Hội nghị Trung ương 4
– sự kiện Đoàn Văn Vươn
và vấn đề sửa đổi Hiến pháp
Nguyễn Trung
Lời nói đầu:
3 vấn đề lớn nêu
trong tựa đề của bài viết này liên quan mật thiết với nhau và đều cấp bách.
Song đề cập cả 3 vấn đề này trong một bài viết là việc khó và quá lớn, do đó dưới
đây chỉ xin nêu ra một số ý kiến sơ khởi ban đầu.
1
Hội nghị Trung ương 4 đã dành sự quan
tâm lớn cho những vấn đề nóng bỏng nhất về phẩm chất và năng lực của Đảng, quyết
định ban hành nghị quyết "Một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay". Bế mạc hội nghị,
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cảnh báo những yếu kém của Đảng[1]
thách thức sự tồn vong của Đảng và chế độ chính trị.
Để có cái nhìn
bao quát, xin điểm lại các đánh giá của
các Đại hội Đảng toàn quốc kể từ khi tiến
hành đổi mới (bắt đầu từ Đại hội VI, năm 1986):
Báo cáo chính trị Đại hội VII (6-1991) nhận
định: Dân chủ trong Đảng còn hạn chế, kỷ luật
không nghiêm, một số nơi mất đoàn kết nghiêm trọng. Có những quy định
trong Điều lệ Đảng, trong các quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương và
các cấp uỷ không được chấp hành nghiêm túc. Hiện tượng cán bộ lãnh đạo độc
đoán, mệnh lệnh, trù dập, ức hiếp quần chúng còn xảy ra ở một số nơi, có khi
rất trắng trợn. Nhiều đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, một
bộ phận đã tha hoá, tham nhũng, xa dân, làm giảm sút nghiêm trọng uy tín của
Đảng…”
Báo cáo chính trị
Đại
hội VIII (6-1996) viết: “Trong quá trình đổi nới đất nước, Đảng phải
nghiêm túc xem xét những sai lầm, khuyết điềm và yếu kém, đổi mới và chỉnh đốn
Đảng, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo…”
Báo cáo tại Đại
hội IX (04-2001) viết: “…Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng, kéo
dài gây bất bình trong nhân dân và là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế
độ ta… Từ Đại hội VIII đến nay, Đảng đã có nhiều cố gắng tiến hành nhiệm vụ
then chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng… Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) đã ra Nghị
quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp
bách trong công tác xây dựng Đảng; mở cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, tiến hành tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng…”
Sau khi nêu lên
những biểu hiện sa sút trầm trọng ngày càng tăng lên trong Đảng, Báo cáo về xây
dựng Đảng tại Đại hội X (04-2006) kết luận: “…Thoái hóa biến chất về
chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng,
kéo dài chưa được ngăn chặn, đảy lùi, nhất là trong các cơ quan công quyền, các
lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản
lý tài chính, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đó là một nguy cơ lớn
liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ.”
Cũng với tinh thần
phê hán nêu trên, Đại hội XI (1-2011), đi tới kết luận: “Tình trạng suy
thoái về chính trị tư tưởng, đao đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ
nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp,
cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý điều hành của nhiều
cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và nhà nước, đe dọa
sự ổn định, phát triển của đất nước…”
Như vậy, nhiệm vụ
chỉnh đốn, xây dựng Đảng được tất cả các Đại hội Đảng toàn quốc coi là nhiệm vụ
then chốt, không bao giờ sao nhãng.
Tuy nhiên, thực
tế 26 năm qua cho thấy: Đất nước càng phát triển càng phải đương đầu với nhiều
vấn đề mới và khó, nhưng lại xuất hiện tình trạng phẩm chất chính trị của Đảng ở
Đại hội sau liên tục giảm sút so với đại hội trước, những yếu kém và và xu thế
tha hóa trong Đảng ngày càng tăng lên.
Khoảng cách ngày càng rộng ra như vậy giữa một bên là đất nước và một
bên là Đảng sẽ đưa đất nước đi về đâu?
Nhìn lại, chỉ có
thể kết luận: Mọi nỗ lực trong chấn chỉnh và đổi mới xây dựng Đảng với nội dung
và cách làm như suốt 26 năm không đem lại hiệu quả, 10 năm trước đổi mới còn vướng
vấn đề Campuchia và chiến tranh Trung Quốc đánh biên giới phía Bắc nên không
tính.
Nhìn thẳng vào sự
thật, sẽ thấy đất nước đang đứng trước nhiều thách thức lớn, nan giải. Cụ thể
là:
(a)
chu
kỳ các cuộc khủng hoảng kinh tế của nước ta có xu hướng ngày càng ngắn lại
(1997, 2007, 2008-2011) – cuộc khủng hoảng hiện nay là trầm trọng nhất và kéo
dài nhất, chỉ số ICOR liên tiếp 10 năm gần đây cao nhất châu Á cho thấy chất lượng
tăng trưởng kinh tế nước ta ngày càng thấp, những ách tắc ngày càng nhiều… Tất
cả nói lên tình trạng khủng hoảng cơ cấu sâu sắc của nền kinh tế, không thể
hình dung trong vòng 8 năm tới – vào năm 2020, làm thế nào nước ta có thể cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại;
(b)
khoảng
cách tụt hậu của nước ta tiếp tục doãng
ra so với hầu hết mọi đối tác và đối thủ, mặc dù nước ta đã nỗ lực rất lớn và
phải trả giá đắt cho sự phát triển 25 năm qua;
(c)
cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội toàn diện đang diễn ra trong nước ta hiện nay đặt
ra những thách thức nghiêm trọng đối với an ninh và sức mạnh quốc gia;
(d)
đứng
trước những đòi hỏi phải chuyển đất nước vào thời kỳ phát triển mới bền vững
trong bối cảnh quốc tế mới Đảng vẫn chưa để ra được chiến lược và quyết sách
thuyết phục;
(e)
tầm
nhìn, bản lĩnh và phẩm chất của đội ngũ lãnh đạo đất nước ở các cấp nhìn chung
ngày càng đuối tầm so với nhiệm vụ đất nước đặt ra;
(f)
vân
vân…
Nhìn thẳng vào sự
thật như thế, sẽ có thể nêu ra 6 nhận xét:
1.
Từ
sau Đại hội VI, Đảng ngày càng tỏ ra bất cập toàn diện so với những đòi hỏi
phát triển ngày một lớn của đất nước. Từ hai nhiệm kỳ Đại hội Đảng gần đây (IX
và X) cơ hội và nguồn lực đất nước có được rất lớn, song lại cũng là thời kỳ đất
nước khủng hoảng sâu sắc nhiều mặt, kéo dài, và ngày càng có nhiều bất cập lớn.
2.
Thiết
kế và sự vận hành trên thực tế của hệ thống chính trị hiện nay lộ rõ những đặc
điểm là: (a)không thực hiện đầy đủ với tất cả tính ràng buộc các quyền tự do
dân chủ của dân đã ghi trong Hiến pháp, (b)nhân danh sự thống nhất quyền lực của
hệ thống chính trị, trên thực tế quyền lực Đảng và quyền lực nhà nước quyện lại
làm một, qua đó quyền lực Đảng trở thành “nhà nước” đích thực và là tối thượng,
Đảng quyết định tất cả nhưng không phải chịu trách nhiệm gì, (c)con người và
các tổ chức của nhà nước, của xã hội và trong bộ phận kinh tế giường cột của đất
nước về nhiều mặt là công cụ trực tiếp hoặc gián tiếp của Đảng, đời sống nhiều
mặt của đất nước bị đảng hóa nghiêm trọng… Thực tế này làm suy yếu Đảng trầm trọng,
vô hiệu hóa toàn bộ nỗ lực chỉnh đốn và đổi mới xây dựng Đảng, kìm hãm sự phát
triển của đất nước.
3.
Ở
vào đỉnh cao nhất của quyền lực, song hiện nay Đảng đang lâm vào thời kỳ suy
thoái nghiêm trọng nhất trong toàn bộ lịch sử của mình kể từ khi thành lập. Thực
tế này ngày một tích tụ thêm những yếu kém cho đất nước và mầm mống sự biến động
nguy hiểm.
4.
Sau
15 năm đầu tiên của đổi mới, những thành tựu kinh tế đạt được cùng với những
đòi hỏi phát triển mới của đất nước trong tình hình mới, khiến cho từ đấy nhiệm
vụ cải cách hệ thống chính trị làm tiền đề cho sự phát triển tiếp theo của đất
nước ngày càng trở nên cấp bách. Nhưng trên thực tế 10 năm qua Đảng đã trì
hoãn, hiện nay đang tránh né nhiệm vụ này; nguyên nhân chủ yếu là Đảng ngày
càng tha hóa và bất cập đối với nhiệm vụ này, nhưng đang được bao biện là phải
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
5.
Thực
tế 37 năm đất nước độc lập thống nhất cho thấy tư duy ý thức hệ đã dẫn tới hệ
quả tất yếu đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích quốc gia và tạo ra nhà nước đảng
trị; đồng thời tha hóa biến chất Đảng ngày càng trở thành đảng cai trị. Đây là
nguyên nhân hàng đầu của khủng hoảng đường lối xây dựng và phát triển đất nước
trong giai đoạn hiện nay.
6.
(a)Sự
khủng hoảng về đường lối của Đảng, cùng
với (b)sự thiếu vắng hệ thống chính trị thích hợp đất nước đòi hỏi phải có ở
giai đoạn phát triển mới, đấy là 2 nguyên nhân trực tiếp và cơ bản kìm hãm sự
phát triển năng động của đất nước, đẩy đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng toàn
diện kéo dài hiện nay.
Song cho đến nay
chưa thấy bất kỳ ai ở bất kỳ cấp lãnh đạo hay cơ quan nghiên cứu nào của Đảng
đưa ra cảnh báo cần thiết về những nguy cơ phát sinh từ đường lối của Đảng, từ hệ
thống chính trị hiện hành và những vấn đề nghiêm trọng đang đặt ra đối với đất
nước, đối với Đảng. Một số bậc xếp hạng trên thế giới của Việt Nam trong những
năm gần đây tụt liên tục. Công ty tư vấn có tiếng Maplecroft, Anh, tháng
11-2011 xếp Việt Nam là một trong 15 nước có rủi ro chính trị cao…
Mọi thành tựu đất
nước giành được trong ¼ thế kỷ đổi mới là to lớn, phải được trân trọng, phát
huy, để đất nước có lực đi tiếp. Song lấy
thành tựu đạt được hay quá khứ vinh quang ngày xưa để thay thế cho sự cảnh báo
này và tự ru ngủ, chỉ tiềm tàng thêm nguy cơ mới cho đất nước, cơ hội mới đang
đến sẽ có thể vuột mất và đẩy đất nước đứng trước những thách thức lớn hơn.
Vì vậy, nói đến
những yếu kém trong chính đốn và đổi mới xây dựng Đảng, không thể chỉ đơn thuần
nêu ra suy thoái phẩm chất chính trị và đạo đức của đảng viên, mà trước hết phải
nhận thức đầy đủ tình trạng bất cập toàn diện hiện nay so với nhiệm vụ và trách
nhiệm của một đảng cầm quyền duy nhất đang nắm trọn quyền lực và vận mệnh quốc
gia trong tay.
Phải chăng, vì
chưa nhìn thẳng vào sự thật như lẽ ra phải làm, nên 5 kỳ Đại hội toàn quốc đã
qua đi, nhưng nhiệm vụ chấn chỉnh và đổi mới xây dựng Đảng vẫn giẫm chân tại chỗ?
Nhìn thẳng vào sự
thật như thế, hiển nhiên không thể chấn chỉnh và đổi mới xây dựng Đảng đơn thuần
bằng cách kêu gọi đảng viên nâng cao tự phê bình và phê bình, cải tiến các loại
công tác đảng vụ, đẩy mạnh việc quản lý đảng viên, đảy mạnh chất vấn, khuếch
trương các thành tích học tập chính trị tư tưởng, nghiên cứu lý luận, vân vân…
như đã làm suốt 26 năm qua. Sự thật đang diễn ra là: Càng nhiều thành tích về học
tập chính trị tư tưởng và công tác lý luận như đã và đang làm, càng nhiều các
thành tích về xây dựng Đảng được khuếch trương như nêu trong nhiều báo cáo của
Đảng qua các kỳ Đại hội và trên báo chí, mọi suy thoái và yếu kém của Đảng càng
ngang nhiên gia tăng.
Nghị quyết số
12-NQ/TƯ của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay” đề ra nhiều vấn đề cụ thể, chủ yếu liên quan đến đảng viên và
tổ chức Đảng cấp cơ sở. Như tên gọi của nghị quyết này, nó mới chỉ đề cập tới
một số vấn đề cấp bách hiện nay. Điều đáng chú ý ở đây là các khóa Đại hội
trước Đảng cũng đã có những nghị quyết mạnh mẽ và cụ thể về chỉnh đốn và xây
dựng Đảng. Nhưng cuộc sống 26 năm qua cho thấy các nghị quyết như vậy vẫn không
xoay chuyển được tình hình, có tăng thêm nhiều nghị quyết loại này đến thế nào
đi nữa có lẽ cũng vô ích.
Chỉnh đốn và đổi mới
xây dựng Đảng với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật như thế tất yếu sẽ là một
việc lột xác, rất khó, rất phức tạp, là một trong những nhiệm vụ cốt lõi của
đổi mới hay cải cách hệ thống chính trị. Do đó nhiệm vụ này nhất thiết phải
được đặt trong khuôn khổ đổi mới hay cải cách hệ thống chính trị. Đã đến lúc
phải có một chiến lược duy tân và cải cách toàn diện đất nước. Đây cũng là một món
nợ lịch sử của Đảng đối với đất nước; Đảng cần phải chấn chỉnh, đổi mới chính
mình thành đảng của dân tộc để trang trải.
2
Luồng không khí nhẹ nhõm chút ít do
Hội nghị Trung ương 4 đem lại tan biến rất nhanh khi nổ ra tiếng “súng hoa cải”
của Đoàn Văn Vươn chống lại các hành vi cưỡng đoạt của nhà cầm quyền nhân danh
thực hiện “sự cưỡng chế theo Luật” để thu hồi đất đai.
Khắp nơi trong cả nước đã có nhiều ý
kiến phân tích xác đáng sự kiện này.
Có thể coi sự phản
kháng của Đoàn Văn Vươn báo động nấc cao nhất người dân có thể làm gì và sẽ làm
gì để bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ. Đồng thời, sự “cưỡng chế theo luật”
ở Cống Rộc - Tiên Lãng – như một mẫu phẩm sinh thiết cắt ra từ cơ thể chính trị
của đất nước, tự nó bóc trần những bất cập, yếu kém và thoái hóa trầm trọng của
một cấp chính quyền địa phương (huyện – tỉnh, thành phố) với tính cách là một
bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị nước ta.
Cuộc sống cho thấy
một chế độ chính trị dù là ở quốc gia nào, một khi để cho nội tình đất nước
diễn biến tới mức chỉ còn nói chuyện được với nhau bằng vũ lực, dù là từ phía
người dân hay từ phía chính quyền, chế độ ấy đang hướng tới giờ cáo chung.
Để bào chữa và bảo vệ
cho các việc làm sai trái của nhà chức trách dưới cái tên “cưỡng chế theo
luật” như đã xảy ra ở Cống Rộc – Tiên Lãng, có thể tùy tiện khai thác đến
vô tận rất nhiều “lỗi” nằm
ngay trong những bất cập và kẽ hở của hệ thống luật pháp nước ta, nhất là các
phần trong Hiến pháp và trong các Luật có liên quan đến vấn đề đất đai, các văn
bản dưới Luật... Nhưng xin đừng quên, các “lỗi” như thế là tác phẩm của toàn bộ hệ thống
chính trị, nghĩa là người dân chỉ là nạn nhân. Vì vậy, khái niệm “hợp pháp”,
hay “phạm pháp” còn phải được xem xét trong bối cảnh người dân bị dồn ép đến
mức có lúc họ phải lựa chọn phạm pháp làm giải pháp.
Có thể câu chuyện
không liên quan với nhau lắm và mỗi sự việc đều có bối cảnh riêng, song cứ xem
xét thuần túy mệnh đề “hợp pháp” và mệnh đề “phạm pháp”, chắc chúng ta có thể hiểu được tiếng bom Sa
Điện của liệt sỹ anh hùng Phạm Hồng Thái định ám sát toàn quyền Martial Merlin là hành động
chính nghĩa; và đồng thời chúng ta cũng có thể hiểu được vì sao chế độ thực dân
Pháp coi hành động của Phạm Hồng Thái là “phạm pháp”; việc chính phủ đô hộ này
coi việc kết án ông là “hợp pháp”.
Vì những lý do sinh tử, đất nước ta đang cần có hòa bình, ổn
định, song hiển nhiên không phải bằng phương thức dùng lực lượng vũ trang “cưỡng chế theo luật” như đã xảy ra ở Cống
Rộc - Tiên Lãng, mà bằng cách gìn giữ lòng tin của người dân đối với chế độ, bằng
cách làm cho chế độ trở thành chỗ dựa của từng người dân trong mưu sinh và
trong mưu cầu hạnh phúc của họ.
Trong tình hình hệ thống luật pháp còn nhiều “lỗi” của một
nhà nước nhận về mình sứ mạng là nhà nước của dân – do dân – vì dân, lẽ ra các
công bộc của một nhà nước như thế bắt buộc phải có trách nhiệm và nghĩa vụ bổ
khuyết tối đa có thể những gì mà hệ thống pháp luật hiện hành chưa làm được, để
giảm thiểu những bất cập, vả để phục vụ lợi ích của dân. Đặt vấn đề như thế, lại
xuất hiện thêm câu hỏi: Vụ Cống Rộc - Tiên Lãng phải được xử như thế nào là hợp
pháp, nghiêm minh, thấu tình đạt lý, giữ được lòng dân, được chế độ chính trị?
Không thể trốn tránh được sự thật là sự kiện Đoàn Văn Vươn đặt
ra một tình huống khó sử cho quốc gia, cho chế độ chính trị: Không xử nghiêm
thì loạn, nhưng nghiêm thì phải theo chuẩn
mực pháp lý nào, đạo đức nào và đối với
đối tượng nào trong thực tế hệ thống chính trị và hệ thống pháp luật của nước
ta có quá nhiều “lỗi” như hiện nay?
Như vậy, rõ ràng không thể nói đơn giản “cứ xử lý nghiêm theo
pháp luật!” là mọi chuyện sẽ đâu vào đó. Cuộc sống nhiều quốc gia khác cũng
không thiếu những tình huống khó xử như thế; và không hiếm khi xảy ra tình trạng
cuộc sống đứng ra tự xử theo luật đời, nghĩa là “cùng tắc biến!”.
Cái “cùng tắc biến” như thế sẽ làm thay những gì mà luật pháp
hiện hành ở đó không làm được; lợi cho bên này hay cho bên kia, đúng hoặc sai,
cái giá phải trả và ai trả? cái kết cục cuối cùng sẽ ra sao? vân vân.., tất cả
tùy thuộc vào tương quan lực lượng của các bên tham gia nằm trong cái “cùng tắc
biến” như thế và sự diễn biến tiếp theo. Chung cuộc của cái cùng tắc biến như
thế, đất nước thường mất nhiều hơn được.
Rồi đây sự kiện Đoàn Văn Vươn sẽ phải đưa ra xử, và xử những
ai, chỉ xử một bên, hay xử cả hai bên bao gồm phía Đoàn Văn Vươn và phía những
người thực thi “cưỡng chế theo luật”,
xử như thế nào… tất cả đều còn đề để ngỏ. Án lệ đồng Nọc Nạn (Bạc Liêu) năm
1928 (xem: http://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5_%C3%A1n_N%E1%BB%8Dc_N%E1%BA%A1n#Th.E1.BA.A3m_k.E1.BB.8Bch_.C4.91.E1.BB.93ng_N.E1.BB.8Dc_N.E1.BA.A1n)
cho một ví
dụ tốt để tham khảo và đối chiếu.
Trong trường hợp đạt được kết quả xử án đúng, nghiêm minh với
pháp luật, thấu tình đạt lý, thu phục được nhân tâm, còn phải thực thi
nghiêm túc kết quả xử án mới có khả năng cải thiện được tình hình, lập lại trật
tự và lấy lại lòng tin của dân. Kể cả một khi làm được như vậy, trước sau vụ
án Cống Rộc – Tiên Lãng vẫn còn nguyên vẹn đối với những người lãnh đạo các cấp
và toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước, với nghĩa là từ sự kiện này phải
rút ra được những kết luận gì, phải thực hiện những thay đổi nào khả dĩ phòng
ngừa được các “sự kiện Đoàn Văn Vươn” mới trong tương lai. Chắc chắn sẽ có nhiều
rác rưởi của vụ này phải hót tiếp. Những rác rưởi và những khuyết tật trong
toàn bộ hệ thống chính trị cũng như trong hệ thống luật pháp có thể phát hiện
ra được qua vụ án này sẽ đặt ra nhiều việc phải làm. Cao xa hơn nữa, giải quyết
đúng đắn sự kiện Đoàn Văn Vươn, sẽ tạo ra cho lãnh đạo Đảng và Nhà nước cơ hội
thúc đảy thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI; cơ hội này cần được tận dụng
cho khởi xướng cải cách hệ thống chính trị của đất nước.
Trong trường hợp sự kiện Đoàn Văn Vươn không được xử lý trọn
vẹn như trình bày trên, sớm muộn sẽ dẫn tới những bùng nổ nguy hiểm mới, lúc
nào đó luật đời sẽ đứng ra tự xử theo cái lẽ “cùng tắc biến”.
Rồi đây, theo Luật Đất
đai, trong cả nước quyền sử dụng ruộng đất được giao sẽ hết hạn năm 2013. Sự
nghiệp phát triển đất nước sẽ còn đòi hỏi rất nhiều đất đai cho xây dựng kết cấu
hạ tầng, xúc tiến đô thị hóa, công nghiệp hóa… Vân vân và vân vân… Đường lối
chính sách và hệ thống chính trị phải như thế nào để tránh cho đất nước kết cục
là tình trạng luật đời sẽ đứng ra tự xử mọi việc.
Một khía cạnh khác:
Cuộc cưỡng chế dân bằng lực lượng vũ trang ở Cống Rộc – Tiên
Lãng được một trong những nhân vật điều hành chủ chốt coi là hiệp đồng cực kỳ hay, một trận đánh đẹp, có
thể viết thành sách… Một mình câu nói này tự nó đã cho thấy: Chủ trương trấn
áp này đến từ đâu, cấp nào, quy mô hình thành ra sao, mức độ nghiêm trọng của sự
việc trấn áp… Câu nói này toát lên hơi hướng hay linh hồn của toàn bộ công vụ cưỡng chế theo luật ở Cống Rộc – Tiên
Lãng. Riêng một câu nói này, cùng với sự chấp nhận, hưởng ứng, tán thành hay biện
minh, bao che… của các cộng sự, còn cho thấy mức độ sa đọa nghiêm trọng về phẩm
chất chính trị, tư tưởng, đạo đức và văn hóa của những cán bộ, đảng viên có chức
có quyền đã chỉ đạo hay đã nhân danh pháp luật trực tiếp thực thi công vụ này. Sự phấn khích bột phát ra từ câu nói này
thật ghê sợ và đáng ngẫm nghĩ.
Không thể không đặt ra câu hỏi: Phẩm chất đảng viên ĐCSVN như
thế nào, đạo đức cán bộ là công bộc của dân ra sao nằm trong phát ngôn như vậy?
Cứ coi câu nói ghê sợ đó của đại tá giám đốc công an thành phố
Đỗ Hữu Ca là hiện tượng cá biệt, song nó không phải là sản phẩm của công tác
giáo dục chính trị tư tưởng của Đảng cho đảng viên, nhìn xa hơn nữa là của nền
giáo dục nước nhà, của sự biến đổi khủng khiếp những giá trị về sơn hà xã tắc
đang diễn ra trong nước ta, là sản phẩm trực tiếp của hệ thống chính trị nước
ta hiện nay hay sao? Nếu nhìn từ các hiện tượng xấu nghiêm trọng khác đã xảy ra
trong cả nước trong những năm gần đây, có thể nói thực trạng tha hóa này lũng
đoạn nghiêm trọng đời sống mọi mặt đất nước ta từ lâu rồi, nhưng nó đang bị che
lấp. Câu nói ghê sợ của Đỗ Hữu Ca tự xé toạc ra sự thật và thách thức lương tri
chúng ta.
Nghĩ như vậy không phải là cố ý bôi đen chế độ hay nghiêm trọng
hóa sự việc. Đơn giản là, cũng như nhiều địa phương khác, Hải Phòng có không ít
các “vụ cưỡng chế theo luật” trong vấn đề đất đai. Xin đừng quên khổ chủ Đoàn
Văn Vươn – bây giờ trở thành bên bị - đã khiếu kiện từ năm 2008, nhưng nước đổ
lá khoai, hoặc chính quyền bất lực không giải quyết được. Xin đừng quên, Hải
Phòng năm 2006 đã có những vụ tham nhũng đất đai động trời mà tòa án sơ thẩm chỉ
xử mức án không có trong Luật Hình sự là “cảnh cáo”. Ngày nay cái tên gọi “vụ xử
án sơ thẩm tham nhũng đất đai ở Đồ Sơn” trở thành bia miệng người đời. Xin đừng
quên, cũng như nhiều nơi khác, Hải Phòng không thiếu các “con sâu” chỉ bị phê
bình, cảnh cáo, miễn truy cứu trách nhiệm hình sự vì “đã có nhiều cống hiến..”; có dịp, những “con sâu” này vẫn có thể được
thuyên chuyển công tác, lên chức, vân vân…
Có lẽ những sự việc cụ thể như vậy đã xảy ra ở Hải Phòng và
trong cả nước trực tiếp giải thích tại sao mọi nỗ lực chấn chỉnh và đổi mới xây
dựng Đảng 26 năm qua không chặn đứng được xu thế tha hóa trong Đảng. Sự việc Cống
Rộc – Tiên Lãng róng thêm một hồi trống mới: Cải cách hệ thống chính trị và đổi
mới xây dựng Đảng ngày càng trở thành vấn đề sống còn đối với Đảng.
Cho dù vụ nổ súng hoa cải và mìn bình ga của Đoàn Văn Vươn rồi
đây sẽ được xử đúng xử sai như thế nào, nạn nhân-tội phạm Đoàn Văn Vươn đã tự
khắc tên mình vào một cột mốc trên chặng đường đau khổ đất nước đang đi hôm
nay, nhắc nhủ lương tri cả nước không được ngủ.
3
Trong quá
trình chuẩn bị Đại hội XI, như một làn sóng mới tiếp theo các làn sóng từ các Đại
hội trước, có rất nhiều ý kiến đóng góp nói lên đòi hỏi cấp thiết phải cải
cách hệ thống chính trị và xây dựng Đảng trở thành đảng của dân tộc, coi đây là
tiền đề cho sự phát triển bền vững và phồn vinh của đất nước trong giai đoạn hiện
nay.
Tại Đại hội XI
và hiện nay, lãnh đạo Đảng cũng không đặt ra vấn đề cải cách hệ thống chính trị,
mà chỉ nhấn mạnh: Tiếp tục đổi mới trên
nguyên tắc đồng bộ và phù hợp giữa đổi mới kinh tế và chính trị, nguyên tắc quyền
lực nhà nước là thống nhất. Trước đấy, các Đại hội VIII, IX và X đều chung
một cách nghĩ - cách làm như vậy, do đó hệ thống chính trị ngày càng tích tụ nhiều
vấn đề nan giải.
Có nhiều vấn đề hệ trọng phải bàn đến trong nhiệm vụ cải cách
hệ thống chính trị. Dưới đây xin lẩy ra vài khía cạnh.
Mối
quan hệ giữa nhà nước CHXHCN Việt Nam và ĐCSVN trong thời kỳ đã hoàn thành sự
nghiệp độc lập thống nhất đất nước được thiết kế và vận hành như thế nào?
Quan điểm nhất quán và xuyên xuốt 37 năm đất nước độc lập thống
nhất ghi trong các Nghị quyết của Đảng và trong Cương lĩnh (Đại hội XI) là (a)ĐCSVN
là đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội, (b)xây dựng nhà nước của dân, do
dân, vì dân do Đảng lãnh đạo, (c)xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, quyền lực nhà nước là thống nhất.
Vấn đề cần được làm rõ là sự lãnh đạo của một đảng chính trị
đối với nhà nước pháp quyền như thế nào.
Nhà nước pháp quyền – đảng cầm quyền – đảng
lãnh đạo – xã hội dân sự:
*
Trong
một quốc gia có thể chế dân chủ, đặc điểm quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền là quyền lực
nhà nước là cao nhất, thể hiện qua Hiến pháp và luật pháp nhà nước là tối thượng.
Vì thế, với nghĩa nhân dân là chủ đất nước, mọi quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân: nhà nước pháp quyền không thừa nhận một quyền lực nào lãnh đạo nó, đứng
trên nó, đứng ngang với nó. Mọi công dân hay thực thể pháp nhân trong xã hội đều
là đối tượng chịu sự chi phối bình đẳng của nhà nước pháp quyền. Đảng phái
chính trị trong một nhà nước pháp quyền là một thực thể pháp nhân trong xã hội
và được nhà nước pháp quyền đối xử bình đẳng như các thực thể pháp nhân khác
trong xã hội.
Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là một phạm trù thuộc về thể chế chính
trị dân chủ và chỉ tồn tại trong thể chế này. Tại một số nơi ở châu Phi, châu
Á, Mỹ Latinh… có một số nước có chế độ
chính trị chuyên chế, song người cầm quyền
ở đấy tự cho là họ có nhà nước pháp quyền; rõ ràng đây chỉ là chuyện đùa cợt với
chữ nghĩa.
*
Trong
một quốc gia có nhà nước pháp quyền của thể chế dân chủ, các đảng phái chính trị
cọ sát với nhau thông qua tranh cử và bầu cử để hội đủ những điều kiện trở
thành đảng cầm quyền, với
nghĩa: chiếm đa số ghế, hoặc liên minh với một hay nhiều đảng khác để có đủ đa
số ghế trong quốc hội cho phép đứng ra lập nội các theo Hiến pháp và luật pháp.
Đảng cầm quyền với nghĩa này chỉ tồn tại trong hệ thống chính trị có nhiều đảng.
Như
vậy, đảng cầm quyền là đảng thông qua con đường luật pháp của nhà nước pháp quyền
tham gia tranh cử và bầu cử, được dân chọn vào làm việc trong hệ thống nhà nước,
được dân giao cho công việc của hệ thống nhà nước, và làm các việc được hệ thống
nhà nước giao cho ấy theo quy định của
Hiến pháp và luật pháp nhà nước. Với tinh thần này và trong phương thức
được bầu chọn và được giao việc như vậy, trên thực tế đảng cầm quyền chỉ là một công cụ của nhà nước pháp
quyền. Nói thật chặt chẽ, sau khi hội đủ điều kiện trong quốc hội để trở thành
đảng cầm quyền, đảng này chỉ có một quyền duy nhất đối với nhà nước pháp quyền
là được đứng ra lập nội các với sự phê chuẩn của quyền lập pháp trong hệ thống nhà
nước (quốc hội…).
Đảng
cầm quyền có quyền thực hiện những chủ trương chính sách mà đảng này muốn và đã
cam kết có sự ràng buộc trước dân khi đảng tham gia tranh cử. Song việc thực hiện
như thế cũng phải theo con đường của nhà nước pháp quyền, nghĩa là: Mọi chủ
trương chính sách đảng cầm quyền muốn thực hiện đều phải kinh qua con đường của
nhà nước pháp quyền, hợp thức trở thành chủ trương và luật của nhà nước pháp
quyền, khi đưa ra thực hiện thì đó là chủ trương hay là luật của nhà nước pháp
quyền, không còn là của đảng nữa. Chính nguyên tắc này là một đặc điểm nữa nói
lên: đảng cầm quyền không có quyền lực gì đối với nhà nước pháp quyền, kể cả
quyền lãnh đạo nhà nước pháp quyền.
*
Trong
một quốc gia có thể chế dân chủ, nhà nước pháp quyền không có nghĩa vụ và đồng
thời cũng không làm cái việc thừa nhận hay không thừa nhận quyền lãnh đạo
của bất kỳ đảng phái chính trị nào đối với nó. Trong một quốc gia như vậy, thừa
nhận hay không thừa nhận vai trò lãnh
đạo của một đảng phái chính trị nào đó là việc của giữa các công dân với
nhau trong xã hội dân sự. Điều này có nghĩa, đảng phái chính trị phải thông qua
phấn đấu trong xã hội dân sự để tạo ảnh hưởng, để xây dựng được và để có được vai
trò lãnh đạo của mình qua sự thừa nhận của dân trong xã hội.
*
Chịu
sự cọ sát trong xã hội dân sự
để xác lập được vai trò lãnh đạo của mình như thế, đấy chính là phương thức
lãnh đạo của đảng phái chính trị đối với đất nước (không phải đối với nhà
nước). Xây dựng xã hội dân sự phát triển là điều kiện tối quan trọng để
đảng phái chính trị có môi trường trưởng thành, phát triển, tích tụ mọi điều kiện
và phẩm chất để phấn đấu trở thành đảng cầm quyền.
Xã hội
dân sự là cộng đồng xã hội của các công dân có ý thức, nơi công dân trực tiếp
thực thi quyền lực là chủ đất nước và quyền năng con người của mình. Với ý
nghĩa này, xã hội dân sự là cội nguồn tạo nên nhà nước pháp quyền, là đối trọng
không thể thiếu của nhà nước pháp quyền, đồng thời cũng là quyền lực trực tiếp kiểm
soát nhà nước pháp quyền, đối lập hay đối kháng với lũng đoạn. Nhà nước pháp
quyền lành mạnh, nhất thiết phải có xã hội dân sự lành mạnh. Không có xã hội
dân sự với đúng nghĩa, trên thực tế cũng có nghĩa là không có nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân. Xã hội dân sự được phát triển là một trong những yếu tố
thiết yếu của tự do, dân chủ và sự phát triển thịnh vượng, văn minh trong một
quốc gia.
*
Trong
một quốc gia có thể chế dân chủ với nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân,
đảng lãnh đạo hay đảng cầm quyền thực hiện sự tiếm đoạt dưới bất kỳ hình thức
nào quyền lực của nhà nước pháp quyền, hoặc tìm cách trở thành một bộ phận cấu
thành của quyền lực của nhà nước pháp quyến, đảng ấy trở thành đảng lũng đoạn; và điều này xâm
phạm hoặc tước đoạt bản chất và chức năng của nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân.
Vấn nạn đảng lũng đoạn là
một sản phẩm của quá trình tha hóa trong thể chế chính trị dân chủ và nhà nước
pháp quyền ở hầu hết mọi quốc gia, vì thế phải có thể chế thường xuyên khắc phục
sự tha hóa này. Chế độ chính trị của các nước Liên Xô – Đông Âu cũ sụp đổ có thể
được xem là ví dụ điển hình nhất về hệ quả tất yếu của đảng lũng đoạn trong hệ
thống chính trị một đảng, các ví dụ mới nhất là các cuộc “cách mạng hoa nhài” ở
Bắc Phi.
*
Chú ý: Vì tất
cả những lẽ vừa trình bày, xã hội dân
sự là một trong 3 trụ cột không thể thiếu của thể chế dân chủ của một
quốc gia tiên tiến: kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự.
Ở nước ta, đảng lãnh đạo, đồng thời cũng là
đảng
cầm quyền trong hệ thống chính trị chỉ được phép tồn tại có một đảng
duy nhất, trong một nhà nước được gọi là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thực tế này tự nó đặt ra nhiều mâu thuẫn không giải quyết được. Hệ quả tất yếu
của hệ thống này là Đảng và Nhà nước
trên thực tế quyện lại thống nhất làm một, trong đó Đảng là
nhà
nước đích thực, Nhà nước về nhiều mặt chỉ còn là công cụ thực hiện, nhiều
hoạt động trong toàn bộ hệ thống nhà nước chỉ có giá trị “hình thức nhà nước”. Sự thống
nhất làm một như vậy đã tạo ra những khoảng trống quyền lực và những
khoảng chồng lấn lên nhau của quyền lực, đó chính là các vùng đất lý tưởng khiến
cho tham nhũng tiêu cực và nhiều suy đồi khác nảy nở không có cách gì ngăn chặn
được.
Cũng vì đòi hỏi bảo vệ “sự thống nhất làm một này”, ngay
trong việc thiết kế hệ thống nhà nước, Đảng cũng nhấn mạnh “quyền lực nhà nước
là thống nhất” và bác bỏ nguyên tắc tam
quyền phân lập.
Quan điểm cho rằng nền tảng của nhà nước ta là liên minh công
nông và trí thức, và quan điểm phải bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối
của Đảng – đấy chính là 2 quan điểm gốc được lấy làm chỗ dựa về lý luận và đạo
lý cho xây dựng “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” – bình phong của cái “nhà
nước đích thực” là Đảng. Hai quan điểm gốc này được mệnh danh là nguyên
lý bảo đảm tính giai cấp và tính đảng trong tổ chức toàn bộ hệ thống kinh tế,
chính trị, xã hội của đất nước – biểu hiện tập trung nhất là hiện tượng “đảng
hóa”. Hai quan điểm gốc này quyết định việc thiết kế các bộ máy của
toàn bộ hệ thống chính trị, việc đào tạo và tuyển chọn nhân sự cho toàn bộ các
bộ máy của hệ thống chính trị, việc xây dựng nền giáo dục thích ứng – bao gồm cả
hệ thống các trường Đảng, các trường đào tạo hành chính của quốc gia.
Kết quả đạt được sau
27 năm đổi mới là: kinh tế quốc dân lớn hơn về quy mô và trình độ phát triển, hệ
thống chính trị và bộ máy của nó hoàn chỉnh ở mức cao nhất từ xưa đến nay, Đảng
ở đỉnh cao nhất của quyền lực kể từ ngày thành lập, song đất nước đang tiềm
tàng nhiều nguy cơ lớn, hệ thống kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội của đất
nước ngày càng nhiều bất cập, Đảng chưa bao giờ yếu kém và mất lòng tin của dân
như hiện nay. Tất cả đã đảy đất nước lâm vào một cuộc khủng hoảng toàn diện như
trình bày trong các phần trên của bài viết này.
Với ý thức nhìn thẳng vào sự thật, kết luận cần rút ra là: Cải
cách hệ thống chính trị trở thành vấn đề sống còn, trong đó công việc đầu tiên
và cái đích trước mắt là phải thiết kế lại mối quan hệ Nhà nước – Đảng hiện nay
theo đúng mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền và đảng cầm quyền, Đảng phải được
đổi mới và tổ chức lại theo mối quan hệ này. Từ đạt được cái đích trước mắt này,
từng bước xây dựng tiếp nên thể chế chính trị dân chủ làm nền tảng cho nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân với đúng nghĩa.
Có thể sẽ có ý kiến: Nước ta còn nhiều mặt chậm phát triển, lại
chỉ có chế độ chính trị một đảng, đặt vấn đề cải cách hệ thống chính trị như
trên là không phù hợp và không khả thi.
Trả lời: Mọi chuyện chỉ phụ thuộc vào câu hỏi Đảng
lựa chọn ai: đất nước, hay chính mình? Đảng lựa chọn đất nước thì hoàn
toàn thực thi.
Bàn
về nhiệm vụ sửa đổi Hiến pháp
Trước hết, có thể nêu lên một số nhận xét:
(a)Hiến pháp 1992 đã ghi được nhiều quyền cơ bản của dân, của
một nhà nước pháp quyền; song một số điều khoản không rõ ràng, chồng chéo đã góp
phần cản trở sự thực thi ràng buộc những quyền này, hoặc để ngỏ cho sự vận dụng
tùy tiện, dẫn tới hệ quả chung cuộc là trong thực thi đã vô hiệu hóa nhiều điều
khoản quan trọng, tính chất nhà nước pháp quyền nhiều mặt chỉ còn là tên gọi;
(b)không làm rõ được mối quan hệ giữa Nhà nước và Đảng theo
đúng tiêu chí nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, tiêu chí đảng
cầm quyền;
(c)không thiết kế được rạch ròi các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp có mối quan hệ ràng buộc và kiểm soát lẫn nhau giữa các quyền
này. Lại trong tình hình quyền lực Đảng là tối thượng; thiếu sót này dẫn tới
tình trạng hệ thống nhà nước vừa rối rắm, vừa cắt khúc và phân mảnh; khả năng vận
hành yếu kém; tạo ra môi trường lý tưởng cho tham nhũng, tiêu cực.
(d)có một số bất cập lớn liên quan đến quyền sở hữu;
(e)có bất cập lớn trong vấn đề đất đai - một trong những vấn
đề chiến lược sống còn của đất nước.
Đấy là những vấn đề lớn đặt ra phải giải quyết trong tiến
hành sửa đổi Hiến pháp lần này. Nguyên nhân chủ yếu và hàng đầu của hiện tượng
Hiến pháp không được thực thi ràng buộc nằm ngoài Hiến pháp là vấn nạn đảng
lũng đoạn.
Hiện đang có 2 khuynh hướng chính tiếp cận khác nhau:
Khuynh hướng 1: Cho rằng, đất nước còn nhiều vấn đề chậm phát triển, thời kỳ
này còn kéo dài, hệ thống chính trị không chấp nhận đa đảng, vậy chỉ nên tập
trung công sức trong điều kiện hiện nay sửa đổi những vấn đề cấp bách. Nhiều biểu
hiện cho thấy công việc sửa đổi Hiến pháp đang được tiến hành theo khuynh hướng
này.
Khuynh hướng 2: Sửa đổi Hiến pháp lần này là cơ hội quan trọng để thúc đẩy cải
cách hệ thống chính trị, tạo ra tiền đề cho cải cách kinh tế, mở ra cho đất nước
một giai đoạn phát triển mới cao hơn trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Hơn nữa
Hiến pháp là bộ luật giường cột của quốc gia không thể sửa đổi thường xuyên được.
Tình hình đã chín muồi đòi hỏi nước ta phải có một Hiến pháp mới thích đáng ở
vào bước ngoặt hiện nay của đất nước. Vì vậy, không thể chỉ sửa đổi tạm thời
cho những yêu cầu trước mắt hay ngắn hạn.
Cần thảo luận công khai trong cả nước nên lựa chọn khuynh hướng
nào. Người viết bài này khuyến nghị khuynh hướng 2.
Có rất nhiều vấn đề sẽ phải bàn. Trong phần này của bài viết,
chỉ xin tập trung bàn tiếp mối quan hệ giữa Nhà nước và Đảng.
Có ý kiến nói “sửa đổi
Điều 4 trong Hiến pháp là tự sát” (đối với Đảng). Có phải như vậy không?
Nội dung Điều 4 có 2 vế: (vế 1)thừa nhận Đảng có vai trò lãnh
đạo đối với nhà nước và xã hội; (vế 2)Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp.
Xem xét kỹ, sẽ thấy:
-
Vế
1 mâu thuẫn với nguyên tắc quyền lực nhà nước là tối thượng; nhà nước pháp quyền
không thừa nhận ai hay bất kỳ thứ quyền lực nào đứng trên hay đứng ngang nó để
lãnh đạo nó hay chỉ đạo nó.
-
Vế
2 có 2 vướng mắc: (a)không làm rõ được Đảng hoạt động trong hệ thống nhà nước
phải với tính cách là đảng cầm quyền theo nội dung như đã trình bày trong các
phần trên của bài viết này; (b)Hiến pháp của nhà nước pháp quyền không có nghĩa
vụ thừa nhận hay không thừa nhận, không có trách nhiệm cho phép hay không cho
phép mọi tổ chức của Đảng phải hoạt động như thế nào; Hiến pháp chỉ quy định những
điều mà cả nước – các công dân hay các pháp nhân dưới mọi hình thức – kể cả các
đảng phái chính trị - phải tuân thủ.
Trong đời sống đất nước hiện nay, vai trò lãnh đạo của ĐCSVN
với nghĩa là người trên thực tế (de facto) nắm tuyệt đối mọi quyền hành và vận
mệnh đất nước là một hiện tượng khách quan, do các nguyên nhân lịch sử và
sự tương quan hiện nay giữa các lực lượng trong xã hội nước ta tạo ra. Trước mắt,
và có thể còn trong một thời gian không nói trước được bao lâu, hiện tượng
khách quan này còn tồn tại. Hiển nhiên bản chất hiện tượng khách quan này và bản
chất tất yếu của nhà nước pháp quyền là hai thực thể không tương thích nhau và
không thể dung hòa nhau. Điều 4 của Hiến pháp nhằm tạo ra sự tương thích này, với
mục đích bảo vệ và duy trì vị thế hiện có của Đảng.
Thực tế sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước 37 năm trong thời
bình cho thấy sự tương thích đang cố khiên cưỡng tạo ra này là hoàn toàn
không thể; dẫn tới hệ quả hiện tại: cả Đảng và Nhà nước
cùng suy yếu ngày một nghiêm trọng, sản sinh ra môi trường tham nhũng tiêu cực
không có cách gì kiểm soát được, kìm hãm sự phát triển đất nước, và hiện nay
đang đẩy đất nước vào cuộc khủng hoảng toàn diện; hệ quả tiếp theo thật khó
lường; hệ quả khốc liệt nhất đẫm máu cảnh nồi da xáo thịt cho quốc gia
có thể xảy ra là đổ vỡ: Đảng có thể không còn tồn tại và chế độ chính trị hiện
nay sụp đổ, tạo ra môi trường lý tưởng cho sự can thiệp ê chề từ bên ngoài trước
khi dân tộc ta có thể một lần nữa đứng lên vực lại quốc gia mình. Ai muốn giơ
tay tán thành một kịch bản khốc liệt như thế cho đất nước?
Nhà nước pháp quyền là cái tất yếu mà đất nước không thể bỏ
được trong một quốc gia người dân là chủ của đất nước. Song hiện tượng khách
quan về Đảng nêu trên là một thực tế hiện tại không thể phủ nhận hay xóa
bỏ được.
Vậy chỉ còn một con đường độc đạo, một giải pháp duy nhất: phải
đổi mới xây dựng Đảng thành đảng cầm quyền (như đã trình bày
trong box bên trên). Nói xây dựng Đảng thành đảng của dân tộc cũng bao hàm ý
quan trọng này, việc xây dựng thể chế dân chủ cho quốc gia cũng đòi hỏi như vậy.
Lợi ích quốc gia trên hết đòi hỏi giải pháp như vậy; Đảng tự
ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ mục đích duy nhất của mình là phụng sự tổ quốc và
lợi ích dân tộc cũng đòi hỏi phải làm như vậy. Và đây là lý do duy nhất và quyết
định: Đảng phải tự giải phóng mình khỏi tư duy ý thức hệ, tự đổi mới mình trở
thành đảng của dân tộc.
Hiển nhiên, việc trở thành đảng cầm quyền như vậy sẽ gắn sự
nghiệp của Đảng vào sự nghiệp của dân tộc, là phương thức bảo vệ sự tồn tại của
Đảng: còn gắn được với sự nghiệp của dân tộc, Đảng còn tồn tại. Trong
tương quan lực lượng xã hội hiện nay, trở thành đảng của dân tộc, Đảng vẫn giữ
ưu thế tuyệt đối và mạnh nhất, cái mà Đảng sẽ mất hay phải chấp nhận mất chỉ là
tình trạng tha hóa đang hàng ngày hàng giờ biến chất và cuối cùng sẽ hủy diệt Đảng.
Vậy sửa Điều 4 như thế nào để thúc đảy quá trình Đảng phấn đấu
trở thành đảng của dân tộc không phải là tự sát, mà là thách thức Đảng phải đọ
sức: Sống hay là chết!
4
Thay lời kết: Nhìn thẳng vào sự thật
Từ dăm năm nay có những ý kiến cảnh báo đất nước đã đi tới
ngã ba đường, hoặc là…, hay sẽ là…!
Có tình hình trên là vì:
-
Thế
giới đã chuyển sang một thời kỳ mới khác hẳn trước, mọi quốc gia phải thay đổi;
-
đất
nước đứng trước những đòi hỏi và thách thức trong, ngoài nhất thiết phải chuyển
sang một giai đoạn phát triển mới, hoặc ngày càng đi sâu vào con đường sụp đổ
và nô dịch.
Thực tế cũng cho thấy suốt 37 năm qua đã có quá nhiều sai lầm
và tội ác có nguồn gốc từ những hệ quả của ý thức hệ và sự bất cập của hệ thống
chính trị, trong đó có nền kinh tế đang gặp nhiều bế tắc hiện nay.
Đến nay có rất nhiều ý kiến tâm huyết với đất nước – từ hàng
ngũ đảng viên, những người ngoài Đảng, từ các trí thức sống ở trong nước và nước
ngoài.., góp ý thẳng thắn với lãnh đạo Đảng và Nhà nước về thực trạng đất nước
hiện nay sau 37 năm độc lập thống nhất, nhấn mạnh yêu cầu bức thiết phải thay đổi.
Trong những ý kiến ấy, có không ít ý kiến cho rằng tình hình
đến mức không cứu vãn được nữa, phải làm lại từ đầu, mọi kiến nghị sửa đổi mà vẫn
giữ nguyên Đảng, giữ nguyên hệ thống chính trị như hiện nay, chỉ kéo dài chặng
đường đau khổ này của đất nước. Có ý kiến nói thẳng: Đảng không có khả năng tự
thay đổi, con tầu đang lao xuống vực không thể kéo lại được, vì thế nên để nó
lao tiếp theo quán tính, đành trả giá đắt vậy, còn hơn là cứ để đất nước kéo
dài mãi tình trạng èo uột thế này!.. Vân vân… Những ý kiến của những kẻ đục nước
béo cò không được bàn tới ở đây.
Tất cả những ý kiến tâm huyết như thế có lẽ những người giữ
cương vị và trách nhiệm cao nhất của Đảng và Nhà nước đều ngầm biết, dù thừa nhận
hay không thừa nhận. Có nhiều lý do để suy đoán thế. Song phản ứng công khai ra
bên ngoài là sự phê phán không có lý lẽ hay đạo lý gì cả đối với những ý kiến
đóng góp ấy, có lúc gọi đấy là những biểu hiện của suy thoái chính trị tư tưởng,
thậm chí có lúc nói là trình độ dân trí còn thấp, và thiếu văn hóa hơn thì chửi
rủa đấy là ý kiến của bọn phản động; đồng thời kìm kẹp báo chí trong “lề phải”,
hoặc hội hè lu bù để làm loãng dư luận; trấn áp đã xảy ra trong những năm gần
đây ngày một mau hơn... Tất cả những cách tiếp cận này không cứu vãn được gì, mà
chỉ làm hỏng thêm đất nước về nhiều mặt, gia tăng thêm những mối nguy mới cho đất
nước – kể cả trên phương diện an ninh và quốc phòng.
Nhìn ra bên ngoài, tướng Thein Sein – một nhân vật quan trọng
trong giới tướng lĩnh Myanmar, từ khi lên làm tổng thống tháng 2-2011, đã một
mình một ngựa làm nên chuyện bẻ lái con tầu quốc gia gần 50 năm dưới chế độ
quân phiệt đẫm máu đi vào con đường dân chủ, cả thế giới ngỡ ngàng. Không ai biết
hay nói trước được Tổng thống Thein Sein sẽ còn đi được tới đâu, toàn bộ con đường
của Myanmar đi tới thể chế chính trị dân chủ còn ở phía trước. Song những gì đến
nay ông đã làm, hiển nhiên là những việc hầu như không thể đã trở thành có thể.
Theo báo chí, cuối năm ngoái tại Myanmar, ngoại trưởng
Hillary Clinton và ngoại trưởng William Hague đã có các cuộc gặp riêng bà Aung
San Suu Kyi – lãnh tụ hàng đầu và linh hồn của phong trào dân chủ ở Myanmar. Khi
các vị khách hỏi bà Suu Kyi về đánh giá những nỗ lực của tổng thống Thein Sein,
bà trả lời: Tổng thống là người có nhân cách, những gì ông đã làm là thật; một
khi phong trào dân chủ tham gia chính trường, đất nước Myanmar sẽ chuyển động…
Bà Suu Kyi cũng có lần nói trực tiếp với báo chí như vậy.
So sánh giữa nước ta và Myanmar, ta có nhiều thuận lợi hơn và
đã đi trước được Myamar một chặng đường dài. Không thể tránh được câu hỏi: Tổng
thống Thein Sein đã làm được những việc hầu như không thể, ở nước ta Bộ Chính
trị của Đảng có thể làm được không?
Dù là ai đi nữa, nếu từng thành viên lãnh đạo Đảng và Nhà nước
tự khép lại quá khứ của chính mình, không ngoái lại quá khứ của chính mình, từ
đây mở ra cho chính mình và cho đất nước một trang mới trên đường đời của mình
- vì chính mình và vì đất nước, từ đây cùng nhau hướng về phía trước với ý thức
Tổ quốc trên hết, làm như thế chắc chắn lãnh đạo Đảng và Nhà nước sẽ làm được.
Như thế, rồi toàn Đảng và cả nước sẽ làm được, bắt đầu từ mở rộng dân chủ và thực
hiện công khai minh bạch. Mỗi người tự vượt lên chính mình như thế, để cùng
nhau vì đất nước, đó cũng chính là con đường hòa giải dân tộc, Đảng có gánh nợ
lịch sử trước dân tộc phải tiên phong bước vào.
Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đã báo động, cuộc họp Hải
Phòng ngày 10-02-2012 đang đòi hỏi những hành động quyết định tiếp theo, cả nước
sẵn sàng hậu thuẫn. Đây là khoảnh khắc nghiêm trọng của sự thật: Hoặc là Đảng dứt
khoát đặt chân vào ngả đường mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất nước, hoặc
là Đảng nhắm mắt dung thứ việc tiếp diễn các thao tác màu mè làm tắt lụi hy vọng
còn lại trong dân và để cho thất vọng độc chiếm trận địa. Thiết nghĩ đây chính
là thời điểm Đảng phải vượt lên chính mình, mở ra cho chính mình và cũng là cho
đất nước một trang sử mới./.
Hết
Võng Thị, xuân Nhâm
Thìn – 02-2012
[1]
Vì tiết kiệm công gõ chữ trên bàn phím, mọi chữ “Đảng” viết hoa trong bài là
cách viết tắt “Đảng Cộng Sản Việt Nam”. Mọi chữ “Nhà nước” viết hoa trong toàn
bài là cách viết tắt “Nhà nước CHXHCNVN”. Mọi chữ “đảng” và “nhà nước” không viết
hoa trong bài chỉ là những danh từ bình thường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét