Quốc trên các mạng chính thống của Trung
Quốc… Ngoài ra, hàng ngày nên nghe Tân Hoa Xã phát thanh tiếng Việt nói về
nước ta như thế nào!
[28]
Nhìn lại, phải chăng có thể nói: Nền ngoại giao nước ta thời bình đòi hỏi
phải có (a)trí tuệ tầm thế giới để đi được với cả thế giới, (b)bản lĩnh trên
lập trường lợi ích quốc gia là tối thượng và (c)nghệ thuật tạo ra sự
đồng thuận của cả thế giới làm hậu thuẫn. Đồng thời ngoại giao nước ta
rất cần tránh (a)tiểu khí,và (b)tâm lý và tầm nhìn của tiểu nhược quốc! Mặt
khác, đối thủ và đồng thời cũng là đối tác truyền đời của Việt Nam luôn luôn
là các nước lớn, nhất là Trung Quốc; giữ cho ho họ luôn luôn là đối
thủ và đối tác và không bao giờ để họ trở thành đối tượng,
thực sự là một nhiệm vụ đối ngoại khó vĩnh cửu của nước ta; rõ ràng chỉ có
thể thực hiện được nhiệm vụ này trên cơ sở một nền nội trị mạnh toàn diện. Chính
đây là vấn đề rất hệ trọng đề ra cho đảng lãnh đạo đất nước.
[29]
Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ
hai thế kỷ 21, phần nói về “Việt Nam làm bạn với mọi
người” - http://www.viet-studies.info/kinhte/NguyenTrung_TDM_201018.pdf
[31]
Ví dụ ký kết kết nghĩa, hợp tác giữa PetroVietnam và Tổng Cục Thuế, báo chí
đã phê phán. Trước đó có những ký kết hợp tác giữa các Văn phòng Trung ương
của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, vân vân… Không thể không đặt ra câu hỏi: Nếu
không có những ký kết như vậy thì không hợp tác hay sao? Nếu có những ký kết
như thế thì Luật pháp đứng ở đâu? Ký kết với nhau để vượt qua luật pháp là
ngang nhiên hình thành nhóm lợi ích và ngang nhiên phạm pháp. Những thứ này
hoàn toàn không thể coi là “lobby” đúng đắn. Vân…vân…
[32]
Tìm xem Phó chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn Nguyễn Văn Bình trả lời phỏng vấn của
Vietnamnet ngày 02-03-2010 http://www.vietnamnet.vn/psks/201003/Lang-Son-50-nam-nua-ai-lam-thi-nguoi-do-kiem-soat-899233/
- Người ta không
thể không liên hệ đến Karl Marx:
"Tư bản kinh sợ việc không có lãi hoặc lãi rất nhỏ như bản chất của một
nhu cầu tự nhiên. Với lợi nhuận thích hợp, tư bản thức tỉnh; với 10%, nó có
thể được sử dụng ở bất kỳ đâu; với 20%, nó trở nên sống động; với 50%, nó vô
cùng liều lĩnh; với 100%, nó sẽ chà đạp lên mọi luật pháp của loài người; và
với 300% không một tội ác nào là nó không sẵn sàng làm, kể cả với nguy cơ
phải lên giá treo cổ". Nhưng mà đấy là Marx nói về tư bản, thế còn về “sự
câu kết bộ 3” này?
[33]
Trong những năm gần đây mục tiêu ghi trong các nghị quyết của Đảng
được sửa lại là “cơ bản hoàn thành công nghiệp hóa theo hướng
hiện đại vào năm 2020”. Song thế nào là “cơ bản”, thế nào là “theo hướng hiện
đại” thì không được giải thích rõ. GDP danh nghĩa tính theo đầu người năm
2009 của Việt Nam là 1052 USD, của Thái Lan là 3973 USD, của Trung Quốc là
3566 USD (IMF – 2009). Trong vòng 10 năm nữa (đến năm 2020) rất khó có khả
năng Việt Nam đạt được GDP danh nghĩa thính theo đầu người bằng Trung
Quốc hoặc Thái Lan hiện nay, nghĩa là còn rất xa tiêu chí của một nước hoàn
thành hay là cơ bản hoàn thành công nghiệp, lại càng khó nói là “theo
hướng hiện đại”.
[34]
Chú ý: đất đai là tư liệu hàng đầu trong tư liệu sản xuất chủ yếu, tuy theo
Luật là thuộc sở hữu toàn dân, song trên thực tế đã phân bổ hết cho các hình
thức sở hữu khác. Trên thực tế “quan
điểm chủ đạo” như đang hiện hành chỉ làm được việc chi phối mang tính độc
quyền và lũng đoạn, nhưng hầu như không làm được nhiệm vụ mở đường hay đầu
tầu và hỗ trợ nền kinh tế đi lên! Đấy là chưa nói tới hiện tượng vai trò cá
nhân chi phối các tập đoàn kinh tế quốc doanh vì lợi ích riêng (ví dụ vấn đề
lương và thưởng, tranh thủ ô dù và các ưu đãi...). Cần nhìn thẳng vào sự thật
này. Xin lưu ý: Cho đến nay không một nước LXĐÂ cũ nào thành công thực sự
trong cải cách kinh tế quốc doanh và vấn đề sở hữu nhà nước. Sau khi chế độ
xã hội chủ nghĩa của những nước này sụp đổ, mọi cải cách tiếp theo cũng hầu
như thất bại, cuối cùng phải lựa chon con đường xóa bỏ khu vực kinh tế này
(được gọi là state sector – để phân biệt với private sector) bằng những biện
pháp khác nhau; riêng ở nước Nga trên thực tế đã xảy ra một cuộc cướp đoạt
tài sản quốc gia, với những hệ quả điêu đứng cho nền kinh tế nhiều năm
sau.
Ở Trung Quốc
quá trình cải cách kinh tế quốc doanh trên thực tế là tư nhân hóa (dưới dạng
cổ phần hóa), gắn liền với phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân. Vào
thời điểm 2005 kinh tế tư nhân chiếm khoảng trên 70% GDP với nhiều tập đoàn
lớn, nhà nước chỉ còn giữ lại khoảng 200 tập đoàn trên các lĩnh vực chủ yếu
như năng lượng, giao thông viễn thông, một số sản phẩm cơ bản khác như kim
loại, chế tạo cơ khí... Vì thế có thể nói nét nổi bật trong cải tạo kinh tế
quốc doanh ở Trung Quốc có lẽ là phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân –
không để cho kinh tế quốc doanh lấn át khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế tập
đoàn nhà nước chỉ tập trung vào một số sản phẩm thiết yếu đối với toàn bộ nền
kinh tế. Có thể kết luận đấy là con đường phát triển chủ nghĩa tư bản ở Trung
Quốc ngày nay dưới tên gọi chủ nghĩa xã hội đặc
sắc Trung Quốc. Nhiều học giả trên thế giới đặt tên cho mô hình của chủ
nghĩa tư bản Trung Quốc ngày nay là chủ nghĩa tư bản trong chế độ toàn
trị một đảng với các dấu ấn Khổng giáo.
[35]
Đã nhiều lần tôi cố dựng lên một sơ đồ mô tả hệ thống chính trị hiện nay của
nước ta, gồm các yếu tố: Đảng, chính quyền, đoàn thể xã hội, công dân..,
nhưng không thành: Vẽ cho đủ, sơ đồ quá rối rắm không thể đọc được, hoặc sơ
đồ không thể hiện được đầy đủ sự rổi rắm của hệ thống chính tri quốc gia hiện
hành.
[37] Ví dụ, tìm xem các sách của Noam Chomsky, Frederic
Kagan, Dick Morris, Ellen McGann chung quanh chủ đề nước Mỹ đang suy
yếu đi xuất bản trong năm 2009 và 2010. Trong đó đáng chú ý có
quyển “2010: Take Back America: A Battle Plan” - HarperCollins
e-books; 1 edition (April 13, 2010)
[39]
Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, Dòng đời (tiểu thuyết), sách đã
dẫn, quyển một, tập I, tr. 8 và các tr. 330 -332; quyển một tập II tr. 785 -
799...
[40]
Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã có lúc phải nói: Đảng phải
lãnh đạo, chứ không được cai trị! Nghĩa là người lãnh đạo cao nhất của Đảng
cũng phải thừa nhận vấn đề đã trở nên nghiêm trọng?
[41]
Quyền lực trong Đảng được nói tới ở đây tên gọi đầy đủ của nó
phải là quyền lực nhân danh Đảng. Đây không phải là quyền hay quyền
lực chính thống của Đảng được ghi trong Cương lĩnh và Điều lệ Đảng. Một thứ quyền
lực trong Đảng như thế tự nó cũng muốn coi Đảng là đối tượng cần khuất
phục, biến Đảng thành công cụ cho nó thống lĩnh, thâu tóm toàn xã hội. Nói
một cách khác, quyền lực trong Đảng như thế không có trong Điều lệ
Đảng, và thực chất là một hiện tượng tha hóa trong Đảng, thực ra là một
dạng tiếm quyền, diễn ra phổ biến dưới hình thức vi phạm Hiến pháp, vi
phạm Điều lệ Đảng. Chính thực tế này đặt ra vấn đề thường trực như một đòi
hỏi khách quan tất yếu đối với bất kỳ đảng cầm quyền nào ở bất kỳ quốc gia
nào: Muốn có một chế độ chính trị tiến bộ thì phải khắc phục hiện
tượng “đảng hóa”, “đảng trị”, phải xây dựng nhà nước pháp quyền để luôn luôn
ngăn cản sự câu kết giữa các nhóm lợi ích bên trong quyền lực chính
trị, sự câu kết giữa quyền lực chính trị và kinh tế.
[42]
Cộng Hòa Dân Chủ Đức hàng chục năm trước khi sụp đổ có sự đấu tranh gay gắt
trong nội bộ Đảng Xã Hội Thống Nhất Đức chống lại những hoạt động vi phạm
Hiến Pháp và Điều lệ Đảng của những cán bộ có chức có quyền; những hành động
hay việc làm vi hiến và sai Điều lệ Đảng thời ấy thường được gọi là các “quan
hệ” (“Beziehungen”), cuộc đấu tranh này được gọi là cuộc đấu tranh chống các
“quan hệ”. Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, Dòng đời, sách đã dẫn, quyển hai,
tập 4, tr. 716.
[43]
Tham khảo: Nguyễn Trung, Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai
thế kỷ 21 – phần nói về diễn biến hòa bình.
[44]
Sự bế tắc hay khủng hoảng trong thế giới hiện nay về mô hình phát
triển, nhìn theo khía cạnh tích cực có thể là một cơ hội lớn cho nước ta,
chí ít là trên các phương diện: (a)biết cái đổ vỡ của mô hình phát triển hiện
tại và những vấn đề do sự đổ vỡ này đặt ra để nước ta tránh đi vào các vết xe
đổ - nhất là các trạng thái cực đoan quá nhấn mạnh một chiều bàn tay vô hình
của thị trường của chủ nghĩa tân bảo thủ; những thiên lệch thái quá dù theo
chiều hướng nào trong những vấn đề thuộc 2 phạm trù nhà nước pháp quyền và xã
hội dân sự; niềm tin mù quáng vào vai trò của khoa học, công nghệ và kỹ
thuật; các bài học về lựa chọn các quyết định và quyết sách, về vai trò của
lãnh đạo, vai trò của tổ chức, đặc biết là những bài học về phát huy yếu tố
con người; vân vân.., (b)những “cầu” và “cung” mới do cuộc khủng hoảng
mô hình phát triển hiện nay – đặc biệt là “cung” và “cầu” cho phát triển xanh,
sạch, dân chủ - đang trở thành xu thế phát triển của thế giới tiến
bộ, đang đặt ra cho mọi quốc gia nhiều vấn đề mới, thách thức mới; đáp ứng
được những “cầu” và “cung” mới này là con đường sống, đi ngược với “cầu” và
“cung” mới này là lao vào con đường chết; nhận biết để có thể ứng xử tối ưu
nhất đối với “cầu” và “cung” mới này là vấn đề sống còn, thực chất đó là sự
lựa chọn của chiến lược phát triển – ví dụ, ngày nay nước ta càng đi sâu vào
công nghiệp thượng nguồn là tự sát; dịch vụ kém cỏi như hiện nay lợi thế cạnh
tranh nào cũng sẽ mất, sự lạc hậu về văn hoá (hiểu theo nghĩa rộng) ngày càng
trở thành “disadvantage” (bất lợi thế) nguy hiểm, vân vân!.. (c)“cầu”
cho sản phẩm mới, “cung” đáp ứng cho sản phẩm mới đều rất phong phú, quan
trọng hơn nữa là ngày càng nhiều đòi hỏi về sản phẩm mới (“cầu”), điều quyết
định là phải nhìn ra nó (sản phẩm mới), lựa chọn nó, chuẩn bị
và nắm bắt lấy nó..., (d)vai trò quyết định của yếu tố con người – từ người
lao động đến người lãnh đạo – đặt ra một tầm cao mới phải đáp
ứng, giáo dục và thể chế chính trị tiên tiến trở thành hai yếu tố hàng đầu có
ý nghĩa quyết định để đạt tới tầm cao mới này; (e)là nước
đi sau, bên cạnh những “bất lợi thế” (disadvantages) không tránh
khỏi, nước ta có nhiều lợi thế khác của nước đi sau cần triệt
để khai thác (để vận dụng, để tránh né…) – có rất nhiều ví dụ để suy
nghĩ: - phát triển ngoạn mục ngành viễn thông của nước ta trong 10 năm qua là
ví dụ tích cực; - sự phát triển lạc hậu và lật đật của ngành giáo dục nước ta
bỏ qua những kinh nghiệm tiên tiến của nhiều nước trên thế giới đã đạt được
là ví dụ tiêu cực; (f)vì cái nước ta “đang có” (công nghệ, sản phẩm, cấu trúc
kinh tế và cấu trúc xã hội…) còn ở mức độ thấp, nên nước ta có không ít lợi
thế để chuyển sang cái mới dễ dàng hơn nhiều nước khác... (g)vân vân… Tất cả
cho thấy không một giáo điều nào có thể giải phóng đất nước ta khỏi ghèo nàn
lạc hậu.
[45]
Cần xem xét kỹ vai trò, ảnh hưởng, sự can thiệp và quyền lực mềm của Trung
Quốc hiện nay tác động vào toàn bộ khu vực Đông Nam Á, trước hết là vào nội
bộ các nước ASEAN. Riêng các tin tức có liên quan được đăng tải trên các
phương tiện truyền thông của các nước trong khu vực và trên thế giới đủ dấy
lên sự lo ngại không thể bỏ qua. Có ý kiến nói thẳng tình hình Thái Lan hiện
nay phải tính đến Trung Quốc và chỉ có lợi cho Trung Quôc (R D Kaplan, NYT 25
May 2010).
[46]
Xin đặc biệt lưu ý: Mặc dù những đạo luật hay chính sách tốt nhất đất nước
đang có trong tay có không ít khuyết tật hay thiếu đồng nhất, song phải nhấn
mạnh những đạo luật và chính sách đúng đắn hiện có là cơ sở ban đầu rất quan
trọng cho phát triển tiếp trong việc xây dựng một thể chế dân chủ. Cần kế
thừa và phát triển tiếp thành quả này. Cái yếu nhất hiện nay và cũng khó khắc
phục nhất là thực thi pháp luật và ý thức thượng tôn pháp luật.
[47]
Một sự thực gần như là một nguyên lý trong toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam
từ Tháng Tám 1945 đến nay là: mọi thắng lợi đạt được, nhất là những thắng lợi
trong những tình thế đặc biệt hoặc chuyển giai đoạn, đều gắn liền với phát
huy ngọn cờ dân tộc dân chủ. Mặt khác, mọi thất bại, kể cả những thất bại lớn
trong những lúc tình hình rất thuận lợi, đều do vi phạm nguyên lý này.
[48]
Xin nhắc lại: Lịch sử ĐCSVN có biết bao nhiêu gương phấn đấu hy sinh đời đời
nêu gương cho nhiều người sau, không phải chỉ kiên cường trước kẻ thù đô hộ
hay xâm lược đất nước, mà nhiều người còn vưt bỏ mọi giàu sang phú quý dấn
thân vào con đường cách mạng, có những người từ chân lấm tay bùn phấn
đấu trở thành người lãnh đạo kiệt xuất của Đảng. Ý chí sắt son vì nước, vì Đảng
của họ đã làm nên tất cả! Không thế không đặt câu hỏi đảng viên bây giờ thế
nào?
[51]
Tham khảo thêm tài liệu đã dẫn, Nguyễn Trung: “Việt Nam trong thế
giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21”, phần nói về dân chủ hóa.
[52]
Chú ý: Sự sụp đổ của Rumani năm 1989 trên thực tế là một
cuộc đảo chính của một số lực lượng quân sự và an ninh trong chính quyền
Ceausescu chống lại Ceausescu và cuộc nổi dạy của các phong trào chống đối
Ceausescu, dẫn tới tàn sát lẫn nhau đẫm máu (gần 1000 người chết và 2000
người bị thương), với nhiều hậu quả sau 20 năm vẫn chưa khắc phục xong. Đây
là một bài học của thứ đa nguyên hỗn loạn. tham khảo: http://www.rfi.fr/actuvi/articles/120/article_6220.asp
[53]
Cũng đừng nhầm lẫn
giữa cuộc đấu tranh thường xuyên ở khắp mọi
nơi cho những tiến bộ trong kinh tế và xã
hội ở mọi quốc gia – kể cả ở các nước phát triển – với xu thế thời đại của
chủ nghĩa xã hội như trong tư duy của ý thức hệ hiện hành ở nước ta. Ngày nay
nhiều học giả và chính trị gia ở các nước phát triển tìm đọc lại Marx là vì
họ muốn xem lại những phê phán sắc sảo của Marx về kinh tế của chủ nghĩa tư
bản (mặt tôn sùng quá đáng vai trò của thị trường, sự hoành hành của thị
trường, vai trò nhà nước...) để sửa chữa những khuyết tật của kinh tế tư bản
đang xảy ra trong cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay. Việc này không
hề có nghĩa là họ quay lại thực hiện “chủ nghĩa xã hội” trong học thuyết
Marx, càng không có nghĩa là sự trỗi dậy của chủ nghĩa xã hội như một số
người ở nước ta bình luận!
[56]
Ví dụ: Thời kỳ 1991-1995 tăng trưởng kinh tế đạt trung bình 8 – 8,5%/năm, với
chỉ số ICOR là 2,5. Thời kỳ 2005-2009 tăng trưởng kinh tế đạt khoảng
6-7%/năm,với chỉ số ICOR là 6,5!
[57]
Tìm xem: (1) Martin L. Gross “National Suicide – How Wasington is
destroying the American Dream from A to Z” N.Y. 2009; (2)
Jerome R. Corsi “America for Sale”, 2009;
- (3) Newt Gingrich “Real change” , 2009 và một số sách
khác chung quanh chủ đề này.
[58]
Tham khảo: Nguyễn Trung, Dòng đời (tiểu thuyết), sách đã dẫn,
tập 4, tr. 717 – 718 và tr. 855-858
[59]
Tay trắng ta có quỳ xuống xin làm bạn cũng khó được chấp thuận; trên đời này không
có bạn “chay”. Tham khảo thêm tài liệu đã
dẫn: Nguyễn Trung, “Việt Nam trong thế giới thập kỷ thứ 2 thế kỷ 21” –
phần nói về “làm bạn với người”.
[60]
Nguyễn Trung, “Dòng đời”, sách đã dẫn, quyển hai, tập 4, trang
856 – nhiệm vụ trang trải với lịch sử, lấy lại lòng tin cho tương lai.
[61]
Nguyễn Trung, “Dòng đời”, sách đã dẫn, quyển hai, tập 4, trang 857: Không
được phản bội một hy sinh nào! Không một mất mát nào được bỏ qua!
© Thời Đại Mới
5-7-10
|
Nguyễn Trung nguyên trợ lý Cố Thủ Tướng : Võ Văn Kiệt, nguyên Đại Sứ Việt Nam tại Thái Lan, tác giả loạt bài : "Thời Cơ Vàng", "Dòng Đời", "Lũ",...
- A - 6 bài về Đại hội XII
- A - chuyên đề Đại hội XII
- A1 "Lũ" - Final Draft April 2015
- AA - về Đại hội XII ĐCSVN
- AAA - Nhật ký
- AAAA - sự kiện
- AAAAA - 1
- Archive
- Archive - Hiến pháp 1992
- Bản thảo sách: Về kinh tế trí thức
- bauxite Tây Nguyên
- Đảng Cộng Sản Việt Nam
- Đổi mới
- Giáo dục
- Sách tham khảo (1998)
- Sách tham khảo: Dấn bước đi lên
- Suy ngẫm
- Thời Sự
- Tiểu thuyết - Dòng đời
- tiểu thuyết "Hiến dâng"
- Tiểu thuyết "Lũ"
- Viễn tưởng
- Việt - Trung - Biển Đông
Thứ Tư, 8 tháng 3, 2017
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét