Hoang
tưởng và hiện thực
(Thư trao đổi ý kiến với anh Tống Văn Công,
đồng gởi anh Lữ Phương)
Nguyễn Trung
Anh Tống Văn Công và anh Lữ Phương thân mến,
Có lẽ đây là lần đầu tiên tôi nhận được
món quà từ người bạn quý mến của mình, anh Tống Văn Công, bằng một câu hỏi choang ngay vào đầu:
Lũ ! Sao không vỡ
bờ?
Hình
như bằng cách đó, anh Công muốn cho tôi một câu trả lời?
Cũng có thể anh
muốn san sẻ cho tôi niềm hy vọng của mình?
Điều
chắc chắn là trong các thư trao đổi giữa chúng ta - anh, anh Lữ Phương và tôi -
cả ba chúng ta cùng chia sẻ một khát vọng chung của đông đảo các tầng lớp nhân
dân sống ở trong nước cũng như của các cộng đồng người Việt sống ở nước ngoài: Thông
qua thay đổi hòa bình đưa đất nước thoát khỏi trạng thái nhiễu nhương tê liệt
hiện nay, mở ra cho đất nước một thời kỳ phát triên mới. Khát vọng
chung này đang ngày càng chín muồi trong suy nghĩ của nhiều người dân mọi tầng
lớp xã hội khác nhau, đến một lúc nào đó sẽ có thể trở thành ý chí của tuyệt đại
đa số nhân dân cả nước và bất khả kháng.
Nuôi
dưỡng khát vọng chung này, sẽ tiếp tục rất hao tâm khổ trí nhiều người về 2 vấn
đề:
-
Làm
sao hiểu thấu đáo nguồn gốc sâu xa của khát vọng chung này?
-
Con
đường đi tới hòa giải dân tộc để mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất nước?
Trong thư ngày
27-12-2012 gửi cho tôi, anh Lữ Phương đưa ra ý kiến phải rốt ráo nhìn lại nguồn
gốc sâu xa của hiện trạng đất nước từ mổ xẻ ý thức hệ được nhập cảng vào nước
ta, và phải thay đổi hẳn tư duy để từng
bước chuyển đất nước sang một thời kỳ phát triển mới, không thể trăm sự chỉ
đơn thuần đổ lỗi lên đầu cái bệnh “tha hóa”. Anh Lữ Phương cho rằng tôi chưa thật
dứt khóat như vậy, vẫn còn loay hoay và thiếu tự tin, còn lo là mình có thể quá
viễn tưởng hay hoang tưởng. Anh Lữ Phương cho rằng tôi vẫn tư duy theo lối từ một
đảng
có thực hiện nay đang nắm mọi
quyền lực trong tay, mong sao bằng cách nào đó sẽ có được một loại
đảng
cứu đời…
Những câu hỏi
anh “choang” vào đầu tôi cũng búa tạ không kém. Anh hỏi:
-
Đành
rằng để hòa giải thì phải thỏa hiệp, thỏa hiệp với cái gì?
-
Ai
chịu trách nhiệm chính cho hòa giải?
-
Chỉ
khép lại quá khứ là đủ mà không cần trang trải đúng/sai với nhau hay sao?
-
…
Riêng về đi tìm
cái nguyên nhân gốc gác dẫn đến thực trạng đất nước hôm nay – cái thực trạng
đau đớn đang nung đốt nóng bỏng khát vọng chung của chúng ta – anh (Tống Văn
Công) còn đưa chủ nghĩa thực dân như một can phạm vào thực trạng đất nước ta
hôm nay ra hầu tòa…
Tôi xin được
dành việc phân giải những vấn đề rất bức thiết nói trên của đất nước anh Lữ
Phương nêu ra, cũng như việc trả lời những câu hỏi anh (Tống Văn Công) đặt ra ở
đây cho sự thảo luận rộng rãi của dư luận cả nước, để mỗi chúng ta sẽ được sáng
ra nhiều điều, nhất là về lối ra và về
con đường đưa khát vọng chung trở thành
hiện thực. Việc là việc của cả quốc gia, cả dân tộc, nên tôi rất thiết tha được
nghe ý kiến của mọi người dân mình.
I.
Chém cha cái loay hoay!..
Về phần mình, với tầm nhìn có hạn, tôi đã
qua các nhân vật trong Lũ ở các tuyến/diện khác nhau cố nói lên suy nghĩ của
mình, có thể đúng, có thể sai, nhưng đấy là những điều tôi cố cân nhắc thiệt/hơn,
phải/trái về những vấn đề đặt ra cho đất nước mà tôi đụng tới được trong Lũ. Có
thể nói tôi đã cố “đụng chạm” đến những vấn đề ở mức tôi có thể với tới
được, nghĩa là ở mức cái gan, cái chí của mình dám với tới. Tôi thừa nhận
cái
gan này, cái chí này của mình còn bé lắm, chỉ khoảng hai hay ba phần
trăm so với những gì trên đời này tôi đã nhìn thấy được, đã nghĩ tới được, mà lẽ ra tôi phải dám tìm cách với tới
tất cả[1].
Tôi thừa nhận mình vẫn còn nhút nhát. Đương nhiên, những điều mà con mắt và trí
tuệ của mình chưa nhìn ra được thì không nói ở đây làm gì… – Và có lẽ những cái
“không
thấy được” ấy mới là cái phần chìm của tảng băng và là đối tượng của việc
nghiên cứu.
Thẳng thắn: Tôi
chưa thực sự vượt qua hẳn được nỗi sợ của mình, sợ bị đánh lén một phần, nhưng phần lớn hơn là sợ mọi vấn đề phải đưa ra
khó quá, thông tin thì tù mù giả - thật, trí tuệ mình lại có hạn,
các vấn đề tôi muốn nói tới thì quá nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến vận mệnh sống
còn của đất nước, không thể lỡ mồm lỡ miệng được… Tôi luôn luôn cánh cánh mối
lo chắc gì mình đã nắm được thật đúng mạch sự việc… Trong đầu lúc nào lửa cũng
đùng đùng, nhưng khi viết ra tôi dứt khoát giữ một ý thức nói ra không phải là
để cho hả dạ, mà là để tham gia vào việc cùng nhau đi tìm lẽ phải, phân giải
thiệt/hơn với nhau trong nhân dân - bao gồm cả những đảng viên ĐCSVN – để đi tới
sự thật. Tôi phải thường xuyên tự động viên mình: Thôi được, biết là mình hãy
còn sợ
như thế, thì sẽ có cách tiếp tục đẩy lùi dần nỗi sợ...
Từ khá lâu rồi, quá
nhiều sự việc trên thế giới đập vào mắt tôi trên suốt đường đời của mình làm nghề
ngoại giao, rồi đến khi hàng ngày tôi chìm ngập vào các sự việc xẩy ra ngổn
ngang trong cuộc sống đất nước kể từ khi có hòa bình, độc lập, thống nhất... đã giúp tôi vượt qua được nỗi sợ lâu nay vẫn che chắn tầm nhìn của mình, bứt
tôi ra được khỏi cái “kiên định lập trường”, tôi nói thực, điều này không dễ đối
với tôi. Đấy chính là động lực thôi thúc tôi bắt tay vào viết Dòng
đời: Phải nhìn lại tất cả, để đi tới hòa giải dân tộc mở đầu cho một thời
kỳ phát triển mới của đất nước. Trong truyện, Dòng đời cũng kết thúc với
kết luận như vậy.
Những năm dằn vặt
với chữ nghĩa cho bản thảo của Dòng đời, tôi luôn luôn đụng phải một
thôi thúc, có lẽ như một mệnh lệnh từ trái tim mình, từ khao khát của mình: Phải
làm lại từ đầu!.. Vì đã trải qua
tất cả những gì phải trải qua trong cả 4 cuộc chiến tranh và mấy chục năm xây dựng
đất nước trong hòa bình, đã bước vào chặng cuối con đường đời của mình rồi, cho
nên ở chặng đường này, mỗi khi phải tự nói với chính mình “Phải làm lại từ đầu!” như
thế, tôi đau nhói như tim mình bị đâm nát…
Từ cái nhận thức
do mệnh lệnh “Phải làm lại từ đầu!” dẫn dắt, nên khi viết xong dòng chữ cuối
cùng trong Dòng đời, tôi đã vạch ngay cho mình bước đi tiếp: Lối
ra như thế nào? Đấy là câu hỏi mà tôi muốn tìm câu trả lời trong “Lũ”.
Cũng phải nói thẳng,
tôi không nghĩ là tôi đã chiến thắng được mình dứt khoát như thế đối với nỗi sợ
trong khi tôi nghĩ về lối ra của đất nước, mặc dù trước
sau tôi đinh ninh đất nước chúng ta nhất thiết phải đi qua cửa ải: Cải
cách chính trị tạo dựng nên một thể chế dân chủ thực hiện được hòa giải dân tộc
để mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất nước. Nếu không như thế,
thì là thảm họa – trong thâm tâm, không bao giờ tôi chấp nhận để cho đất nước
mình một lần nữa lại phải gánh chịu thảm họa như đã xảy ra trong 4 cuộc chiến
tranh đẫm máu liên tiếp suốt 3 thế hệ vừa qua chống lại bạo lực nước ngoài!..
Nỗi sợ tôi chưa chiến
thắng được này có lý do rất đơn giản: Cuộc sống trong thời bình xây dựng và bảo
vệ đất nước thì muôn vẻ muôn phần, có quá nhiều cái mới mình chưa biết, nhưng về cả mặt hiểu biết và sức nghĩ của mình
tôi lại chỉ là một hạt bụi. Suy nghĩ về lối ra, tôi vấp ngã không biết bao
nhiêu lần trước câu hỏi: Làm thế nào? Xem ra, cái câu hỏi “Was tun?”[2]
chưa khó bằng!
Trong một số bài
viết, và qua cả một số nhân vật trong Lũ, tôi đã không giấu diếm sư loay hoay này
của mình, đôi lúc thiếu tự tin đến mức cho là mình có thể còn ảo tưởng, hay hoang
tưởng khi nghĩ rằng chỉ có một lối ra như thế… Bởi vì tôi muốn đứng trên mặt đất để
tìm cách trả lời câu hỏi Làm thế nào? Tôi cố đi thật nhiều
nơi tôi có thể đến được, trên Tây Nguyên, trong các làng hẻo lánh, nơi đô thị,
trường học, xí nghiệp… Tôi cố mở to mắt nhìn tất cả… Chứ không muốn ngồi nhâm
nhi bên tách cà-phê, rồi thả hồn tự do cho sự tưởng tượng. Tôi luôn luôn tự răn
mình: Không bao giờ được phép đối sử với đất nước như trong y học người ta đối
sử với con chuột bạch để thử nghiểm mọi ý tưởng! Quả thực, đi như thế tìm tòi
được nhiều điều, nhưng lại loay hoay thêm nhiều điều - vì lời giải vẫn ở phía trước.
Sự loay hoay ấy chính là sự đánh vật
trong tôi: Đối thoại giữa tướng Lê Hải và đại tá Phạm Trung Nghĩa (trong Lũ, tập II, chương 23); đối thoại giữa
một bên là đại diện doanh nhân và trí thức và một bên là đại diện những người cầm
quyền (Lũ, tập II chương 27); đối thoại
giữa lẽ phải và quyền lực, giữa cái ác và cái thiện, giữa cái khao khát về chân
- thiện - mỹ và cái dục vọng thấp kém, giữa cái đạo lý sống và sự hèn kém của
con người trong một xã hội bị “đảng hóa” nghiêm trọng… trong suốt toàn bộ “Lũ”…
Có lẽ đặt tên mới của “Lũ” là “Loay hoay” cũng không
sai. Không phải vì tôi cố tình để ngỏ mọi vấn đề, mà sự thực là cuộc sống đất
nước chúng ta đang có rất nhiều vấn đề nóng bỏng còn để ngỏ, đang chờ đợi trí
tuệ và ý chí cả nước.
Loay hoay như thế,
tôi nhồi nhét tất cả những gì làm tôi ray rứt vào truyện, thiếu quan tâm đến sự
vất vả của người đọc – cho phép tôi chỗ này có một lời xin lỗi đã làm mệt bạn đọc.
Sự nhồi nhét như thế cùng với cách viết văn của một người không có tay nghề văn
học, nên – như anh Lữ Phương đã nhận xét rất đúng và tôi cũng thừa nhận: Truyện
không phải là truyện, mà chỉ là người mang tải bất đắc dỹ những thông tin, những
tín hiệu, những băn khoăn, những lời nhắn khô khan hay nhức nhối… tôi muốn chia
sẻ với người đọc. Vì thế, “Lũ”
không “vẽ” ra cái gì, không dựng nên mô
hình nào cả, cũng không chuẩn bị một món ăn sẵn đề mời mọc. “Lũ”
chỉ đặt lên bàn một mớ rắm rối bòng bong những điều đang làm tôi ray rứt và cầu
mong mọi người lên tiếng – đại diện cho cái mớ bong bong này là bản “Di
chúc của một người lính” trong Lũ[3] - với mong muốn kêu gọi sự lên tiếng của cả
nước giục giã nhau tìm lối ra.
Điều mà tôi mãi đến về cuối đời mình mới học
được là: Trên đời này chẳng có chủ nghĩa nào hay cuộc cách mạng nào, cũng chẳng
có công nghiệp hóa – hiện đại hóa nào có thể lôi dắt đất nước chúng ta ra khỏi
quá khứ gian truân dằng dặc gần hai thế kỷ vừa qua và của 7 thập kỷ qua để đi tới
hạnh phúc - văn minh, mà chỉ có con đường của tự do dân chủ để phát triển. Thế
thì, chỉ còn con đường cải cách thể chế chính trị, để thường xuyên thay đổi từng
bước, và để liên tục vươn lên cái đúng, cái tốt!..
Nhưng: Làm
thế nào?
Làm thế nào? -
trên mảnh đất thực tại của nước ta còn hằn đầy những dấu ấn của chặng đường dài
quá nhiều đau buồn gần hai thế kỷ vừa qua, của chặng đường đầy khói lửa và nước
mắt gần 7 thập kỷ vừa qua, và… những dấu ấn còn nguyên vẹn của chặng đường có
không biết bao nhiêu được/mất, phải/trái, đúng/sai của đất nước trong 37 năm đầu
tiên là một quốc gia độc lập thống nhất?
Còn hơn thế: Làm
thế nào? – với tâm lý xã hội “tiểu nhược
quốc”, “tiểu nông”… như một di sản
văn hóa tiêu cực ngấm sâu vào nếp nghĩ trong hầu hết các tầng lớp nhân dân, thâm
căn cố đế từ bao đời nay, tạo ra không biết bao nhiêu trở lực vô hình không dễ
vượt qua cho sự nghiệp canh tân đất nước! Xin phép nói bỗ bã: So với thiên hạ
nhân dân ta còn nhiều cái dốt, nhiều cái hư và nhiều cái hèn lắm; cái đoàn kết
hòa giải với nhau và vì nhau trong thời bình còn kém lắm, đã thế lại hay “sỹ”
và hay nhỏ nhen đố kỵ nhau... Dù đau lòng thế nào đi nữa, chúng ta vẫn cứ phải
nói với nhau người Việt chúng ta vẫn còn không ít cái kém văn minh… - nghĩa là
hòa giải ngay giữa người Việt chúng ta cũng không phải là chuyện dễ!.. … Những
“bệnh” này đang trầm trọng lên vì sự bưng bít, vì chính sách ngu dân… và nhất
là vì sự nuôi dưỡng cái dối trá và nhiều giá trị thấp kém khác – bao gồm từ việc hệ thống chính trị làm những việc không
văn mình và thực thi các biện pháp trấn áp thẳng tay tự do tư duy, đi đôi với sự
bơm thổi lên những niềm tự hào xáo rỗng - vì chỉ có một nội dung duy nhất là nhâm nhi
cái vinh quang đã có trong quá khứ, cố được tô vẽ cho đẹp thêm..; reo rắc cái bệnh
“tự
sướng” là tìm ra những cái để mình tự khen - nào là “nhất thế giới”,
nào là “nhất Đông Nam Á”..; và đánh lạc hướng dân trong không biết bao nhiêu hoạt
động xin tạm đặt cho cái tên chung là phản
văn hóa, không có văn hóa… đang diễn ra hàng ngày… Sự mất lòng tin của dân
vào chế độ chính trị hiện nay, tình trạng thiếu thông tin, mất phương hướng… cũng
làm trầm trọng thêm không kém những “bệnh” này; cái chủ nghĩa makeno
– sống chết mặc bay – đang làm xã hội rệu rã kinh khủng!..
Vâng, phải làm
thế nào ? – với thực tại của nước ta trong bối cảnh của một thế giới ngày nay
đang bước vào một thời kỳ vận động khác hẳn so với trước? Nhất là đừng một lần
nữa bỏ lỡ thời cơ: chưa bao giờ nước ta có nhiều đồng minh tự nhiên như ngày
nay để có thể cùng dấn bước với cả thế giới tiến bộ!
Phải làm thế
nào? – trong bối cảnh chủ nghĩa thực dân mới Đại Hán đang tìm mọi cách đưa
Trung Quốc lên vị trí siêu cường, đang là vấn đề của cả thế giới, mà Việt Nam ta
- do sát nách Trung Quốc về địa lý - nên cả về địa kinh tế cũng như địa chính trị hiện nay trở
thành chướng ngại vật tự nhiên đầu tiên mà Trung Quốc trên con đường vươn lên
siêu cường đang tìm mọi cách khuất phục…
Nói ra sự loay
hoay này, tôi không muốn làm khát vọng chung nhụt đi. Tôi chỉ muốn
cảnh báo: phải có trí tuệ và ý chí nhiều hơn nữa. Như thế này chưa đủ! Chỉ bức
xúc không thôi chưa đủ. Chỉ bắt chước không thôi cái hay cái tốt của thiên hạ,
cũng chưa đủ - mà đất nước ta đã không biết bao phen ngã vỡ mặt vì bắt chước rồi!..
Phải đứng trên mảnh đất của nước ta để tìm cách giải quyết những vấn đề của ta…
Muốn thế, phải học nhiều hơn, hiểu biết
nhiều hơn, và kiên gan hơn nữa…
Viết đến đây,
tôi nhớ đến lời răn đầu tiên của Phật: Kẻ thù của ta là chính ta!
Vâng, phải trí
tuệ và kiên gan hơn nữa, để trước hết phải chiến thắng được chính mình, trước
tiên là chiến thắng “cái tiểu nhân và thói đố kỵ” trong chính mình, phải ra sức
giành lại nhiều chỗ hơn nữa trong tim mình cho lòng bao dung và tinh thần hiệp
sỹ, phải dám xả thân vì cái tốt, dám tìm ra con đường đúng là của mình, giải
quyết những vấn của chính nước mình!.. Vài dòng chữ vỏn vẹn thế này thôi, nhưng
làm được như thế khó lắm! Trước tôi không biết bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu người
đã nghĩ, đã khuyên như thế này, thế nhưng mỗi chúng ta hôm nay xin tự hỏi mình:
Ta đã thắng được chính ta bao nhiêu?
Không thể nói
khác: Chúng ta học vẫn chưa đủ!
Bởi vì cải cách
là con đường đấu tranh không dùng bạo lực, gian khổ hơn nhiều, đòi hỏi nhiều
trí tuệ và dũng cảm hơn… Như thế còn có nghĩa phải có sức thuyết phục cao, phải
sẵn sàng đương đầu với đàn áp thô bạo, khó tránh khỏi đổ máu, vân vân… Song cái
khó lớn nhất của cải cách chính trị lại là làm sao tạo ra được sự đồng thuận có
trí tuệ cao của toàn xã hội, để giải quyết những vấn đề rất khó, rất sống còn, gần
như chưa có tiền lệ ở nước ta. Mỗi người không tự chiến thắng được mình trước,
làm sao đất nước có được sự đồng thuận đáng mong muốn này!?
Để khỏi nói chay
với nhau, tôi xin nêu thử một ví dụ: Cải cách để có một thể chế
chính trị ở nước ta như thế nào sát nách cái siêu cường Đại Hán đang lên?
Trung Quốc có thể
đặt điều: Cải cách trở thành một quốc gia có chế độ dân chủ như thế, rõ ràng Việt
Nam hưởng ứng cái trục xoay chiến lược trở lại Á trong chính sách đối ngoại
Obama-Clinton, đi với Mỹ để chống Trung Quốc, vì thế lại cần phải cho Việt Nam
một bài học – có thể kiểu tháng 2-1979 hoặc toàn diện và quyết liệt hơn! Mặc dù
trong bụng Trung Quốc thừa biết Việt Nam không bao giờ ngu dại gì chơi trò đi với
một bên chống một bên.
Trung Quốc cũng
quá hiểu, có một thể chế chính trị dân chủ trên đất Việt Nam sát nách Trung Quốc
như thế, sẽ có nhiều ảnh hưởng lôi thôi rất khó chịu đối với nội trị Trung Quốc
vốn dĩ hiện nay đang không ít chuyện đau đầu. Dân chủ đang là gót chân Ashilles
của Trung Quốc.
Ví dụ này không
phải là sản phẩm của trí tưởng tượng, mà là một kết luận được rút ra từ những lời nói và hành động có
liên quan của Trung Quốc trong toàn bộ lịch sử quan hệ CHXHCNVN – CHNDTH. Vả lại,
cho đến nay, chưa một ngày nào Trung Quốc thôi dùng các thủ đoạn “cứng” hoặc “mềm”
để giữ bằng được Việt Nam ta trong vòng kiềm tỏa của Trung Quốc; khỏi phải nói
sự can thiệp của “quyền lực mềm” Trung Quốc vào Việt Nam hiện nay là khá sâu,
có những lúc đã thành công vô cùng tai hại cho nước ta – như Hội nghị Thành Đô 1990
tôi đã có dịp điểm qua trong một bài viết trước đây[4].
Vậy ta phải đành
bó tay, không dám làm cái việc của ta phải làm cho nước ta?
Nhưng có một câu
hỏi khác: Một Việt Nam èo uột như hiện nay, hay một Việt Nam phát triển của ý
chí dân tộc và dân chủ có thể đứng tốt hơn với tư cách là một láng giềng hòa
bình và được tôn trọng bên cạnh siêu cường đang lên Trung Quốc? Chưa nói đến thực
tế phũ phàng trước mắt: Nước ta trì trệ thêm một ngày, sự nô dịch của chủ nghĩa
thực dân mới siêu cường Đại Hán áp lên nước ta nặng thêm một ngày.
Lại một câu hỏi
khác chen vào: Làm sao có một Việt Nam phát triển như thế, nếu chính quốc gia
này – hoặc là (1)nhân dân, hoặc là (2)quyền lực đang ngự trị quốc gia này, hoặc
là cả hai thực thể này – không lựa chọn, không có khả năng lựa chọn, hay không
dám lựa chọn một cuộc cải cách chính trị có ý nghĩa bước ngoặt như thế? Hoặc là
trong 2 thứ chủ thể (1, 2) của Việt Nam như thế, một bên “pro”, một bên “con”;
hoặc là trong mỗi chủ thể ấy đều có cả “pro” và “con” với các tỷ lệ khác
nhau; làm thế nào để “pro” mạnh hơn “con”, rồi thuyết thục được
“con”?...
Hay là chẳng lẽ … chỉ còn mỗi cách: Một bên loại bỏ một bên, để rồi sau đó lần
mò tiếp trong đổ vỡ tìm đường đi tới cải cách thể chế chính trị vậy?.. Nghĩa là
bất lực chịu rơi vào một cuộc bể dâu mới,
rồi mới dần dần tỉnh ra lần mò con đường cải cách!?.. Ôi, cái bản lĩnh của dân
tộc Viêt Nam ta để ở đâu?!..
Tôi xin dành những
câu trả lời cho mỗi người Việt Nam chúng ta – dù là ai. Chỉ xin được phép lưu
ý: Theo tôi, không một người Việt Nam
nào – kể cả hơn ba triệu đảng viên ĐCSVN – có thể cho mình cái quyền lẩn tránh
những câu hỏi nêu trên và im lặng. Đất nước này là của mỗi người Việt Nam chúng
ta mà! Chúng ta là chủ mà!
Về phần mình,
tôi đã trình làng câu trả lời của mình – trong đối thoại giữa dại diện doanh
nhân và trí thức và đại diện những người cầm quyền (Lũ, tập II, chương 27). Tôi
không trốn tránh nghĩa vụ của mình. Còn đúng sai thế nào, xin tùy nhân dân và
cuộc sống xem xét, lựa chọn.
Đến đây, chắc
anh Lữ Phương và anh Tống Văn Công có thể hình dung ra sự loay hoay trong tôi.
Không thể diễn đạt hết thành lời được đâu.
Đối mặt với thực
tế như thế, trong tôi không loay hoay sao được? Song như đã
trình bầy, tôi không bàn chùn, mà chỉ muốn làm sao đi tới tận cùng sự phức tạp
của vấn đề, với tất cả thận trọng của mình, để có những ý kiến, kiến nghị xác
đáng, cho những cuộc thảo luận rất đáng có lúc này... Chí ít nêu ra như thế để
mời mọi người suy nghĩ…
Mà cuộc sống của
đất nước chúng ta còn nhiều vấn đề nội trị, kinh tế, ngoại giao khác khó khăn
không kém vấn đề quan hệ Việt – Trung…
Làm thế nào để vừa
mở ra một cuộc cải cách vỹ đại toàn bộ cuộc sống mọi mặt của đất nước, song
song với từng bước đưa nền kinh tế đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng
kéo dài hiện nay, đồng thời bảo vệ biển đảo và chủ quyền đất nước và phát huy vị
thế đối ngoại của nước mình? Ba nhiệm vụ lớn này phải làm đồng bộ và cùng một
lúc, cùng hỗ trợ lẫn nhau; một nhiệm vụ lớn thất bại thì hai nhiệm vu kia không
thể thành công, và đều dẫn tới hệ lụy chung: Sụp đổ.
Nhưng tiến hành
ba nhiệm vụ này với một đảng và một hệ thống chính trị như hiện nay? Với lòng
dân phân tán và bị bưng bít đến mức nguy hiểm như thế này?
Công cuộc đổi mới
bắt đầu từ dân và sự chấp thuận ở mức độ nhất định của đảng và hệ thống chính
trị, đã tạo được bước phát triển đầu tiên đất nước phải có, đây là việc đã làm
được. Đó thực sự là cả một quá trình “học”,
gần như là từ ABC về kinh tế, chính tôi cũng đã phải học như thế rồi mới ngộ ra,
chuyện “đắt/rẻ” bàn sau.
Nghĩ mãi rồi,
tôi vẫn chỉ thấy cải cách chính trị thực hiện dân chủ và các quyền tự do của
nhân dân, để từ đó có hòa giải giải phóng sức mạnh dân tộc là chìa
khóa. Góp ý trước khi họp Đại hội XI của ĐCSVN, một lần nữa tôi lại nêu
quan điểm này…
Song tạo ra cái
chìa khóa này như thế nào?..
Đến đây, không
biết, với những gì tôi viết ra trong các bài, trong Lũ.., đã nêu được rành rọt
nội dung toàn câu chuyện là như thế chưa?! Phần nỗi sợ tôi chưa vượt qua
được chính là chỗ này, tôi muốn san sẻ để làm vơi bớt nỗi sợ này trong chính
mình. Phần còn thiếu tự tin chính là chỗ này… Không ít lời quở trách gay gắt từ
bạn bè đồng niên, đồng song, chí cốt: Nhà đã mục nát đến thế này thì để cho nó sụp
quách đi làm lại, cứ ngu trung mãi làm gì để kéo dài cái khổ của dân của nước!?..
Vài nhân vật trong Lũ cũng nói toạc ra như thế.
Tôi phân vân: Cái
chìa khóa phải có này là hoang tưởng hay hiện thực? Loay hoay chính là
chỗ này! Còn không ít những cái loay hoay khác, tất thảy đều liên
quan đến cái chìa khóa này là hoang tưởng hay hiện thực?!..Nhưng
không thể vì thế mà đứng lại được, tôi phải đi tiếp.
Tôi mong được
chi viện những kiến giải.
Trong những ngày
vừa qua, tiếng nói của nhân dân ủng hộ kiến nghị của 72 nhân sỹ, trí thức ngày 19-01-2013
về xây dựng Hiến pháp mới ngày càng nhiều. Sự việc lan tỏa nhanh, rộng rãi và
có chiều sâu, hứa hẹn một phương hướng ngày càng rõ hơn con đường đất nước trước
sau sẽ phải đi, không thể khác được! Những tiếng nói ấy, xu thế ấy đang thôi
thúc cả nước suy nghĩ tiếp. Đây là điều cổ vũ lớn đối với tôi. Trước đó câu
chuyện Myanmar cũng đã khiến tôi suy nghĩ rất nhiều.
Để xem những người
nắm giữ trong tay quyền lực cai quản đất nước sẽ ứng xử thế nào chung quanh việc
sửa đổi Hiến pháp lần này và việc dân kiến nghị về Hiến pháp mới; chắc chắn sẽ
chẳng có gì nhiều đáng để phán đoán... Song tiếng nói của nhân dân ngày càng có
nhiều hàm lượng trí tuệ và đồng thanh về một hướng. Tiếng nói ấy ngày càng
không thể làm ngơ được.
II.
Hòa giải dân tộc – một giá trị cơ bản bị cướp mất
Hòa giải dân tộc
bị nhiều
thứ và chiến tranh cướp đi, đến nay chưa khôi phục lại được. Tôi muốn
bắt đầu câu chuyện này bằng nhìn lại lịch sử, mong từ đó tìm ra đôi điều.
Cuộc kháng chiến
chống Pháp và cuộc kháng chiến chống Mỹ do ĐCSVN lãnh đạo là 2 cuộc chiến tranh
chống xâm lược, giải phóng dân tộc, với kết quả có được đất nước Việt Nam độc lập,
thống nhất như hôm nay. Lịch sử là như vậy.
Anh (Tống Văn
Công) đã dựa vào lịch sử đưa chủ nghĩa thực dân Pháp và chủ nghĩa đế quốc Mỹ hồi
ấy ra là can phạm, sau đó là chủ mưu cho việc mở đầu và thực hiện việc chia cắt
Việt Nam ngay từ thời kháng chiến chống Pháp.
Tôi chỉ xin bổ sung: Việc chia cắt Việt Nam do Mỹ hoàn thiện, và từ
đây, miền Nam Việt Nam được cả thế giới phương Tây đối xử là một quốc gia về mọi
mặt: Việt Nam Cộng Hòa. Lịch sử là như thế.
Việc miền Nam Việt
Nam trở thành một thực thể quốc gia như thế là một thực tế, cho dù với bất kể
quan điểm chính trị nào muốn nhìn nhận thực thể này là sản phẩm của chủ nghĩa
thực dân mới, là tay sai của chủ nghĩa đế quốc Mỹ, hay là gì gì đi nữa…
Trong quá trình trở
thành một thực thể quốc gia như thế, Việt Nam Cộng Hòa từng bước và cùng với thời
gian có những phát triển tự nó và có những cái riêng của chính nó với tính
cách là một quốc gia trong một thế giới như những người công sản chúng tôi hồi ấy
gọi là “thế giới hai phe, bốn mâu thuẫn”[6]
Nếu có gì phải
nói thêm trong câu chuyện chia cắt Việt Nam, có lẽ nên tìm hiểu thêm vai trò
dính líu của Trung Quốc trong Hội nghị Genève 1954 về Đông Dương và thái độ của
Trung Quốc sau này trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam.
Ngoài những
nguyên nhân từ bên ngoài chia cắt Việt Nam, đã đến lúc phải phân tích rạch ròi
những nguyên nhân tự nội tại nước ta làm sâu sắc thêm việc chia cắt này. Cái gì
cũng đỗ lỗi tuột luột cho đối phương – kể cả giữa hai bên Việt Nam ta với nhau cũng
thế - e là vẫn sẽ chỉ nhìn sự việc bằng nửa mắt. Xới lên như thế chỉ để có cơ sở
thảo luận tiếp trong bài này cho vấn đề hòa giải dân tộc. Vấn đề sử, xin dành
cho các sử gia trong những dịp khác.
Cuộc kháng chiến
chống Mỹ xâm lược để lại nhiều vấn đề lớn nghiêm trọng nhất phải xử lý cho việc
thực hiện hòa giải dân tộc.
Đất nước ta
không thể lựa chọn được bối cảnh lịch sử khi nổ ra ở nước ta cuộc Cách mạng
Tháng Tám xóa bỏ chế độ thuộc địa của dân Pháp để giành độc lập: Đó là Chiến
tranh thế giới II kết thúc và đồng thời cũng là sự mở đầu sự đối kháng quyết liệt
giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa cộng sản, giữa chủ nghĩa đế quốc và phong
trào giải phóng dân tộc ở phạm vi toàn thế giới.
Chiến tranh thế
giới II kết thúc chính là sự mở đầu thời kỳ chiến tranh lạnh rất quyết
liệt ở quy mô thoàn cầu, với nhiều cuộc chiến tranh nóng cục bộ xảy ra ở
nhiều nới trên thế giới trong phần lớn nửa sau của thế kỷ 20 – mà thực chất bên
trong những cuộc chiến tranh nóng cục bộ này - dù đặm nhạt khác nhau thế
nào, chủ yếu vẫn là sự đối đầu trực tiếp với nhau của 3 nước lớn nhất thế giới:
Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc. Bên trên tôi đã nói nhiều thứ (với nghĩa là những tác động chi phối của bối
cảnh thế giới vào các quốc gia) và chiến tranh đã cướp đi của chúng ta hòa giải
dân tộc là vì những lẽ như vậy.
Xem xét với cách
nhìn nư thế:
1.
Cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta – kể cả trong lòng Miền Nam Việt
Nam – trước hết là cuộc chiến tranh chống ngoại xâm.
2.
Nhưng
trong cái thế giới 2 phe 4 mâu thuẫn hồi ấy, đây còn là cuộc chiến tranh giữa
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc. VNDCCH và sau này là CHXHCNVN đã từng nhận
về mình vai trò tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa, còn VNCH tự đảm nhiệm vai
trò của mình là tuyến đầu chống cộng trên thế giới. (Thắng/thua là chuyện khác,
còn nói về quyết liệt theo ý thức hệ thật khó nói miền Bắc hay miền Nam ai quyết
liệt hơn ai).
3.
Cuộc
chiến tranh nóng cục bộ với tính cách là một bộ phận của chiến tranh lạnh giữa
Liên Xô và Mỹ trên đất Việt Nam.
4.
Cuộc
chiến tranh nóng cục bộ giữa Trung Quốc và Mỹ với mục đích ngăn cản không cho Mỹ
đến sát Trung Quốc. Xin đừng quên, vì mục đích này Trung Quốc đã chủ động phát
động cuộc chiến tranh Triều Tiên 1950 -1953 và thất bại. Trong chiến tranh Việt
Nam, tọa
sơn quan hổ đấu, quyết đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng… ra đời từ
tư duy chính thống của Trung Quốc.
5.
Cuộc
chiến tranh tranh giành ảnh hưởng thống soái giữa Liên Xô và Trung Quốc trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và trong phong trào độc lập dân tộc xảy
ra trên đất Việt Nam.
6.
Cuộc
chiến tranh đại diện cho phong trào độc lập dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc.
7.
Và
cho đến nay điều quyết liệt nhất và còn cấm kỵ nghiêm khắc nhất không dám nói đến:
Đây
còn là một cuộc nội chiến trong lòng Việt Nam, hình thành từ việc đất nước bị
chia cắt như đã điểm ra bên trên. Đây cũng là điểm mấu chốt nhất so với
mọi nguyên nhân khác cướp đi sự hòa giải dân tộc của nước ta.[7]
Nhìn lại sử, tôi
muốn nhìn như vậy.
Bản chất cuộc
kháng chiến của Việt Nam chống Mỹ xâm lược chứa trong lòng nó 7 cuộc chiến
tranh như vậy, lẽ đương nhiên khi kết thúc, ĐCSVN với tính cách là người chiến
thắng phải là người chủ động giải quyết mọi hệ quả của cả 7 cuộc chiến tranh
như vậy sao cho có lợi nhất cho sự nghiệp phát triển đất nước sau khi quốc gia
đã hoàn thành được sự nghiệp độc lập thống nhất. Nhìn lại lịch sử để học, thì
nên rút ra kết luận như thế.
Nhưng sau
30-04-1975 mọi việc đã không diễn ra như thế.
Trong một số bài
viết và trong Lũ, tôi trình bầy: ĐCSVN, với tính cách là người chiến thắng,
sau khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc, ĐCSVN nợ đất nước 2 nhiệm vụ lịch sử:
-
Xây
dựng nên một thể chế chính trị của nhà nước pháp quyền dân chủ cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước từ nay và mãi mãi về sau.
-
Thực
hiện hòa giải dân tộc để thực hiện thống nhất dân tộc, tất cả cho giải phóng sức
mạnh dân tộc vì một Việt Nam trong thế giới hôm nay và mai sau.
Cả hai món nợ lịch
sử này đối với dân tộc, đối với đất nước, đến hôm nay ĐCSVN vẫn chưa trang trải
được.
Vì phải thoát khỏi quá khứ
và những hệ lụy của chiến tranh sau khi hết thúc, hai món nợ, hay là hai nhiệm
vụ lịch sử phải làm này gắn bó hữu cơ với nhau đến mức: nhiệm vụ này là điều kiện
tồn tại và phát triển của nhiệm vụ kia.
Xin cứ ngẫm mà
xem, có phải như thế không?[8].
Đến đây, xin bàn
thẳng vào vấn đề hòa giải dân tôc, những vấn đề khác xin gác lại cho những dịp
sau này.
-
Hòa giải dân tộc là một nhiệm vụ lịch sử hệ trọng
không thể thiếu và đến bây giờ vẫn còn nợ lại chưa làm được, một vấn đề trọng đại
có nội dung đang tiếp tục phát triển và đồng hành với sự diễn biến của đất nước,
càng để chậm càng khó, càng phức tạp.
-
Hòa giải dân tộc không phải là một vấn đề có nội dung
cố định, càng không phải chỉ là một vấn đề của quá khứ, mà là một vấn đề đang
ngày càng nóng bỏng đối với đất nước ta hiện tại và trong tương lai.
-
Không thực hiện được hòa giải dân tộc, cũng không có
thống nhất dân tộc, đất nước sẽ không thể thiết lập nên được một thể chế chính
trị của nhà nước pháp quyền dân chủ; độc lập thống nhất đất nước đã giành được
sẽ tiếp tục bị uy hiếp từ bên ngoài.
-
Không có hòa giải dân tộc để làm được những công việc
như thế, con đường đi lên một Việt Nam phát triển có độc lập – tự do – hạnh
phúc sẽ có nhiều rào cản không vượt qua được. Hòa giải dân tộc chính là bước đầu
tiên đưa đất nước đi lên con đường dân tộc và dân chủ để phát triển, là một
trong những giá trị quan trọng thường xuyên và mãi mãi đổi mới dân tộc Việt Nam
ta.
Để cho bài này đỡ dài, xin mời mọi người tự lý
giải xem có phải như vậy không.
Dưới đây tôi xin
điểm ra một vài khía cạnh để minh họa.
Hòa giải dân tộc,
lúc đầu đúng chỉ là vấn đề Bắc – Nam trong lòng đất nước, và là vấn đề giữa
trong nước và cộng đồng người Việt ta di
tản ra nước ngoài. Những vấn đề này bao hàm nhiều nguyên nhân sâu xa, song chủ
yếu vẫn là những nguyên nhân từ các ý thức hệ, hậu quả chiến tranh chỉ là một
phần. Xin nêu một ví dụ đơn giản còn thời sự đến hôm nay, và đây chỉ là một thôi:
-
Nếu
bây giờ vẫn cứ khăng khăng: Không theo chủ nghĩa xã hội là không yêu nước,
thậm chí là phản quốc… - như thế thì chỉ còn cách bắn nhau tiếp mà
thôi!..
-
Hoặc
cứ khăng khăng dứt khoát: Cộng sản đã bán rẻ quốc gia… - nghĩ như thế là đủ
hận thù cha truyền con nối, và sẵn sàng lật đổ nhau rồi!..
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nhiều lần đau
lòng nói: Cứ đến ngày 30 Tháng Tư, trong nước một triệu người vui thì cũng có một
triệu người buồn… Câu chuyện như thế còn sâu xa hơn cả những ngang trái
của các ý thức hệ, cứ ngày đêm khắc cứa mãi vào vào tâm hồn, vào da thịt mỗi
chúng ta trong cộng đồng đồng bào Việt Nam… Đấy là những nỗi đau không lời nào
nói hết được.
Còn hơn thế nữa:
Các nỗi đau tâm linh thiêng liêng theo miết trong tâm khảm mỗi chúng ta cùng
năm tháng không chịu dịu lại… Xin tất cả mọi người, nhất là những người bên
thắng cuộc (mượn cách nói của Huy Đức) cứ thành tâm ngẫm nghĩ mà xem.
Như thế hòa giải đâu chỉ là chuyện chiến tranh Bắc – Nam đang xa
dần nữa!? Hòa giải dân tộc đang ngày càng trở thành vấn đề của ngay trong lòng
đất nước, rồi mới đến ở nước ngoài.
Như thế hiển
nhiên, chẳng một sự vật nào bất động và đứng yên một chỗ, mà đều thường xuyên vận
động và phát triển. Bạn cứ thử cố tự thoát ra khỏi ý thức hệ nào đó mà bạn đang
tôn thờ mà xem có phải như vậy không? …Để chỉ còn chính bạn với bạn… Và như thế,
bạn nghĩ gì mỗi khi giỗ, tết đến trong nhà, bạn thắp nén nhang tưởng nhớ đến tổ
tiên, đến người thân ở thế giới bên kia – nhất là những người đã mất trong chiến
tranh vừa qua… Rồi nếu bạn đi ra các nẻo đường, sẽ thấy không biết bao nhiêu thứ đập vào mắt
mình dịp này, bạn có thể, hay không thể chấp nhận được trong thâm tâm những điều
nhìn thấy… Rồi bạn rời nơi mình ở, đi viếng mộ người thân, nhìn mọi người đi viếng
mộ người thân… … … Chẳng ai có quyền yêu nước hơn ai! Cũng chẳng ai có quyền gắn
bó tâm linh thiêng liêng hơn ai đối với tổ tiên và những giọt máu đào của dòng
họ mình… Đây cũng là thứ quyền bất khả xâm phạm của mỗi người!..
Nỗi đau chưa lấy
lại được hòa giải dân tộc vẫn chưa dừng lại ở đây.
Lịch sử vinh
quang trong quá khứ đối với những người bên thắng cuộc cũng không đứng yên cố
định một chỗ.
Niềm vinh quang của mình – ĐCSVN – với biết bao nhiêu tự hào
chính đáng, cứ theo thời gian biến dần thành tự mãn, rồi cứ thế tạc dựng ngày một
đặm nét hơn nữa không gì thay đổi được một nếp sống, một lẽ sống, hằn sâu trong
tâm thức, trong hơi thở, trong cuộc sống hàng ngày của đảng!.. Càng đặm nét, cái
nếp hằn này càng bê-tông hóa thành nền tảng vững chãi cho một thứ tôn
giáo thần tượng, có quyền lực vô hình nhưng gần như tối thượng trong
ĐCSVN. Cái bệnh sùng bái cá nhân xưa kia
nó chỉ là một tế bào ung thư đầu tiên
phôi thai ra cái thứ tôn giáo thần tượng này mà thôi. Ngày nay cái tôn giáo thần
tượng này theo thời gian trương mãi lên thành một thứ “thần thánh” đội lốt sử,
di căn thành một thứ quyền lực vô hình ở bất kể nơi nào có Đảng, bất chấp mọi thứ
trong tư duy và trong đạo đức.., và cứ thế để cho tha hóa của ĐCSVN tha hồ tung hoành và ngày
càng đẻ ra nhiều yêu quái hơn.
Trong xu thế
phát triển này, quá khứ vinh quang đã biến nhiều thứ bây giờ trở thành một trật
tự, thành những khuôn luật không lời, những quy tắc tự hiểu lấy và không do văn
bản hay quyết định nào đề ra cả, những tiền lệ trở thành quy ước gần như bất khả
xâm phạm… Đến mức hình như cuộc sống của cả nước chẳng có cái gì thoát ra được khỏi
cái bóng của quá khứ vinh quang của ĐCSVN, hoặc tự do cũng chẳng còn lại bao
nhiêu dưới cái uy của thứ tôn giáo thần tượng này!.. Thậm chí, kể cả trong sinh hoạt đảng, trong mọi
hoạt động và sự vận động của ĐCSVN!.. … Một ví dụ: Cứ nhìn lại quá trình diễn
biến của mọi sự vật trước, trong và sau của từng Đại hội toàn quốc của Đảng mà
xem có phải như thế không… Rõ nét nhất là những cái lệ không thành văn: Bộ Chính
trị bao giờ và lúc nào cũng đúng và đứng trên tất cả… Tuần tự vi tiến, toàn đảng
phải tuân thủ cái luật không lời như thế, cái trật tự hay cái tiền lệ không
thành văn như thế, mọi cái khác tương tự như thế… nhan danh cái dân
chủ tập trung. Cái tôn giáo thần tượng này – với tên gọi
chính thức là truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng - cùng với thời gian
xây đắp nên bức tường thành kiên cố, chặn đứng có hiệu quả hầu hết mọi tư duy mới,
bóp chết mọi nỗ lực muốn thay đổi ngay trong lòng ĐCSVN. Tôn giáo thần tượng này
không có khả năng tiếp thu bất kỳ cái gì mới, bất kỳ cái gì khác nó! Tôn
giáo thần tượng này được củng cố bằng cả một hệ thống quyền lực toàn
diện và tuyệt đối từ cấp cao nhất đến cấp cơ sở làng, xóm, phố, phường…
Đấy cũng chính là sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của ĐCSVN.
Cứ thế, cùng với
năm tháng, ĐCSVN từng bước trở thành kẻ nô lệ ngày càng lớn hơn, ngày càng không
muốn tự giải phóng mình khỏi niềm vinh quang mình đã đạt được, rồi bây giờ có
muốn tự giải phóng chắc cũng không được!..
Nhìn lại trong
37 năm đất nước độc lập thống nhất, ĐCSVN chưa bao giờ chủ động đưa ra được một
chủ trương sáng suốt nào có tính cách tạo bước ngoặt chiến lược cho đất nước
phát triển, mà chủ yếu là chạy theo cuộc sống, trong khi đó không ít các chủ
trương hay quyết định sai lầm.
-
Công
cuộc đổi mới bắt đầu năm 1986 là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân thôi thúc,
cuối cùng lãnh đạo Đảng chấp nhận và nâng lên thành nghị quyết của Đảng. Song từ
Hội nghị toàn quốc của ĐCSVN khóa VII họp đầu năm 1994, đổi mới bắt đầu chững lại,
để lại nhiều hệ quả cho nhiều vấn đề khác của đất nước cho đến hôm nay (cái gọi
là “4 nguy cơ”: tụt hậu, chệch hướng, tham nhũng, diễn biến hòa bình).
-
Quyết
định vô cùng quan trọng là Hội nghị Thành Đô năm 1990 là sai lầm chiến lược với
nhiều hệ quả lâu dài. Cũng chưa có thời kỳ nào đất nước ta có nhiều sai lầm về
đối ngoại như trong 37 năm vừa qua!
-
Mọi
quyết định lớn và đúng đã đề ra được nhìn chung đều rất chậm, do cuộc sống thúc
bách, không hiếm trường hợp bỏ lỡ thời cơ, vân vân. Và vân vân… … Tôi chi muốn
ngửa mặt kêu trời, vì không sao hiểu nổi khi xem tivi thấy đến hôm nay các vị
lãnh đạo đi “vi hành” các địa phương mà vẫn còn yêu câu dân phải cố nghĩ xem
nên trồng cây gì, nuôi con gì cho thoát nghèo, mà lẽ ra các vị này phải là người
mang đến cho dân con đường mà các vị đang hỏi dân. Có vị còn hỏi: Bà con nhận
được bò của chương trình Lục lạc vàng tặng thế này liệu có thể
thoát nghèo không?!.. Thật là chẳng còn
trời đất nào nữa!
-
Cuộc
khủng hoảng toàn diện đất nước đang lâm vào, trong đó nhất là cuộc khủng hoảng
kinh tế đã kéo dài 5 nay và hiện giờ vẫn đang gian truân tìm lối ra, cùng với tệ
nạn tham nhũng và tha hóa hiện nay đang thách thức sự tồn vong của Đảng và chế
độ chính trị - đấy chính là kết quả tổng hợp của 37 năm ĐCSVN cầm quyền trong một
quốc gia độc lập. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Trung ương 4 khóa
XI mới chỉ dám thừa nhận mối nguy cơ đến từ tha hóa của Đảng và hệ thống chính
trị.
Như vậy rõ ràng:
Sự nô lệ vào vinh quang của quá khứ như thế đã và đang từng ngày thủ tiêu tính
tiền phong chiến đấu của ĐCSVN – đến mức ĐCSVN bây giờ hầu như chỉ đủ trí tuệ
mài lịch sử của mình ra để sống tiếp, không ít những biểu hiện khiếp nhược trước
nhân dân và trước thế giới bên ngoài. Tôi thực sự không hiểu nổi tại sao cả một
hệ thống lý luận đồ sộ và đội ngũ tuyên giáo hùng hậu của ĐCSVN không nhìn ra sự
bế tắc đến mức khốn quẫn này, nguồn gốc có thể là sự ngoan cố bám lấy quá khứ
và không có khả năng thực hiện dân chủ ngay trong nội bộ ĐCSVN.
Thực tế nêu trên
hiển nhiên cho thấy: 37 năm qua do không có thể chế dân chủ và
hòa giải dân tộc làm môi trường phấn đấu, ĐCSVN đã và đang tự đánh mất mình. Chẳng
có thế lực thù địch nào đủ sức lật đổ được đảng và chế độ.
Vậy thế chế dân
chủ và hòa giải dân tộc cũng là vấn đề vô cùng thiết thân đối với chính sinh mệnh
của ĐCSVN chứ?
Là đảng duy nhất cầm quyền và là nhân lõi
của toàn bộ hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước, nhưng tính tiền phong chiến
đấu của ĐCSVN đã bị chính tha hóa của mình tiêu hóa hết mất rồi. Cho nên, để giữ
được vị thế độc tôn của mình trong hệ thống chính trị và đối với đất nước, thậm
chí muốn giữ như thế mãi mãi, ĐCSVN chỉ còn duy nhất quá khứ vinh quang làm vốn
do các thế hệ trước hy sinh chiến đấu để lại cho. Đảng cầm quyền như chính danh
của nó hôm nay thực chất và chủ yếu chỉ là người thụ hưởng gia tài thừa kế mà
thôi, đâu có phải là đã từng trực tiếp hy sinh chiến đấu!
Cho nên, níu chặt
lấy quá khứ vinh quang đang bị chính tha hóa hiện nay của Đảng làm cho phai mờ ấy
bây giờ là lẽ sống của Đảng, trở thành cuộc chiến đấu đích thực của Đảng.
Làm như thế, ĐCSVN khác nào lấy cái lấy cái cùm đang giam hãm chính mình cùm luôn
cả đất nước – nhân danh độc lập dân tộc gắn với CNXH và phải giữ vững định hướng
XHCN.
Trong quá trình
tha hóa ngày càng nguy hiểm này, đang hình thành ngày càng sâu sắc mâu thuẫn mới
trong lòng đất nước: mâu thuẫn giữa người cai trị và người bị cai trị.
Lại nảy sinh vấn
đề mới nóng bỏng tính thời sự: Phải giải quyết mâu thuẫn này như thế nào?
-
Đập
vỡ cái cùm này? – phương pháp bạo lực, có thể xảy ra khi sự chịu đựng của người
dân đến mức tức nước vỡ bờ! Một cuộc nồi da xáo thịt mới!?.. Hay là…
-
Tháo
gỡ cái cùm này rồi vứt xuống biển? – nghĩa là bằng biện pháp cải cách trong hòa
bình.
Rõ ràng không có
con đường thứ 3.
Giả định lựa chọn
biện pháp hòa bình là cải cách thể chinh trị, nhất thiết phải thực hiện dân chủ
và hòa giải dân tộc:
-
dân
chủ để thực hiện các quyền của dân và như thế mới có được hòa giải dân tộc.
-
hòa
giải dân tộc để tạo đồng thuận đồng tâm hiệp lực của dân trong việc giải phóng
sức dân cho biết bao nhiêu vấn đề khó khăn, phức tạp trong và sau quá trình cải
cách chính trị.
Thử hình dung
xem, thiếu dân chủ và hòa giải dân tộc làm sao có được cải cách chính trị?! Mà
dân chủ và hòa giải dân tộc là hai vấn đề không có cái này thì cũng chẳng có
cái kia.
Kể cả một khi
lòng dân đã trở thành một quyền lực xã hội, thúc đẩy ra đời được một thể chế
chính trị dân chủ thông qua cải cách, hòa giải dân tộc… Kể cả đã làm được như
thế, hòa giải dân tộc vẫn trở nên ngày càng vô cùng cần thiết để củng cố thành
quả này, để giải quyết tiếp các vấn đề của phát triển. Cuộc sống trong và sau
bước ngoặt cải cách luôn luôn đòi hỏi phải nuôi dưỡng hòa giải dân tộc, đò hỏi
hòa giải dân tộc phải có ngày càng nhiều trí tuệ hơn và sự giác ngộ chính trị
ngày một cao hơn… Cứ nhìn xem, gần 20
năm rồi Nga và các nước Liên xô – Đông Âu cũ vẫn chưa hoàn thiện xong thể chế
dân chủ của mình… Ai Cập 2 năm sau cách mạng hoa nhài giờ đây vẫn đang đứng trước
nguy cơ đổ vỡ tiếp…
Xin nghĩ tiếp, từ
đây trên con đường phát triển của đất nước và mãi mãi trong hội nhập thế giới,
làm sao Việt Nam có thể thiếu giá trị hòa giải dân tộc như là một sức mạnh, một
bản lĩnh của chính mình cho những vấn đề của nước mình trong đối xử với thế giới
bên ngoài?
Đi với cả thế giới,
làm sao nước ta có thể thiếu thực lực và nghị lực hòa giải để kiến tạo hữu nghị,
hợp tác và vươt qua mọi thách thức, góp phần trách nhiệm của mình trong cộng đồng
các quốc gia trên thế giới. Hòa giải như thế sẽ rèn luyện bản lĩnh dân tộc Việt
Nam ta.
Ở góc độ đối ngoại,
nhìn lại lich sử nước mình, hòa giải có bản lĩnh (chứ không phải là hòa hiếu với nghĩa chịu cắn răng nặng về
hiếu để mong sao có hòa mà không được, cũng không phải với
nghĩa “giữ đại cục” đến mức trấn áp cả
nhân dân mình như đang làm) là một vốn lớn của Việt Nam ta trong mọi triều đại
huy hoàng xưa, tại sao hậu thế chúng ta hôm nay lại không phát huy truyền thống
hòa giải như thế thành một sức mạnh của đất nước trong thế giới hôm nay?
Xin nhấn mạnh,
những nỗ lực của mỗi chúng ta cho nghị lực và phẩm chất hòa giải như thế cần được
nhiệt liệt hoan nghênh và nâng đỡ. Hàng ngày, trong cộng đồng dân tộc chúng ta ở
trong nước và nước ngoài có không biết bao nhiêu gương tốt khép lại quá khứ, vượt
lên quá khứ, phấn đấu cho hòa giải như thế, tuy rằng còn mảnh lẻ, và còn phải nỗ
lực rất nhiều để trở thành một bản lĩnh mới của dân tộc.
Với ý nghĩa như
vừa nói, một trong những cố gắng dấn thân cho hòa giải nhân đây tôi muốn cổ vũ
và hoan nghênh, đó là những công việc mà
Academy Trần Nhân Tông và anh Nguyễn Anh Tuấn cùng với bạn bè của mình đang xúc
tiến. Những nỗ lực như vậy đang nảy mầm trong cộng đồng dân tộc chúng ta, nên
được cả nước chắt chiu, nâng niu.
Như vậy, khó có
lý lẽ nào có thể bác bỏ được hòa giải dân tộc và những giá trị hòa giải có thể
đem lại cho một dân tộc, cho một quốc gia. Hòa giải, cả về đối nội cũng như đối
ngoại, là một giá trị cơ bản của một dân tộc, của một quốc gia.
Cũng xin phép được
nói thêm: chỉ có bản lĩnh, có trí tuệ, có văn minh mới có thể thao tác và vận dụng
được giá trị hòa giải.
Nhưng khi bàn đến hòa giải dân tộc ở nước
ta, sự thật có tiếng nói riêng chát chúa: 37 năm đất nước độc lập thống nhất rồi,
nhưng đến giờ phút này hòa giải dân tộc với tinh thần như đã trình bày trên, hầu
như vẫn là câu chuyện không thể!
Tôi nghĩ rằng nhận xét của mình không quá
đáng.
Suốt mấy ngày
nay thôi, “Bên thắng cuộc” và “Quyền bính” được cả hai “bên”
ném đá tới tấp, khó nói được mức độ
quyết liệt “bên” nào hơn “bên” nào. Đấy chẳng là một cái
“test”, một ví dụ nóng hổi hay sao?
Những tiếng nói
hoan nghênh Huy Đức hay phân tích khách quan có nhiều. Những tiếng nói này là
xác đáng, nhiều tiếng nói rất công bằng, nhưng tôi chưa muốn bàn ở đây – vì muốn
tập trung suy nghĩ tìm hiểu kỹ nguyên nhân của hiện tượng ném đá trước đã: Hiện tượng này cho thấy những gì liên quan đến hòa
giải dân tôc?
Nhưng trước nữa,
cho phép tôi nói đôi điều liên quan đến sách của Huy Đức.
Cả cuộc đời làm
công tác nghiên cứu, dần dần tôi học được chỉ nên lấy lịch sử làm người thầy
tin cậy của mình, là cái gương để soi mình… Làm như thế không ít phen tôi hút
chết. Nhưng tôi có thói quen ngoài sử ra, tôi chẳng tin ai cả - dù là chủ nghĩa
hay thần tượng. Cách nghĩ này thôi thúc tôi viết Dòng đời và sau đó là Lũ.
Có thể nói, tôi đã đọc Huy Đức với nỗi đau riêng của tôi về thân phận đất nước
và với ý thức như vậy đối với lịch sử.
Tôi nghĩ Huy Đức
không viết sử. Những sự việc Huy Đức sưu tầm được và đưa vào sách của mình là
những mảnh di vật của sử mà Huy Đức đã “bới nhặt” được, giống như nhà khảo cổ học
vẫn thường làm trong đào bới các địa tầng và ở mọi nơi của công việc khảo cổ vậy.
Những di vật này chưa phải là tất cả, càng không thể là những sự vật nguyên vẹn,
nhưng nó là các “mảnh” của sử - với những chất lượng khác nhau; thậm chí có “mảnh”
bị thời gian và cát bụi làm biến dạng, làm “lão hóa, còn phải chờ những phân
tích khoa học; có những “mảnh” chỉ là những ý nghĩ rất chủ quan của người trong
cuộc hay nhân chứng kể lại cho Huy Đức ghi theo cái nghĩ chủ quan của người kể…
Nhiều “di vật” Huy Đức đưa vào sách tôi đã biết, có cái tôi còn biết rõ hơn…
Song sách của
Huy Đức có một giá trị quý báu đối với tôi, không chỉ ở chỗ Huy Đức cố hết mức
có thể ném bỏ “cái tôi” của mình ra ngoài sách. Huy Đức thực sự đã rất nỗ lực với
tất cả cái tâm của mình, xắp xếp lại những di vật của sử tìm được, như một người
xắp xếp các mảnh hài cốt khai quật được trong mọi địa tầng và ở những nơi khác
nhau, để nhờ đó thấy rõ dần ra hình hài nỗi đau của toàn dân tộc ta đã trải qua
trên chặng đường đi tới hôm nay.
Đọc Huy Đức như
thế nào, đấy là quyền, khả năng, và tâm tính của mỗi người.
Tôi đọc Huy Đức
với tâm trạng như trên, đọc mà đau thêm những nỗi đau mình đã biết, đã ngấm, đã
sống trong nó… Nên tôi coi sách của Huy Đức là một đóng góp quan trọng, quý
báu, thôi thúc cái tâm và cổ vũ mọi nỗ lực của đất nước lúc này đang tìm cách
khôi phục hòa giải dân tộc. Nhân đây, xin có lời cảm ơn và chúc mừng Huy Đức.
Mỗi khi nhìn lại
sử, tôi luôn nghĩ rằng sử là sự thật có nhiều cái giúp mỗi chúng ta học lại. Sử
đã giúp tôi học lại tất cả, tạo ra ý tưởng thôi thúc tôi viết Dòng
đời: Để góp tay vào bắt đầu cho một thời kỳ phát triển mới!.. Tôi vẫn
khát khao đất nước ta phải ra khỏi quá khứ, phải vượt lên quá khứ trước hết vì
lẽ này – nhất là để không bao giờ nữa lại có chia cắt đất nước! Để không bao giờ
nữa Việt Nam lúc là chiến trường không của bên này thì là của bên kia, hoặc thậm
chí là của nhiều bên…– dù là bị động do bối cảnh lịch sử, hay à do tai nạn của lịch sử, dù là vô ý thức…Và
hình như cho đến bây giờ vẫn có không ít người trong cộng đồng dân tộc ta vẫn
chưa thấy cái dại này lịch sử này… Nếu thế thì đau lắm! Đến giờ này còn
tiếp tục coi nhau là thù nữa!.. Thế thì càng đau!..
Có thể đúng hoặc
sai, trong thâm tâm tôi thực sự nghĩ rằng trong bẩy thập kỷ vửa qua nước ta có
nhiều cái dại lịch sử lắm, lòng đau như cắt vì tiếc nuối. Chỉ còn
cách tự an ủi: Lịch sử không có chữ nếu. Vậy thì phải học sử để từ đây bớt
dại
hay không dại nữa mà thôi…
Học từ sử, để hiểu thế giới hơn nữa và từ đó
hiểu mình. để có trí tuệ và bản lĩnh làm chủ vững chắc vận mệnh của quốc gia
mình. Điều vô cùng quan trọng, học sử là để có người thầy trung thực cho chính
mình khi đứng trước các vấn đề của hiện tại và của tương lai đất nước. Tôi dứt
khoát phản đối “dùng” sử để mài lịch sử ra mà sống! Còn cứ cố dùng cái “lá nho”
hay những “cành nguyệt quế” để che đậy, hay để trang điểm cho sử, thì chỉ có thể
viết nên những bi hài kịch làm bia miệng cho đời mà thôi...
Còn như anh hỏi:
Hòa giải dân tộc có phải thỏa hiệp gì với nhau không, có phải trang trải gì với
nhau không, theo tôi, thì nên trang trải hay thỏa hiệp với nhau như thế, anh Tống
Văn Công ạ. Nghĩa là phải đủ bản lĩnh sòng phẳng với lịch sử! Để học cho ra khỏi
cái dốt, cái xấu! Song để khép lại mọi hận thù! Để không bao giờ mắc lại cái dại
lịch sử!
Khép lại quá khứ,
không ngoái lại quá khứ theo cách như thế, là để chỉ còn lại cho nhau sự chia sẻ
chung nỗi đau vô hạn về những tổn thất của dân tộc! Để quyết chí đến cùng hợp lực
toàn dân tộc khai phá một thời kỳ mới cho đất nước!.. Võ văn Kiệt đã đau như thế
nỗi đau của dân tộc các anh ạ, tôi nhớ điều này lắm… Anh ấy lúc nào cũng như
đang lồng lên, nhất là trong những tháng ngày trước khi anh Anh ấy đi xa…
Trở lại câu chuyện ném đá
Chí ít, cái
“test” Huy Đức cho thấy cái bóng đen của quá khứ còn đen ngòm lắm.
Song như tôi đã
trình bầy, dù thế nào đi nữa, trách nhiệm thực hiện hòa giải dân tộc bao giờ và
mãi mãi vẫn thuộc về “bên thắng cuộc”; đơn giản: “bên
thua cuộc” – dựa theo cách nói của Huy Đức – thì làm gì có gì trong tay
để thực hiện nó? Thiếu sự chủ động của “bên thắng cuộc”, sẽ chỉ có hòa giải
dân tộc như một sự ban cho. Chờ đợi “bên thua cuộc” chấp nhận một sự hòa
giải được ban cho như thế khó lắm, cũng chẳng khác gì đòi hỏi “bên
thua cuộc” sự quy phục hay cuộc đầu hàng lần thứ hai là mấy.
Song quan trọng
hơn nhiều lần,
như đã trình bầy trên, hòa giải dân tộc chính là một vấn đề vô cùng thiết thân
đối với sự tồn vong của ĐCSVN. Nó là chuyện sống còn của chính ĐCSVN. Thiếu nó
đồng nghĩa thiếu vắng luôn cả thể chế chính trị dân chủ của dân như là một môi
trường sống của ĐCSVN. Chính vì sự thiếu vắng môi trường sống này, ĐCSVN đang
trên đường tha hóa đến giờ phút này chưa có lối ra, đang đi tiếp đến nguy cơ
tiêu vong..
Bây giờ, sự tha
hóa của ĐCSVN đang coi sự níu kéo quá khứ để tồn tại là mặt trận chính của
mình, là cuộc chiến đấu đích thực của mình. Làm như thế, hiển nhiên, người chịu
trách nhiệm chính phải thực hiện hòa giải dân tộc lại đang lựa chọn cho mình cái
công việc phủ định nó! Vì lẽ này, và trước hết chỉ vì lẽ này, cho đến
giờ phút này hòa giải dân tộc vẫn là câu chuyện không thể!
Mọi trở ngại
khác trong các cộng đồng của nhân dân cho dù có rối rắm phức tạp thế nào đi nữa,
vẫn là là trong tầm với của những giải pháp khả thi.
Điều vô cùng
nguy hiểm, tránh né con đường dân tộc dân chủ, cụ thể ở đây là tránh né thiết lập
một thể chế chính trị dân chủ và thực hiện hòa giải dân tộc, những người nắm
quyền lực trong ĐCSVN hiện nay – vô thức hay có ý thức – trên thực tế là đang dẫn
dắt đảng của mình ngày càng đi sâu vào con đường đối kháng với dân tộc, với đất
nước, đẩy đất nước đi vào thảm họa. Có cách gì lên tiếng cảnh tỉnh nguy cơ chết
người này!?
Lợi ích tối cao
của đất nước không cần một sự đối kháng như thế, vì nó chỉ có một con đường dẫn
tới phá vỡ tất cả, xóa sạch tất cả, để làm lại từ đầu tất cả!..
Nếu chẳng may lỡ
tay – có hay không có sự can thiệp của bên ngoài – để cho đối kháng này xảy ra
như là một cái gì đó không thể tránh được, một “force majeure” bất khả
kháng như từ trên trời rơi xuống, sau đó đất nước chúng ta sẽ là gì, thì chưa ai
dám nói chắc. Nhưng hoàn toàn chắc chắn là cái giá phải trả sẽ vô cùng đắt, kể cả
với khả năng xấu nhất là nước ta sẽ có thể trở thành một thuộc quốc kiểu mới của
thiên triều Trung Quốc. Cũng vô cùng đắt, nếu trầy trật sau đó là một Việt Nam
mới ra đời… Và một điều khác cũng chắc
chắn như đinh đóng cột: Đối kháng này xảy ra, tất yếu sẽ dẫn đến sự cáo chung không
vinh quang của ĐCSVN!
Lợi ích tối cao
của đất nước lúc này không cần và không muốn để cho đối kháng này xảy ra. Lợi
ích tối cao của đất nước lúc này đòi hỏi ĐCSVN và nhân dân cả nước phải tìm ra
bằng được con đường của hòa giải dân tộc. Trước hết những đảng viên ĐCSVN có
tâm huyết với đất nước lúc này phải lên tiếng, như thiếu tướng Lê Trọng Vĩnh và
nhiều đảng viên yêu nước khác đã lên tiếng!..
Thiết nghĩ,
ĐCSVN cần thấy rõ thảm kịch nhãn tiền của sự mù quáng mình đang mắc vào để tìm
lối ra. Toàn thể nhân dân cần chủ động lên tiếng, dứt khoát không cam chịu để
cho ĐCSVN muốn dắt đất nước chúng ta đi đâu thì dắt.
Để đi tới con đường
hòa giải dân tộc như thế, trước tiên ĐCSVN phải thắng được hệ thống lý luận đồ
sộ và đội ngũ tuyên giáo hùng hậu của chính mình, thực hiện dân chủ ngay trong
nội bộ ĐCSVN, và phải biết nghe tiếng nói của nhân dân. Không làm được như thế,
ĐCSVN đã tự định đoạt số phận của mình.
Con đường hòa giải
giữa nhân dân và quyền lực để cứu nguy đất nước đã và đang diễn ra ở Myanmar. Tại
sao không thể diễn ra ở Việt Nam?
Xin dành cho các
nhà nghiên cứu phân tích những gì đã diễn ra ở Myanmar. Ở đây chỉ xin cung cấp
một vài thông tin thiết yếu:
-
Chính
quyền cải cách ở Myanmar hiện nay - với tổng thống Thein Sein đứng đầu sau cuộc
bầu cử 2010 - xuất thân từ một chính quyền quân phiệt độc tài, cướp quyền cai
trị đất nước 20 năm, rất tham nhũng và đẫm máu. Cuộc cải cách do tổng thống
Thein Sein tiến hành sau cuộc bầu cử 2010 có nguồn gốc trong cuộc trưng cầu dân
ý xây dựng Hiến pháp 2008 với mục tiêu mở ra “một nền dân chủ phát triển trong
trật tự” (nguyên văn: a "discipline-flourishing democracy").
Quyết
định cải cách do tồng thống Thein Sein trực tiếp tiến hành từ năm 2010 được sự ủng
hộ của một số tướng lĩnh chủ chốt trong cơ quan quyền lực cao nhất của chính phủ
quân phiệt trước đó, goi là Hội đồng quốc gia khôi phục luật pháp và trật
tự (SLORC - State Law and Order Restoration Council, một dạng nhóm quyền
lực tối cao như kiểu như Bộ Chính trị của Việt Nam), tướng Thein Sein là một
trong những nhân vật chủ chốt của SLORC. Khi tướng Thein Sein lên làm tổng thống,
ông đã giải thể SLORC (hầu như chắc chắn có sự đồng ý của nhiều thành viên
trong SLORC, báo chí nói trong đó có tướng Than Swe, nhân vật số 1 của SLORC).
Bản thân tổng thống Thein Sein là một chính khách liêm khiết và có uy tín. Với
những lý do này, có thể coi cuộc cách cách hiện nay ở Myamar là một dạng cải
cách hòa bình từ trên xuống. Con đường Myanmar này có một không
hai trên thế giới!
-
Nguyên nhân dẫn đến cuộc cải cách dưới quyền tổng
thống Thein Sein chủ yếu là giới lãnh đạo nước này thấy được tình hình nội tại
bên trong và sự can thiệp của quyền lực mềm Trung Quốc khiến cho quốc gia lâm
nguy, họ quyết định cải cách để cứu nước, đặt quyền lợi quốc gia là tối thượng.
Myanmar quyết định cải cách mà không sợ, cũng không xin phép Trung Quốc, mặc dù
sự can thiệp của Trung Quốc có thể nói là đến nghẹt thở về kinh tế, vô cùng trắng
trợn về chính trị và quân sự, nhất là tại các bang có các sắc tộc khác nhau.
-
Chính quyền của tổng
thống Thein Sein từng bước đã thực hiện tất cả các biện pháp phải thực hiện –
như chúng ta đã biết qua các phương tiện truyền thông quốc tế - để thực hiện một cuộc cải cách thực sự. Từ khi khởi sự,
trong vòng chưa đầy 2 năm, cải cách chính trị đã hoàn thành việc chuyển đổi
chính quyền quân phiệt độc tài tồn tại
20 năm dưới sự cai quản của thời SLORC trước đây sang chính quyền của nhà nước pháp quyền dân chủ,
không phải bắn một phát súng, không tốn một sinh mạng, có tam quyền phân lập,
thừa nhận phe đối lập Auung San Suu Kyi, thả hết tù chính trị (con số trên
nghìn người), thực hiện quyền tự do báo chí và các quyền công dân khác. Đang đẩy mạnh cải cách kinh tế để phát triển
đất nước... Ví dụ: Riêng cải cách tiền tệ nước ta trước đây trầy trật làm nhiều
năm không xong, Myanmar đã làm gọn gàng và không gây tổn thất trong vài tháng;
điều mừng nhất là cải cách chính trị đang thúc đẩy kinh tế Myanamr phát triển.
-
Để bắt tay vào cải
cách, tổng thống Thein Sein và chính phủ của ông ta có chung quanh mình hàng
trăm cố vấn là các trí thức, các chuyên gia Myanmar cho mọi lĩnh vực, gồm rât
nhiều người đã từng bỏ Myanmar ra đi vì sợ khủng bố hoặc vì chống chế độ, một số
là tù chính trị và đã sống nhiều năm trong tù… giúp đỡ thường xuyên. Những cố vấn
và chuyên gia này đã giúp từ việc vạch
ra và thực hiện kế hoạch và các bước đi rất bài bản, khôn ngoan và có trình tự
đúng đắn, giữ được ổn định trong tiến hành cải cách chính trị, và bây giờ đang
tiếp tục giúp như thế cho những bước đi cải cách để hoàn thiện hệ thống nhà nước
và phát triển kinh tế. Nghĩa là chất sám được huy động, dân chủ được thực hiện.
-
Giới
lãnh đạo trong chính quyền của tổng thống Myanmar hiện nay, kể cả phe đối lập của
bà Aung San Suu Kyi, nhìn chung là những người có trình độ học vấn cao và không
bị trói buộc bởi ý thức hệ, ngoài nhận thức thống nhất là đặt lợi ích quốc gia
lên trên hết.
-
Truyền
thống Phật giáo và nền giáo dục cấp cơ sở
ở Myanmar chẳng những bảo toàn có hiệu quả xã hội Myanmar dưới thời quân phiệt
khét tiếng, và bây giờ đang là một yếu tố rất thuận lợi cho cải cách thay đổi đất
nước.
Có lẽ như thế là
rõ, tại sao cải cách chính trị hòa giải dân tộc ở nước ta đến giờ phút này vẫn
là câu chuyện không thể, là hoang tưởng; nhưng ở Myanmar cải cách và hòa giải
dân tộc là một hiện thực đã diễn ra, và đang ngày càng được củng cố.
Myanmar mới chỉ
đi được những bước đầu tiên trên con đường vạn dậm phải đi. Nhưng điều có ý
nghĩa quyết định lâu dài là những bước đi đầu tiên này đã xác định con đường,
chắc chắn nhân dân Myanmar không muốn con đường này bị đảo ngược.
Không có lý do
gì tôi lại không suy nghĩ cho nước mình, ước ao cho nước mình một sự chuyển động
như thế. Đến đây, tôi thực sự lại mon men đến làn ranh giữa hoang tưởng và hiện
thực[9].
Đến đây tôi lại loay hoay, anh Công và anh Lữ Phương ạ.
Không thể không
loay hoay được, vì vấn đề tuy hoang tưởng, nhưng rất hiện thực, tôi nghĩ thế.
Song đúng vẫn là vấn đề rất khó của nước ta lúc này. Đồng ý là chúng ta nhắc
nhau đừng bi quan. Có lẽ như thế, hai anh nhỉ.?.
Chào thân mến.
Hà Nội – Võng thị,
ngày 27-01-2012
[3]
“Lũ”,
tập II, chương 23, từ trang 558, sđd.
[4]
Nguyễn Trung – “Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch
bản Thành Đô 1990”
[5]
Vì lẽ này, tôi muốn đưa việc học như thế vào Lời nói đầu của một
Hiến pháp mới. Đương nhiên, đây là dịp bầy
tỏ mong muốn để nhấn mạnh cái Học thôi, Hiến pháp đâu cần dài dòng
như thê!
Tìm xem: Nguyễn Trung, “Hiến pháp và những bất cập của Dự
thảo sửa đổi”, phần về Lời nói đầu:
” (a) Như một
lời thề của toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam ta trước tổ tiên đã gây dừng
nên đất nước này cho chúng ta, trước tất cả vong linh những người mọi thế hệ
của toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam ta đã ngã xuống trên suốt chặng đường
gần hai thế kỷ qua kể từ khi mất nước để đi tới độc lập thống nhất đất nước hôm
nay. Lời thề đó là: Cả nước một ý chí học lại tất cả những thành – bại đã trải
qua trong lịch sử cận đại, học tất cả những gì có thể học được của thiên hạ, để
không bao giờ cho phép xảy ra chia rẽ dân tộc, chia cắt đất nước và lập lại
những sai lầm cũ khác, học để hiểu thế giới và từ đó hiểu chính mình để không
bao giờ lạc lõng nữa trong thế giới này, nhất là để từ nay không ai trên thế
giới đánh lừa được mình… Học như thế để từ nay toàn thể dân tộc đoàn kết một
lòng, không tiếc sức mình phấn đấu mở ra một thời kỳ phát triển mới cho đất
nước. Học như thế, để dân tộc Việt Nam ta dứt khoát phải thành công trên chặng
đường mới của đất nước… … …”
[6]
Thế
giới của 2 phe 4 mâu thuẫn là: Phe chủ nghĩa xã hội và phe đế quốc. Bốn mâu
thuẫn: Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc, mâu thuẫn giữa
phong trào độc lập dân tộc và chủ nghĩa đế quốc, mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột
và người bị bóc lột, mâu thuẫn giữa trong lòng các nước đế quốc với nhau.
[7] Trong tiểu
thuyết Dòng đời tôi đã đề cập đến việc phải nhìn nhận cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước chứa trong lòng nó những cuộc chiến tranh khác nhau như vậy. Tìm xem Dòng
đời, Quyển I, tập I trang 496… sđd. Vấn đề này sẽ còn phải nghiên cứu
tiếp.
[8]
Tìm xem “Di chúc của một người lính” -
trong Lũ, tập II, chương 23,
tr. 558, sách đã dẫn.
[9]
Tham khảo: Nguyễn Trung, “Vượt lên nỗi sợ”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét