iv. “cuộc cách mạng để
muộn”
1. Vấn đề sống còn: Mở rộng
không gian kinh tế cho nước ta
Trong biết bao nhiêu vấn đề phải đương đầu trong
quá trình toàn cầu hoá hiện nay, vấn đề nào là vấn đề sống còn đối với nước ta?
Thực sự đây là câu hỏi khó, và tuỳ theo cách
nhìn của mỗi người.
Theo thiển ý của tôi, vấn đề sống còn ở đây được
hiểu là vấn đề khó nhất và giải quyết được nó thì mới có thể giải quyết những
vấn đề khác, mới hy vọng đứng vững trong cái thế giới đầy thách thức này, và
mới có thể tiếp tục phát triển. Như vậy chỉ có một thôi.
Vậy đối với nước ta, vấn đề này là gì?
Mọi nỗ lực tìm tòi của tôi từ bao lâu nay vấp đi
vấp lại một kết luận: Có sáng tạo đến mấy, một quốc gia không thể nào vượt ra
ngoài đại lộ thế giới đã trải qua và đang tiếp tục bước đi. Câu chuyện còn lại
chỉ là lựa chọn cách đi và bước đi của mình trên đại lộ ấy của cả thế giới.
Trên đại lộ ấy, phải chăng vấn đề sống còn của nước ta là:
Vì sự nghiệp phát triển đất nước mình, chiếm lấy
và ngày càng mở rộng không gian kinh tế[78]
ra toàn thế giới, bắt đầu từ chiếm thị trường, chiếm từ thị trường trong nước chiếm ra...
Đặt vấn đề như vậy có trúng không? Xin được diễn
đạt dưới đây.
Trước hết từ thế giới nhìn vào nước ta.
Toàn cầu hoá, trên một số phương diện nào đó, là
sự bành trướng không gian kinh tế của các nước, các tập hợp và các tổ hợp kinh
tế của cả thế giới vào nước ta. Không thể nào hiểu khác được.
Ngay trên
thị trường nước ta, bạn có thể mua bất kể sản phẩm gì thế giới có, miễn là bạn
có tiền. Ví dụ nếu bạn đến một cửa hàng nào đó ở một phố Hà Nội, để mua một máy
bay Boeing trên 200 chỗ ngồi loại mới nhất chẳng hạn, đương nhiên ông chủ cửa
hàng ấy xoa hai tay vào nhau và nói với bạn thật lễ phép:
-
“...Thưa ngài, tiếc rằng cửa hàng chúng tôi quá nhỏ đối với loại
hàng này!”
Nhưng nếu bạn là người say mê máy bay Boeing
thật sự và có khả năng thực hiện sự say mê của mình, bạn có thể trở về nhà
mình, lên mạng internet, và bắt đầu tiến hành mọi việc giao dịch trên mạng.
Việc mua bán sẽ diễn ra như là bạn đang ngồi tại đại bản doanh Boeing ở
Seattle.
Từ ví dụ hài hước này, tôi muốn lưu ý một điều:
bên ngoài đang hàng phút, hàng giờ chiếm lĩnh thị trường nước ta, cạnh tranh
với từng cái tăm xỉa răng, từng mảnh giấy chùi tay của chúng ta! Cạnh tranh
không thương tiếc, biết bao nhiêu hộ nông dân, xí nghiệp gia đình, xí nghiệp tư
nhân và xí nghiệp quốc doanh của chúng ta sống dở chết dở vì sự cạnh tranh này.
Xin nhớ cho tăm tre Việt Nam, đũa Việt Nam...
không biết bao nhiêu lần bị đánh bại ngay trên các chợ trong biết bao nhiêu tỉnh
thành của cả nước ta. Hiện tại đôi đũa Việt Nam, cái bát ăn cơm, cái cốc uống
nước... của ta vẫn đang bị thua ngay trên nhiều chợ trong nước mình. Cạnh tranh
đến nỗi có vị thứ trưởng ngờ rằng có loại trứng gà không phải do gà đẻ ra – vì
nó rẻ bằng 1/2 hoặc hơn nữa so với trứng gà ta... Chưa vội nói đến các chuyện
như cái quạt máy MD, xe đạp Phượng Hoàng nhiều và rẻ ê hề; xe máy Dream thật và
Dream nhái nhập lậu và nhập công khai rẻ bằng một nửa xe Dream liên doanh của
ta; vải vóc, quần áo đầy đường, một bộ com-lê Trung Quốc sài được giá 160.000
VNđồng – nghĩa là chưa đủ tiền công may ở một huyện nhỏ, chưa nói đến một hiệu
may ở Cần Thơ hay Bắc Ninh, lại càng không thể nói đến các hiệu may ở Hà Nội
hay thành phố Hồ Chí Mình..; có loại máy điện thoại giá chỉ có 50.000 VNĐ, thép
xây dựng, phân đạm, xi-măng, đường ăn ta làm ra... giá thành đều cao hơn giá
nhập ngoại 20 – 30% hoặc hơn nữa...
Một lần tôi đến một vùng biên giới, thăm một vài
phố, có những nhà đầy ắp hàng, có bà chủ khoe: “Em buôn thế này nhưng không cần
vốn, không mất sức, cửu vạn khuân đến
tận nhà, cửu vạn lại khuân đi các
nơi, vài ba tháng sau mới thanh toán từng đợt hàng cho người bán bên kia biên
giới, đợt trước gối đầu đợt sau không dứt...” .. vân vân...
Tôi không muốn xoa dịu những câu chuyện nghiêm
trọng này, nhưng dù sao cũng phải tìm cách tự an ủi: Một lần tôi đi London, mua
về cho cháu ngoại cả một ga xe lửa có đoàn tàu nhiều toa chạy theo điều khiển
từ xa. Về nhà mở ra, cháu tôi thích lắm. Đọc kỹ bao bì đồ chơi điện tử này, có
dòng chữ: “Made in China”. Thì ra cái tăm tre của ta bị cạnh tranh có lúc đứt
hơi cũng đáng thôi! Bây giờ cái tăm ngoại, bia Vạn Lực... không còn là vấn đề
đối với chúng ta nữa, nhưng xin mời bạn ra bất kỳ cửa hàng nào ngoài phố, ngoài
chợ.., xin hãy xem từ đôi giày, cái vòi nước, cái đèn ngủ, máy cạo râu, nồi nấu
cơm, bàn là điện, cái rađiô transistor... Tất cả rẻ như bèo, ở nước ta tiền
nguyên vật liệu cho sản phẩm chưa chắc đã đủ, nói gì đến thành phẩm... Hay là ở
đây còn có chuyện dumping (bán phá giá), trút hàng tồn kho?.. Là gì đi nữa thì
hàng hoá của ta vẫn khốn khổ.
Nhưng cũng chưa bao giờ nước ta được tiếp cận
với nhiều hàng hoá công nghệ cao như ngày nay, thậm chí có khi là công nghệ cao
nhất. Bạn thử tưởng tượng, nếu như bây giờ nước ta mới chỉ có công nghệ điện
thoại như đã có cuối thập kỷ 70 – nghĩa là khi vừa mới giải phóng Miền Nam –
chủ yếu bằng dây đồng, chưa có cáp quang, chưa có mạng qua vệ tinh, chưa có
mobile phone.., để có một mạng lưới điện thoại như cả nước hiện đang dùng năm
2000, thì phải đến năm 2020 hoặc 2030
chúng ta mới làm xong được việc này, với
chất lượng tồi hơn nhiều. Thiết bị và công nghệ tin học vào nước ta tuy còn ở
mức rất thấp so với Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia... song cũng đã tạo ra nhiều
cuộc cách mạng nho nhỏ trong nhiều lĩnh vực quản lý, sản xuất, nghiên cứu, đào
tạo, chữa bệnh... ở nước ta – giúp chúng ta rút ngắn được bao nhiêu thời gian,
làm thông thoáng hơn con đường cho nền kinh tế nước ta đi thẳng vào hiện
đại... - Nhưng độc quyền giá cước phí
điện thoại, kể cả cho internet, cao quá như hiện nay thì không nên. Sớm muộn
độc quyền lại sẽ chặn đứng con đường đưa nước ta đi lên hiện đại.
Song câu chuyện đáng vui vừa kể trên lại đẻ ra
một nỗi lo khác: Bất kể sản phẩm gì ta định làm hay có thể làm ra, dù hiện đại
đến mấy, nếu không cạnh tranh được, chắc chắn sẽ bị đánh bại ngay từ lúc chưa
ra khỏi xưởng, đừng nói gì đến chuyện lần mò ra các chợ hay cửa hàng ở nước
ngoài. Chắc bạn không ngạc nhiên nếu biết rằng nhiều cô gái sinh đẹp người dân
tộc ở huyện Kỳ Sơn – một huyện miền núi cheo leo và rất khó đến ở Nghệ An – các
cô gái này vốn có trang phục dân tộc độc đáo, lại trang điểm bằng các mỹ phẩm
của hãng Unilever lại càng xinh đẹp. Tôi muốn hiểu trẹo câu nói của Ăng-ghen
theo một ý khác: Sản phẩm được yêu thích là những đạn đạo tầm xa có thể với tới
bất kỳ dinh luỹ nào trên trái đất, kể cả trong những vùng núi non hiểm trở hẻo
lánh khó tới nhất[79]...
Trừ phi trốn lên ở trên sao Hoả, những hàng hoá này may ra mới không đuổi theo
chúng ta... Lên Kỳ Sơn, tôi liên hệ đến
con đường tơ lụa khoảng trên 1200
năm trước công nguyên đã từng nối liền nền văn minh Trung Quốc với nền văn minh
Lamã - khi loài người chưa có ý niệm gì về internet, và hiểu thêm đôi điều về
sức mạnh phi thường của thương mại. Nghiã là thị trường nước ta đang bị bên
ngoài chiếm lấy bất kể ở đâu và bằng bất kỳ cách nào có thể. Toàn cầu hoá là
như thế đấy!
Ngay trong khu vực của ta cũng vậy thôi, nước ta
vừa ký kết tham gia AFTA chưa ráo mực thì đã xuất hiện đề nghị thành lập AFTA +
CER (Close Economic Relations) = FTA (Vùng thương mại tự do = Free Trade Area),
bao gồm các nước AFTA + Uc và Niu Dilân. Sở dĩ có đề nghị này là vì: Uc, Niu
Dilân là 2 nước đề xuất, Xinhgapo và một số nước ASEAN khác đang hưởng ứng...
Là những nền kinh tế mạnh trong vùng này, họ rất muốn có FTA để phát huy thế
mạnh của họ – nói nôm na: để mở rộng không gian kinh tế ngay trong vùng họ có
nhiều lợi thế nhất và gần họ nhất... Uc và Niu Dilân muốn dự kiến biểu thuế
quan FTA năm 2006 sẽ là 0%; Inđônêxia muốn đưa ra tự do di chuyển lao động (FLM)...
Chúng ta có thể hình dung điều gì sẽ xẩy ra nếu
Xinhgapo, Nhật, Tây Âu,,, hay bất kỳ một nước công nghiệp nào khác sẽ tồn tại
ra sao nếu những nước này không mở rộng được không gian kinh tế của nó ra toàn
thế giới. Trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay
khả năng mỗi quốc gia mở rộng không gian kinh tế của mình ra toàn thế
giới phong phú hơn bao giờ hết. Phát triển của thương mại, các dòng chảy hầu
như không kiểm soát được của tài chính tiền tệ, sự phát triển của thông tin và
giao thông vận tải, các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ liên tiếp... Tất
cả những yếu tố này đều được các quốc gia tận dụng để mở ra cho mình không gian
kinh tế ra toàn thế giới, nói đơn giản hơn nữa:
Có
thể sản xuất ở đâu bất kỳ sản phẩm gì; có thể đưa đi bán các sản phẩm bất kỳ ở
đâu, miễn là việc sản xuất kinh doanh tạo ra lợi nhuận. Nghĩa là phải đi chiếm
thị trường khắp nơi trên thế giới. Năng suất lao động càng cao, đòi hỏi này
ngày càng bức thiết. Câu hỏi chỉ là: Làm thế nào thực hiện được việc này tốt
nhất?
Ngày
nay, quốc gia nào tạo ra được nguồn lực con người tốt nhất và có thể chế nhà
nước hoạt động hữu hiệu nhất để có thể sử dụng tốt nhất mọi nguồn lực của cả
thế giới – trước hết là nguồn lực thông tin, quốc gia ấy sẽ thắng.
Bên ngoài chiếm thị trường nước ta để sống,
chiếm một cách không thương sót. Tại sao chúng ta lại không nghĩ đến chiếm thị
trường bên ngoài, mở rộng không gian kinh tế
cho nước ta?
Nhân đây xin cho phép tôi kể một mẩu chuyện vui:
Người ta nói rằng ngôi sao 3 cánh gắn trên mũi xe ôtô Mercedes sang trọng thực
ra chỉ còn hai, vì khoảng 1/3 cổ phần
của tập đoàn Daimler Benz đã bán cho các vua dầu lửa ả-rập từ lâu rồi... Nhưng
có bán được nhiều cổ phần hơn nữa, Daimler Benz chắc chắn vẫn là Daimler Benz
và mạnh thêm. Thế giới ngày nay đâu đâu cũng như vậy. Toàn cầu hoá là như vậy.
Nhiều báo cáo hàng năm của hầu hết các nước OECD
– trừ Nhật - hoặc của các nước EU trong những năm gần đây có sự than thở giống
nhau: Họ không thoả mãn với tình hình chỉ có khoảng 7% kim ngạch xuất khẩu của
họ là do các sản phẩm họ đầu tư trực tiếp ở nước ngoài. Họ muốn con số này phải
lớn hơn nữa, nghĩa là muốn chiếm không gian kinh tế rộng lớn hơn nữa...
Từ nước ta nhìn ra thế giới.
Đến bây giờ, ngồi viết những dòng này, tôi vẫn
còn trách nhà trường dạy con em chúng ta quá nhiều về đất nước ta rừng vàng
biển bạc, dân ta cần cù thông minh, ý chí đấu tranh anh hùng, tinh thần cách
mạng kiên cường bất khuất.., nhưng lại dạy các cháu quá ít về nước ta đất hẹp
người đông, người chưa khôn nhiều mà của lại rất khó, đấu tranh chống nghèo nàn
lạc hậu chưa giỏi, ý thức quần tụ để có sức mạnh vươn ra làm ăn với thế giới
bên ngoài chưa cao; chưa vun đắp được bao nhiêu cho các cháu tinh thần cách
mạng đổi mới bản thân mình, quyết san lấp khoảng cách phát triển với thế giới bên
ngoài...
Bản thân chúng ta cũng chưa nêu được gương tốt
cho các cháu về những vấn đề trọng đại này...
Chính bản thân chúng ta có lẽ cũng chưa ý thức
hết được mọi vấn đề liên quan đến thực tế: Mật độ dân số nước ta hiện nay là
205 người/km2, nghĩa là cao gấp đôi của Pháp. Mật độ dân số của nước đông dân
nhất thế giới là Trung Quốc hiện nay cũng chỉ có 176 người/km2; của Thái Lan là
116, Malaixia 57, Campuchia 76, Lào 20, Myanma 67; đất nước trên 200 triêu dân với 13.700 hòn
đảo là Inđônêxia mật độ dân số cũng chỉ là 100 người/km2.. Nếu tính ruộng đất
canh tác bình quân theo đầu người thì nước ta thấp hơn mức bình quân của cả thế
giới và của tất cả các nước vừa kể trên...
Những vấn đề gì sẽ đặt ra cho một nước đông dân,
còn trên 70% là nông dân, diện tích hẹp, ruộng đất canh tác ít, tài nguyên
thiên nhiên nhiều chủng loại nhưng không thể nói là giàu, trình độ kinh tế lạc hậu, thuộc nhóm 14 nước nghèo nhất?
Ngay với năng suất lao động còn thấp, nền công
nghiệp còn yếu, ruộng đất quá ít như hiện nay, thế mà thị trường nước ta đã
không kham nổi những sản phẩm do chính nước ta sản xuất ra – nghĩa là không
xuất khẩu được thì chết! Chỉ một vài năm nữa thôi sẽ không thể xuất khẩu gạo,
cà phê, cao su... theo cách làm ăn như hiện nay, vì mức độ chế biến, chất lượng
và giá cả ta đều không cạnh tranh được. Thị trường cho gạo loại thường đang bão
hoà dần...
Nếu thực hiện được công nghiệp hoá, hiện đại hoá
thắng lợi thì càng lo, đầu ra bán đi đâu? Trong khi đó trong nước cần biết bao
nhiêu sản phẩm ta không tự sản xuất được, Muốn có để dùng, không có gì bán sẽ
lấy đâu ra tiền để nhập? Tự làm lấy mà dùng! Đúng lắm, nhưng không được. Vay đâu ra vốn để sản xuất,
nếu sản xuất được thì vừa đắt về giá thành vừa thua về chất lượng, dân không
dùng, nên càng không có cách gì chống được hàng nhập lậu, tồn kho tăng lên,
càng thêm nhiều doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, nợ nần sẽ chồng chất thêm, càng
bảo hộ càng lụn bại...
Phần I đã nêu ra một vài con số. Xin nhắc lại
đại ý: vào lúc phải hoàn thành CNH,HĐH khoảng năm 2020 nước ta phải xuất khẩu
được một khối lượng hàng hoá gấp 20 –22 lần năm 1990. Muốn thế phải có một nền
công nghiệp lớn gấp 4 – năm lần hiện nay, trình độ công nghệ cũng phải cao gấp
5 – 6 lần hiện nay, một lao động nông nghiệp lúc ấy bình quân phải có diện tích
canh tác khoảng 1 – 2 ha ruộng đất canh tác hoặc hơn nữa... Có thực hiện được
không? Nếu thực hiện được thì là sản phẩm gì và bán đi đâu? Có cạnh tranh nổi
để bán được không? Có bán được có lãi mới có tiền để nhập khẩu cho nâng cao sản
xuất trong nông nghiệp, có bán được như thế thì mới tàm tạm đủ công ăn việc làm
cho nông nghiệp được hiện đại hoá một bước, cả nước mới có cơ cấu kinh tế mới
để đạt mức thu nhập 1000 - 1300 USD/người
vào năm 2020; nghĩa là vẫn thấp hơn mức của Thái Lan hiện nay!.. Đúng
ra, một nước đang phát triển đạt trình độ NIC tối thiểu phải tạo ra được thu
nhập khoảng 2000 – 3000 USD bình quân theo đầu người theo thời giá hiện nay và
chỉ còn khoảng 20 – 25% lao động trong nông nghiệp...
Không tìm cách mở rộng không gian kinh tế cho
nước ta ra khắp thế giới, dân tộc ta đừng nghĩ đến kỳ vọng thoát khỏi nghèo nàn
lạc hậu trong nửa thế kỷ tới, đừng nói đến chuyện đi tắt, đuổi kịp các nước
phát triển... Hiện nay mật độ dân số của Nhật là 328 người/km2, của Xinhgapo là
4463 người/km2; nhưng vì không gian kinh tế của họ là cả thế giới, nên GDP bình
quân theo đầu người của họ hiện nay gấp khoảng 70 - 80 lần của nước ta – mặc dù
hai nước này rất nghèo tài nguyên, không có
một km2 vuông thuộc địa nào trên thế giới. Chất lượng của nguồn lực con
người và của thể chế nhà nước quan trọng như vậy. Mở rộng không gian kinh tế ra
khắp thế giới quan trọng như vậy. Một số NICs đã thành công là do kiên trì đi
theo hướng này Nhìn xa hơn nữa về lịch sử, mọi nước phát triển ngày nay là nhờ
đã sớm đi vào được con đường phát triển này.
Sẽ là nhầm lẫn nếu trong thời đại ngày nay coi
con đường phát triển này chỉ có thể là con đường của chủ nghĩa thực dân, chủ
nghĩa đế quốc, con đường tư bản chủ nghĩa. Cách đây 3 – 4 thế kỷ đúng là sự
phát triển gắn liền với xâm chiếm thuộc địa và chiếm thị trường. Ngày nay mạnh
nhất là nước Mỹ, giả thử Mỹ có muốn chiếm một nước nào đó làm thuộc địa để mở
rộng thị trường cũng không làm được. Thời đại ấy qua rồi.
Con đường phát triển ngày nay dựa vào những thành tựu của nền kinh tế hiện đại, nền
kinh tế tri thức toàn cầu hoá. Trên
hết cả, con đường phát triển ngày nay đối với mọi quốc gia trước hết và chủ yếu
là con đường phát triển con người. Đây là điểm mấu chốt nhất cho phép nước ta
là nước đi sau phát huy mọi lợi thế so sánh của mình để lựa chon con đường phát triển này. Đây cũng
là thuận lợi lớn nhất và cơ hội duy nhất cho phép Đảng ta tìm cách gắn con
đường phát triển này với định hướng xã hội chủ nghĩa – vì con người được đặt
vào vị trí trung tâm, là mục tiêu của phát triển. Nhưng phải xuất phát từ quan điểm mở rộng không gian kinh tế –
nhất thiết phải có con người và nhà nước làm được việc này... Có lẽ thực tế đời sống
kinh tế thế giới ngày nay mới cho phép chúng ta thiết kế được con đường phát
triển đi tắt, đón đầu công nghệ hiện đại mà lâu nay chúng ta vẫn ước vọng nhưng
chưa hình dung cụ thể được.
-
Cứ cho là như vậy đi, nhưng bằng cách nào?
Tôi nghĩ rằng nên nghiên cứu sâu hơn nữa thực tế
vừa trình bày trên. Mãi tới đầu thế kỷ này, giữa thế kỷ này, thậm chí cho tới
bước sang làn sóng thứ hai của quá trình toàn cầu hoá hiện nay, tích tụ tư
bản trong nước vẫn còn đóng vai trò quyết định cho tăng trưởng và phát
triển của các nước đang phát triển. Song kể từ đó đến nay, khi các dòng chảy
vốn và dịch vụ – nhờ phát triển của thương mại, giao thông vận tải và khoa học
công nghệ, nhất là công nghệ tin học – ngày càng thúc đảy xu thế: có thể huy động mọi nguồn lực để sản xuất
bất kể ở đâu thứ gì và có thể đem đi bán tại bất kể thị trường nào - miễn là có
cách làm ăn có lãi. Khi bản thân các nước đang phát triển cũng ra sức
tự vươn lên, thì yếu tố hàng đầu đối với
các nước đang phát triển là phải tích tụ được những khả năng của chính mình
cho phép tận dụng xu thế vừa nói
trên để phát triển.
Nếu chúng ta chủ trương nhấn mạnh phát huy nội
lực, thì nên nhấn mạnh theo nội dung này và tinh thần này: Phát huy nội lực phải nhằm vào
tích tụ ngày càng nhiều khả năng của chính mình cho phép tận dụng mọi nguồn lực
từ cả thế giới mà xu thế toàn cầu hoá có thể đem lại – bao gồm từ thị
trường, các loại vốn.., cho đến FDI,
Know how, khả năng liên kết liên
doanh.., để làm ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ chiếm lĩnh được thị trường –
trước hết là tìm kiếm những kẽ lách (niches) tiến vào những thị trường lớn và công
nghệ nguồn, để không ngừng mở rộng không gian kinh tế cho sự nghiệp phát triển
đất nước.
Theo tôi, đây là nội dung đích thực của vấn đề
phát huy nội lực; xu thế phát triển của kinh tế thế giới hiện tại đang mang lại
cho dân tộc ta cơ hội có một không hai thực hiện điều này. Song cũng chính xu
thế này có thể là thách thức có sức huỷ hoại không gì chống đỡ được – như cuối
thập kỷ 1980 đã từng làm đổ nhào nhiều quốc gia lạc lõng không nhập cuộc được
vào xu thế này.
· Tích tụ tư bản theo nghĩa thông thường từ nền kinh tế bên trong như hiện nay chúng ta
đang hiểu để tự công nghiệp hoá theo nghĩa truyền thống, và
· tích tụ khả năng của chính mình để tận dụng mọi nguồn lực trên thế
giới mà nền kinh tế mới toàn cầu hoá của thế giới có thể đem lại
là hai kịch bản, hai cách tiếp cận, hai chiến
lược phát triển hoàn toàn khác nhau, nhất thiết đi tới hai kết quả khác nhau,
không thể lầm lẫn.
Đây cũng là một trong những khác biệt quan trọng
nhất trong lựa chọn con đường phát triển của hiện tại so với cách đây vài ba
thập kỷ, nửa thế kỷ, một thế kỷ. Cũng chính sự khác biệt này thể hiện một khía
cạnh tích cực của quá trình toàn cầu hoá hiện nay đối với các nước đi sau có
bản lĩnh. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá vào thế kỷ 21 không thể làm như đầu
thế kỷ thứ 20!
Song ngay trong khía cạnh tích cực này cũng chứa
đựng một thách thức khôn lường cho các nước đi sau, tỷ dụ như một nước nào đó
không nhận thức được, hoặc nhận thức được nhưng chưa có khả năng khai thác tốt
được xu thế mới này, sẽ phải trả giá khủng khiếp. Nhìn vào thế giới các nước
đang phát triển ngày nay, dù ở châu A’, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ La-tinh:
...Trở thành bãi thải công nghiệp, bó tay chịu mọi tác động của toàn cầu hoá xô
đẩy hoặc nhấn chìm, thua thiệt lại đẻ ra thua thiệt; còn trong nước khoảng cách
giàu nghèo xoạc rộng mãi, mất ổn định xã hội và chính trị... đó là số phận gần như là định mệnh của những nền kinh
tế lạc hậu hay lạc lõng trong thế giới toàn cầu hoá. Tại nước ta đã
chớm xuất hiện tình thế này, đó là các nhà máy xi-măng lò đứng, là những sản
phẩm công nghiệp không cạnh tranh nổi ngay trước khi xuất xưởng, một số sản
phẩm nông nghiệp thiếu thị trường, sức ì của nền kinh tế nguyên liệu và của
những quán tính rất khó vượt qua nằm trong những thói quen và tư duy kinh tế
cũ... Không, toàn dân tộc ta nhất định phải đứng lên chống lại định
mệnh này như đã từng chống đế quốc xâm lược.
Vào thế kỷ 21, không thể mở rộng không gian kinh
tế cho đất nước bằng phát triển kinh tế theo chiều rộng, bằng nền kinh tế
nguyên liệu, bằng xây dựng nền kinh tế khép kín, bằng những sản phẩm không có
khả năng cạnh tranh và không có giá trị gia tăng hoặc thậm chí thua lỗ, bằng
nền kinh tế không có khả năng thường xuyên đổi mới cấu trúc để luôn luôn tạo ra
lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh mới theo kịp xu thế phát triển của kinh
tế thế giới, bằng nền kinh tế hàm lượng công nghệ và tri thức thấp kém, bằng sự
bất lực trước mọi cơ hội cũng như mọi thách thức, bằng nền kinh tế không có khả
năng tận dụng mọi nguồn lực của thế giới và không có khả năng biến cả thế giới
thành thị trường của mình...
Xin suy nghĩ kỹ về những điều này, bởi vì chúng
đảo lộn hoặc thậm chí xóa bỏ, đối nghịch với tất cả mọi thói quen, mọi quán
tính, mọi cách nhìn của chúng ta trong việc tìm kiếm và hoạch định con đường
phát triển đất nước. Mở rộng không gian kinh tế để sớm san lấp khoảng cách phát
triển đặt ra rất nhiều vấn đề rất mới.
Muốn mở rộng không gian kinh tế cho đất nước,
trước hết phải có con người làm được việc này, phải có một nhà nước trợ thủ đắc
lực cho mỗi công dân của mình trong nhiệm vụ này. Mọi việc khởi sự từ tích
tụ nguồn lực để phát triển con người làm được nhiệm vụ này. Muốn
vậy, bất kỳ sản phẩm nào của nền kinh tế làm ra đều phải có giá trị gia tăng
cho phép tạo ra sự tích tụ nguồn lực ngày càng lớn, vì mục đích ưu tiên hàng đầu là
phát triển con người. Quá trình tích tụ này cần được thường xuyên
nâng cao từng bước, từng bước, làm cho nền kinh tế của đất nước ngày càng tiến
sâu vào nền kinh tế mới của thế giới dựa trên sự phát triển của tri thức. Phải
chăng đấy chính là con đường đi tắt, đón đầu xu thế phát triển của kinh tế thế
giới mà Đảng ta và nhân dân ta vẫn mơ ước. Phát triển được con người có khả
năng tận dụng mọi nguồn lực mà nền kinh tế mới toàn cầu hoá của thế giới có thể
đem lại, nước ta sẽ có tất cả để sớm trở thành một quốc gia hiện đại, đúng với tinh
thần: Dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh.
Nhìn lại,
Đảng ta đã đặt ra nhiều vấn đề, làm được nhiều việc, kể cả nêu ra yêu
cầu phải làm chủ tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ... Tuy nhiên, đòi hỏi
chiến lược về mở rộng không gian kinh tế cho đất nước nhằm san lấp khoảng cách
phát triển, điều cốt yếu là:
· phải có chiến lược tích
tụ nguồn lực – chứ không phải tích tụ máy móc, nguyên liệu, sản phẩm trung
gian, sản phẩm sơ chế...- ngày càng lớn để ưu tiên phát triển con người, nhằm đáp
ứng tốt nhất đòi hỏi nói trên – bắt đầu từ nâng cao hiệu quả toàn bộ nền kinh
tế – nghĩa là bắt đầu từ sản phẩm thô sơ lạc hậu nhất cũng phải được thực hiện
theo cách làm ăn có lãi, để có tích tụ của cải nâng cao dân trí và năng lực
toàn xã hội, tiến dần lên những sản phẩm ngày càng hiện đại hơn, càng thâm nhập
được sâu hơn vào mọi nơi trên thị trường thế giới;
· phải gắn tốt hơn nữa với
xu thế phát triển của thế giới, coi cả thế giới là thị trường và đối tác của
mình, thường xuyên nâng cao khả năng cạnh tranh để tận dụng tốt hơn nữa mọi
nguồn lực, mọi cơ hội mà nền kinh tế mới toàn cầu hoá của thế giới có thể đem
lại, nhằm phát triển nhanh hơn nữa nguồn lực của chính nền kinh tế nước mình,
tạo khả năng tốt nhất thường xuyên mở ra thị trường mới với sản phẩm mới, phải
biết đi với cả thế giới để thực hiện mục tiêu chiến lược này của nước ta - và đây cũng là con đường chủ động đối phó với
mọi thách thức trên con đường đi lên của nước ta, tạo ra khả năng đề kháng bất
khả kháng với mọi trở lực – kể cả đề kháng với mọi mưu toan diễn biến đất nước
ta dưới bất kỳ hình thức nào.
Con đường phát triển tận dụng mọi nguồn lực của
thế giới mà quá trình toàn cầu hoá có thể đem lai không phải là “sở hữu
riêng” của một quốc gia nào, mà
chỉ là sở hữu của quốc gia nào có bản lĩnh chinh phục được nó. Các NICs
trong nửa sau thế kỷ 20 này đã chinh phục được nó. Nước bé nhất làm được việc
này là Xinhgapo. Những thành tựu bước đầu nước ta giành được trong những năm
đổi mới vừa qua đang hé mở ra khả năng của chúng ta chinh
phục con đường này.
Vào khoảng 1990-1995 đã có lúc nhiều người trên
thế giới dự đoán “con hổ” mới tiếp theo sẽ là Việt Nam... Lúc ấy, dự đoán này
không nhằm tâng bốc Việt Nam... Phải chăng bên ngoài đã nhìn thấy trong công
cuộc đổi mới ở nước ta sự hé mở một tiềm năng, một
khả năng nào đó của Việt Nam? Còn chúng ta, là nước chủ nhà, phải chăng tự giác
hay không tự giác đang để xảy ra ngày một nhiều vấn đề có nguy cơ khép dần ,
hay đang khép dần lại con đường đã hé mở ra ấy?
Để xoá cái nhục nước nghèo, để tồn tại và phát
triển được trong thế giới người khôn của khó này, dân tộc ta cần tìm đường mở rộng không gian kinh tế của
mình ra khắp thế giới, lấy cả thế giới làm thị trường và đối tác của mình,
thường xuyên nâng cao khả năng cạnh tranh để thực hiện tốt yêu cầu này - đó chính là mục tiêu
của cuộc cách mạng để muộn 200 năm. Quá trình phát triển của nền kinh tế mới
toàn cầu hoá ngày nay trên thế giới cùng với đòi hỏi phát triển của chính bản
thân nước ta, càng làm cho cuộc cách mạng này ở nước ta trở nên chín muồi, đòi
hỏi phải nắm bắt lấy, để mở ra một bước ngoặt phát triển của đất nước, càng để
chậm, càng trượt sâu thêm vào tụt hậu.
Từ khi xuất hiện trên thế giới nền kinh tế mới
toàn cầu hoá với động lực chủ yếu là nền kinh tế trí tuệ (còn gọi là nền
kinh tế tri thức) - biểu hiện tập trung
nhất là trí tuệ phát triển không giới hạn, được phổ cập và nối mạng toàn cầu -
đang tạo ra một cuộc cách mạng kinh tế thế giới chưa từng có, nước ta đang đứng
trước cơ may có thể tìm ra con đường đi thẳng từ nghèo nàn lạc hậu lên hiện
đại. Con người Việt Nam, truyền thống lịch sử và văn hoá Việt Nam là yếu tố
quyết định nhất để vận dụng cơ may này. Dân tộc ta đang đặt lên vai Đảng ta sứ
mệnh lãnh đạo đất nước tận dụng bằng được cơ may chưa từng có này trong lịch sử
kể từ ngày dựng nước. Đó là nội dung chiến lược con đường mở rộng không gian
kinh tế để san lấp khoảng cách phát triển.
Song cũng xin cảnh báo : Đây là con đường vô
cùng gian truân, phải đi từ những bước thấp nhất, phải kiên trì theo phương
châm năng
nhặt chặt bị đồng thời phải biết mạo hiểm chiếm lấy những cơ hội không
thể bỏ qua, phải có khả năng xử lý không biết bao nhiêu vấn đề xã hội sẽ nẩy
sinh, phải bảo vệ được môi trường kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường tự
nhiên; phải có một bộ máy nhà nước lọc lõi làm chủ được tình hình, luôn có tầm
nhìn bao quát mọi vấn đề trên thế giới và có khả năng che chắn cho đất nước
trước mọi tác động như cơn bão tài chính tiền tệ tháng 7-1997..; phải duy trì
và phát huy được các giá trị đạo đức và tinh thần tốt đẹp, phải bảo vệ được bản
sắc của dân tộc mình làm nền tảng văn hoá và tinh thần của sự nghiệp phát triển
đất nước mình... Tôi xin dành những vấn đề hết sức hệ trọng này cho các Viện,
các nhà nghiên cứu hoặc cho một cuốn sách khác sau này nếu tôi có sức làm được
việc này.
Mỗi lần về quê, mỗi lần đi công tác, cứ đi qua
mỗi xã lại nhìn thấy một nghĩa trang liệt sỹ... Cứ thế, huyện này nối huyện
khác, tỉnh này nối tỉnh khác, và cứ thế nối liền cả nước... Còn bao nhiêu hy
sinh mất mát nằm ngoài những nghĩa trang liệt sỹ! Còn bao nhiêu đau thương day
dứt khôn nguôi trong biết bao nhiêu gia đình Việt Nam... Trong tôi càng trỗi
dạy: ...Mất cơ hội dẫn tới mất nước và mất tất cả! Mất nước đã đảy dân tộc ta
vào con đường đầy máu và nước mắt gần hai thế kỷ! Không bao giờ! Không bao giờ
để cho dân tộc ta, con cháu chúng ta lại phải đi trên con đường này một lần
nữa. Phải mạnh nhanh lên để không bị bắt chẹt, để ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, và
không để bao giờ một lần nữa bị đảy vào con đường này... Phải mạnh nhanh lên
bằng sức mạnh của cả dân tộc mở không gian kinh tế ra cả thế giới...
Đảng ta đã giương cao ngọn cờ dân tộc, phát huy
được sức mạnh cả nước trong đấu tranh giành lại đất nước. Đảng ta cũng phải là
người giương cao ngọn cờ dân tộc trong sự nghiệp chấn hưng đất nước, xây dựng một
nước Việt Nam mới.
Với mục tiêu phát huy sức mạnh dân tộc mở rộng
không gian kinh tế của đất nước, để xoá nỗi nhục nước nghèo, để tồn tại và phát
triển, tôi tin rằng mọi vấn đề hệ trọng như đấu tranh giai cấp và vấn đề dân
tộc, vấn đề xây dựng định hướng xã hội chủ nghĩa, con đường và nội dung công
nghiệp hoá hiện đại hoá, vấn đề xây dựng chuyên chính để bảo vệ luật pháp, bảo
vệ đất nước... sẽ được nhìn nhận dưới ánh sáng của yêu cầu mở rộng không gian
kinh tế để tạo khả năng xoá nỗi nhục nước nghèo. Xin nói ngay ở đây rằng: suy
nghĩ của tôi không đi theo hướng tự do hoá vô tổ chức, mà là tổ chức, là kỷ
luật, là chuyên chính nhiều hơn – chỉ có nội dung của những vấn đề này sẽ khác,
hướng vào sự chuyên chính cao nhất là
tập trung mọi nỗ lực xoá nỗi nhục nước nghèo. Xin được bàn thêm ở phần
khác trong cuốn sách này.
Phải
chăng có thể khẳng định: Trong quá trình toàn cầu hoá ngày nay, không mở rộng
được không gian kinh tế để xoá được nỗi nhục nước nghèo, không chiếm được vị
thế xứng đáng trên thế giới, nước ta chắc chắn không thể thực hiện được định
hướng xã hội chủ nghĩa? Những gì chúng ta đã học được của những năm khủng hoảng
kinh tế xã hội trầm trọng kéo dài phải chăng là: Không thể có chủ nghĩa xã hội
trong nghèo nàn lạc hậu!?.
Không có cách nào khác, phải có trí tuệ, lòng
kiên trì và bản lĩnh cách mạng của cả
dân tộc để theo đuổi mục tiêu này, 50 năm chưa đạt được thì 100 năm,
150 năm, 200 năm, nhất quyết không xa rời... Định như thế, thì từng chiếc đũa
phải được buộc lại với nhau thành bó đũa để không bị bẻ gãy, phải khơi dậy tinh
thần dân tộc để từng công dân có ý chí cùng nhau làm việc này, không để
cho chủ nghĩa “mackeno” nhen nhóm với
cái tặc lưỡi: “sau ta là cơn đại hồng thuỷ”, không thể “bóc ngắn cắn dài”...
Không làm được như vậy, thì ngay không gian kinh tế trong nước, thị trường
trong nước cũng không giữ được - thực ra đã và đang bị cướp dần đi rồi, một dẫn
chứng hiển nhiên là chống hàng nhập lậu kết quả rất ít...
Theo suy nghĩ của tôi, thực hiện một cuộc cách
mạng phát triển, nhằm mở rộng không gian kinh tế cho đất nước - phải là câu trả
lời Đảng ta đưa ra cho dân tộc ta trước những thách thức của thế giới toàn cầu
hoá ngày nay. Chúng ta nói nhiều đến thế kỷ 21, đến chuyển giao thiên niên
kỷ... Song những việc này có nghĩa lý gì nếu như không bắt tay vào cuộc cách
mạng đã để muộn nhưng không thể bỏ qua được này: Tất cả cho mở rộng không gian
kinh tế của đất nước!
2. Con đường cách mạng đầy gian khổ
“Cuộc cách mạng để muộn” được bàn tới ở đây thực
chất là một cuộc cách mạng phát triển. Đòi hỏi chiến lược mở rộng không gian
kinh tế cho đất nước để san lấp khoảng cách phát triển đã lý giải tính tất yếu
của cuộc cách mạng này. Dưới đây xin bàn thêm một số khía cạnh khác.
Không có cuộc cách mạng nào giống cuộc cách mạng
nào. Nhưng mọi cuộc cách mạng có thể đều có chung đặc điểm là phải mang tính
triệt để do bản chất tất yếu của nó, nhưng không bao giờ có con đường vạch sẵn.
Những vấn đề bản thân một cuộc cách mạng phải giải quyết có thể làm rõ nội dung
của nó; nhưng mục tiêu phấn đấu từng thời kỳ, chương trình hành động, con đường
tiến hành cuộc cách mạng ấy... không phải lúc nào các lực lượng thực hiện nó
cũng cũng xác định ngay được. Gần như đó là tính quy luật phát triển trong kinh
tế, trong khoa học, công nghệ, trong một
xã hội, trong một quốc gia và nói chung trong cả xã hội loài người.
Con đường dẫn đến Cách mạng Tháng Tám vĩ đại của
dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã xác nhận thực tiễn nói trên. Đảng ta đã
giành nhiều công sức tổng kết con đường này, kể từ phong trào cần vương, sự phát
triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế...
Cũng quanh co gian khổ như vậy, con đường cách
mạng phát triển ở nước ta bắt đầu từ rất sớm, cho dù chúng ta ý niệm, nhận
thức, giác ngộ nó như thế nào, cho dù chúng ta đặt cho cuộc cách mạng này những
tên gọi khác nhau trong các thời kỳ khác nhau. Qua mỗi giai đoạn đấu tranh cách
mạng giành lại độc lập và thống nhất cho tổ quốc, qua mỗi giai đoạn xây dựng
nhà nước xã hội chủ nghĩa và phát triển đất nước, nhận thức và sự giác ngộ của
chúng ta về cuộc cách mạng phát triển này ngày càng sâu sắc, nhất là từ khi
chúng ta nhận thức được rằng sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội nước ta phải
nằm chung trong xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới đang ngày càng toàn
cầu hoá sâu rộng.
Có thể nói, cuộc cách mạng phát triển đã được đề
cập tới ngay từ trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta, đó là nhận thức độc lập
dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Đó là các nội dung về xây dựng đất nước ghi
trong các Nghị quyết các Đại Hội toàn quốc của Đảng ta, trong Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh...
Với những bước đi và tính chất khác nhau trong
từng giai đoạn cách mạng Việt Nam, kể từ khi thành lập Đảng, tựu trung lại cuộc
cách mạng ấy là sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bước đầu tiên đã
được tiến hành ngay trong lúc nhân dân ta còn phải kháng chiến chống Pháp.
Trên con đường của cuộc cách mạng phát triển
này, nước ta đã kinh qua bao nhiêu bước đi, bao nhiêu thể nghiệm, bao nhiêu
thời kỳ và những lúc thăng trầm. Chúng ta hãy nhìn lại những chặng đường từ khi
tiến hành giảm tô và cải cách ruộng đất trong lúc còn kháng chiến chống Pháp,
cải tạo xã hội chủ nghĩa... cho đến khi tiến hành công cuộc đổi mới ngày nay.
Có thể nói, con đường ấy không kém phần quanh co thăng trầm, như con đường cách mạng đất nước đã trải qua kể từ ngày thành lập
Đảng ta đến nay.
Ngoài ra còn phải kể đến bao nhiêu tác động
khách quan từ thế giới bên ngoài vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội ở
nước ta. Trong cuộc cách mạng phát triển này, cũng có lúc tình hình đất nước
như trứng để đầu đẳng giống như những ngày đầu sau Cách mạng Tháng Tám... Xin
nhớ lai những năm tháng trong thập kỷ 1980...
Cuộc cách mạng phát triển đã bắt đầu ở nước ta
từ lâu rồi. Nhưng tôi muốn nhìn nhận công cuộc đổi mới Đảng ta và nhân dân ta
đang tiến hành mới thực sự là một bước ngoặt, hay đang mở ra một bước ngoặt của
cuộc cách mạng phát triển này.
Tôi nói còn dè dặt như vậy, bởi vì tất cả còn
phụ thuộc vào ý chí chính trị – nghĩa là phẩm chất cách mạng - và trí tuệ của
Đảng ta và dân tộc ta sẽ tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới như thế nào. Đại
hội VI năm 1986 nhận định đổi mới là một bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Trong suy nghĩ của mình, tôi coi đổi mới là một
bước ngoặt của cuộc cách mạng phát triển này với 2 nhận xét chủ yếu:
-
Trước đổi mới chúng ta lấy quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa làm
trọng, thiết lập quan hệ đó rất sớm và dựa vào đó để phát triển kinh tế.
-
Trong đổi mới chúng ta chuyển sang đẩy mạnh phát triển kinh tế của
tất cả các thành phần và mở rộng kinh tế đối ngoại, lấy giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa làm chuẩn.
Theo tôi đấy là sự khác biệt rất lớn, sự chuyển
hướng rất lớn, con đường phát triển đất nước đã được định hướng lại.
Nhờ sự chuyển hướng căn bản này, đất nước ra
khỏi khủng hoảng và đạt được những thành tựu lớn nhất từ trước đến nay trong sự
nghiệp phát triển kinh tế, chế độ chính trị
được củng cố, xác lập được vị thế quốc tế mới xứng đáng.
Nguyên
nhân quyết định nhất của bước ngoặt này là chúng ta ngày một tự giác hơn
trước về cuộc cách mạng phát triển; chúng ta nhận thức ngày một đầy đủ
hơn trước là phải tự đổi mới chính mình để thực hiện cuộc cách mạng này.
Nếu những nhận xét nói trên là đúng, kết luận
lô-gich là phải tiếp tục dấn bước mạnh mẽ theo hướng mới.
Tôi còn muốn đi xa hơn nữa trong tư duy của
mình: Với công cuộc đổi mới, nghĩa là với yêu cầu phải đổi mới triệt để
đất nước và bản thân mỗi công dân, cuộc cách mạng phát triển ở nước ta bây giờ
mới đang thực sự được bắt đầu. Dấn bước đi lên là vì lẽ này.
Cuộc cách mạng này không những phải hoàn thành
nhiệm vụ xây dựng dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh, mà
còn phải san lấp khoảng cách phát triển do hai thế kỷ bị đánh mất - công việc
lẽ ra nước ta phải làm cách đây 200 năm. Vì thế nó là một cuộc cách mạng để muộn.
Xin cho phép tôi coi cuộc cách mạng phát triển
này bây giờ mới thực sự bắt đầu, còn bởi lẽ ngày nay đất nước ta vừa đứng trước
những đòi hỏi phát triển mới vô cùng bức xúc, vừa tích tụ được những điều kiện
cần và đủ trong nước và trong bối cảnh thế giới hiện tại để tiến hành cuộc cách
mạng vĩ đại này. Nói theo một cách khác: Hiện nay Đảng ta và dân tộc ta đang có
đủ các điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hoà thực hiện cuộc cách mạng phát
triển.
Không một cuộc cách mạng nào riêng lẻ của một
quốc gia có thể thoát ly bối cảnh quốc tế và xu thế phát triển của thế giới.
Cách mạng Tháng Mười Nga, mở ra một kỷ nguyên
mới trong lịch sử phát triển xã hội loài người, xây dựng lên Liên Xô vĩ đại và
hùng cường. Nhưng rồi nó lại đi đến năm 1989... Trước nó, con đường Cuộc cách
mạng Pháp năm 1789 cũng đi tới một kết cục không mong đợi.
Cách mạng Trung Quốc, Cộng hoà Nhân dân Trung
hoa ra đời làm cán cân so sánh lực lượng quốc tế nghiêng hẳn về phía cách mạng
xã hội chủ nghĩa, rồi tiếp theo là con đường cải cách ngày nay đang nhằm vào
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc.
Con đường các nước đang phát triển trở thành
NICs cũng phải gắn liền với xu thế phát triển kinh tế thế giới trong những thập
kỷ đầu sau chiến tranh thế giới II...
Cuộc cách mạng phát triển nước ta phải tiến
hành, với nội dung là đổi mới triệt để, đưa đất nước sang một giai đoạn phát
triển cao hơn nhiều so với trước, bằng con đường tích tụ cho mình những
phẩm chất và khả năng cho phép khai thác, tận dụng tối đa mọi nguồn lực do xu
thế phát triển của kinh tế thế giới đem lại - để không ngừng mở
rộng không gian kinh tế cho sự phát triển năng động của đất nước. Cuộc cách
mạng ấy vì thế càng đòi hỏi:
-
Phải nhận thức sâu sắc thế giới, gắn quá trình phát triển đất nước
với xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng chiến lược phát triển thích
hợp.
-
Phải đổi mới hẳn phương thức quản lý đất nước nhằm phát huy được
khả năng sáng tạo và ý chí của từng công dân để thực hiện bằng được sự phát
triển nói trên.
Bản thân việc thực hiện 2 yêu cầu nói trên thực
sự là một cuộc cách mạng, bởi vì sẽ phải thay đổi hẳn cách suy nghĩ và phương
thức làm việc, nhằm đảy người lao động – dù là nông dân, công nhân, lao
động trí óc, nhà khoa học, nhà kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, người
quản lý...- và doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế trong toàn xã hội lên vai trò chủ thể của sự phát
triển này; đồng thời nhằm chuyển hẳn vai
trò của Nhà nước từ chỗ còn ôm đồm, làm thay nhiều công việc của
những người giữ vai trò chủ thể vừa kể
trên, sang làm nhiệm vụ phục vụ đắc lực hơn nữa các chủ thể của quá
trình phát triển này...
Xin nói thêm: Thật ra ý tưởng này về Nhà nước
không mới. Bác Hồ đã từng nói phải xây dựng Nhà nước là đày tớ của dân,
nhưng chúng ta chưa làm được bao nhiêu. Từ chỗ ôm đồm cai quản dân, chuyển sang
là người bán dịch vụ cho dân - nghĩa là bằng tiền đóng thuế của mình,
dân mua các dịch vụ của Nhà nước, hay thuê Nhà nước làm các dịch vụ người dân
muốn có. (Nói riêng về mặt Nhà nước, đây là ý nghĩa cốt lõi nhất của hiện đại hoá
đất nước, là một cuộc cách mạng về mặt Nhà nước còn đang ở phía trước chúng ta.[80])
Quyết tâm bước vào cuộc cách mạng phát triển của
đất nước ngày nay, vì tính triệt để của nó, vì những ước vọng mỗi người Việt
Nam chúng ta gửi gắm vào nó.., tôi muốn tiên đoán rằng: Mỗi chúng ta đang bước
vào một cuộc đổi đời mới của chính mình: xác
lập những phẩm chất mới, giá trị mới, xả thân phấn đấu vì những giá trị ấy –
cho chính bản thân mình và cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và
văn minh.
Công cuộc hiện đại hoá xã hội bắt đầu từ cuộc
cách mạng của từng con người, vì mục đích phát triển con người. Chính điều này
mang tính chất xã hội chủ nghĩa đầy đủ nhất. Lẽ đơn giản là: Để đọ sức cạnh
tranh với cả thế giới, đất nước ta hiện tại và lâu dài chỉ có thể đưa ra con
người với chất lượng cao, có khả năng đối mặt được với mọi thách thức và thời
cơ của quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới..
Xin hãy nhen nhóm và thổi bùng lên trong tâm
khảm mỗi con người Việt Nam đã giành lại được đất nước khát vọng mang lại một
cuộc đổi đời cho chính bản thân mình và cho Tổ quốc mình, để có một
cuộc sống hạnh phúc, giầu có về của cải và trí tuệ, đất nước có thể ngửng mặt
sánh vai cùng thiên hạ.
Trong cuộc cách mạng phát triển này, xây dựng
được con
người tự giác và Nhà nước có chất lượng như vậy là thực hiện chuyên chính cao
nhất của tiến bộ, của các giá trị nhân văn đối với phản tiến bộ, đối với phản
nhân văn. Theo tôi, sự tự giác ấy, các giá trị nhân văn ấy là xã
hội chủ nghĩa chân chính, là khát vọng đáng hướng tới.
3. Bàn thêm về xây dựng
những giá trị con người
Tiến hành cuộc cách mạng phát triển đất nước
trong tiến trình nền kinh tế tri thức đang hình thành trên thế giới và trong
quá trình hội nhập vào tiến trình đó, việc đầu tiên phải nghĩ đến là vấn đề con
người. Lẽ muôn thuở là cách mạng bao giờ cũng là sự nghiệp của nhân dân. Song
quan trọng hơn nữa, về nhiều phương diện, cuộc cách mạng này trước hết là cuộc
cách mạng con người Việt Nam chúng ta - để có được phẩm chất, tri thức và ý chí
thực hiện nghĩa vụ công dân trong cuộc cách mạng này. Đối với người đảng viên
ĐCSVN lại càng như vậy. Đó là cuộc cách mạng bắt đầu từ mỗi chúng ta. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng nói: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội
chủ nghĩa.
Nhưng đối chiếu thực trạng xã hội hiện nay với
những yêu cầu cần phải có về con người cho cuộc cách mạng này, chúng ta suy
nghĩ gì? ”Vì sự nghiệp trăm năm trồng
người” – Phải chăng chúng ta thuộc và thực hiện tốt lời dạy của Bác ?
Không một Nghị quyết nào của các Đại hội Đảng
lại không đặt vấn đề xây dựng con người thành nhiệm vụ trung tâm. Cương lĩnh
“Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” ghi rõ: “Nguồn
lực lớn nhất, quý báu nhất của chúng ta là tiềm lực con người Việt Nam, trong
đó có tiềm lực trí tuệ... ... Xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là
một xã hội con người được giải phóng, nhân dân lao động làm chủ đất nước, có
nền kinh tế phát triển cao và nền văn minh tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện toàn diện phát
triển cá nhân; công bằng xã hội và dân chủ dược bảo đảm.”...
Ai là người không mơ ước những ý tưởng tốt đẹp
này? Nhưng tại sao đưa những ý tưởng tốt đẹp này vào cuộc sống không đơn giản
chút nào? Những công trình nghiên cứu về xây dựng giá trị con người trong công
cuộc đổi mới ở nước ta không ít. Ngoài ra còn phải nói chưa bao giờ Đảng ta coi
nhẹ nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng...
Có thể tóm tắt thực trạng hiện nay là: Nhiều giá
trị truyền thống và giá trị mới tốt đẹp có nguy cơ bị “lép vế” hay đang “lép
vế”, còn thiếu nhiều giá trị mới mà sự nghiệp phát triển đất nước đòi hỏi;
nhiều điều xấu đã và đang được coi là có giá trị, hay có nguy cơ trở thành giá
trị – xu thế này đang tiếp diễn; đời sống đạo đức và văn hóa trong xã hội có
những mặt xuống cấp. Tất cả những mặt ưu việt và những thành tựu xã hội ta đã
đạt được, dù to lớn đến mức nào, đều không được phép che lấp sự nhìn nhận nghiêm khắc thực trạng
này – bởi vì nó là mảnh đất mầu mỡ của nhiều nguy cơ tai hại[81].
Thực sự cần thiết phải xem xét lại những mặt
được, những mặt chưa được của những kết quả nghiên cứu và công tác giáo dục -
từ trong nhà trường cho tới cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể, từ trong Đảng, cho
đến ra ngoài xã hội. Cần động viên toàn dân chăm lo việc giáo dục, gìn giữ nếp
sống tốt đẹp trong gia đình. Thực sự phải nghiêm khắc xem lại sự vận hành của
hệ thống nhà nước, kinh tế và xã hội vì sao lại có xu hướng lấn át những giá
trị cao quý. Từ muôn đời nay, chăm lo yên nước yên dân, trước hết là phải chăm
lo phát huy trong cả nước những giá trị tinh hoa của bản thân dân tộc mình và
biết tiếp nhận những giá trị tinh hoa của nhân loại.
Có ý kiến đổ ngay mọi tội lỗi cho cơ chế thị
trường. Đặt vấn đề như vậy, thì kết luận lô-gich là: muốn xoá bỏ triệt để mọi tội
lỗi, phải triệt để xoá bỏ cơ chế thị trường!.. Nếu như vậy thì vô cùng phi lý.
Có ý kiến cho rằng có những mặt yếu kém trong xã hội hiện nay là vì chưa xây
dựng được các thang giá trị mới...
Suy nghĩ về những giá trị truyền thống và những
giá trị mới đã xây dựng được, tôi nghĩ rằng dân tộc ta là một dân tộc giàu có,
với một gia tài văn hiến tổ tiên, cha ông để lại không có gì phải hổ thẹn với
thiên hạ. Không có những giá trị này, không thể có con đường dân tộc ta đã đi
qua trong 70 năm qua, không thể vượt qua được biết bao thác ghềnh hiểm nghèo để
có ngày hôm nay. Những giá trị ấy cũng là vốn quý nhất của dân tộc ta trên con
đường đi tiếp.
Nhìn vào những mặt yếu kém, tôi cho rằng điều
khó nhất vẫn là làm sao phát huy được những giá trị tốt đẹp, làm cho những giá
trị ấy trở thành sức mạnh xã hội, đẩy lùi được mọi yếu kém, tiêu cực. Cuộc sống
tinh thần của con người dù phong phú, phức tạp đến đâu chăng nữa, song những
giá trị con người xây dựng được hình như bao giờ cũng đơn giản, dễ hiểu – đơn
giản và dễ hiểu đến mức trở thành chân lý: chân, thiện, mỹ.
Bác Hồ chỉ dạy chúng ta có 8 chữ:
Cần, kiệm, liêm, chính
Chí công vô tư
Trong 8 chữ này gần như bao gồm hết cả những đức
tính cần phải có để xây dựng và phát triển đất nước, nhất là đối với đội ngũ
cán bộ, đảng viên, công nhân và viên chức nhà nước. Xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước, xây dựng kinh tế, phát triển xã hội lại càng cần 8 chữ này. Quan trọng
hơn nữa, có lẽ vì Bác là mẫu mực của việc tuân thủ 8 chữ này, nên đã làm cho
sức sống vĩ đại của 8 chữ này trở thành động lực phấn đấu và nghị lực sáng tạo,
nâng dân tộc ta từ kẻ mất nước trở thành chủ nhân của đất nước.
Tôi nghĩ mãi, để phát huy những giá trị tốt đẹp,
chúng ta phải noi gương đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mọi giá trị Bác Hồ kế
thừa truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa của nhân loại bắt đầu từ chữ
tâm.
Trước hết đó là: Không có gì quý hơn độc lập tự do! Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Du đã tạc lên
bia đời: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ
tài... Chính vì Bác rất công, nên Bác rất sáng suốt trong
suy nghĩ, quyết định và việc làm của mình. Công đi với minh là như thế. Chính vì
Bác rất liêm, nên trong nước rất nghiêm, cả nước một lòng, cùng nhau đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Mỗi con người Việt Nam chúng ta, để đối chọi và
hội nhập với cả thế giới toàn cầu hoá, để theo kịp và hoà nhập được vào loài
người tiến bộ trong thế giới toàn cầu hoá, trước hết cần trang bị cho mình
những giá trị này. Không phải chỉ ở Việt Nam mới có yêu cầu này. Có thể nói
rằng tại tất cả các nước trên thế giới tự giác tham gia vào quá trình toàn cầu
hoá, các lực lượng tiến bộ đều đặc biệt chăm lo củng cố và xây dựng theo truyền
thống của mình những giá trị cần phải có cho con người của đất nước mình trong
cuộc hành trình chung và chạy đua chung này - để đi vào nền văn minh mới của
cộng đồng thế giới, nền văn minh của xã hội hậu công nghiệp, để ngăn ngừa những
thảm hoạ hoặc giảm bớt những cái giá phải trả trong cuộc hành trình đầy thách
thức này[82].
Riêng đối với người Việt Nam chúng ta, vì còn
phải đứng trước nhiệm vụ khó diễn tả hết được tầm quan trọng và ý nghĩa của nó
– nhiệm
vụ san lấp khoảng cách phát triển – lại càng phải thở, phải sống, phải
phấn đấu bằng những giá trị dân tộc ta đã tích tụ được và Bác Hồ đã nêu gương
thực hiện.
-
Không phải chỉ hy sinh trong chiến đấu cho đất nước mới là khó.
Thiết
nghĩ, biết làm giàu cho mình và cho đất nước có thể khó không kém. Có
khi trong làm giàu cho mình và cho đất nước phải biết hy sinh. Làm giàu cho các
thế hệ con em mình lại càng đòi hỏi nhiều hy sinh.
-
Không phải chỉ đặt lợi ích chung của đất nước lên trên hết mới là
khó.
Phấn
đấu thắng được chính mình khó không kém, có khi khó hơn nhiều. Ngoài ra còn
phải phấn đấu để tự khẳng định được chính mình. Xã hội cũng cần có cách nhìn
đúng đắn và trân trọng đối cá nhân nào tự khẳng định được mình trong cuộc sống.
-
Không phải chỉ thực hiện công bằng, dân chủ và văn minh trong xã
hội mới là khó.
Biết đâu là giới hạn dân
chủ của chính mình, chính mình thực hiện được văn minh, nhất là thực hiện nâng
cao tri thức và trí tuệ của mình, tự mình cương trực bảo vệ dân chủ... khó
không kém, và không phải ai ai cũng thực hiện được, càng không phải ai ai đều
có ý chí thực hiện bằng được.
-
Nuôi dưỡng tinh thần quật cường, niềm tự hào và lòng tự trọng dân
tộc là việc khó trong hội nhập quốc tế, càng nghèo lại càng khó.
Khiêm tốn học hỏi, làm
cho Việt Nam trở thành biểu tượng của lao động có kỷ luật và luật pháp nghiêm
minh, của chữ tín trong làm ăn với nhau và với bên ngoài, của sản phẩm chất
lượng cao, của đầu óc tổ chức và sáng tạo... không dễ chút nào, thậm chí hiện
nay sự phấn đấu này đang là một trong những vấn đề khó nhất[83].
-
Chiến thắng bảo thủ, đồng thời biết cởi mở, tiếp thu cái mới, nhất
là tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại, thật là khó.
Vươn lên văn minh hiện
đại, nhưng phải giữ lấy bản sắc của mình. Thật khó mà nói được trong tất cả
những việc này việc nào khó hơn.
-
Xây dựng luật pháp và thể chế được tới mức làm nản lòng mọi ý đồ
cưỡng lại thực thi luật pháp là một việc rất khó[84],
nhưng tự gò mình vào luật pháp nhiều khi khó không kém, hoặc khó hơn nhiều.
-
Bom đạn giặc không làm cho mình trùn bước, thế mà bây giờ trong
thời bình lại tự hỏi mình “đấu tranh, tránh đâu?” – việc nào đòi hỏi nhiều dũng
cảm hơn việc nào?
-
Đối diện với kẻ thù trong chiến trận thì chia lửa cho nhau, bây
giờ làm thế nào để cùng chia xẻ cho nhau trách nhiệm và nghĩa vụ trước dân –
trong thành công cũng như trong thất bại, thậm chí luôn luôn dám nhận phần khó
về mình?
-
Trước đây lúc đói chia nhau nắm cơm, quả cà. Bây giờ làm sao thấy
bạn ăn nên làm ra thì càng vui chứ không ghen ăn tức ở, làm sao xây dựng được
trong xã hội ý thức tôn vinh người tài, người biết làm giàu?
-
Khó hơn nữa là làm sao trong cạnh tranh với nhau trên thị trường
mà vẫn tạo ra được sự hiệp đồng với nhau để giữ được thế mặc cả với bên nước
ngoài? Cạnh tranh với nhau nhưng không
“bắn tỉa’, “hạ gục” nhau, ném đá giấu tay, chiến tranh qua tay người khác... Là
đảng viên hay cán bộ công nhân viên nhà nước lại càng không được tham gia vào loại
trò chơi bẩn thỉu này. Chắc chắn ai cũng đồng tình như vậy, nhưng thực hiện thế
nào?
-
Làm sao phát huy được hết mức tài năng cá nhân mà vẫn xây dựng tốt
phong cách làm việc đồng đội (team work) và làm cho hai yếu tố này bổ sung cho
nhau?..
-
Người ta thường nói nhân cách con người thường bộc lộ rõ nhất vào
hai thời điểm, đó là lúc thăng hoa và
lúc lỡ bước. Phải chăng bây giờ phải
thêm vào một thời điểm thứ ba nữa: thời điểm đi cửa hậu - để chạy ghế,
chạy tội, trốn thuế, chạy áp-phe...
-
Uống nước phải nhớ nguồn – cần gìn giữ truyền thống này, nhưng lại
không nên chỉ sống với dĩ vãng, mà phải luôn luôn sống vì phía trước, vì tương
lai, vì chính các thế hệ con cháu của chúng ta – nhưng đừng để lại những gánh
nặng cho chúng... Đây là việc rất khó.
-
...
Tôi nghĩ, chúng ta không thiếu những giá trị,
hoặc một số thang giá trị như ý kiến nêu trong một số công trình nghiên cứu.
Nhưng tôi thừa nhận những giá trị hay những thang giá trị không thể tự thân
biến dạng này. Nguyên nhân nằm trong những yếu kém của chúng ta. Cái thực khó –
hay chỗ yếu nhất - là chúng ta thiếu cách thực hiện và phát huy những giá trị
đã xác lập được; nguy hiểm hơn nữa là sự
nhận thức về cái thiếu này chưa đầy đủ. Mọi cái thiếu này hình như bắt đầu từ
cái thiếu sự tôn vinh các giá trị, hoặc sự tôn vinh này bị làm cho lạc hướng và
trở thành giả tạo. Lại càng không nên để cho việc tôn vinh những giá trị chân
chính trở thành các hoạt động bán danh, mua tiếng, mua phiếu, phục vụ cho đầu
cơ trục lợi... Bệnh trưởng giả và đạo đức giả trong xã hội nước ta hiện nay
không thể xem thường. Đồng thời cũng phải chú ý tới tình trạng nhận thức không
đúng hoặc nhận thức lầm lẫn các giá trị.
Ví dụ:
-
Chúng ta thường nghĩ tham nhũng tiêu cực là một hiện tượng đồi bại
về phẩm chất, nhưng chưa nghĩ tới mức nó là cái lưỡi hái của thần chết, sẵn
sàng cắt phăng mọi chồi non của ước vọng làm ăn chân chính, mọi ý chí dám mạo
hiểm tìm thị trường mới, làm ra sản phẩm mới, phong cách kinh doanh mới...
Chúng ta chưa nghĩ tới mức coi tham nhũng và tiêu cực là sự bóc lột phi đạo đức
nhất và đáng ghê tởm nhất của mọi sự bóc lột... – vì thế thiếu sự chuyên chính
cần thiết với nó. Bằng giả, phong bì, “chạy ghế”, “mua, bán”, “ô dù”... là
những loại hình khác nhau của cái lưỡi hái chết người và sự bóc lột bẩn thỉu
này.
-
Mất dân chủ thường mới chỉ được xem là một hiện tượng xấu, song
chưa nhìn nhận tới mức nó là sự huỷ hoại một trong những nguồn lực quan trọng
nhất sản sinh ra những nguồn lực làm ra của cải vật chất và tinh thần, là một
trong những yếu tố quyết định của phát triển, đi vào nền kinh tế tri thức lại
càng như vậy... Thậm chí có khi mất dân chủ mà còn chưa nhận thức ra là mất dân
chủ.., vì thế thiếu ý thức thực hiện triệt để tinh thần của dân.
-
Thời bình ở đất nước ta ra đường cũng găp anh hùng. Ngành ngành
được phong những huân chương và danh hiệu cao quý nhất của đất nước, song cả
nước sao còn biết bao nhiêu vấn đề? Có những ngành nào bất cập với nhiệm vụ
được giao hoặc thậm chí để xảy ra những vụ bê bối lớn? Sự động viên cổ vũ đầy
vinh quang ấy đối lập với thực tế khắc nghiệt đang diễn ra như vậy sẽ đem lại lợi ích hay hậu quả gì cho đất
nước? Trong khi đó chưa thể nói những giá trị mới, những con người, thành tựu
và việc làm tiêu biểu cho những giá trị
mới được thừa nhận và tôn vinh đúng mực.
-
Chúng ta khuyến khích mở cửa giao lưu kinh tế văn hoá, thái độ ấy
biểu hiện một giá trị tốt, nhưng học những bài học của người đi trước, phát huy
giá trị này như thế nào để tránh cho nước ta một loại hình phát triển kinh tế
kiểu “nạn ách tắc giao khủng khiếp thông ở Bangkok” và một loại hình văn hoá McDonald, văn hoá Disney
land[85],
“Karaoke”.., tránh xa rời văn hoá của thẩm mỹ để rơi chìm vào văn hoá tiêu thụ,
tránh mất gốc?..
-
vân... vân...
Và theo tôi, để bơi được trong thế giới ngày
nay, một trong những điều thực khó của chúng ta để hun đúc các giá trị, đó là
có ý chí Biết nhục nỗi nhục của một
nước nghèo!
Trên đây chủ yếu mới nói về chữ tâm.
Như thế không có nghĩa được bỏ qua chữ tài.
Giáo sư Hoàng Tuỵ, nhiều nhà trí thức và nhà
giáo chân chính khác đã có nhiều bài viết rất đáng được trân trọng, đã phát
biểu nhiều lần công khai trong dư luận nỗi lo lắng về chữ tài ở nước ta, đặc biệt
là trên phương diện giáo dục đào tạo và sử dụng. Nhiều đồng chí lãnh đạo đã
trực tiếp nghe những ý kiến này. Xin đề nghị dành cho nỗi lo này sự quan tâm
cao nhất của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, của cả nước.
Thế giới thừa nhận, Việt Nam mặc dù trình độ
phát triển kinh tế còn thấp, nhưng đã giành được thành tựu đáng kể trong giáo
dục và nâng cao dân trí, coi đây là một lợi thế cần phát huy. Nhận xét này nên
được coi là lời thức tỉnh lỗi lầm của chúng ta đang phí phạm không thể tưởng
tượng nổi cái vốn quý nhất là con người, thúc đẩy chúng ta phải cố gắng nhiều
hơn nữa trong giáo dục, tuyển dụng và dùng người.
Có hai vấn đề lớn nhất hiện nay trong chữ tài
– (và cả chữ tâm nữa, nhưng đã bàn tới ở trên rồi), đó là: giáo
dục và sử dụng người tài
Xử lý chưa tốt hai vấn đề vừa này là nguyên nhân
sâu xa làm cho nhiều cơ quan trong hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội của
nước ta không đáp ứng được chức năng nhiệm vụ của chúng, tiêu hao năng lực toàn
xã hội - đặc biệt là làm yếu năng lực tổ chức xã hội thành một cơ thể lành
mạnh, làm giảm hiệu quả nền kinh tế, cản trở thực thi luật pháp, tích tụ dần
những vấn đề nan giải mới... Qua tất cả những yếu kém này, những hiện tượng
bệnh hoạn như ngại đụng chạm vào những vấn đề gai góc, nói dối, giấu dốt, không
công bằng, mất dân chủ, ức hiếp dân, gian lận, vi phạm pháp luật... tăng dần
lên.
Sự thiếu hiểu biết, tự mãn, sự mất đạo đức cách
mạng của một số người, cùng với bộ máy làm việc chứa đựng những cơ chế quan
liêu chồng chéo, càng làm cho những hiện tượng bệnh hoạn đẻ số. Kết cục thường
như thế này: Khi Nhà nước ban hành một biện pháp khắc phục một yếu kém nào đó,
lập tức phát sinh những hiện tượng khác vô hiệu hoá dần dần hoặc ngay tức khắc
biện pháp đó.
Đó là con đường hình thành sự kiện tỉnh
TháiBình, gây ra vụ án Tamexco, Tân Trường Sanh..; đó là con đường sản sinh ra
và móc vào cái quy chế đầu tư “một cửa” những cái “khoá” mới phức tạp hơn
nhiều, đó là thứ axít (acid) ăn thủng mọi luật pháp và làm rò rỉ những thông
tin đấu thầu... vân... vân...
Đã có nhiều nghị quyết của Đảng và Nhà nước cả
về hai vấn đề đào tạo và sử dụng người, nhưng kết quả việc thực hiện còn rất xa
sự mong đợi. Trên cả hai phương diện đức và tài, chúng ta đang ở tình trạng rất
thiếu người làm được đúng việc được giao, rất nhiều việc chưa tìm được đúng
người thực hiện. Tôi lo rằng chúng ta chưa nhận thức hết sự nguy hại của tình
trạng này. Nguyên nhân chủ yếu không phải là thiếu người, mà trước hết là cách
giáo dục và cách dùng người.
-
vân... vân...
Nghèo và dốt là hai thủ phạm có thể khắc phục
được. Nhưng thủ phạm ngoan cố hơn là: người làm bằng giả - trước hết là các
thày giáo vô lương tâm ký vào bằng giả, là người mua bằng giả, là người và cơ
chế tiêu thụ người mang bằng giả, là cách tuyển dụng vì người đặt việc, tuyển
dụng theo cơ cấu, cơ chế quan liêu trong vận hành bộ máy kinh tế, chính trị và
xã hội, là thói xấu chuộng hư danh... Báo chí, nhiều bài nói, bài viết đã nhắc
đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần câu ghi trong Văn Miếu “Người tài là
nguyên khí của quốc gia...”, thế mà những thủ phạm này không hề trùn tay.
Những thủ phạm này tác oai tác quái tới mức làm
cho thể xác và tinh thần của chúng ta hầu như vô cảm đối với những câu nói cửa
miệng hàng ngày, đại loại như
-
“Cả nước có ai sống bằng lương?”,
-
“Suốt đời phấn đấu không bằng cơ cấu một lần!”...
Đất nước sẽ đi về đâu, một khi những câu nói cửa
miệng ấy trở thành chân lý, trở thành giá trị? Có nnhấn mạnh một trăm lần, một
triệu lần về định hướng xã hội chủ nghĩa, thực trạng này vẫn đồng nghĩa với
sự diễn biến dần dà, sớm muộn cái gì cũng có thể mua-bán được và trì trệ. Cũng
là đồng nghĩa với những quả mìn đặt giờ, hay là những gien mang nhiễm sắc thể
của ung thư được cấy sẵn trong cơ thể của định hướng xã hội chủ nghĩa – chúng có đồng hồ cơ học hay đồng hồ sinh
học riêng của chúng và không thèm đếm xỉa đến sự vô cảm hay nhạy cảm của chúng
ta. Người cộng sản Việt nam phải đủ dũng khí, trí tuệ và sự bình tĩnh cần thiết
đối mặt với thực trạng này.
Xin nhớ lại 18 năm quan liêu tham nhũng tiến
triển và ngự trị ở Liên Xô dưới thời tổng bí thư Brejnev và hệ quả về sau của
sự diễn biến này.
-
Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô vĩ đại như vậy mà có thể sụp đổ do
một nhúm người phản bội? Hay là do tác động của bên ngoài?
-
Xin thưa, không phải thế – một học giả Nga trả lời trong một cuộc
hội thảo ở nước ta. Một dúm người phản bội chắc sẽ chẳng làm nên trò trống gì
nếu như Đảng không bất lực trước nhiều vấn đề trọng đại bên trong và bên ngoài,
nếu như Đảng không tha hoá tới mức dân xa lánh Đảng. Còn một quốc gia, một đảng
cầm quyền nếu như không đương đầu nổi
với bên ngoài thì nó cũng không còn lý do để tồn tại. Nhưng Liên Xô trước đây
và nước Nga bây giờ dù thế nào đi nữa vẫn là một cường quốc, sẽ tiếp tục là một
cường quốc!
-
Vì sao nước Nga hùng cường với nhân dân Nga vĩ đại, 10 năm sau khi
đất nước đổ vỡ, ngày nay nền kinh tế nước Nga vẫn chưa có cách gì đứng dạy
được?
-
Người ta phát hiện ra trong các liên doanh với nước ngoài các nhân
viên người Nga thường theo gương những chính trị gia cỡ lớn hiện nay của họ là
chẳng những cướp bóc những tài nguyên lớn của đất nước mà còn ăn cắp công quỹ
chuyển tiền ra nước ngoài... – một nhà nghiên cứu nước ngoài nhận xét như vậy·.
Xin lưu ý trận bão tài chính tháng 7 năm 1997
trong vài ngày đánh gục nền kinh tế Hàn Quốc, Thái Lan, Inđônêxia... Nguyên
nhân quan liêu tham nhũng đóng vai trò đáng kể trong việc tạo ra nền kinh tế
bong bóng ở những nước này, đồng thời tích tụ những nguyên nhân làm nổ tung
những bong bóng đó... Xin nhớ lại những đổ vỡ ở Pakitstan, Pêru, Brazil,
Đôminic, Nigiêria, Albani (ngân hàng tiết kiệm lừa dân và đổ bể)...
Xây dựng một xã hội mới trong quá trình tiến
hành cuộc cách mạng phát triển, chữ tài nên được xem xét thật nghiêm túc
và đúng với tầm vóc nội dung của nó như vừa trình bày. Giá trị này không thể
tiếp cận và xử lý theo cách nghĩ và làm hời hợt mà trên thực tế cuối cùng chỉ
còn lại là một xáo ngữ “vừa hồng vừa chuyên” như chúng ta thường thấy lâu nay.
Bên cạnh việc phải quan tâm khắc phục những yếu
kém, cần phấn đấu xây dựng một văn hoá
học tập, một ý thức học tập suốt đời và một cơ chế tảy chay sự thiếu vắng loại
văn hoá và ý thức này. Đấy là đòi hỏi để mỗi người, mỗi cơ quan, doanh
nghiệp, đơn vị... luôn luôn theo kịp yêu cầu của phát triển đất nước, theo kịp
cuộc hành trình chung của thế giới đi vào nền kinh tế tri thức.
Tính hiếu học của dân tộc ta là một thuận lợi to
lớn trong sự phấn đấu này. Tuy nhiên, nếu không xây dựng được một văn hoá học
tập như vậy thành một giá trị cao quý trong xã hội, hoặc để cho tính hiếu học
này biến tướng thành học giả, đất nước ta không
chỉ lùi thêm vào lạc hậu mà còn rơi sâu thêm vào lạc lõng.
Tóm lại, đất nước đang rất cần nhiều người tài. Trong bất kỳ lĩnh
vực nào, cấp nào cũng đều thiếu rất nhiều người tài, nhưng nguyên nhân không
phải là không có hay không có đủ người tài. Còn đào tạo và dùng người không
đúng, thì đấy là cách tốt nhất loại bỏ người tài.
Bia trong Văn Miếu ghi Người tài là nguyên khí của quốc gia; cần tránh cho đất nước rơi
vào tình trạng người tài là tài nguyên không dùng được của quốc gia.
Đứng trước nhiệm vụ cách mạng san lấp khoảng
cách phát triển, đức và tài đang là hai vấn đề rất quan
trọng đối với chất lượng hệ thống chính trị và năng lực phấn đấu của toàn xã
hội ở nước ta. Hãy có ý chí thâm nhập cuộc sống thực để nhận chân vấn đề. Hãy
đi vào bên trong các trường học, cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị công tác, chi bộ
đảng... Hãy lắng nghe những câu chuyện quanh bữa cơm ngay trong nhà mình. Câu
hỏi của Hamlet bốn trăm năm trước đây “tồn tại hay không tồn tại?” cũng đang
đặt ra cho từng đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam và từng công dân Việt Nam chúng ta về đức và tài:
Dũng cảm nhận biết cuộc sống thực, hay bán mình cho cuộc sống thực?
V. Nhận thức lại mình
1.
Trước hết phải tự tin hơn nữa vào chính mình
Đây không phải là vấn đề tâm lý, mà là một đòi
hỏi của phẩm chất c ách mạng Việt Nam, của phương pháp tư duy độc lập tự chủ
Việt Nam. Hơn nữa đây còn là một trong những kinh nghiệm sống còn, góp phần làm
nên mọi thắng lợi và thành tựu của cách mạng Việt Nam từ xưa tới nay, nhất là
vào thời điểm đất nước đang đứng trước một bước ngoặt mới để đi vào giai đoạn
phát triển mới.
Trong mọi lĩnh vực đấu tranh cách mạng và phát
triển kinh tế, xã hội ở mỗi thời kỳ khác nhau, Đảng ta đã bao nhiêu lần tiến
hành tổng kết và thường rút ra kết luận: Biết
tổng kết kinh nghiệm của chính mình và của thế giới, để vận dụng các quy luật
một cách sáng tạo theo tư duy độc lập tự chủ, thì giành thắng lợi; còn sao
chép, giập khuôn bất kể điều gì từ bên ngoài, thì thường vấp phải thất bại – và
không ít lần thất bại đau đớn.
Xin kể lại chuyện cũ trước khi bàn
chuyện mới.
...Khi nửa triệu
quân Mỹ và một số quân các quốc tịch khác ào ạt đổ bộ vào miền Nam với tất cả
vũ khí hiện đại thời bấy giờ, để cùng với 1 triệu quân nguỵ tăng cường cường độ
chiến tranh xâm lược, quân và dân ta ở miền Nam đứng trước câu hỏi sống còn:
Đánh giặc bằng cách nào?
Giặc quá đông[86],
trang bị đến tận răng, rất cơ động vì đủ các loại cơ giới, tàu chiến và không
quân hiện đại nhất vào thời bấy giờ, phi pháo của chúng quá nhiều và với được
rất xa, ta mới chỉ xuất quân là chúng có thể phát hiện và diệt ngay trước khi
tới gần được chúng...
-
Trận địa chiến ư?
-
Trứng trọi đá.
-
Nông thôn bao vây thành thị ư?
-
Không biết ai sẽ diệt ai trước để rồi ai bao vây ai?
-
Chổi ngắn không quét được rác xa...
-
Chẳng lẽ đành bó tay?
-
...
Đảng ta đã tổng kết ngay trên chiến trường. Câu
trả lời cuối cùng của quân và dân ta là:
-
Nắm lấy thắt lưng địch mà đánh[87]!
Đây không phải chỉ là tinh thần chiến đấu ngoan
cường, mà còn là một nghệ thuật quân sự siêu việt, có khả năng vô hiệu hoá ở
mức độ đáng kể sức cơ động nhanh và tầm với xa của phi pháo địch, bắt địch đánh
theo cách đánh của ta. Nhưng trước hết quân và dân ta – kể từ từng người chiến
sỹ riêng lẻ cho đến bà má đêm đêm chở xuồng đưa chiến sỹ ta vào áp sát quân
giặc... - phải là những con người mang trong mình những giá trị và ý chí gì mới
dám nắm lấy thắt lưng địch mà đánh. Nắm lấy thắt lưng địch mà đánh bằng 3 thứ
quân, đánh trên 3 mặt trận[88]...
Đó là văn hoá Việt Nam, đó là giá trị Việt Nam...
...Cuối những năm 1980 đất nước lao đao vì khủng
hoảng kinh tế, xã hội trầm trọng và kéo dài. Bên ngoài thì bị bao vây cấm vận,
rồi những biến động ở Ba Lan, rồi đến sự sụp đổ của cả hệ thống thế giới xã hội
chủ nghĩa, không còn nguồn chi viện truyền thống... Một lần nữa vấn đề mất còn
lại đè nặng lên vai đất nước.
Tất cả những vấn đề kinh tế phải giải quyết đều
đối nghịch nhau:
-
Muốn chống lạm phát phi mã, thì không được in thêm tiền, phải cắt
giảm ngân sách, thắt lưng buộc bụng, giảm tăng trưởng.
-
Không in thêm tiền à? Đồng ý. Nhưng ngân sách còn gì nữa mà giảm,
mà thắt, mà buộc? Mì hết rồi, còn phải lấy bo bo ăn thay cơ mà!
-
Muốn không lao xuống vực, thì phải xoá bỏ bao cấp, phải thị trường
hóa, phải tư nhân hoá.
-
Đúng lắm, nhưng xoá bao cấp bằng cách bỏ mặc mọi người ăn lương?
bằng cách đóng cửa xí nghiệp đẩy công nhân ra đường? thị trường hoá bằng cách
treo ở tất cả các cửa hàng mậu dịch quốc doanh một cái biển thật to “Không bán
hàng nữa!”? tư nhân hoá bằng cách nào? ai có tiền để làm tư nhân hoá?..
-
Sợ à?
-
...
-
Cứ thử đi, hiệu nghiệm ngay!
-
...
Đúng là mọi chuyện vào thời điểm ấy rối như canh
hẹ, chúng ta nhận được không biết bao nhiêu lời khuyên. Không biết bao nhiêu
lời khuyên, chỉ nghe đến đã hốt chứ đừng nói tới làm thử. Lại càng không thể
biến cả nước thành cái phòng thí nghiệm! Ai đó ở nước nào đấy có thể làm thử
như vậy, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam tự không cho phép và sẽ không bao giờ
được phép biến cả nước mình thành một phòng thí nghiệm...
Từng bước, từng bước, mọi giải pháp cho những
vấn đề của nước ta phải do nước ta tự tìm lấy... Đây là một thời kỳ đáng được
viết thành nhiều quyển sách. Tôi chỉ xin cố gạn lọc ra mấy ý tôi tâm đắc nhất:
-
Đảng ta nhìn thẳng và sự thật và quyết tâm tiến hành đổi mới, bắt
đầu từ đổi mới tư duy bước khởi đầu là Hội nghị Trung ương 6 khoá IV họp tháng
9 năm 1979.
-
Chấp nhận và khuyến khích các mô hình, các giải pháp có hiệu quả,
tổng kết lại thành chủ trương chính sách. Hai ví dụ điển hình là (a) đi dần
biến “khoán chui” thành khoán thử, rồi khoán 100, đến khoán 10..; (b) đi dần từ
bù giá vào lương từng phần, toàn phần rồi tiến tới giá thị trường.
-
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá VI tháng 3-1988 quyết định
đi vào phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
-
Kiên trì phương châm đẩy mạnh đổi mới trong ổn định.
-
Thực sự cầu thị học hỏi tất cả, không bảo thủ, nhưng luôn luôn
sáng tạo và tư duy độc lập tự chủ.
Như đã nói ở phần I, cuốn sách này không phải là
sách nói về thành tích, càng không phải là tổng kết những năm đầu tiên của đổi
mới – vì tôi không đủ sức; chỉ xin phép nhắc lại cảm nhận riêng của mình: Bước ngoặt của sự nghiệp xây dựng đất
nước bắt đầu từ những bước đi đầu tiên của công cuộc đổi mới.
Trước bước ngoặt ấy là những năm tháng đằng
đẵng, nền kinh tế đất nước triền miên sống trong cơn sốt ác tính của lạm phát
phi mã. Ngày ngày Chính phủ và dân phải lo từ mớ rau, đến cân muối... Con cháu
chúng ta bây giờ chắc không thể hình dung được trong những năm tháng ấy, ...Tết
chưa đến, nhưng từ Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, đến các bí thư, chủ tịch
các cấp, các giám đốc... phải chạy ngược chạy xuôi, lo từng cân gạo nếp, từng
cân đậu xanh, nắm lá dong... Tổng bí thư Đảng cũng phải đích thân đôn đốc mọi
ngành mọi người, để mỗi nhà có được cái bánh chưng... Hầu như sân sau mỗi cơ
quan là nơi mổ lợn, phải chia nhau đến từng cái tai lợn, cái đuôi lợn... vì
thực phẩm khan hiếm quá... Đất nước vừa mới được độc lập thống nhất, nhiều
người chấp nhận mọi hiểm nguy đau lòng, lũ lượt di tản - chủ yếu vì các lý do
kinh tế của đất nước sau chiến tranh và vì những sai lầm chủ quan ở nơi này nới
khác trong bộ máy chính quyền... Biết bao nhiêu người – có đủ các loại bằng cấp
và chuyên môn cao cho đến những người lao động chân tay - bỏ nghề đang làm, xô
nhau đi lao động ở các nước Liên Xô - Đông Âu cũ và những nơi khác, chịu đựng
không ít bao nhiêu tủi nhục. Xin hãy hiểu cho nỗi lòng chua chát của đội quân “ra đi tìm đường cứu nhà cứu nước ...” –
anh chị em này tự gọi mình như vậy – trong đó có mặt một số anh em trí
thức. Những đổ vỡ của nền kinh tế trong
những năm khủng hoảng được làm dịu đi
phần nào là nhờ có sự đóng góp không nhỏ của đội quân này... Những năm tháng
nghèo đi đôi với hèn...
Xin đừng quên những ngày cơ hàn này. Xin đừng bao giờ quên nỗi nhục nước nghèo!
Cũng xin đừng bao giờ quên những sai lầm chủ quan của chúng ta làm cơ cực thêm
sự nghèo hèn này – ngay sau khi đất nước vẻ vang giành được độc lập thống nhất!
Xin đừng quên gánh nặng số phận nước nghèo và nỗi nhục của nó vẫn đang lăm le
cướp đi mọi thành quả cách mạng dân tộc ta đã giành được, muốn nhấn chìm dân
tộc ta và Tổ quốc yêu dấu của chúng ta xuống bùn đen một lần nữa! Xin đừng
quên!
Đảng và nhân dân ta đã bước đầu vượt qua được
những thử thách này. Hơn nữa bây giờ đã có lực, đã xác lập được một vị thế mới!
Mọi việc sắp tới cần bắt đầu từ lòng tự tin vào chính bản thân Đảng ta và dân
tộc ta, nhất là cần nắm bắt bằng được hướng đi và con đường mà công cuộc đổi
mới đã hé mở – với tất cả ý thức sâu sắc về nỗi nhục nước nghèo, với tất cả sự
thấm thía về những bài học, những kinh nghiệm phải trả giá, với tất cả ý chí
dũng cảm và tinh thần tự tin vào chính mình! Hướng ấy, con đường đang được gợi mở ấy là thành tựu lớn nhất của 15
năm đổi mới vừa qua.
Nói là 15 năm đổi mới, nhưng đúng ra mãi tới năm
1989, lúc hình thành xong cơ chế một giá - giá thị trường, đổi mới mới thực sự
bước vào cuộc sống với tất cả sức sống của nó. Trước đấy là các cuộc đấu vật
trầy trật để tìm các biện pháp, các chính sách thực hiện. Ngay trong năm 1989
lần đầu tiên Việt Nam trở lại thế giới với tư cách là người xuất khẩu gạo
sau hơn một nửa thế kỷ vắng mặt. Lạm
phát bị chặn đứng, kinh tế tăng trưởng năng động, thời kỳ 1990 – 1995 tốc độ
tăng trưởng GDP trung bình 8 - 8,5%/năm... Trên thế giới không phải nước nào ra
khỏi khủng hoảng cũng thực hiện được cả hai việc này trong cùng một thời điểm –
nhờ dựa vào mọi kinh nghiệm trên thế giới vận dụng các quy luật kinh tế với tư
duy độc lập tự chủ, một điểm son đáng ghi nhớ mãi, một bài học vô giá.
Xuất khẩu năm 1999 tăng hơn năm lần so với 1990,
hàng hoá ta bắt đầu đi ra đủ các châu lục. Đã có thời nào nước ta làm được như
vậy. Đáng chú ý là đã có 5 hay 6 mặt hàng có kim ngạch vượt 500 triệu USD, vài
ba nhóm hàng có kim ngạch trên dưới 1 tỷ USD, tỷ trọng sản phẩm sơ chế, sản
phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp trong kim ngạch xuất khẩu tăng dần. Việt nam bây giờ là nước xuất khẩu gạo đứng
thứ 3 trên thế giới, xuất khẩu hạt điều đứng thứ 2 và cà-phê robica đứng số 1
thế giới... Đấy là những thành tích rất đáng mừng, đáng tự hào. Nhãn hiệu Việt
Nam đã dần dần được để ý – trong hàng may mặc, da giày, thuỷ sản, một số loại
thực phẩm... Song có một số sản phẩm chắc ít ai trong chúng ta để ý như động cơ
diesel cỡ nhỏ, máy xay xát gạo, máy đuôi tôm (nhưng xin đừng quên toàn bộ những
mặt hàng này mới chiếm khoảng 1% kim ngạch xuất khẩu hàng năm của cả nước), một
số sản phẩm phần mềm trong công nghệ... tuy còn khiêm tốn, nhưng đã có mặt trên
thị trường... Ta chưa thắng hẳn trên thị trường trong nước, song các trận thua
của ta bớt dần, từ cái xe đạp, đến cái quạt máy, một số loại hàng may mặc cao
cấp, một số thực phẩm chế biến, đồ uống... Đánh giá đúng các nguyên nhân, các
mặt mạnh, mặt yếu, chắc chắn sản phẩm nước ta còn đi xa hơn nữa - đây mới chỉ
là bước khởi động.
Số doanh nghiệp hay đơn vị sản xuất trong và
ngoài quốc doanh tự khẳng đinh được mình đông dần, từ Vinamilk, bánh kẹo Hải
Châu, May 10, đến đường Lam Sơn, mô hình
nông trường Sông Hậu, các loại hình kinh tế đa dạng ở huyện Quỳnh Lưu, sản phẩm
phân bón vi sinh Sông Gianh...
Có thể có bạn hỏi tôi tại sao chưa nhắc đến
Vietnam Airline, Petro Vietnam, Bưu điện viễn thông... Đúng là những thành tựu
của 3 ngành này lớn lắm, không có những thành tựu ấy, khó nói đến những thành
tựu của các ngành khác. Thậm chí đấy còn là những mô hình đi thẳng đến hiện
đại. Chúng ta thường nói mãi về đi tắt,
đón đầu... công nghệ mới, sản phẩm mới... Nhưng theo tôi, mãi tới khi 3
ngành này ra đời và trưởng thành, thực tế mới làm rõ ra những bước thực hiện cụ
thể. Đây là cách đi tốt cần nghiên cứu mạnh dạn vận dụng cho những sản phẩm
khác. Tuy nhiên, ta so với ta thì như thế, còn một cách so sánh nữa không thể
bỏ qua, đó là ta so với người. Ví dụ Petro Vietnam ra đời trước Petronas của
Malaixia, được những ưu đãi không kém Petronas; nhưng bây giờ Petronas mạnh
hơn, lớn hơn, vươn ra xa hơn Petro Vietnam nhiều. Vietnam Airline và Bưu điện
viễn thông Việt Nam còn nhiều vấn đề trong cạnh tranh với bên ngoài về giá cả
và chất lượng, phải chạy đua rất căng, nếu không thì lại ngày càng tụt hậu so
với thiên hạ, trong ngành còn nhiều vấn đề, coi chừng kẻo thua lỗ... Xin ba ngành này đừng phật lòng, vì thường là
nghe lời ca ngợi bao giờ cũng dễ chịu hơn[89].
Các thành tựu về mặt phát triển văn hoá, xã hội
nước ta giành được trong thời kỳ này không phải là nhỏ so với nền kinh tế của
một nước nghèo; nhờ vậy nhìn chung năng lực con người – nguồn lực quan trọng
nhất của đất nước - tăng lên đáng kể.
(a) Những thành tựu thay đổi hẳn bộ mặt kinh tế
đất nước, (b) những bước phát triển mới về cơ sở hạ tầng, (c) năng lực con
người được nâng lên, (d) tích tụ thêm được những kinh nghiệm vô cùng quý báu
- theo tôi, đấy là 4 yếu tố cực kỳ quan
trọng cho những bước phát triển sắp tới của đất nước.
So với năm 1989, năm công cuộc đổi mới thực sự
bắt đầu, 4 yếu tố này vào thời điểm hiện nay mạnh lên nhiều lần. Tất cả đạt
được trong vòng 1 thập kỷ. Đấy thực sự là một bước ngoặt quyết định, rất đáng
tự hào. Xin lưu ý, đó chỉ là cách so sánh hiện tại với khởi điểm khi tiến
hành đổi mới, còn so sánh thành tựu đạt được với các nhiệm vụ và thách thức của
đoạn đường đi sắp tới, so ta với người lại là câu chuyện khác. Trong các phần sau tôi sẽ cố gắng
trình bày đất nước đang phải đối mặt với những thách thức gay gắt như thế nào.
Tuy nhiên, nếu chúng ta hiểu hết ý nghĩa những
yếu tố này, tự tin vào chính mình, phát huy mạnh mẽ thắng lợi này, có thể chúng
ta đã giành thêm được một số cơ hội khác, và cách ứng xử của chúng ta đối với
cuộc khủng hoảng tháng 7 năm 1997 trong khu vực chắc sẽ không một chiều bị động
ứng phó như vừa qua – vì về nhiều phương diện, tôi cho rằng cuộc khủng hoảng
7-1997 không phải là của chúng ta.
Trong đánh giặc cũng như trong xây dựng đất
nước, thắng lợi hay thành tựu đều đòi hỏi phải có hy sinh, có trả giá. Tôi vẫn
e rằng chính vì chúng ta đánh giá thấp ý nghĩa những yếu tố quý báu đã tạo ra
được - nói theo ngôn ngữ thời kháng chiến – nên ý chí chủ động tiến công bước sang nửa cuối thập kỷ 1990 bị
chùn lại, nhất là ý chí chủ động đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Phải chăng đây là
nguyên nhân làm nảy sinh những trì trệ mới?
Cần nhấn mạnh là đến năm 1996, những chính sách
và biện pháp được đề ra từ khi bắt đầu tiến hành đổi mới đã làm xong chức năng
của nó; đó là tháo gỡ những trở ngại do khủng khoảng của thập kỷ 1980 để lại và
tạo đà phát triển ban đầu của nền kinh tế.
Từ 1996 quy mô của nền kinh tế đã hoàn toàn khác
xa so với 1989; yêu cầu ổn định đã được thực hiện tốt - vì từ 1993 đã được coi là ra khỏi khủng
hoảng; yêu cầu phát triển ngày càng bức xúc – do tự thân những thành tựu đạt
được và do sức sống mới của nền kinh tế đặt ra. Nền kinh tế của đất nước đã lớn
lên, cái áo cũ đã chật, lẽ đơn giản là phải may đo cái áo mới. Không chỉ có
thế, đất nước đang cần một không gian kinh tế mới - để rèn luyện, phát huy,
phát triển sức tung hoành của nó vào nền kinh tế thế giới toàn cầu hóa... Nhưng
hình như đây lại là điều chúng ta chưa ý thức ngay được, hay chưa ý thức hết!
Từ 1996, tình hình đất nước đã đòi hỏi cần đẩy
mạnh đổi mới lên nấc thang cao hơn, đặc biệt là cần đẩy mạnh cải cách hệ thống
tài chính tiền tệ, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính,
triển khai mạnh mẽ và nhất quán nền kinh tế nhiều thành phần, giải phóng sức
sản xuất, xoá bỏ cơ chế chủ quản, triệt để cải thiện môi trường đầu tư, đẩy
mạnh xuất khẩu.., như đã ghi trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng[90]. Đấy là những đòi hỏi phải đáp ứng, nhằm duy trì đà tăng trưởng và phát triển đã giành
được, nâng cao chất lượng và hiệu quả nền kinh tế.
Rất tiếc rằng những ý quan trọng
như vậy đã được ghi vào nhiều Nghị quyết, đã có nhiều lời cảnh báo của
các nhà nghiên cứu, trước hết là các nhà nghiên cứu trong nước, song trên thực
tế từ sau 1996, đổi mới chững lại, chúng
ta quay về duy trì những bao cấp còn lại ở mức khá cao – chủ yếu dưới hình thức
cấp phát vốn và ban cho “cơ chế” đối với các doanh nghiệp nhà nước, đưa ra
nhiều biện pháp hành chính mới – với chủ ý giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
và nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh. 5 năm vừa qua kết quả thế
nào? Cải cách hệ thống tài chính tiền tệ và cải cách hành chính hầu như dẫm
chân tại chỗ, đồng thời để cho sản xuất thay thế nhập khẩu có xu hướng lấn át.
Hệ quả là từ năm 1996 nền kinh tế tích tụ thêm
những mất cân đối mới, nợ của các doanh nghiệp tăng nhanh, môi trường sản xuất
kinh doanh nói chung xấu dần, đầu tư nước ngoài giảm. Trong tình như vậy, chúng
ta lại phải đối phó với tình trạng nhập siêu quá lớn của năm 1996, và từ đấy bị
động nối tiếp bị động, tốc độ tăng trưởng và phát triển giảm dần; cuộc khủng
hoảng tháng 7-1997 của khu vực phụ hoạ theo bằng cách lôi kéo nền kinh tế nước
ta vào cuộc chơi của nó .
Cũng xin nói thêm rằng, chính trong tình trạng
đổi mới bị chững lại, các biện pháp hành chính nhiều lên, tham nhũng tiêu cực
trong nửa sau của thập kỷ 1990 tăng rõ rệt, tính chất một số vụ việc nghiêm
trọng hơn. Biểu hiện rõ nét nhất là môi trường đầu tư ở Việt Nam trong thời
gian này xấu đi nhiều, FDI vào nước ta liên tục giảm. Báo Nhân Dân ngày
18-3-2000 trên trang nhất có bài viết đặt vấn đề: Một công trình đầu tư làm
theo thủ tục hiện hành phải trải qua 17 khâu, mất khoảng 3-4 năm mới có thể
động thổ khởi công xây dựng; cứ cho mỗi khâu chỉ có một “khoá” thôi, vị chi
cũng là 17 cái khoá, kèm theo biết bao nhiêu tiêu cực; bài báo đặt câu hỏi: có
cách nào rút ngắn thời gian này được không? Nước ngoài bây giờ đánh giá môi
trường đầu tư ở nước ta khá bi quan[91].
Theo tôi, phải tự tin vào chính mình là yếu tố
rất quan trọng, để phát huy những thành quả đã giành được, đồng thời để giành
chủ động - phần nào cũng có nghĩa là
không dao động - trong xử lý những mặt còn yếu kém của nền kinh tế và những
tiêu cực khác. Nói đến phát huy nội lực, trước hết lại càng phải phát huy phẩm
chất tự tin như vậy.
Kết thúc phần này, ước vọng của tôi là:
-
Doanh nghiệp, doanh nhân các thành phần kinh tế phải tự tin hơn
nữa để dám mạo hiểm đi vào thị trường mới, sản phẩm mới.
-
Đảng và Nhà nước cần có các chính sách và cơ chế giải phóng sức
sản xuất, bảo hộ thành quả của người sản xuất kinh doanh, kiên quyết bài trừ
tiêu cực và tham nhũng, giúp doanh nghiệp và doanh nhân tự tin mạnh lên, giúp
họ thực hiện tốt hơn nữa quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh..
-
Đảng và Nhà nước cần tự tin vào chính mình để thực hiện triệt để
và nhất quán nền kinh tế nhiều thành phần, tạo ra sức mạnh của cả nước để khai
thác xu thế toàn cầu phụ thuộc lẫn nhau.
-
Cả nước phải tự tin vào chính mình, dưới sự lãnh đạo của Đảng
quyết tâm nắm bắt con đường phát triển đất nước mà công cuộc đổi mới đã gợi mở.
-
Tăng cường hơn nữa Đảng tin dân và dân tin Đảng.
2. Những vấn đề gay cấn
nhất
Như đã trình bày,
tôi tin tưởng rằng: thông qua mở rộng không gian kinh tế, tích tụ khả năng cho
phép tận dụng tối ưu mọi nguồn lực của thế giới do nền kinh tế toàn cầu hoá đem
lại để phát triển đất nước ta - đó là chiến lược tối ưu để xây dựng đất nước,
theo đuổi khát vọng san lấp khoảng cách phát triển với thế giới bên ngoài. Nói
gắn gọn hơn nữa: Phát triển đất nước thông qua con đường kinh tế mở.
Khái niệm kinh
tế mở đã được đưa vào nhiều văn kiên chính thức của Đảng. Song quả thực
chữ
và nghĩa
còn đang được hiểu khác nhau, nói và làm mỗi nơi càng khác nhau rất nhiều – do
hiểu khác nhau hoặc có chủ ý. Riêng tôi mong muốn khái niệm này được hiểu như
vừa trình bày.
Trước khi đề cập
đến những vấn đề có liên quan đến quan niệm phát triển này, tôi xin nhắc lại: Mở rộng không gian kinh tế là đòi hỏi
sống còn để xây dựng đất nước trong thế giới toàn cầu hoá.
Xin trở lại câu hỏi
đầu tiên: Bằng cách nào?
Câu hỏi này hoàn
toàn chính đáng, nhất là nước ta thuộc nhóm nước nghèo nhất trên thế giới, khả
năng cạnh tranh hiện nay rất hạn chế. Mật độ dân số thuộc nước cao nhất trong
khu vực, GDP theo đầu người ước khoảng trên 300 USD một chút – gần như thấp
nhất trong khu vực (có lẽ chỉ cao hơn Campuchia); các chỉ số bình quân theo đầu
người về ruộng đất, kim ngạch xuất khẩu, năng lượng, nguyên vật liệu... đều
thuộc loại thấp nhất trong khu vực...
Nghĩa là không gian kinh tế cho nước ta trong
phạm vi lãnh thổ của mình quá bé nhỏ, dễ bị các lực lượng kinh tế bên ngoài
mạnh hơn thôn tính, còn nói gì đến chuyện mở rộng... Song hiển nhiên, chính với
không gian kinh tế quá bé nhỏ này, đất nước ta chỉ có một con đường sống là
phải tìm cách mở rộng nó. Câu hỏi Bằng
cách nào? chứa đựng rất nhiều vấn đề gay cấn, và vì thế rất khó trả lời -
nhưng tránh né không được.
Giống như chuẩn bị
trước khi bước vào một chiến dịch, việc đầu tiên là phải đánh giá các thách
thức do nhiệm vụ đề ra và kiểm điểm lực lượng của mình, xây dựng kế hoạch tác
chiến... Hơn nữa đây là một chiến dịch lớn, thực hiện một chiến lược lớn, phải
bắt đầu từ nhìn lại cả thế giới...
Tôi xin phép nêu
lên một vài suy nghĩ riêng về những thách thức khắc nghiệt nhất.
a) Việc làm – thách thức số
một
Theo số liệu thống kê, tỷ lệ thất nghiệp hiện nay trên 7% lao động
cả nước - ước khoảng 2,5 – 3 triệu người, con số này khá cao và có xu hướng
tăng lên từ mấy năm gần đây.
Song còn nhiều vấn đề không đọc được trong số
liệu thống kê nói trên:
Cứ tạm coi mỗi nông dân hàng năm hiện nay có ba
tháng nông nhàn (thực tế là năm, sáu, thậm chí bảy tháng, tuỳ theo vùng và tuỳ
theo nơi có các nghề phụ truyền thống,,,). Muốn xử lý vấn đề này thì ngay lập
tức chúng ta phải tạo ra 8 triệu chỗ làm việc mới. Nếu xắp xếp lại các doanh
nghiệp nhà nước cho hợp lý, kết quả sẽ dôi ra khoảng 1 triệu lao động. Ngoài ra
hàng năm có thêm 1,5 – 2 triệu triệu người đến tuổi lao động hoặc cần có việc
làm – bao gồm cả học sinh ra trường.. Nghĩa là muốn huy động tối ưu nguồn nhân
lực, ngay tức khắc chúng ta cần có khoảng 10 triệu chỗ làm việc mới! Những con
số này sẽ lớn lên nữa theo năm tháng. Vấn đề đặt ra là không phải chỉ cần có
vốn để làm việc này, mà còn phải nghĩ đến đào tạo nghề, sản phẩm làm ra từ gì
và sẽ bán đi đâu, kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội cần phải có, các thể chế
mới về kinh tế và tài chính cần xây dựng, các đối tác trong nước và nước ngoài
cần lựa chọn... để thực hiện tất cả những yêu cầu này...
Với tốc độ tăng
trưởng và phát triển kinh tế khoảng trên
dưới 5%/năm như mấy năm gần đây, áp lực của vấn đề việc làm càng trở nên nguy
hiểm hơn, đẻ ra không biết bao nhiêu vấn đề xã hội khác, đến mức độ nào đó có
thể trở thành vấn đề chính trị. Rất tiếc rằng thực tế này không được nhìn nhận
với đúng mức độ bức xúc của nó.
Như vậy, phải chăng con số thông kê chính thức
công bố hàng năm về tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta không làm rõ được thực tế gay
gắt nói trên? Song gánh nặng của thất nghiệp và những khó khăn đặt ra không vì
thế mà biến đi.
Lao động đơn giản ngày càng mất lợi thế so sánh
vì những lý do đã trình bày, càng thêm khó khăn cho giải quyết vấn đề việc làm.
Con người không có việc làm sao thực hiện được quyền con người và nhân phẩm. Có
thể xem việc làm là quyền con người hàng đầu.
b) Thiếu gay gắt thị
trường
Trước hết là thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm
làm ra. Nguyên nhân có nhiều, song những nguyên nhân chính có thể là: chất
lượng kém, giá thành cao, không cạnh tranh được với hàng nhập lậu, cơ cấu mặt
hàng chưa hợp lý – nhất là tỷ trọng sản phẩm chế biến còn thấp, sức mua trong
nước hạn chế, khả năng tiêu thụ ở nước ngoài khó khăn trên cả hai phương diện:
thị phần giành được (phần quota phân bổ cho nước ta) và sức cạnh tranh sản phẩm của ta. Có quá nhiều nước đang phát
triển và đối thủ cung ứng cho thị trường thế gới những mặt hàng cùng loại như
của nước ta; có những mặt hàng cung vượt cầu... Xin đặc biệt lưu ý
điều này trong các quyết sách của nước ta về phát triển kinh tế – xã hội sắp
tới.
Đọc con số thống kê nước ta có quan hệ buôn bán
với hơn 140 nước trên thế giới, ai mà không phấn chấn? Nhưng tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước lại quá nhỏ, xếp hạng thấp nhất trong nhóm ASEAN7. Tôi
giật mình khi đọc các con số: hiện nay 70% động cơ diesel dùng trong nông
nghiệp là nhập từ Trung Quốc, 25% là động cơ cũ của Nhật, động cơ ta tự sản
xuất chỉ chiếm 5% thị phần trong nước – mặc dù ngành cơ khí nước ta ít nhất có
trên 40 năm tuổi đời[92]! Tôi lại càng kinh ngạc khi thấy một số báo chí, cán bộ của ta cao giọng tuyên truyền
con số 140 nước này! Con số này ru ngủ chúng ta nhiều hơn là chỉ cho ta thấy
điều gì[93].
Trong khi đó nhiều sản phẩm của nước ta chưa thể nói đã có chỗ đứng vững chắc
trên thị trường nội địa và trên những thị trường quan trọng của thế giới. Ngoài
ra còn phải kể đến kim ngach xuất khẩu một số sản phẩm nông nghiệp của ta rất
khó tăng, vì độ co giãn của cầu[94]
rất hẹp và tuỳ thuộc vào thời vụ (ví dụ như cà-phê, gạo...). Thêm vào đó vì
buôn bán chưa giỏi nên còn phải qua trung gian, thua thiệt không nhỏ.
Tình trạng thiếu thị trường còn thể hiện dưới
một dạng khác: Hiện nay có nhiều doanh nghiệp thiếu cơ hội đầu tư, mặc dù ngân
hàng đã liên tục hạ lãi suất cho vay và khả năng huy động vốn có mặt nào thuận
lợi hơn trước. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là thiếu khả năng đi vào sản phẩm mới và
thiếu thị trường tiêu thụ đầu ra, các chính sách khuyến khích chưa ổn định,
quan trọng hơn cả là thiếu thông tin...
Thị trường nhập khẩu, thị trường huy động vốn và
công nghệ từ nước ngoài còn rất nhiều điều phải bàn. Nước ta chưa thật sự với
tới được thị trường gốc, công nghệ nguồn...
Nếu nhìn vào năm 2020 phải xuất khẩu một khối
lượng hàng hoá gấp hàng mấy chục lần hiện nay, phải huy động được một khối lượng FDI gấp 4 –
5 lần 10 năm qua hoặc hơn nữa... thì mới cơ bản đạt được yêu cầu một nước công
nghiệp hoá, vấn đề thị trường lại càng đặt ra những câu hỏi hóc búa. Ngay trước
mắt, lấy lại đã tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của thời kỳ 1990-1995 đã thấy
khó, phải đổi mới rất triệt để mới hy vọng đạt được.
c) Hiệu quả kinh tế thấp,
có nhiều lãng phí lớn
Điều này đã được nói tới trong rất nhiều văn
kiện chính thức của Đảng và Nhà nước ta; song ít nhiều có khuynh hướng coi đây
là lẽ tự nhiên của một nước nghèo, chưa dành những nỗ lực triệt để khắc phục
tình hình này.
Ví dụ, khi nói đến năng suất lao động thấp,
chúng ta thường nghĩ nhiều đến lý do công nghệ lạc hậu, kết cấu hạ tầng thấp
kém, và chừng nào chưa đổi mới được trang thiết bị và nâng cao kết cấu hạ tầng
thì đành bó tay. Trên thực tế có hiện tượng mức sử dụng nguyên liệu, vật tư,
năng lượng trên một sản phẩm ở nước ta cao nhất trong nhóm các nước ASEAN7, có
tài liệu đánh giá mức sử dụng của ta cao hơn những nước này khoảng 30% hoặc hơn
nữa.
Song năng suất lao động thấp còn do nhiều nguyên
nhân khác như quản lý chồng chéo, quan liêu; nếu tính cả chi phí cơ hội ở nước
ta thường rất đắt (hậu quả của “phong bì” và những chi phí vô tích sự khác, phí
tổn thời gian, phí tổn đi lại... và nạn nhũng nhiễu), thì giá thành sản phẩm
của ta càng cao. Đấy là chưa nói đến giá đầu vào – kể từ nguyên vật liêu đến
dịch vụ – cho một sản phẩm ở nước ta so sánh chung với các nước lân cận đều cao
hơn. Quy mô sản xuất lại thường quá nhỏ và tổ chức phân tán, nên càng đội chi
phí giá thành lên[95].
Thị trường tiêu thụ bé, càng thêm nhiều khó khăn. Giả thử có tiền đổi mới trang
thiết bị, nhưng không đổi mới được quản lý, không bớt được chi phí cơ hội,
không tích cực chống quan liêu tham nhũng, không thường xuyên đi vào được sản
phẩm mới.., chưa hẳn đã tăng thêm được khả năng cạnh tranh cho sản phẩm.
Có một loại hình lãng
phí rất lớn, có thể là loại hình lãng phí lớn nhất không thể đo đếm hết được,
đó là lãng phí trong việc huy động và trong phân bổ các nguồn lực.
Trước hết mức tiết kiệm ở vào thời kỳ chuẩn bị
cất cánh như nước ta đang thực hiện khoảng 18% GDP là quá thấp so với những
nước có hoàn cảnh tương tự – vì nghèo đã đành, nhưng còn vì không huy động được
nhiều hơn hay không dám huy động nhiều hơn[96].
Với cách cho các doanh nghiệp nhà nước vay vốn theo chỉ thị như hiện nay của
ngân hàng, thì càng huy động và càng cho vay sẽ càng nguy hiểm.
Để khỏi sa đà quá sâu vào chuyên môn của lĩnh
vực tài chính ngân hàng, tôi chỉ xin lưu ý: huy động vốn mà không phân bổ được
có hiệu quả, nghĩa không mở rộng được đầu tư làm thêm ra nhiều lãi ở phạm vi cả
nước, thì là hiểm họạ. Một cá nhân nào đó, có tiền nhưng không biết làm ăn gì,
nên gửi tiết kiệm để kiếm chút lãi nuôi sống mình là điều chấp nhận được. Nhưng
ngành tài chính ngân hàng cũng chỉ làm như vậy thì kinh tế đất nước
xuống dốc. Nếu càng huy động và cho vay để rồi càng phải đáo nợ, khoanh nợ
nhiều hơn thì thà trả lương cho nhân viên tài chính ngân hàng ngồi chơi còn hơn
là bắt họ làm việc. Song rất tiếc rằng hiện nay nợ của doanh nghiệp nhà nước
đang có xu hướng tăng lên, khối lượng nợ phải “khoanh”, phải “đáo” cũng lớn mãi
lên. Đã có một số bài báo lưu ý vấn đề này, xin được hết sức quan tâm.
Nhà nước, với tư cách là người quán xuyến toàn
bộ nền kinh tế, còn phải tính toán, xem xét, hướng (hiểu theo
nghĩa huy động và phân bổ) từng đồng vốn của toàn xã hội - bao gồm cả mọi nguồn lực chưa sử dụng tới
hay đang được sử dụng chưa tốt của mọi thành phần kinh tế, bao gồm cả việc hút
các nguồn lực lãng phí - để đầu tư vào
đâu và lúc nào là làm ra nhiều giá trị gia tăng nhất, ra nhiều thu
nhập nhất cho nền kinh tế. Nghĩa là để tạo ra tích tụ nguồn lực mới chứ không
phải là ăn lẹm vào vốn ở phạm vi toàn xã hội, để xã hội ngày một giàu có thêm.
Nhà nước cần có những phương tiện và chính sách khuyến khích các chủ thể của
nền kinh tế thực hiện được mục đích này, chứ không phải là người trực tiếp
nhúng tay vào. Đây có lẽ mới là một trong những
nội dung đích thực và quan trọng nhất của vai trò quản lý kinh tế của
Nhà nước, được thực hiện chủ yếu thông qua hệ thống tài chính tiền tệ và phát
triển thị trường vốn[97].
Song trên thực tế hiện nay Nhà nước vẫn còn nặng tình ôm đồm nhiều việc – nghĩa
là còn tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào nhiều khâu trong sản xuất kinh
doanh, còn hào hiệp làm nhiệm vụ trực tiếp cấp phát vốn, cho thêm “cơ chế”,
doanh nghiệp nào nguy quá thì lại cho khoanh nợ, đáo nợ, cấp thêm ít vốn để hà
hơi tiếp sức...[98]
Đó không phải là con đường giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, mà là ngược
lại.
Không kể những công trình phúc lợi xã hội hay
kết cấu hạ tầng Nhà nước không làm thì không ai làm, chắc chắn còn những công
trình đầu tư chưa được tính toán cặn kẽ theo cách nghĩ: cũng đồng vốn ấy, đầu
tư vào đâu, lúc nào ra nhiều lãi hơn cho xã hội. Nước càng nghèo, càng nên chú
ý đến yêu cầu này.
Xin minh hoạ bằng một hình ảnh như thế này: Nhà chưa
phải là giàu, tích cóp tiền mua cái xe máy, nếu cái xe máy ấy giúp cho làm ăn
khấm khá nhanh hơn – ví dụ như để mang được nhiều hàng ra chợ bán, hay đi thồ
hàng thuê để có thêm việc làm.., thì nếu có phải nhịn ăn sáng một thời gian để
tích cóp thì cũng nên làm. Nhưng nếu mua xe máy chỉ vì muốn đỡ phụ
thuộc vào việc đi xe ôm, thì thật là nên cân nhắc lại; thà lấy tiền
ấy nuôi thêm vài lứa lợn, hay cho con đi học một nghề nào đó để sau này tự nó
kiếm ra tiền, nếu có thể cho con học cao hơn nữa thì càng hay... mọi chuyện
khác cao xa hơn sẽ tính dần. Công việc đầu tư của quốc gia cũng nên được xem
xét như vậy.
Để tránh thảo luận chay, tôi xin nêu ra một ví
dụ cụ thể đang có tính thời sự: Đẩy mạnh phát triển kinh tế miền Trung,
miền nghèo nhất của đất nước, như thế nào là tối ưu nhất?
Trước hết phải nói rằng đặt vấn đề đẩy mạnh phát
triển kinh tế miền Trung là hoàn toàn chính xác trên nhiều bình diện. Câu hỏi
đặt ra chỉ là cách làm nào là tối ưu?
-
Xây dựng khu công nghiệp Dung Quất, bắt đầu từ xây dựng nhà máy
lọc dầu Dung Quất?
-
Xây dựng thêm khu kinh tế mở Chu Lai?
-
Vân... vân...
Xin cứ thảo luận rộng rãi trong cả nước để chắt
lọc các ý kiến hay nhất. Chắc chắn sẽ tìm ra được đôi ba phương án thuộc loại
tối ưu nhất để lựa chọn.
Thiển ý riêng của tôi xin được trình bầy tóm tắt
như sau:
Vốn ít, thiếu công nghệ và kết cấu hạ tầng,
trình độ lao động và trình độ quản lý đều thấp, muốn đi nhanh, không có cách
nào hơn là đầu tư tạo ra giá trị gia tăng cho phép tích tụ nguồn lực phát triển
con người, để có khả năng thu hút ngày càng nhiều hơn mọi nguồn lực mà nền kinh
tế toàn cầu hoá của cả thế giới có thể đem lại cho phát triển miền Trung một
cách tối ưu nhất, tích tụ sức lực thực hiện những cú nhẩy vượt. Hơn nữa đến năm
2006, miền Trung nói riêng và cả nước nói chung phải đi vào thực hiện lộ trình
AFTA với thuế suất từ 0 – 5% cho nhập khẩu và nhiều cam kết khác mở cửa khác –
nghĩa là vào thời điểm ấy, cả nước phải là một khu kinh tế mở, chứ không phải
chỉ có riêng khu kinh tế mở Chu Lai...
Vì không có số liệu thống kê, tôi xin nhắm mắt
nói liều: Cả nước chắc còn nhiều công trình đầu tư thuộc trung ương hay của địa
phương chưa đạt hiệu quả cao, hoặc chưa đúng lúc, nhiều công trình đầu tư dang
dở, kéo dài, đầu tư không đúng chỗ, đầu tư chắp vá... rất tốn kém và hiệu quả
thấp. Giả thử có cách gì giảm mạnh những loại công trình như vậy, dồn những
nguồn lực này vào những công trình đích đáng, chúng ta có khả năng tăng lên
đáng kể tốc độ tăng trưởng và phát triển, tính ổn định và bền vững của nền kinh
tế cũng tăng theo, nhiều ách tắc được giải toả. Có thể làm được điều này không?
Nói đơn giản hơn, phải
tìm con đường đẩy mạnh đầu tư tạo công ăn việc làm cho toàn miền Trung, phát
triển kinh tế gia đình, kinh tế hộ, đẩy mạnh thâm canh, tiến dần đến kinh tế các xí nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ tích
cực việc đào tạo ngành nghề, đồng thời phát triển mạnh kết cấu hạ tầng, làm cho
cả miền Trung có nhiều khả năng mới, một mặt tự phát triển những sản
phẩm mới, mặt khác đảy mạnh thu hút đầu tư trong nước và vốn nước ngoài – trước
hết là FDI, sớm tạo ra nhiều ngành nghề mới, có sản phẩm mới, vươn ra chiếm thị trường trong nước, chiếm thị trường
nước ngoài... Hai biện pháp chủ yếu là:
(1) Ban hành mọi cơ chế
chính sách ưu đãi tối đa có thể được
liên quan đến phát triển kinh tế toàn miền Trung.
(2) Ưu tiên đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng cho miền Trung từ vốn ngân sách và các nguồn vốn khác có
thể huy động được.
Nghĩa là đi tìm con đường phát triển miền Trung bằng phát huy mọi
tiềm năng của cả nước – bao gồm cả việc miền Trung tự vươn lên, và trên cơ sở này thu hút mọi nguồn lực bên
ngoài.
-
Còn đi theo con đường đơn thuần xây dựng khu kinh tế mở Chu Lai?
-
Chúng ta hãy ước tính cần bao nhiêu vốn trong nước và nước ngoài,
cần những điều kiện gì và bao nhiêu thời gian để xây dựng được một khu Thâm Quyến
nhỏ ở Chu Lai, khả năng thực thi của phương án này[99]?
Nếu thực thi được liệu một mình Chu Lai có thay đổi được bộ mặt kinh tế toàn
miền Trung không? Thâm Quyến có Hongkong sát nách rất cần thiết cho việc cất
cánh. Khu kinh tế mở Chu Lai có gì? Vân... vân...Theo suy nghĩ và tính toán của
tôi, các câu trả lời đều giống nhau: Không! Ngoài ra còn có nhiều câu hỏi khác
rất đáng nêu lên, ví dụ như: Có phương án nào làm cho kinh tế miền Trung sớm
hoà vào được lộ trình hội nhập chung của cả nước từ nay tới mốc năm 2006 không?
Thị trường cả nước có thể hậu thuẫn kinh tế miền Trung như thế nào? Một số khu
kinh tế biên giới có nhiều triển vọng như Cầu Treo (Hà Tĩnh), Lao Bảo (Quảng
Trị)... có gợi ý nên điều gì không? Giúp cho từng tỉnh miền Trung tự vươn lên -
đại thể bằng những cơ chế ưu đãi đang giành cho Cầu Treo, Lao Bảo.., hoặc những
cơ chế tốt hơn thế nữa theo hướng tăng quyền tự chủ cho các tỉnh miền Trung...
Phương án đưa cả miền Trung hội nhập vào lộ trình của cả nước chuyển sang nền
kinh mở vào thời điểm năm 2006 (AFTA) xem ra hứa hẹn hơn nhiều so với phương án
đơn thuần xây dựng khu kinh tế mở Chu Lai, có đúng như vậy không? Vân... Vân...
-
Còn phương án khu công nghiệp Dung Quất?
Xin trả lời: Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã khởi
công rồi. Nó sẽ là đầu tầu, là mồi, là động lực cho việc phát triển khu công
nghiệp này? Đây là câu hỏi phải tìm câu trả lời. Băn khoăn của tôi là cách tiếp
cận công nghiệp lọc dầu từ khâu thượng nguồn – vào thời điểm mở đầu thế
kỷ 21 và vào hoàn cảnh nghèo vốn của nước ta có thể là cổ điển, phí và đắt quá,
nghĩa là không đúng với phương châm đi
tắt, đón đầu (hiểu theo tinh thần “vận
dụng lợi thế kẻ đi sau” ), giỏi
lắm cũng chỉ tạo ra vài trăm chỗ làm việc bên trong nhà máy và tạo thêm vài
nghìn việc làm bên ngoài khu lọc dầu (dưới dạng hậu cần và dịch vụ đời sống cho
biên chế khu lọc dầu). So với số dân cả vùng Dung Quất những con số này có thấm
vào đâu không? Hơn nữa chi phí vận tải cho đầu vào và đầu ra đều lớn (vì xa),
công nghệ và phương thức quản lý của ta sẽ đặt ra nhiều vấn đề cho hiệu quả
kinh tế của nhà máy lọc dầu Dung Quất, sản phẩm làm ra sẽ cạnh tranh thế nào
đây? Trong khi đó công suất lọc dầu ở Đông Nam A’ quá thừa. Trường hợp nhà máy
lọc dầu Dung Quất không có lãi, sẽ lấy gì bù lỗ? Lấy gì làm động lực, làm mồi
thúc đẩy khu công nghiệp Dung Quất phát triển?.. Ngành khai thác dầu khí đang
làm ra nhiều của cải, giả thử đem đồng vốn ấy mở rộng hơn nữa khai thác dầu khí
trên biển – không phải sẽ là nhất cử
lưỡng lợi mà là nhất cử nhiều
lợi, rồi từ đó kiếm được nhiều lãi dồn cho phát triển kinh tế miền
Trung có thể có lợi hơn không? Còn sau này nếu định từ lọc dầu Dung Quất đi
tiếp vào công nghiệp lọc dầu ở phần hạ nguồn – nghĩa là đi vào công nghiệp hoá
dầu (petrochemie), lại càng cần nhiều vốn, đã đúng lúc chưa?
-
Cách đi này sẽ vượt hay vẫn lẽo đẽo chạy sau thiên hạ? Tôi chưa có
câu trả lời.
-
...
-
Nhưng nhà máy lọc dầu Dung Quất và khu kinh tế mở Chu Lai đã được
quyết rồi?
-
Xin thưa, vì đã quyết rồi, nên xin thay đổi cách giải bài toán:
· Về Chu Lai, tôi nghĩ
rằng ta đã quy hoạch rồi thì cứ giữ đất và không gian theo quy hoạch, để tạo
thế sẵn sàng cho những bước phát triển mới khi điều kiện cho phép - ngăn chặn
trước việc chiếm đất và việc xây dựng lung tung nơi đã quy hoạch là tốt và
không có hại; còn cách xây dựng khu
kinh tế mở thì nên lựa chọn con đường đưa cả miền Trung hội nhập vào
con đường phát triển của cả nước như đã trình bầy trên. Con đường này gian khổ
hơn, song có như vậy mới thu hút được sự hợp tác của bên ngoài - đó là con
đường thực tế nhất và sớm có hiệu quả nhất, dẫn chúng ta tới đích thực thi khu
kinh tế mở Chu Lai. Đảng ta vẫn nhấn mạnh phát huy nội lực chính là vì lẽ này.
· Về Dung Quất: Cần thấy
trước (hay dự phòng) những thách thức sẽ đặt ra cho nhà máy lọc dầu Dung Quất
để lường trước và tìm cách xử lý, để tiết kiệm và thực hiện được phương án xây
dựng tối ưu nhất. Đồng thời, ngay từ bây giờ, trong khi đang xây dựng kết cấu
hạ tầng phục vụ trực tiếp cho nhà máy lọc dầu Dung Quất, nên tập trung sức kết
hợp mở mang kết cấu hạ tầng cho phát triển kinh tế toàn bộ vùng Dung Quất
(bao gồm cả Chu Lai), đồng thời vận dụng mọi biện pháp ưu đãi cao nhất,
tập trung nhất (nhưng không bao cấp) thu hút các nguồn lực trong
nước và nước ngoài cho mục đích này như đã trình bầy trên, bất luận nhà máy lọc
dầu Dung Quất trong tương lai hoạt động như thế nào. Không nên chờ và không thể
chờ đến khi có nhà máy lọc dầu Dung Quất rồi mới tính đến những việc này. Đó là chủ động chuyển từ phương án lấy
nhà máy lọc dầu Dung Quất làm đầu tầu, sang phương án dùng mọi cơ chế chính
sách ưu đãi đặc biệt và mở mang kết cấu hạ tầng làm động lực cho phát triển
toàn vùng Dung Quất. Còn nếu nhà máy lọc dầu Dung Quất có thể đóng góp
tích cực vào mục tiêu này thì càng hay.
· Riêng vấn đề phát triển
kinh tế miền Trung, tôi xin tóm lại: Nội lực phát huy tốt đến
đâu thì khả năng thu hút các nguồn lực bên ngoài lớn đến đấy; cả nước cùng với
miền Trung phát huy và khai thác toàn diện, với hiệu quả cao nhất mọi nguồn lực
của miền Trung, thì sẽ có thể thu hút ngày càng nhiều mọi nguồn lực bên ngoài,
trong một tương lai nhất định sẽ xây dựng miền Trung thành một vùng kinh tế duyên hải trù
phú.
Liên quan đến việc bàn về con đường phát triển
kinh tế miền Trung, tôi xin nêu tiếp vài ý về lãng phí các nguồn lực.
Trước hết xin bắt đầu từ một ví dụ nhỏ, so với
những việc đã xẩy ra lớn hơn thì ví dụ này gần như là một chuyện vặt trong đời
sống kinh tế hàng ngày: Tại một tỉnh nọ, có sẵn một cái chợ buôn bán sầm uất,
nổi tiếng từ bao nhiêu đời nay, đã đi vào câu hát dân gian cả nước biết đến.
Nhưng cái
chợ này cần phải xoá sổ, để bỏ hàng chục tỷ đồng ra xây dựng một cái chợ mới,
cho khang trang hơn, cho to đẹp hơn – quy hoạch đô thị mới cơ mà... Chợ xây
xong lâu rồi, bao nhiêu năm trôi qua rồi, chợ vẫn không làm sao khai thác hết
được cái công suất khang trang của nó. Trong khi đó cái chợ đã thành tên tuổi
trong đời sống văn hoá lâu đời của đất nước, bị khai tử rồi mà vẫn không chết,
lấy dây thép gai rào lại, dân vẫn đến đây buôn bán, dẹp không được, dần dần dây
thép gai cũng phải biến...
Những chuyện vặt đã vậy, những chuyện lớn hơn
thì sao?
Cả nước có 66 khu công nghiệp bắt đầu hoạt động
(trong tổng số 96 khu đã cấp giấy phép), nhưng số khu công nghiệp hoạt động có
hiệu quả có lẽ chưa tới 10 khu. Toàn bộ diện tích đã đưa vào khai thác – nghĩa
là đã có nhà máy, đã có người thuê - của 66 khu công nghiệp này mới chiếm khoảng 20%. Phần lớn số khu công
nghiệp này có những điều kiện thuận lợi lơn hơn nhiều so với Dung Quất và Chu
Lai.
Trong một vùng rất nhỏ của hai huyện Kiên Lương
– Hà Tiên có tới 4 nhà máy xi-măng lò đứng, cả nước có mấy chục lò như thế, giá
thành cao, ô nhiễm môi trường nặng nề. Hơn 40 nhà máy đường mới xây dựng đều
chạy khoảng 2/3 công suất hoặc ít hơn nữa mà sản phẩm vẫn ế đọng, có nhà máy
xây xong thì phải bàn tính đến việc rỡ ra chuyển đi nơi khác. Hiện nay cả nước
công suất cán thép thừa khoảng 1 triệu tấn so với sức tiêu thụ...
Hiện nay ta đang vừa quy hoạch vừa xây hàng chục
cảng biển lớn nhỏ, vốn ít, sử dụng phân tán lại càng phân tán. Nhà nước đã có
một quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống các cảng biển của cả nước, song có
lẽ cần làm rõ các bước phát triển cho từng giai đoạn với sự phân công (Bộ,
ngành, địa phương) hợp lý, để bớt mah mún và bớt công trình dang dở. Trong
khi đó hầu như chúng ta chưa có một chiến lược kinh tế biển đúng tầm – một
trong những lợi thế lớn nhất của đất nước[100]...
Từng tỉnh, từng Bộ cứ xem lại những công việc đã
làm, đang làm, đang nằm trong quy hoạch... Không biết có bao nhiêu chỉ thị,
nghị quyết nhằm cải thiện tình hình nói trên, nhưng kết quả của những biện pháp
hành chính này như thế nào?
Đã đến lúc phải chấm dứt tình trạng manh mún làm kinh tế theo
phong trào, làm kinh tế theo ganh đua chính trị. Tỉnh anh có xi măng thì
tỉnh tôi cũng phải có vật liệu xây dựng; tỉnh anh có nhà máy đường, tỉnh tôi
cũng phải có đường làm từ mía, v...v..? Hiệu quả kinh tế ư? Đến lúc tới thời hạn trả nợ vốn vay làm nhà
máy thì mình nghỉ hưu rồi, để cho bọn con cháu xử lý, lo gì? ...
Đảng ta
vẫn thường nói dân chủ tập trung là một trong những nguyên
tắc lãnh đạo cao nhất của đất nước. Song cách làm kinh tế như trên phải chăng
đang có biểu hiện đi ngược lại với nguyên tắc này ở khía cạnh: quá thiên
về “chủ
động” của cục bộ, mà không đồng thời bám chắc vào những đòi hỏi chung cao nhất
trong chiến lược phát triển và quy hoạch tổng thể của cả nước? Chúng ta cần quyết tâm xoá bỏ làm kế hoạch
kinh tế theo kiểu thời bao cấp ( có người còn gọi là: thời nền kinh tế chỉ huy), cần ra sức phát huy tính chủ động của
từng người lao động, từng cơ sở kinh tế, từng địa phương, từng ngành - đây là
quan điểm đúng. Song thiết nghĩ tất cả phải bám chắc tính phát triển có kế
hoạch thể hiện trong chiến lược phát triển tổng thể, phải vận dụng nghiêm ngặt
đòi hỏi chung cao nhất đặt ra cho cả nước là thường xuyên nâng cao hiệu quả nền
kinh tế và năng lực toàn xã hội, phải tránh manh mún, chùng lặp, tránh làm ăn
theo phong trào (phần nào mang tính chất mạnh ai nấy làm, làm được gì thì cứ
làm chứ không nhìn xem thị trường, kinh tế đòi hỏi phải làm cái gì cần đáp ứng
để giành lấy thắng lợi...). Đòi hỏi tối thượng này lại là dân chủ tập trung cao nhất, là
tính chất xã hội chủ nghĩa nền kinh tế của CHXHCN Việt Nam không thể bỏ qua.
Xin quan tâm nghiên cứu điều này. Đương nhiên chiến lược phát triển tổng thể
phải thường xuyên được xem xét lại và điều chỉnh – nói thì dể, nhưng quả thực
đây là việc rất khó - một trong những nhiệm vụ khó nhất của lãnh đạo đất nước.
Những sự việc trong nền kinh tế nước ta vừa
trình bầy trên có lẽ là sự lãng phí lớn
nhất của mọi lãng phí. Được mở rộng công suất của cái thùng không đáy này, nó có thể đủ
sức nuốt chửng cả đất nước.
d) Vấn đề thay thế nhập
khẩu
Nhiều Nghị quyết của Đảng nói rất đúng và rất
rõ: Đẩy mạnh hướng về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản
phẩm trong nước tự sản xuất có hiệu quả.
Thế nhưng có 3 chuyện lớn đang gây cho kinh tế đất nước nhiều rắc
rối:
-
Một là: có quá nhiều hiện tượng không thực hiện được
nguyên tắc có hiệu quả trong thay thế nhập khẩu, vì có quá nhiều
mặt hàng thay thế nhập khẩu không có sức cạnh tranh nên phải đưa vào lưu kho.
-
Hai là: Nhìn vào tình hình đầu
tư mới, thay thế nhập khẩu có xu hướng lấn át.
-
Ba là: Vì kém hiệu quả, nên áp
lực đòi bảo hộ ngày càng tăng, khả năng cạnh tranh qua đó càng kém hơn, lại đòi
phải bảo hộ nhiều hơn, buôn lậu càng không sao chống nổi.
Chúng ta đã được nghe nói có quá nhiều các địa
phương có xi-măng lò đứng và nhà máy đường, may mặc... Tôi xin nêu hai ví dụ
khác mong được chú ý xem xét.
Ví
dụ 1: Tại sao ngành cơ khí Việt Nam hơn 40 năm tuổi đời chịu để cho
động cơ diesel nhỏ dùng trong nông nghiệp chỉ chiếm 5% thị phần trong nước? Lẽ
ra đây là việc nhất thiết phải làm, nhưng bây giờ nêu vấn đề này ra đã quá
muộn, và không thể xử lý được nữa bằng bất kể một biện pháp hành chính nào;
phải đi tìm một cách tiếp cận khác. Tuy nhiên, ví dụ này cho thấy đây là một
sản phẩm rất đáng và có nhiều khả năng sản xuất
thay thế nhập khẩu – vì (a) ngành cơ khí nước ta đã có cơ sở đáng kể, (b) có
thị trường tiêu thụ của mấy chục triệu nông dân trong nước, nhưng chúng ta lại
không làm được! Nguyên nhân?
Ví
dụ 2: Cả nước ta hiện nay có 11 hãng ô-tô trên thế giới liên doanh dây
chuyền lắp ráp, hoàn toàn dưới dạng CKD (Complete Knock Down – nghĩa là 100%
đầu vào được đưa từ nước ngoài, đây là dạng liên doanh lắp ráp ở mức độ thấp
nhất).
Kết quả là thế này: giá bán tại Mỹ xe Toyota
Corolla 13.000 USD, tại Việt Nam 24.000USD; Daimler Benz là 45.000USD, tại Việt
Nam là 74.500USD; BMW 45.000USD, tại ViệtNam là 78.000USD... và nhìn chung là
giá bán tại Việt Nam các xe cùng loại bằng 289% giá bán tại Mỹ. Lý do: công
suất thực hiện của các dây chuyền đạt mức quá nhỏ nên giá thành quá cao, phải
đánh thuế lên tới 210% để bảo hộ các dây chuyền này. Giá bán tại Việt Nam xe đã
sử dụng đắt khoảng 300-380% so với giá bán tại Mỹ[101].
Kết quả là cả 11 dây chuyền lắp ráp ô-tô ở nước ta đều ở tình trạng ngắc ngoải,
nước ta đã nghèo lại phải mua của đắt. Đau hơn nữa là ta đã nghèo lại phải dành
cho bên nước ngoài hưởng 70% sự bao cấp của chúng ta cho những liên doanh này,
vì tỷ lệ góp vốn của họ thường là 70%!
Suy ra là: Giả thử Nhà nước cần cấp ngân sách
cho một cơ quan hay một doanh nghiệp mua 1 xe ô-tô mới để dùng, Nhà nước phải
chi 3 xe.
-
Như vậy nghĩa là thế nào?
-
Nghĩa là đi đường, nếu bạn phải tránh sang một bên nhường đường
cho một chiếc xe ô tô mới, có nghĩa là bạn đang cùng một lúc phải tránh cả 3
cái. Cái lợi là bạn chỉ cần tránh một xe thôi, hai xe còn lại đã do nền kinh tế
cả nước cõng hộ lên trời rồi.
Đã nhiều lần tôi lân la gạn hỏi cán bộ ta cho rõ
ngọn ngành:
-
Tại sao ta cho các hãng vào lắp ráp xe ô-tô tùm lum như vậy? Hay
là trong lúc còn bị bao vây cấm vận ta có thể tự cho phép mình làm như thế?
-
Họ càng vào nhiều, càng cạnh tranh với nhau, ta càng có lợi. Thua
lỗ họ chịu, lo gì!
-
???
Nhưng giải thích của UNIDO có lý hơn:
-
Đối với một hãng lắp ráp ô tô có tên tuổi có mặt tai nhiều nơi
trên thế giới, mỗi năm lỗ 5 – 6 triệu USD ở Việt Nam chẳng ăn nhằm gì, đã có
chỗ khác bù lại, quan trọng hơn là họ xí chỗ.
-
Nghĩa là nền kinh tế Việt Nam cũng chịu nhận phần thiệt hại về
phía mình để giúp những hãng này giữ chỗ tại thị trường Việt Nam?
-
Các bạn có tấm lòng hào hiệp.
-
???
Theo tôi, nếu các số liệu của UNIDO nêu trong
cuốn Tổng
quan về cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam là chính xác, xe ô-tô nhãn
hiệu 1=3 là một sai lầm mang tính mẫu mực về sản xuất
thay thế nhập khẩu, một phi lý không thể chấp nhận được – nhưng... có lẽ giải
thích được? Ví dụ này cho thấy mô hình
này gây nhiều thiệt hại cho nền kinh tế nước ta, đó không phải là con đường
công nghiệp hoá đáng mong muốn. Đi theo con đường này, nền công nghiệp
ô-tô 1=3
của ta rồi đây sẽ đương đầu ra sao với tổ hợp khổng lồ General Motors – Ford –
Daimler Benz vừa mới quyết định hợp nhất với nhau về cung ứng trên mạng
internet cho thị trường toàn thế giới? Đấy chắc chắn không phải là con đường mở
rộng không gian kinh tế cho đất nước ta. Theo kinh nghiệm trong nhiều năm làm
việc, tôi tin rằng UNIDO thường nghiêm túc với các số liệu điều tra được.
Tổ chức UNIDO của Liên Hiệp quốc đưa ra một
thông tin rất đáng lưu ý: Ngành công nghiệp ô-tô trên thế giới đã tổng kết thành nguyên tắc : GDP
theo đầu người của một nước đạt 1000USD/năm thì công nghiệp lắp ráp ô-tô ở nước
đó mới có lợi nhuận[102],
và phải đạt 4000USD/năm[103]
thì công nghiệp ô-tô ở nước đó mới có thể phát triển nhanh.
Một trong những kinh nghiệm cay đắng của Thái
Lan là ngành công nghiệp lắp ráp ô-tô phát triển rất mạnh trong hơn hai thập kỷ
vừa qua, có loại xe nội địa hoá tới mức 70% giá thành ( nghĩa là lắp ráp IKD –
Incomplete Knock Down ở mức rất cao), thế nhưng vì không xuất khẩu được lấy 1
chiếc nên đã tham gia tích cực vào cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 7-1997.
Xin hãy đọc lại những lập luận trong những luận
chứng kinh tế kỹ thuật bảo vệ cho sự ra đời của 11 dây chuyền láp ráp này và so
sánh với thực tế vừa trình bày trên. Tôi không biết bạn đọc sẽ đánh giá thế
nào, trong đầu tôi chỉ đinh ninh một ý nghĩ:
Đấy
không phải là những ô-tô chúng ta nên đi, hoặc chưa đến lúc chúng ta phát triển
ngành sản xuất ô-tô theo cách như vậy. Và khi đến lúc nước ta có yêu cầu chín
muồi nên phát triển ngành sản xuất ô-tô rồi, thì cũng phải tìm cho mình một con
đường phát triển riêng[104].
Còn bao nhiêu ngành công nghiệp khác đang đi
theo vết xe ô-tô mang nhãn hiệu 1=3 này? Câu chuyện lắp ráp xe máy
gay cấn không kém. Hàng triệu xe máy đang được nhập vào nước ta, gây ra biết bao nhiêu
vấn đề ách tắc và tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, ngốn bao nhiêu tiền
của vốn liếng của xã hội. Thậm chí đất nước đang có nguy cơ thành bãi rác mới
cho sản phẩm này của nước ngoài... Còn hàng điện tử? Hàng tiêu dùng lâu bền?..
Tôi nghi ngờ xí nghiệp liên doanh với Nhật sản xuất chất dẻo PVC công suất khá lớn vừa mới khánh thành có lẽ
cũng sẽ đi theo hướng Nhà nước ta phải ra sức bảo hộ... Thay thế nhập khẩu bằng
những sản phẩm ta tự sản xuất có hiệu quả là một quan điểm đúng, nhưng hiểu và
vận dụng như cách ta đang đi ô-tô nhãn hiệu 1=3 thì đắt quá, đau quá.
Lẽ ra ta cứ tạm thời nhập xe bình thường, lấy tiền chi phí cho 2 cái xe phải
cõng lên trời dùng vào những công việc khác ích lợi hơn, kể cả việc xây dựng
thêm đường xá, phát triển dịch vụ sửa chữa ô-tô, phát triển mạnh cơ khí nhỏ...
v...v... Nhưng cách làm này bây giờ đã bị 11 dây chuyền lắp ráp xe nhãn hiệu 1=3
ngáng đường mất rồi – tháo gỡ không dễ dàng. Có lẽ đây là một trong những kinh
nghiệm nên rất chú ý trong thu hút FDI.
Chúng ta cần chú ý khuyến khích FDI đi vào các
sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, nhưng bằng môi trường đầu tư có sức cạnh
tranh của nước ta, chứ không phải bằng cách bảo hộ sản phẩm của FDI.
e) Chưa thắng được quán tính
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986,
Đảng ta đã đưa ra tư duy “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ
sự thật”. Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 6 khoá VI, Đảng ta nhấn mạnh
chủ trương không công nghiệp hoá theo kiểu cũ;
nhấn mạnh phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là một chủ trương
chiến lược lâu dài, thúc đảy nền kinh tế hàng hoá phát triển, tạo ra sự cạnh
tranh sống động trên thị trường, gắn thị trường trong nước với thị trường thế
giới... Nhiều văn kiện quan trọng tiếp theo của Đảng trong các khoá VII và VIII
đã nhấn mạnh phải quán triệt và thực hiện triệt để chủ trương này.
Đại hội VII đánh giá những chủ trương chiến lược
đề ra từ Đại hội VI là một bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Thực tế cuộc sống đã khẳng định điều này.
Như đã trình bày, những thành tựu đạt được từ đó
đến nay thực sự tạo ra một bước ngoặt trong sự nghiệp phát triển đất nước.
Song nhìn lại những mặt còn yếu kém đã được đề
cập tới, tuy chưa thật đày đủ, trong các phần nói trên, tôi xin rút ra 3 nhận
xét:
(1) Chưa dứt hẳn ra khỏi tư duy kinh tế khép kín,
nên trong chiến lược phát triển còn lúng túng giữa hướng về xuất khẩu và thay
thế nhập khẩu, giữa phát triển kinh tế khép kín với phát triển theo xu thế hội
nhập vào kinh tế thế giới. Sự lúng túng này thể hiện rất rõ trong chiến lược
phát triển công nghiệp, trong công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn.
(2) Chưa đảy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước
theo tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật,
do đó vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh[105]
đang giảm sút.
(3) Cải cách hành chính hoàn toàn dẫm chân tại chỗ
và đã đến lúc thực sự cản trở tiến trình đổi mới để phát triển đất nước.
Phải chăng từ 3 nhận xét này có thể nói: Trên
những phương diện khác nhau và ở mức độ
nhất định, chúng ta vẫn chưa chiến thắng được quán tính của tư duy cũ?
Trước hết xin bàn về nhận xét (1):
Trong phần “Cuộc cách mạng để muộn” tôi đã lưu
ý:
-
Trước đổi mới chúng ta đã lấy quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
làm trọng, thiết lập quan hệ đó rất sớm và dựa vào đó để phát triển kinh tế.
-
Trong đổi mới chúng ta chuyển sang đẩy mạnh phát triển kinh tế của
tất cả các thành phần và mở rộng kinh tế đối ngoại, lấy giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa làm chuẩn.
Theo tôi, sự thay đổi này rất quan trọng và đúng
hướng, đó là sự từ bỏ duy ý chí để trở về với quan điểm cơ bản trong học thuyết
Mác: Bước khởi động lấy phát triển sản xuất làm trọng để điều chỉnh những vấn
đề trong thượng tầng kiến trúc theo đinh
hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó tạo bước phát triển mới cho lực lượng sản xuất...
Có thể đi xa hơn nữa: Đó là sự thay đổi đi từ
lấy xã hội hoá vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất để phát triển sản xuất, chuyển
sang lấy phát triển sản xuất nhằm tạo ra ra những thành quả để thực hiện những
mục tiêu phúc lợi xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó tạo điều kiện
tiếp tục thúc đảy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Điều này hết sức quan
trọng đối với nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, rất nghèo, quá trình
tích tụ vốn nói chung trong toàn xã hội còn rất yếu và khối lượng vốn tích tụ
được còn rất nhỏ, lại phải tham gia ngay vào lúc khoa học kỹ thuật và công nghệ
đạt trình độ phát triển rất cao, phải tham gia ngay vào thời kỳ toàn cầu hoá
rất năng động của nền kinh tế thế giới.
Tuy
nhiên sự thay đổi quan điểm nói trên chưa đến mức trở thành một tư tưởng chiến
lược: công nghiệp hoá, hiện đại hoá, với ý tưởng tạo ra những thành quả kinh tế xã hội để có
nguồn lực tốt nhất phát triển con người, từ đó tạo điều kiện đi nhanh hơn nữa
vào hiện đại hoá, chưa quyết tâm lựa chọn con đường thực hiện ý tưởng: đi tắt,
đón đầu công nghệ hiện đại, hướng sớm vào nền kinh tế tri thức, và hy vọng sau
này đến lúc nào đó sẽ san lấp được khoảng cách phát triển so với thế giới bên
ngoài.
Trong các phần trên tôi đã trình bày: Phát huy
con người nhằm vận dụng được mọi nguồn lực mà nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá
có thể đem lại để phát triển kinh tế nước ta - đó là con đường mở rộng không
gian kinh tế cho đất nước. Chiến lược này dựa trên nguồn lực tái tạo được và
thường xuyên phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong tương lai. Nguồn lực đó là con
người.
Tôi e rằng những bước đi trong công nghiệp hoá
hiện nay chúng ta đang tiến hành là đi theo hướng tìm cách tích tụ từ nền kinh
tế bên trong: Chúng đang lo phát triển công nghiệp lọc dầu, sắp tới trù liệu
phát triển công nghiệp luyện kim, luyện nhôm.., chúng ta đang lo phát triển các
ngành công nghiệp nặng, công nghiệp cơ khí, công nghiệp điện tử... theo cách đi
xe ô-tô mang nhãn hiệu 1=3... Nghĩa là chưa đoạn tuyệt được
với tư duy phát triển kinh tế theo chiều rộng, công nghiệp hoá theo kiểu đầu
thế kỷ 20 mà Hội nghị Trung ương 6 khoá VI đã phê phán! Chắc chắn sẽ có nhiều
lập luận bảo vệ quyết liệt cho chiến lược phát triển này - đại thể như những
lập luận nêu trong các luận chứng kinh tế khả thi bảo vệ cho sự ra đời của 11
dây chuyền lắp ráp ô-tô nhãn hiệu 1=3.
Những ý vừa trình bày trên liên quan đến một vấn
đề rất hệ trọng khác: đầu tư trực tiếp của nước ngoài – FDI. Chúng ta có FDI
góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển kinh tế, tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu. Chúng ta có FDI hay vốn vay tạo ra xi-măng, đường ăn và nhiều
hàng tồn kho khác, chúng ta có FDI tạo ra ô-tô nhãn hiệu 1=3... Có thể nói được
rằng: Chính sách nào thì tranh thủ được FDI và vốn vay ấy. Xin dành vấn đề FDI
và vay vốn cho các nhà kinh tế và học giả chuyên sâu hơn. Trong lĩnh vực này
tôi thực sự chỉ là người ...dựa cột mà
nghe... Nhưng xin nêu lên một nhận xét rất khái quát thế này: Thu hút FDI
hướng vào kinh doanh trên thị trường nội địa nước ta thì không ăn nhằm gì, vì
thị trường nội địa nước ta hiện nay quá
bé nhỏ. Lối thoát chỉ có thể là chấp nhận mạo hiểm tìm cách đi trên con tàu FDI
mang các sản phẩm từ Việt Nam vươn ra các đại dương và đi vào các châu lục,
miễn sao cuộc mạo hiểm này phải tới đích...
Nói gắn gọn: Theo tôi, công nghiệp hoá như đang
tiến hành, sẽ mãi mãi là cuộc chạy đua
chạy theo sau thiên hạ, càng chạy càng xa vời...
Phải chăng vì chưa có sự chia tay dứt khoát với
tư duy công nghiệp hoá theo kiểu cũ mà Hội nghị Trung ương 6 khoá VI đã phê
phán, nên sự lúng túng trong chiến lược phát triển công nghiệp và trong chiến
lược công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn là không tránh khỏi?
Nói khái quát hơn nữa: Chiến lược phát triển đất nước,
nội dung trung tâm là chiến lược công nghiệp hoá, có nhiều vấn đề cơ bản cần
được nhận thức lại mà Hội nghị Trung ương 6 khoá VI đã nêu ra những gợi ý ban
đầu: Không tiến hành công nghiệp hoá theo kiểu cũ! Tôi tin là như thế,
nhất là bây giờ mọi vấn đề phải được xem xét. với con mắt của thế kỷ 21.
Về nhận xét (2)
Có thể nói những bước đi sắp tới của đất nước
phụ thuộc rất lớn vào kết quả tốt, xấu của việc cải cách doanh nghiệp nhà nước
(DNNN). Chúng ta đã bỏ ra rất nhiều công sức, nhưng kết quả chưa như mong muốn:
Số doanh nghiệp thua lỗ nhiều thêm, hàng tồn kho tăng lên, không ít doanh
nghiệp phải giảm công suất và thiếu việc làm, bị hàng nhập ngoại tiếp tục lấn
át, nợ của DNNN nhìn chung tăng theo, không thực hiện được tốt vai trò chủ đạo
với nghĩa là động lực thúc đảy toàn bộ nền kinh tế so với tỷ trọng toàn bộ các
nguồn lực của nền kinh tế bao gồm con người, vốn, công nghệ đất đai và mọi
nguồn tài nguyên khác mà kinh tế quốc doanh nắm giữ. Cần nhìn nhận thực tế này
với tinh thần phê phán của Đại hội VI.
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên có lẽ là:
-
(a) cơ cấu kinh tế quốc doanh được tạo thành vốn dĩ bất hợp lý từ
thời còn nền kinh tế bao cấp – bắt đầu từ chính sách và cơ cấu đầu tư, từ chiến
lược phát triển.., bây giờ càng bất hợp lý so với đòi hỏi phát triển của nền
kinh tế đang chuyển đổi và đòi hỏi của tham gia vào cạnh tranh trên thị trường
thế giới;
-
(b) những ngành ta chú trọng đầu tư trong những năm gần đây sản
phẩm làm ra tiêu thụ trong nước là chính, hàng ứ đọng nhiều, sản xuất càng tăng
càng ứ đọng: đường ăn, xi-măng, thép cán, than, phân đạm, gạch ốp lát, đồ sứ vệ
sinh...
-
(c) hiệu quả kinh tế thấp, giá thành cao, sức cạnh tranh kém,
ngoài ra DNNN rất khó cải cách còn vì có nhiều vấn đề chính trị nhạy cảm, nhiều
vấn đề trực tiếp va chạm đến lợi ích của nhiều người lao động và người quản lý;
những biện nghiêm túc.pháp cải cách vừa không triệt để, vừa không được thực
hiện
-
(d) hướng phát triển công nghiệp còn nhiều điều chưa rõ, nhất là
những vấn đề giữa hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu, vấn đề bám sát xu
thế phát triển và phân công lao động mới trong kinh tế thế giới hiện nay đối
với nước đi sau như nước ta (late comer), vấn đề đi tắt - đón đầu vào nền kinh
tế mới trên thế giới.., cho nên dù thực sự có quyết tâm cải cách DNNN, vẫn còn
nhiều điều lúng túng chưa được suy xét đến cùng để có được chương trình hành động
nhất quán, xuyên xuốt, tránh phải làm đi làm lại.
-
vân... vân...
Phải nói thẳng thắn rằng tại bất kỳ một quốc gia
nào trên thế giới – dù là nước phát triển hay nước đang phát triển, nếu có một
doanh nghiệp hay một bộ phận kinh tế nào đó chứa đựng trong nó một trong những
nguyên nhân nói trên và ở mức độ như ở nước ta hiện nay, là đã tích tụ đủ
nguyên nhân và điều kiện để doanh nghiệp hay bộ phận kinh tế ấy sụp đổ hoặc
phải thay đổi hoàn toàn. Tại nước ta
không có một DNNN nào phá sản và kinh tế quốc doanh không sụp đổ - điều này chỉ nói lên rằng mức độ bao cấp và
các cơ chế ưu đãi dành cho kinh tế quốc doanh ở nhước ta hiện nay rất lớn, đặt
ra nhiều vấn đề lớn: ví dụ, cứ tiếp tục cưu mang than, xi-măng, giấy, đường ăn,
phân đạm, thép, dệt may, gạch ốp lát, vận tải đường sắt... sẽ lấy nguồn lực nào
bù đắp? kinh tế của cả nước sẽ phát triển hay bị đảy lùi? sắp tới sẽ lấy gì trả
nợ nước ngoài? Từ 1992 cho đến nay về cơ bản ta xử lý tốt vấn đề nợ nước ngoài,
song từ năm 2003 trở đi nợ nước ngoài
đến hạn phải trả tăng dần lên, sẽ thêm một gánh nặng mới cho nền kinh tế, phải trù liệu trước tình hình này.
Xin lưu ý, những năm gần đây Đảng và Nhà nước đã
đề ra nhiều biện pháp quan trọng cải cách DNNN; quyết định đổi mới những doanh
nghiệp nhà nước cần nắm giữ - trong đó chủ trương tăng cường hơn nữa hiệu quả kinh tế và chú ý
chống độc quyền – nhưng kết quả thực hiện còn ít lắm. Đảng và nhà nước chủ
trương đảy mạnh cổ phần hoá những doanh nghiệp có thể kinh doanh có hiệu quả
hơn dưới hình thức sở hữu mới; bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp quá nhỏ..,
xoá hẳn bao cấp... Nhưng còn nhiều cách hiểu khác nhau về nội dung cổ phần hoá,
tiến độ thực hiện chậm, nhiều trường hợp không xuôn xẻ, có những trường hợp lực
cản lại chính là những người quản lý tại chỗ, vì vương quốc và lợi ích của họ
bị đụng chạm, thậm chí có người nhân danh bảo vệ chủ nghĩa xã hội, bảo vệ lợi
ích của công nhân... làm trì trệ quá trình này.
Theo tôi, chừng nào chưa hiểu thấu mức độ nghiêm
trọng nói trên, thì chừng đó chưa thể có đủ ý chí đảy mạnh cải cách DNNN.
Để cho nền kinh tế càng thêm nhiều gánh nặng vì
những DNNN không còn đáng được duy trì hoặc nhất thiết phải thay đổi hẳn hình
thức sở hữu và kinh doanh (divestiture) , thì định hướng xã hội chủ nghĩa càng
bị tiêu hao, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh càng giảm sút, đời sống
công nhân viên chức trong những doanh nghiệp này càng khó khăn. Trên thực tế,
gộp lại trong cả nước, đã có một số lượng đáng kể công nhân viên của nhiều
doanh nghiệp thua lỗ chỉ còn có mỗi tên mình ghi trong biên chế, không có việc
từ nhiều năm, không lĩnh lương của doanh nghiệp từ nhiều năm, thậm chí họ hàng
tháng phải đóng một khoản tiền nhất định để được duy trì chế độ bảo hiểm và để
sau này đến tuổi thì có lương hưu. Phi lý này đẻ ra phi lý khác, lại tiếp tục
đẻ ra các phi lý khác nữa, nghĩa là tăng thêm các gánh nặng khác nữa cho nền
kinh tế của đất nước, gây thêm nhiều rối rắm khác trong xã hội...
Cần làm cho toàn Đảng toàn dân hiểu rõ điều này
để gây áp lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình cải cách DNNN. Tại Trung Quốc hiện nay
cũng vậy, song Trung Quốc dám nói thẳng sự thật, dám thực hiện nhiều biện pháp
quyết liệt hơn ở nước ta.
Đã đến lúc chúng ta cần kiên quyết thực hiện
những chủ trương đúng về đổi mới DNNN - xin sẽ được bàn thêm ở phần sau.
Về nhận xét (3)
Ngay từ đầu Đảng ta đã nêu vấn đề kết hợp đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị, giữ vững ổn định để tiến hành thắng lợi công
cuộc đổi mới. Theo tinh thần đó cải cách hành chính được đề ra từ rất sớm,
nhưng thực hiện có lẽ còn ì ạch hơn cả việc đổi mới DNNN.
Phải chăng có thể nhận xét: Tất cả những việc
chúng ta đã làm trong cải cách hành chính là nhằm cải tiến công việc đang làm,
không phải là đổi mới hẳn công việc đang làm. Nhưng ngay cả việc cải tiến này
cũng chưa làm được là bao.
Nhìn chung Nhà nước vẫn còn là người vừa quản lý
vừa ôm đồm nhiều việc lẽ ra không nên ôm đồm, cấp trên còn làm thay nhiều việc
của cấp dưới, cấp dưới còn đùn quá nhiêu việc lên trên cho “ăn chắc”, cơ chế
không ai có quyền quyết định rõ ràng gắn với cơ chế không ai chịu trách nhiệm
rõ ràng... Trong kinh tế, Nhà nước tại nhiều bộ phận, nhiều cấp vẫn chưa kiên
quyết tự xoá bỏ cơ chế chủ quản đã được ghi vào nghị quyết của Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII. Nghĩa là cơ quan quản lý nhà nước vẫn
còn thích làm kinh tế ở những khâu nhất định. Chưa thể nói Nhà nước đã quan tâm
nghĩ đến phương án đổi mới chức năng của mình để làm tốt hơn nữa nhiệm vụ bà đỡ
cho mọi bước phát triển của đất nước. Tư tưởng “nhà nước bà đỡ” này Mác, Lênin
đã đề xuất đến từ lâu rồi.
Toàn bộ bộ máy hành chính của đất nước về nhiều
mặt còn là một bộ máy cai quản, chưa phải thực sự là một tổ chức cung ứng những
dịch vụ công mà người dân muốn được cung ứng hay thuê mướn mà dân đã trả bằng
tiền đóng thuế của mình. Chỗ này chỗ khác, có nơi bộ máy hành chính trở thành
bộ máy cai trị, tham gia hoặc có người của mình tham gia vào các hành vi phạm
pháp, câu kết với những kẻ làm ăn phạm pháp.
Những năm gần đây Nhà nước ban hành khá nhiều
quy định mới để cải thiện môi trường đầu tư, song những quy định này không được
thực thi bao nhiêu, đầu tư trực tiếp của nước ngoài suy giảm liên tục từ năm 1997 (năm 1999 khối lượng FDI vào nước ta
chỉ bằng khoảng 1/2 năm 1998)[106].
Quan liêu tiêu cực trong bộ máy hành chính và triển vọng không rõ rệt về mở
rộng thị trường xuất khẩu là 2 nguyên nhân quan trọng của tình hình này – mặc
dù luật pháp nước ta liên quan đến đầu tư trực tiếp của ngoài khá phát triển[107].
Lẽ ra mỗi công dân phải được cung ứng tốt hơn
các dịch vụ hành chính, giáo dục, y tế, văn hoá, an ninh và các dịch vụ xã hội
khác... Nhưng sự cung ứng này còn rất xa
với quy định của luật pháp và mong đợi của công dân. Còn nhiều hiện tượng xấu
trong đời sống kinh tế, xã hội chưa được ngăn chặn kịp thời, chất lượng xử lý
các vụ án còn nhiều vấn đề phải xem xét. Còn quá nhiều vụ việc kinh tế bị hình
sự hoá, gây thiệt hại không nhỏ và để lại nhiều hậu quả. Đồng thời còn quá
nhiều vụ việc kinh tế thực chất thuộc phạm vi phải xử lý hình sự thì lại không
được xử lý nghiêm khắc. Những năm gần đây vụ việc dân khiếu kiện tăng lên thật
đau lòng...
Lẽ ra mỗi công dân đều phải được cổ vũ trong mạo
hiểm đi vào ngành nghề mới, sản phẩm mới, sáng chế phát minh mới.., phải được
nhận mọi hậu thuẫn và dịch vụ cần thiết của bộ máy hành chính để giành khả năng
thành đạt trong công việc của mình, thì không ít trường hợp họ lại phải quay ra
đối phó, luồn lách đối với bộ máy hành chính. Dân gian nơi này nơi khác đã tặng
cho bộ máy hành chính do mình bỏ thuế ra nuôi cái tên gọi “hành là chính”.
Vân... vân...
Quán tính củng cố, bám giữ và nuôi dưỡng sự tha
hoá, luôn luôn mâu thuẫn với phát triển nội tại của bản thân sự vật, mâu thuẫn
với sự vận động không ngừng của thế giới chung quanh. Nhìn chung quán tính kìm hãm sự phát triển,
làm cho tha hoá thường xuyên đẻ ra tha hoá mới, tất cả hỗn hợp với nhau tạo
thành môi sinh ủ mọi căn bệnh huỷ hoại đất nước. Song hiểm hoạ thường trực là
quán tính tạo ra những thói quen ma tuý
- nghĩa là vô cùng khó dứt bỏ -
và ngày càng làm cho khả năng nhận thức trở nên mờ tối, thậm chí mù
quáng. Trong mọi sự tụt hậu, sự tụt hậu về nhận thức trói tay chúng ta và là
cha đẻ của những thất bại đang xẩy ra hoặc sẽ xẩy ra. Phải chăng điều này góp
phần giải thích tại sao trong khi đất nước giành được những thành tựu to lớn
trong quá trình đổi mới, nhưng đồng thời hệ thống kinh tế - chính trị – nhà
nước ta bị đẩy lùi trên những phương diện xây dựng mới các giá trị văn hoá - xã
hội, tiếp tục bất cập trong nhiệm vụ xây dựng con người và nâng cao năng lực
toàn xã hội mà yêu cầu phát triển mới của đất nước đòi hỏi? Phải chăng đây là
một trong những nguyên nhân trọng yếu giải thích thời kỳ phát triển năng động vừa qua quá ngắn
ngủi (1989-1995). Thậm chí hệ thống chính trị nước ta chính vì chịu tác động
của quán tính này, nên chưa xây dựng được kế sách gì khả thi - ví dụ như để căn bản xoá bỏ “văn hoá phong
bì”, tệ nạn quan liêu tham nhũng, thói làm ăn tác trách, lười biếng và khắc
phục những yếu kém khác trong đội ngũ cán bộ viên chức... Mọi yếu kém này không
thể đổ lỗi cho cơ chế thị trường theo kiểu trăm dâu đổ đầu tằm.
Tóm lại, nhận thức chính xác thế giới mình đang
sống và về chính bản thân mình, bài toán gì khó đến đâu cũng có lời giải. Nhận
thức này là cơ sở cần phải có để xác lập ý chí chính trị không gì lay chuyển
nổi: Mở rộng không gian kinh tế cho đất nước, tất cả cho việc san lấp khoảng
cách phát triển của hai thế kỷ bị đánh mất.
Chiến thắng được quán tính của bao nhiêu năm
chiến tranh kéo dài và của tư duy cũ để xây dựng nhận thức mới là vô cùng gian
khổ. Đòi hỏi này có thể cung cấp cho chúng ta có thêm những ý niệm về cuộc cách
mạng phát triển để muộn. Trong khi đó cuộc sống của đất nước bước vào giai đoạn
phát triển mới với nội dung vô cùng phong phú và đứng trước biết bao nhiêu vấn
đề mới của thời hội nhập quốc tế[108].
[78] Đươc
hiểu theo nghĩa rộng: thị trường, vốn, công nghệ, kỹ năng, khả năng liên kết
liên doanh, việc làm, tranh thủ các nguồn “đầu vào”, mở rộng khả năng tiêu thụ
“đầu ra”, mở rộng thương mại, dịch vụ, giao lưu trí tuệ, giao lưu văn hoá...
Không gian kinh tế của một nước rất bé như Singapore là cả thế giới...
[79]
Tại một số vùng núi còn vấn đề trồng cây thuốc phiện - đây là một lĩnh vực
khác, cuốn sách này không đề cập tới.
[80]
Xin đặc biệt lưu ý: Lâu nay chúng ta sử dụng khái niệm “công nghiệp hoá,hiện
đại hoá”, vế “hiện đại hoá” trong khái niệm này thường chỉ được hiểu bó hẹp
trong nội dung công nghệ của nó.
Theo tôi, hiện đại hoá quản lý nhà nước và xã hội mới là nội dung
cốt lõi nhất của vế hiện đại hoá trong cụm từ công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
[81] Tham khảo những mặt yếu kém nêu trong trang
134, sách đã dẫn “Đổi mới và tăng cường hệ thống chíh trị nước ta...”
[82] Xin nêu hai ví dụ:
1)
Gần đây tivi ta chiếu một số phim Nhật và Hàn Quốc, trong đó tên nhân
vật Ô-sin trở thành một danh từ chung trong ngôn ngữ Việt Nam. Xin miễn bàn ở
đây về nội dung và nghệ thuật những phim này, song điều làm tôi suy nghĩ là
trong hầu hết những phim này đều toát lên sự chú ý gìn giữ những giá trị truyền
thống tốt đẹp của người Nhật và người Hàn Quốc, từ sự lễ độ trong gia đình,
trật tự trong xã hội, đến thái độ tận tuỵ và kỷ luật trong lao động, ý thức
tiết kiệm, ý chí vươn lên làm giàu... Tôi cũng thấy lạ là những phim được chiếu
ở ta này thường ít những pha “giật gân” hay xuồng xã so với một số phim của
ta...
2)
Trong cuốn sách đã dẫn, Thomas Friedmann cho rằng: Mỹ
phải quan tâm đến những vấn đề riêng của mình như tỷ lệ trẻ em ngoài giá thú
quá cao, giáo dục tồi ở cấp phổ thông, không quản lý được súng đạn và bạo lực,
tỷ lệ tiết kiệm thấp, kiện tụng quá nhiều, hệ thống kiểm soát việc đóng góp
(tài chính?) cho chính trị quá lỏng lẻo, nhất là điều nước Mỹ cần phải sợ là tính không biết sợ...
[83]
Trong tài liệu “So sánh môi trường đầu
tư của Việt Nam với Trung Quốc đại lục...”, viết tháng 1-2000, tiến sỹ Dương
Đại Ninh, chủ nhiệm khoa Viện Nghiên cứu quản lý doanh nghiệp quốc tế của
trường đại học Văn hoá Trung Quốc, Tổng thư ký “Hiệp hội nghiên cứu doanh
nghiệp đa quốc tịch Trung Hoa Dân quốc”, Đài Loan, lưu ý một trong những nhược
điểm của Việt Nam là “văn hoá phong bì thịnh hành”, người đầu tư
nước ngoài không biết đường nào mà lần, mặc dù Việt Nam có một hệ thống luật
pháp khá phát triển...
[84]
Xin đừng hiểu lầm là xây dựng những luật pháp hà khắc, mà đấy là những luật
pháp khiến cho mỗi công dân thấy rằng tuân thủ luật pháp thì lợi ích của chính
mình được thực hiện tốt hơn là tìm cách làm trái luật. Ví dụ trong chính sách
thuế ở một số nước phát triển có nhiều biện pháp khác trong những vấn đề bảo
hiểm và phúc lợi xã hội ràng buộc mật thiết với vấn đề mức đóng thuế, khiến cho
việc trốn thuế hại nhiều hơn lợi...v...v...
[85] Tham
khảo sách đã dẫn của Thomas Friedmann.: ý nói phát triển bừa bãi theo mô
hình nạn ách tắc xe cộ trên đường phố
Bangkok; văn hoá kiểu món ăn đơn điệu McDonald, văn hoá giải trí Disneyland: ý
nói là văn hoá tiêu thụ được Mỹ hóa và không có chiều sâu tâm hồn.
·
Tại Hội nghị BCHTWƯ Đảng CSLX tháng 10-1989, bàn về xây dựng diễn văn kỷ niệm
72 năm Cách Mạng Tháng 10, Rưgiơcốp, Uỷ
viên Bộ Chính trị (lúc đó là Thủ tướng) phải đưa ra nhận xét: “Tình hình kinh
tế ngày càng xấu đi, không thể làm tốt hơn được, thời kỳ khó khăn sẽ đến, các
cuộc biểu tình (chủ yếu của công nhân và nông dân ở một số địa phương trong
Liên bang do đời sống kinh tế khó khăn – NN chú thích) có thể đẩy chúng ta đến
chỗ huỷ diệt”. Nội dung diễn văn do Uỷ viên Bộ chính trị Criuchơcốp, Chủ tịch
Uỷ ban An ninh Quốc gia Liên Xô (sau này
ông còn là Chủ tịch Uỷ ban Quốc gia về Tình hình khẩn cấp - một tổ chức gồm nhiều người cộng sản giữ
cương vị lãnh đạo kỳ cựu và kiên định, được lập ra để cứu vãn Liên Xô đên giờ
phút cuối cùng, chống lại Goócbachốp và Ensin) soạn thảo, có đoạn viết:
“...Cùng với những mặt tích cực, chúng ta rút được những kinh nghiệm cay đắng
của lịch sử. Đó là những hậu quả tàn phá nặng nề của chủ nghĩa Xtalin làm biến
dạng chủ nghĩa xã hội, bóp méo học thuyết Lênin. Việc vội vã từ bỏ Chính sách
Kinh tế mới (của Lênin – NN ghi chú) rõ ràng không có cơ sở và gây thiệt hại
lớn, việc áp đặt chế độ hành chính mệnh lệnh đã gây ra bao tổn thất cho nền
kinh tế, làm cho tình hình xã hội căng thẳng. Tệ sùng bái cá nhân đã làm cho các
chuẩn mực của chính quyền nhân dân bị xuyên tạc đến mức không thể nhận ra
nữa...” Hai năm sau, cuối năm 1991,
Liên Xô tan rã. Ngồi trong nhà tù dưới
thời Ensin, Criuchơcốp viết cuốn hồi ký
mang tên “Hồ sơ cá nhân” (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, phát hành năm 1999), nêu lên biết bao nhiêu
ví dụ về khó khăn kinh tế về các vấn đề sắc tộc, về những mâu thuẫn kinh tế
chồng chéo giữa các nước xô-viết trong Liên bang kéo dài hàng chục năm, những
bất cập của lãnh đạo, đặc biệt là sự tha hoá trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo
Liên Xô trong những năm cuối cùng của chính quyền Xô viết, - một trong những ví
dụ tiêu biểu là: chủ tịch mới của Uỷ ban An ninh quốc gia Liên Xô, Bakatin, đã
chuyển giao hay bán cho đương kim đại sứ Mỹ là Robert Straws toàn bộ tài liệu
những phương tiện kỹ thuật được cài đặt để thu tin trong toà đại sứ Mỹ vừa mới
xây dựng xong ở Mátscơva... Cho dù quan điểm và cách nhìn vấn đề của Criuchơcốp
như thế nào, song trong cuốn sách này ông cũng nêu lên được những ví dụ cụ thể
về những hậu quả nặng nề do cải cách tuy vô cùng bức thiết nhưng không được
chuẩn bị thấu đáo, ăn sống nuốt tươi những mô hình sao chép từ bên ngoài, sự
phản bội của một dúm chính trị gia cơ hội,
sự vơ vét đầy tội ác trong quá trình tư nhân hoá của một số người nhân
danh cải cách, sự can thiệp thù địch từ phía bên ngoài... Đọc xong cuốn sách
này, suy nghĩ riêng của tôi là: Sự thù địch của các thế lực đế quốc bên ngoài
là thường trực, song trên hết và trước hết nếu không có những sai lầm nghiêm
trọng, những bất cập bên trong, và nhất là nếu lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô
không có quá nhiều phần tử sa đoạ, có lẽ không nhất thiết phải xẩy ra kịch bản
đau lòng Liên Xô đổ vỡ 1991.
[86]
Một số nhà nghiên cứu trên thế giới, kể cả ở Mỹ, đẫ kết luận: mật độ lính Mỹ –
nguỵ trên chiến trường miền Nam Việt Nam vào thời kỳ này còn cao hơn mật độ
lính Đức quốc xã vào lúc cao điểm của chiến tranh thế giới lần thứ II.
[87]
Đây còn là bài học vô giá về công tác tổng kết, từ người chiến sỹ đến cấp chỉ
huy cao nhất. Khẩu hiệu này sẽ mãi mãi sáng ngời cùng với tên tuổi đồng chí Đại
tướng Nguyễn Chí Thanh.
[88] 3
thứ quân: quân chính quy, quân chủ lực địa phương, dân quân du kích tại chỗ; 3
mặt trận: mặt trận quân sự, mặt trận chính trị, mặt trận ngoại giao.Chiến tranh
đã qua đi 1/4 thế kỷ, có thể trong thế hệ con em chúng ta ngày nay có người
chưa biết điều này.
[89]
So với Trung quốc giá điện của nước ta cao hơn 25%, giá nước cao hơn 71%, giá
cước điện thoại quốc tế cao hơn 136%, giá vé hàng không đắt hơn nhiều nước, giá
dịch vụ đắt, nhiều chi phí khác có liên quan cho sản xuất vì nhiều nguyên nhân
nên rẻ hoá đắt, lại thêm nhũng nhiễu phiền hà, nên rất đắt; trong vòng 3 năm
trở lại đây cái được coi là lợi thế của nước ta vuột mất khỏi tay... Tham khảo
báo Lao Động ngày 17-5-2000. Giá cước
phí thuê bao internet của ta đắt gấp 5 lần Thái Lan, 10 lần Singapore và 100
lần của Mỹ!
[90]
Tham khảo Ngị quyết Đại hội VII (1991), Báo cáo chính trị tại Hội nghị đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994), Báo cáo chính trị tại Đạih Hội VIII.
[91]
Tham khảo một số tài liệu, báo chí nước ngoài; trong đó có bài của Davice O.
Dapice, Viện nghiên cứu phát triển quốc tế của trường Đại học Haward “Sức cạnh
tranh toàn cầu của Việt Nam – những ngọn cở cảnh báo” viết tháng 12-1998; tạp
chí The Economist, London, số 8-14 tháng 1-2000 “Foreign Direct Investment:
Good Night, Vietnam!” (“Đầu tư trực tiếp của nước ngoài: “Chúc Việt Nam ngủ
ngon!”).
[92]
Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
1999, tr. 254.
[93]
Cũng là cách thống kê, ví dụ chúng ta đưa ra con số: tổng kim ngạch xuất khẩu
hiện nay (1999) của Thái Lan gấp 5 lần
của ta, mặc dù dân số Thái lan bằng 3/4 dân số nước ta; tổng kim ngạch xuất
khẩu Xinhgapo gấp 12 lần của ta, mặc dù dân số
nước này chỉ bằng 4% dân số nước ta, chúng ta sẽ có cách nhìn khác.
[94]
(Demand elasticity) Đối với một số sản phầm nào đó, vị như đướng ăn, thịt,
cà-phê, gạo... dù đời sống người tiêu dùng có cải thiện được đến mấy hay sa sút
thì khả năng tiêu thụ những sản phẩm này không co giãn bao nhiêu; bạn dù nghèo
hay giàu lên mạnh, thì một ngày cũng chỉ có thể tiêu hoá nổi 300-400gam thịt là
cùng. Người ta gọi đó là những mặt hàng có độ co giãn của cầu không đáng kể
hoặc cầu ít co giãn. Do cà-fê được mùa, giá thị trường thế giới hiện nay giảm
trên 40%... vân vân...Trong một số mặt hàng công nghiệp khác cũng có hiện tượng
này. Người sản xuất kinh doanh cần chú ý đến điều này để quyết định công việc
của mình.
[95]
Xin đừng hiểu lầm với loại hình xí nghiệp nhỏ và vừa mà Nhà nước ta rất nên
khuyến khích. Xí nghiệp quy mô nhỏ và
xí nghiệp nhỏ và vừa là hai khái niệm
khác nhau. Ví dụ một dây chuyền lắp ráp xe ô-tô chỉ có công suất vài chục
cái/năm thì đó là xí nghiệp quy mô nhỏ, quá nhỏ, và không thể có cách gì làm ăn
có lãi.
[96]
Khi các NICs ở và thời kỳ phát triển ban đầu như nước ta hiện nay, tỷ lệ tiết
kiệm của họ thường khoảng 30% GDP. Theo tôi, tỷ lệ tiết kiệm/GDP ở nước ta hiện
nay tương đối thấp không phải vì quá nghèo, vì dân ta tiêu sài hoang phí, mà có
lẽ do nhiều nguyên nhân khác, trong đó có các nguyên nhân kinh tế vĩ mô: ví dụ
còn thiếu những biện pháp cần thiết thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành
phần phát triển, chính sách thuế, các khuyến khich và hỗ trợ sản xuát kinh
doanh, vấn đề đất đai... Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ (của Hiệp hội
ngân hàng Việt Nam) các số ra trong quý I-2000 có nhiều bài nói về tình hình
một số ngân hàng thương mại phải hạn chế mức huy động vốn vì khó cho vay.
[97]
Hệ thóng tài chính tiền tệ – bao gồm cả thị trường vốn - thuộc những điểm yếu
nhất trong hệ thống kinh tế và hệ thống quản lý nhà nước của nước ta hiện nay.
Những yếu kém của hệ thống này vừa gây lãng phí lớn, vừa kìm hãm nền kinh tế,
vừa tiêu hao nhiều khả năng đề kháng của nền kinh tế trước mọi sóng gió từ bên
ngoài. Thiếu vắng một hệ thống tài chính tiền tệ mạnh mẽ, mục tiêu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước ta càng xa vời trong thế giới cạnh tranh khốc liệt
ngày nay.
[98]
Trên phương diện vĩ mô, Nhà nước của chế độ ta có trách nhiệm rất lớn trong
việc thông qua thị trường tạo ra những công cụ làm cho mọi nguồn lực của toàn
xã hội phải phát huy hiệu quả tối ưu, bao gồm các việc thu hút các nguồn lực
nhàn rỗi hoặc những nguồn lực không được sử dụng có hiệu quả cao, để phân bổ cho những sản phẩm đang lên, những
sản phẩm mới có triển vọng... Một doanh nghiệp nếu hoạt động tốt sẽ thường xuyên
nhận được cơ hội để phát triển, đồng thời phải hoạt động thường xuyên dưới sức
ép nếu hoạt động tồi vốn sẽ bị rút đi, thậm chí phải đóng cửa, doanh nghiệp ấy
sẽ không có lý do để lựa chọn con đường trì trệ... Một trong những công cụ ấy
là thị trường chứng khoán được tổ chức tốt, hoạt động tốt và được kiểm tra tốt.
[99]
Trong 5 – 6 năm đầu tiên Trung Quốc mỗi năm đầu tư trung bình hơn bù kém khoảng
1 tỷ USD cho việc phát triển kết cấu hạ tầng và xây dựng một số cơ sở ban đầu
cho khu Thâm Quyến, khoảng 8 – 9 năm sau khi khởi công khu này mới bắt đầu đi
vào hoạt động thực sự. Tình hình hoạt động cac khu công nghiệp ở nước ta đã xây
dựng và đã đưa vào hoạt động cũng có thể cung cấp những thông tin rất đáng tham
khảo cho khu kinh tế mở Chu Lai.
[100]
Xin
kiến nghị đừng bỏ qua vấn đề trọng đại này.
[101]
Sách đã dẫn: Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam, tr. 227-228.
[102]
Theo tính toán của UNIDO, nếu ta đạt tăng trưởng GDP 14%/năm thì đó sẽ là năm
2005; nếu là 5%/năm thì sẽ là năm 2020. Sách đã dẫn, tr. 220.
[103]
Theo tính toán của UNIDO, nếu ta đạt tăng trưởng 14%/năm thì đó sẽ là năm
2016, nếu là 5%/năm thì đó sẽ là năm
2029. Sách đã dẫn, tr. 220.
[104]
Tôi xin đề nghị bạn đọc nên tìm đọc cuốn sách đã dẫn “Tổng quan về cạnh tranh
công nghiệp Việt Nam”. Cuốn sách này còn nêu nhiều ví dụ khác rất đáng quan tâm
nghiên cứu.
[105]
Lâu nay chúng ta sử dụng khái niệm “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”, coi
DNNN hay kinh tế quốc doanh chỉ là một bộ phận của khái niệm này. Xin bàn vấn
đề này vào một dịp khác.
[106]
Tham khảo các báo cáo nghiên cứu của World Bank, IMF và các tài liệu của Tiểu
ban Nghiên cứu phục hồi kinh tế châu A’, Nhật, xuất bản trong năm 1999.
[107]
Nhiều lần giới đầu tư nước ngoài nói thẳng với chúng ta: Luật đầu tư trực tiếp
của nước ngoài được cải tiến nhiều, song điều họ quan tâm hơn là môi trường đầu
tư lành mạnh, minh bạch và có sức cạnh tranh.
[108]
Khi đọc lại bản thảo tới đoạn này, tháng 10 năm 2000 có 2 sự kiện trên thế giới
làm tôi chú ý:
·
Cuộc không tập
tàn bạo chưa từng có của NATO vào Kosovo làm cho Milosovic trở thành
biểu tượng bất khuát của Nam Tư. Song chính con người này phải ra đi trong cuộc
bầu cử tháng 9-2000, mặc dù Milosovic đã
làm mọi cách để nắm giữ quyền lực – kể cả việc chỉ thị cho Toà án Hiến pháp của
Liên bang Nam Tư ra quyết định huỷ bỏ kết quả bầu cử. Những nguyên nhân chủ yếu
nhất nằm ngay trong hệ thống quyền lực của ông ta và trước hết từ ông ta.
·
Sự kiện thứ hai là bước phát triển vượt mọi suy đoán
của quan hệ Mỹ – CHDCND Triều Tiên qua chuyến thăm Mỹ của Phó nguyên soái Cho
Myong Rok và chuyến thăm CHDCND Triều Tiên của ngoại trưởng M. Albright. Tôi
nghĩ rằng, có thể nói quyết định chiến lược của Chủ tịch Kim Chơng-in làm cho
mọi đối tác và đối thủ của Cộng Hoà Dân chủ Nhân Dân Triều Tiên – dù là siêu
cường hay không phải siêu cường, đều bất ngờ. Các đối thủ hay đối tác này đều
phải hợp tác với CHDCND Triều Tiên – dù là sự hợp tác thiện ý hay sự hợp tác
với bất kỳ ý đồ nào. Đó là bất ngờ lớn tiếp theo bất ngờ lớn về cuộc họp thượng
đỉnh 2 nguyên thủ Triều Tiên.
Hai sự
kiện bất ngờ trong tháng 10 này một lần nữa phản ánh biết bao nhiêu đổi thay
đang diễn ra trên thế giới và trong từng nước mà nhận biết của tôi không theo
kịp. Không thể nào bỏ qua câu hỏi những yếu tố gì bên trong CHDCND Triều Tiên
và trên thê giới tạo ra những sự kiện này? Chủ tịch Kim chơn-in đã làm gì để có
thể đi tới quyết định này?.. Tôi còn muốn đi xa hơn nữa: bàn cờ thế giới ở khu
vực Đông A’ và châu A’ – Thái Bình Dương lại xuất hiện những thay đổi mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét