Nền kinh tế mới toàn cầu hoá
Cơ hội và thử thách đối với các nước
đang phát triển
Trần Quốc Hùng
5/2000
I - Giới thiệu
Nền kinh
tế toàn cầu (KKTC) cơ bản có nghĩa là tự do mậu dịch và tự do được diễn ra trên
phạm vi toàn cầu. Nói một cách chi tiết hơn, tiến trình tiết kiệm, đầu tư, sản
xuất, phân phối và tiêu thụ diễn ra trên phạm vi toàn cầu, vượt ra biên giới
quốc gia. Trong khoảng thời gian 40 năm trước Thế Chiến I, nền kinh tế thế giới
tương đối tự do, ít kiểm soát, di dân cũng dễ dàng. Lượng thương mại và đầu tư
thế giới cao so với GDP lúc ấy.
Tỷ lệ xuất khẩu hàng hoá trên GDP của toàn thế
giới là 6% trong năm 1890; 9% trong năm 1913 so với 10% trong năm 1970 và 13%
trong năm 1990. Tỷ lệ khối đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) trên GDP là
18.6% trong năm 1900 so với 17.7% năm 1980 và 56.8% trong năm 1995. Nói chung
nền kinh tế thế giới lúc bấy giờ mang nhiều nét tiêu biểu cho khái niệm KTTC.
Yếu tố làm KTTC cuối thế kỷ 20/ đầu thế kỷ 21 khác về lượng và phẩm đối với
KTTC cuối thế kỷ 19, cũng như giúp phát huy hết tiềm năng của khái niệm này, là
sự tiến bộ vượt bực và sử dụng phổ biến công nghệ thông tin (CNTT), đặc biệt là
Internet; công nghệ viễn thông (CNVT); và nói chung trong lãnh vực giao thông
vận tải. CNTT tăng khả năng và giảm thời gian trong việc tính toán và xử lý dữ
liệu; vì thế nó giúp giảm giá thành trong các hoạt động kinh tế. Khi mạng
Internet được nối trên khắp thế giới, thành mạng toàn cầu (World Wide We:WWW),
nó đã thay đổi cách tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp, nâng cao năng
suất và tính cạnh tranh của chúng. Hiện nay, với những tiến bộ về mọi mặt,
CNTT/Internet và CNVT đã tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ và kỹ nghệ mới, cũng
như đã thu nhỏ quả đất lại và thay đổi dần nếp sống, nếp nghĩ cũng như cách làm
việc và giải trí của xã hội. Nó tăng sự cạnh tranh và tính trong suốt
(transparency) của nền kinh tế; giúp quá trình khám phá giá được nhanh chóng và
hữu hiệu hơn; giảm giá thực hiện dịch vụ (transaction cost – còn gọi là chi phí
cơ hội). Nền kinh tế mới toàn cầu hoá (TCH) ngày càng được thể hiện rõ nét, và
đã trở thành nhân tố tích cực nhất để cải cách nền kinh tế cũ.
Bài viết
này tìm hiểu một số cơ sở kỹ thuật của nền kinh tế Internet và tác động của nó
đối với sự hình thành và phát triển của Thương Mại Điện Tử; phân tích ảnh hưởng
của chúng đối với nền kinh tế mới toàn cầu hoá, qua 10 nét biểu hiện đặc trưng;
đánh giá những cơ hội và thử thách được đặt ra cho các nước đang phát triển
thích hợp trong thời đại này.
II - Cơ sở kỹ thuật của nền Kinh tế Internet
Nền kinh
tế Internet được hình thành bởi sự tiến bộ vượt bậc và sự hội tụ của các ngành
công nghệ vi tính, viễn thông, số hoá (digitalisation) và Internet/WWW; cũng
như việc áp dụng phổ biến các công nghệ này trong mọi hoạt động kinh tế và xã
hội [1 và 14]. Những tiến bộ và phát minh không kém thần kỳ trong công nghệ
sinh học, nhất là di truyền học (Genetics), cũng đang cách mạng hoá nhiều lĩnh
vực trong đời sống như y học, dược phẩm và canh nông. Tuy nhiên chúng không ảnh
hưởng trực tiếp đến việc thay đổi cách thức làm việc, tổ chức kinh doanh để
hình thành nền kinh tế mới.
·
Công nghệ chip điện tử phát triển mạnh, làm cho khả năng
tính toán và xử lý dữ liệu tăng bội phần, trong khi giá thành ngày càng rẻ mạt.
Theo định luật của Gordon Moore, cứ sau mỗi 18 tháng, khả năng xử lý của chip
vi tính tăng gấp đôi; còn giá tình toán thì cứ mỗi năm giảm 25%. Hiện nay. PC với bộ vi xử lý
(micro-processor) có vận tốc 1 Gigahertz (1 tỷ chu kỳ trong một giây) đang được
tung ra thị trường. Intel vừa giới thiệu chip có vận tốc 3.3 Gigahertz, được
đặt tên là Willamette. Sau đó, IBM tuyên bố chế tạo được chip có vận tốc 3.3
Gigahertz, nhanh gấp 5 lần và tiêu thụ một nửa số năng lượng so với loại chip
nhanh nhất đang được sử dụng hiện nay. Các chip và bộ vi xử lý ngày càng được
thu nhỏ kích thước, chuyên môn hoá, và dùng rất ít năng lượng. Chúng được ghép
vào máy tính, các dụng cụ cầm tay và các máy móc, đồ dùng khác, để làm ra các
thế hệ dụng cụ mới, “tinh khôn” hơn, không những chỉ để phục vụ sinh hoạt mà
còn tạo điều kiện thúc đẩy nghiên cứu trong nhiều ngành KHKT.
·
Công nghệ phần mềm phát triển nhanh không kém gì sự tiến bộ
của phần cứng, và đã đóng phần quan trọng trong việc đưa CNTH vào phục vụ đời
sống kinh doanh. Các hệ thống Hoạch Định Nguồn Lực Doanh Nghiệp (Enterprise
Resource Planning: ERP) hay Quản Lý Kiến Thức (Knowledge Management: KM) đã
giúp các Công ty đa quốc gia cải tiến rất nhiều khả năng quản lý toàn cầu, bằng
cách làm hữu hiệu hơn quá trình báo cáo, xử lý, quyết định và kiểm soát các dữ
kiện kinh tế, tài chánh, sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp và tình hình cạnh
tranh trên thị trường. Các Công ty cung cấp dịch vụ ứng dụng (Application
Service Provider) đang xuất hiện, nhằm mục đích cung cấp các dịch vụ phần mềm
qua Internet, người dùng không cần phải mua và cài đặt vào PC của mình nhiều
chương trình như trước đây, mà có thể dùng hệ thống ERP hay KM; và người dùng
có cơ hội sử dụng nhiều chương trình khác nhau.
·
Kỹ thuật số hoá (digitalisation) ngày càng được áp dụng phổ
biến. Số liệu, chữ viết, tiếng nói, âm nhạc, hình ảnh v.v... được số hoá dễ
dàng, rất thuận tiện cho việc xử lý bằng máy tính và trao đổi qua các hệ thống
viễn thông và Internet. Tiến bộ này đã sản sinh ra các hệ thống và dụng cụ đa
phương tiện (multi-media), hình thành một thế hệ sản phẩm và dịch vụ mới. Đặc biệt
trong trường hợp TV, các nước công nghiệp đang chuyển từ hệ thống phát hình
tương tự (analog) sang hệ thống số hoá (chính phỉ Mỹ đã quyết định đến năm 2006
thì hoàn tất việc chuyển đổi này; Liên Hiệp Châu Âu sẽ đổi xong sớm hơn). Phát
hình số hoá (digital) vừa tiết kiệm việc sử dụng tần số phát sóng, vừa tăng
chất lượng phát hình, lại vừa mở ra sản phẩm và dịch vụ TV ứng đáp (interactive
TV), nhất là khi khả năng chuyển tải (bandwidth) sắp được tăng cao. Dịch vụ này
có khả năng tối ưu hoá sự lựa chọn của người xem (đúng chương trình và vào lúc
mình muốn: video on demand) cũng như việc phát sóng (chỉ phát một chương trình
ở một thời điểm đến một máy TV, thay vì phát nhiều chương trình cùng một lúc
cho tất cả mọi người thuê bao). TV ứng đáp cũng trở thành một công cụ truy nhập
Internet, nhận các dịch vụ Thương Mại Điện Tử.
·
Công nghệ Internet/Web sau khi ra đời đã được phổ biến nhanh
chóng, theo [2], để đạt mức 50 triệu người sử dụng, điện thoại phải mất 74 năm;
radio mất 38 năm; PC mất 16 năm; máy truyền hình mất 13 năm; còn WWW chỉ mất có
4 năm. Cũng theo International Telecommunication union, số máy chủ Internet
(Internet hosts) và các nước được nối mạng tăng rất nhanh.
Năm
|
Máy chủ (triệu)
|
Nước nối mạng
|
1990
|
0.04
|
22
|
1991
|
0.7
|
35
|
1992
|
1.4
|
48
|
1993
|
2.3
|
60
|
1994
|
4.7
|
83
|
1995
|
9.5
|
129
|
1996
|
16.2
|
174
|
1997
|
29.9
|
192
|
1998
|
43.5
|
217
|
7/1999
|
56
|
226
|
Nguồn: ITU
·
Phổ biến rất rộng rãi là dịch vụ thư điện tử (e-mail). Trong
năm 1999, số hộp thư điện tử tăng 83% lên tới 569 triệu trên toàn thế giới; với
333 triệu ở Mỹ và 236 triệu ở các nước khác. Theo đà tăng trưởng này, trong 2 -
3 năm nữa số địa chỉ điện tử sẽ lớn hơn số điện thoại; và trở thành một phương
tiện thông tin đại chúng rất quan trọng. Tính tới tháng 3/2000, có 305 triệu
người dùng Internet trên khắp thế giới, và được phân chia như sau:
Bắc Mỹ
|
137 triệu người
|
Châu Âu
|
83
|
Châu /Thái Bình Dương
|
69
|
Châu Mỹ La Tinh
|
11
|
Châu Phi
|
3
|
Trung Đông
|
2
|
Nguồn: www.nua.ie
Tiếng anh
được sử dụng rộng rãi trên Internet, nhưng các ngôn ngữ khác cũng bắt đầu xuất
hiện.
Ngôn ngữ
|
Phần trăm (%)
|
Anh
|
51.3%
|
Nhật
|
7.2
|
Đức
|
6.7
|
Tây Ban Nha
|
5.8
|
Trung Quốc
|
5.2
|
Pháp
|
4.4
|
Hàn Quốc
|
3.3
|
ý
|
3.3
|
Hà Lan
|
2.0
|
Nga
|
1.8
|
Bồ Đào Nha
|
1.5
|
Thụy Điển
|
1.2
|
Nguồn: www.glreach.com
(Global Reach)
·
Công nghệ viễn thông cũng đã tiến bộ vượt bực trong hai lãnh
vực công nghệ băng rộng (broadband) và viễn thông di động vô tuyến (wireless
mobiles) [3]. Băng rộng tăng khả năng chuyển tải dữ liệu với khối lượng rất lớn
và rất nhanh, tính theo Megabit/giây chứ không còn tính theo kilobit/giây nữa.
Băng rộng sẽ phát huy hết khả năng của nó khi hệ thống cáp quang (fiber optic
cable) được rải đặt cùng khắp. Hiện nay, hệ thống điện thoại cáp và dây đồng
rất phổ biến, gần như ở đâu cũng đã có đặt. Thay thế toàn bộ hệ thống dây đồng
cho dặm cuối cùng (last mile) đi vào từng hộ gia đình bằng cáp quang rất tốn
kém. Tuy nhiên trong tương lai không xa lắm, nhiều Công ty dịch vụ điện thoại
viễn thông sẽ đưa hệ thống cáp quang vào sử dụng thương mại, sau khi hoàn tất
các công trình rải đặt trong mấy năm vừa qua. Trong lúc chờ đợi, nhiều công
nghệ đã ra đời nhằm tăng khả năng chuyển tải qua hệ thống cáp đồng. Công nghệ
đang sản xuất sử dụng rộng rãi hiện nay là ISDN (Intergrated Sevices Digitalizesd
Network), công suất 64-128 kilobit một giây, có thể dễ dàng nối mạng với các hệ
thống ISDN hay POTS (Plain Old Telephone System) khác. Mới nhất là công nghệ
TDSL (có công suất lý thuyết là 6 megabit/giây; mới được Deutsche Telekom triển
khai ở Đức) hay ADSL (Asymmetric Digital Subscribers Lines; Singapore là nước
đầu tiên đã triển khai mạng ADSL ra khắp lãnh thổ). Công nghệ ADSL có công suất
33megabit/giây cho phần lấy xuống (download) và 512 Kilobit/giây cho phần gởi
lên (upload), vì thông thường người thuê bao lấy xuống nhiều hơn là gởi lên.
Công suất này lớn hơn gấp 10 lần so với ISDN, và hơn 50 lần so với kỹ thuật nối
mạng dùng hộp số (modem) qua băng hẹp (narrow band); tuy nhiên nó mới chỉ áp
dụng được cho các mạng địa phương (local loop). ở
Đức, Công ty RWE và Veba cũng đang triển khai công nghệ dây điện (powerline
technology), dùng những tần số khác với tần số tải điện 50Herzt để chuyển tải
tín hiệu thông tin đến tận mỗi nhà, với vận tốc cao gấp 4 lần so với hệ thống
điện thoại và hộp số. Công suất chuyển tải dữ liệu lớn như thế đã bắt đấu cho
phép thực hiện các sản phẩm và dịch vụ đa phương tiện một cách nhanh chóng với
chất lượng cao. Đến khi hệ thống cáp quang được sử dụng một cách đại trà thì
các sản phẩm và dịch vụ đa phương tiện sẽ phong phú, tiện dụng và phổ biến hơn
nữa.
·
Công nghệ viễn thông di động vô tuyến đã trải qua thế hệ 1
(tương tự - analog); thế hệ 2 (số hoá - digital, với nhiều tiêu chuẩn khác
nhau: GMS: Global Standards for Mobiles ở Châu Âu
và Châu á; PDC: Personal Digital Cellular ở
Nhật; CDMA: Code Division Multiple Access hay TDMA: Time Division Multiple
Access ở Mỹ, nên không thể chuyển mạng [roaming: khả năng di chuyển từ mạng
điện thoại vô tuyến này sang mạng khác mà không bị cắt] trên toàn thế giới
được; và hiện nay đang bắt đầu tiến sang thế hệ 3 (3G Mobiles). Thế hệ 3G dùng
băng rộng và dựa trên tiêu chuẩn chung IMT2000 (International Mobile
Telecommunication 2000 do ITU phối hợp với việc chuẩn hoá) để dung nạp các tiêu
chuẩn 3G khác nhau, nên có thể chuyển mạng giữa các hệ thống hữu tuyến, vô
tuyến, vệ tinh và giao thức Internet (IP) để chuyển tải tín hiệu tiếng nói, dữ
liệu và đa phương tiện trên khắp thế giới. Hiện nay, chính phủ Anh đang đi đầu
trong việc tổ chức đấu thầu để được cấp môn bài điện thoại cơ động vô tuyến 3G,
sử dụng công nghệ UMTS (Universal Mobile Telecommunication System). Trong tháng
4/2000, năm Công ty điện thoại đã trúng thầu được cấp 3G, và phải trả lệ phí
tổng cộng 22 tỷ bảng Anh cho chính phủ Anh. Chính phủ các nước châu Âu khác
cũng sẽ tổ chức đấu thầu cấp môn bài 3G trong thời gian tới. Có khả năng là
chính phủ các nước châu Âu sẽ thu được khoảng US$ 100-150 tỷ lệ phí môn bài 3G:
đây là khoản thu không nhỏ cho ngân sách Nhà nước, nhưng đồng thời cũng là gánh
nặng cho các Công ty điện thoại di động, vô tuyến; khiến nhiều nhà phân tích lo
ngại về khả năng phát triển của công nghệ 3G ở châu Âu.
·
Trong thời gian vừa qua, trên thế giới
cũng đang bắt đầu triển khai là công nghệ WAP (Wireless Applications protocol:
Giao thức áp dụng không dây) để giúp máy điện thoại di động vô tuyến có thể
truy nhập mạng Internet. Tuy nhiên, tốc độ chuyển tải dữ liệu qua giao thức WAP
còn thấp (9.6Kbit/giây), và phải dùng ngôn ngữ WML (Wireless Mark-up Language) nên giới
hạn các địa điểm Web và các dịch vụ có thể cung cấp. Sự hạn chế này sẽ được
khắc phục một phần lớn khi công nghệ GPRS (General Packet Radio Service) được
áp dụng kết hợp với WAP để tăng tốc độ chuyển tải và có khả năng thường xuyên
truy nhập Internet (“always on”). Trong khoảng 1-2 năm tới, công nghệ Răng Xanh
(Bluetooth) cũng sẽ được thương mại hoá; công nghệ này cho phép các dụng cụ
điện tử, hoặc có gắn chip điện tử, có thể “nói chuyện” với nhau qua vô tuyến
trong cự ly ngắn (như ở trong nhà hay văn phòng). Điều này cho phép trao đổi
các mệnh lệnh và dữ liệu một cách dễ dàng giữa các dụng cụ điện tử, tạo thành
những môi trường làm việc hay sinh hoạt vô tuyến.
·
Vì số máy điện thoại di động vô tuyến được sử dụng rất lớn,
nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nó sẽ trở thành dụng cụ quan trọng nhất để truy
nhập Internet và thực hiện các dịch vụ thương mại điện tử cho người tiêu thụ
(B2C e-Commerce). Theo Công ty nghiên cứu IDC, đến năm 2002 điện thoại di động
vô tuyến sẽ trở thành phương tiện truy cập Internet quan trọng nhất. Theo
Dataquest, trong năm 1999, cả thế giới bán và tiêu thụ nhiều máy điện thoại di
động hơn TV. PC, Stereo, VCR. Năm 2000, ước tính con số bán máy điện thoại di
động sẽ tăng vọt lên 425 triệu cái. Hiện nay mức thâm nhập của điện thoại di động số hoá lên tới 90% ở châu
Âu, trên 80% ở Nhật, nhưng chỉ mới có 57% ở Mỹ (khoảng 70% số điện thoại tương
tự [analog] trên thế giới còn đang được dùng ở Mỹ). Như thế, Mỹ đang đi sau
châu Âu và Nhật trong lãnh vực điện thoại di động vô tuyến (chủ yếu vì không sử
dụng một tiêu chuẩn chung như GMS, và địa lý quá rộng nên hệ thống điện thoại
tượng tự hữu tuyến có sẵn vẫn còn tiện dụng); tuy nhiên đến thế hệ 3G thì
khoảng cách này đã sẽ được san bằng.
Số
đơn vị bán
|
1994
|
1997
|
1999
|
TV
|
105 triệu
|
118
triệu
|
126
triệu
|
PC
|
50
|
83
|
105
|
Stereo
|
114
|
140
|
153
|
VCR
|
54
|
62
|
60
|
Điện thoại di động
|
26
|
115
|
278
|
Nguồn:
Goldman Sachs/Dataquest
·
Kết hợp với những thành tự của công nghệ tin học và viễn
thông, các Hệ Thống Hoa Tiêu Vệ Tinh Toàn Cầu (GNSS: Global Navigation
Satellite Systems) và Hệ Thống Định Vị Trí Toàn Cầu (Global Positioning System)
đã phát triển mạnh; doanh số tăng trưởng 50% một năm trong thập kỷ qua. Các hệ
thống này cung cấp dịch vụ cần xác định vị trí không gian - thời gian trên toàn
thế giới sẽ mở ra nhiều cơ hội mới mà hiện nay chưa thấy hết được.
Điều quan
trọng hơn cả là những tiến bộ mới trong công nghệ viễn thông đã thay đổi mô
hình kinh doanh vì giảm giá nhiều. Thí dụ như trong hệ thống cáp viễn thông
xuyên Đại Tây Dương, theo ITU trong gần 2 thập kỷ qua, khả năng chuyển tải tăng
trung bình 64% một năm, nhưng giá thành giảm 41% một năm. Cụ thể hơn, chuyển
tải bộ Tự Điển Bách Khoa Britanica 32 quyển từ
New York đến San Francisco qua Internet mất 97 phút, và tốn US$ 187, trong năm
1970. Hiện nay có thể gới 8 bộ Britanica như thế trong 1 giây, chỉ tốn mấy chục
xu; hay gởi toàn bộ Thư Viện Quốc Hội xuyên nước Mỹ qua hệ thống cáp quang chỉ
tốn US$ 40 [14]. Phí sử dụng điện thoại và viễn thông dần dà được tính trên
khối lượng thông tin chuyển tải, tính theo gói (packet), chứ không còn tính
theo thời gian hay khoảng cách như trước đây nữa. Điều này thu nhỏ quả đất lại:
liên lạc với nhau trong cùng một thành phố hay giữa các châu lục không khác gì
nhau. Ngoài ra, việc thường trực truy nhập mạng Internet cũng trở thành phổ
thông, mở cửa cho những thế hệ sản phẩm và dịch vụ mới.
Theo dự
toán của ITU, đến năm 2005 trên thế giới sẽ có :
·
1.4 tỷ đường dây điện thoại
·
1.1 tỷ người thuê bao điện thoại di động vô tuyến
·
400 - 500 triệu người dùng Internet
·
2.5 ngàn tỷ phút vận tải tiếng nói và số liệu
·
1 triệu Gigabit (1 Petabit)/giây chuyển tải trên mạng
Internet
·
Thị trường dịch vụ Tin Học (Th) lên tới US$ 1.1 ngàn tỷ
·
Thị trường dụng cụ TH lên US$ 400 tỷ
Việc sử
dụng ngày càng rộng rãi các dụng vụ và dịch vụ Internet và viễn thông di động
vô tuyến trong kinh doanh lẫn tiêu thụ, tới mức ở đâu cũng có (ubiquitous), đã
tạo ra cơ sở khách quan để hình thành một nền kinh tế mới, cộng sinh nhưng có
những nét đặc thù khác hẳn với nền kinh tế cũ.
·
Trong nền kinh tế cũ, mục tiêu quan trọng nhất là tối ưu hoá
tiến trình sản xuất đại quy mô; do đó đòi hỏi phải có một tổ chức có đẳng cấp
và kỷ luật công nghiệp. Trong nền kinh tế mới, điều quan trọng là phát minh
khoa học, kỹ thuật và khả năng phát hiện các công nghệ mới. Tổ chức doanh
nghiệp vì thế phải mỏng, nhẹ nhằm khuyến khích sự sáng tạo và thích ghi với
điều kiện kinh doanh thay đổi nhanh chóng. Thử thách lớn nhất hiện nay cho giới
lãnh đạo doanh nghiệp là quản lý kiến thức (knowledge management), chứ không
phải là quản lý sản xuất hay quản lý tài chánh nữa.
·
Trong nền kinh tế mới, đại đa số người lao động làm việc
bằng trí óc để xử lý thông tin, chứ không phải làm việc bằng chân tay để chế
biến hàng hoá vật chất. Hiện nay ở Mỹ, hơn 75% lực lượng lao động làm công việc
xử lý thông tin, chứ không phải xử lý vật chất. Thông tin có thể được số hoá rõ
ràng, vì vậy càng thích hợp với nền kinh tế Intenet.
·
Quá trình hình thành nền kinh tế mới cũng thay đổi cung cách
lao động. Trong trường hợp của Mỹ, mô hình lao động đã biến dạng rất nhiều so
với mô hình cổ điển, theo đó công nhân viên làm việc từ 9 giờ sáng đến 5 giờ
chiều tại các xí nghiệp, văn phòng; trong các doanh nghiệp tổ chức thành đẳng
cấp, ngạch trật tự rõ ràng. Hiện nay, khoảng 10% lực lượng lao động là người
hành nghề độc lập, chứ không phải là nhân viên của một Công ty; khoảng 20 triệu
người làm việc từ xa (telecommuting), ở nhà không cần đến cơ quan trong giờ làm
việc ít nhất một ngày trong một tháng (tăng gấp đôi so với năm 1993). Khuynh
hướng làm việc với giờ giấc linh động, qua mạng Intranet hay Internet ngày càng
tăng, 15% lực lượng lao động năm 1991 tới 30% hiện nay. Năm 1999, có 17 triệu
người chủ động đổi việc, so với 6 triệu người trong năm 1994. Hiện nay, chỉ có
1 trong 5 công nhân còn được xếp vào loại “không cần/không có tay nghề chuyên
môn”, so với tỷ lệ 3 trên 5 trong năm 1950. Các doanh nghiệp có tổ chức mỏng
nhẹ, ít cấp bực quản lý; phần lớn công việc được thực hiện bởi các cộng đồng
chuyên gia cùng với khách hàng, được hình thành một cách linh động, nhanh chóng
tuỳ theo nhu cầu và nội dung công tác.
·
Chiến lược đầu tư mới là mua khái niệm mới và khả năng tạo
ra chúng, chứ không phải mua máy móc thiết bị mới. Sở hữu trí tuệ và bảo vệ sử hữu trí tuệ trở
thành vấn đề quan trọng hàng đầu trong quan hệ kinh doanh quốc tế, đặc biệt là
đối với các nước ĐPT.
·
Trong nền kinh tế mới, giá trị tăng thêm ngày càng được tạo
ra bởi những yếu tố vô hình như sáng chế, phát minh, thiết kế mẫu mã, tiếp thị,
thương hiệu, dịch vụ tài chánh, quản lý kinh doanh v.v... Giá trị tăng thêm của
các yếu tố là vật chất và vật chế biến ngày càng giảm đi. Hiện giá của các tài
sản vật chất của các Công ty ở chẫu Mỹ và châu Âu nói chung chỉ bằng 25% giá
trị các Công ty này trên thị trường chứng khoán. Phần lớn giá trị của các Công
ty này phản ánh các yếu tố vô hình kể trên.
·
Trong nền kinh tế cũ, cạnh tranh diễn ra chủ yếu trong phạm
vi địa phương hay quốc gia. Trong nền kinh tế mới, cạnh tranh diễn ra trên phạm
vi toàn cầu. Hiện nay, nền kinh tế thực sự toàn cầu hoá (cạnh tranh toàn cầu
trong thị trường đầu vào, đầu ra và tài sản doanh nghiệp) đã chiếm một nửa toàn
bộ hoạt động kinh tế của nhân loại. Tỷ lệ toàn cầu hoá này sẽ tăng lên nhanh
chóng, và đã ảnh hưởng chi phối đến phần thế giới còn lại [4].
·
Mạng lưới viễn thông cũ và mới cũng rất khác nhau. Mạng cũ
chủ yếu dùng tính tương tự (analog) và chuyển mạch (circuit-switched); mạng mới
dùng phương thức số hoá, IP (Internet Protocol; Giao thức Internet) và chuyển
gói (packet-switched). Phí trong hệ thống cũ tính trên phút, dựa trên thời gian
và khoảng cách gọi. Trong hệ thống mới, phí tính trên megabyte, vì thế không phụ
thuộc vào thời gian và khoảng cách nối mạng; làng toàn địa cầu đã trở thành
hiện thực. Sau cùng, trong mạng cũ, hệ thống viễn thông do Nhà nước sở hữu và
điều hành, nhưng trong mạng mới, hệ thống viễn thông được tư nhân hoá và tự do
hoá rất nhiều. Đặc biệt mạng Internet toàn cầu chịu rất ít luật lệ trói buộc,
và hiện nay các hàng hoá thương mại điện tử không bị đánh thuế.
·
Trong nền kinh tế mới, số hàng và dịch vụ mới được tung ra
rất nhiều, mở rộng sự lựa chọn của người tiêu thụ. Hiện nay, hàng năm có khoảng
50.000 loại hàng hay dịch vụ mới được giới thiệu ra thị trường, so với con số
vài ngàn mỗi năm trong thập kỷ 1970. Góp phần quan trọng trong việc tạo ra hàng
hoá mới, nhất là trong lãnh vực y tế, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm là
khoa học và công nghệ Sinh Học, nhất là công nghệ Di Truyền Học. Trong mùa hè
năm 2000, khi dự án bản đồ hệ thống Genome của con người hoàn thành, sẽ có bước
tiến nhảy vọt trong lãnh vực thuốc chữa bệnh và phương pháp trị liệu mới.
III -
Thương mại điện tử
Nền kinh
tế Internet đã tạo ra cơ hội cũng như áp lực cạnh tranh bắt các doanh nghiệp
phải tăng đầu tư vào thiết bị CNTH và VT để phù hợp với môi trường hoạt động mới và để tận dụng những cơ hội
kinh doanh mới. Thương mại điện tử (e-Commerce) thể hiện rõ ràng nhất của tiến
trình các doanh nghiệp thích ứng và vận dụng các khả năng phong phú của công
nghệ Internet/WWW [5 và 6]. Một cách tổng quát, thương mại điện tử có nghĩa là
việc thông tin về hàng hoá, dịch vụ và giá cả, tiếp thị, tư vấn tiêu dùng, mua
hàng, và chi trả được thực hiện trên mạng Internet/WWW. Nếu hàng là một dịch vụ
như ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn, pháp luật hay giáo dục; hoặc có thể số hoá
được ( như tin tức, tài liệu viết, chương trình phần mềm, âm nhạc qua giao thức
MP3, hay phim ảnh khi băng rộng được sử dụng phổ biến) thì sẽ được giao hàng và
“tiêu thụ” ngay trên mạng. Nếu hàng là một vật thể như bó hoa, quyển sách hay
bàn ghế, thì được giao hàng tại nhà qua bưu điện hay các Công ty vận chuyển.
Việc chi trả thường được thực hiện bằng cách chuyển khoản thẻ tín dụng. Trong
trường hợp của Nhật, vì nhà cửa của các hộ gia đình nhỏ, chật, khó tìm và vì
tâm lý dân Nhật ngại cho số thẻ tín dụng của mình lên trên mạng, nên đã hình
thành việc chi trả và nhận hàng tại các tiệm tạp hoá Seven-Eleven (7-11) vốn có
mặt rất rộng rãi ở khu dân cư. (Nhờ nhạy bén đáp ứng được nhu cầu này, Công ty
Seven-Eleven Japan, nguyên chỉ là một chi nhánh của Công ty Seven-Eleven gốc ở
Mỹ, đã thành công tột bực trong mấy năm qua, và đã phát triển từ một Công ty cỡ
nhỏ thành một trong 5 Công ty có giá trị thị trường chứng khoán lớn nhất nước
Nhật ). Đây là một thí dụ cụ thể về việc thâm nhập và thay đổi của nền kinh tế
mới đối với nền kinh tế cũ.
Thương mại điện tử gồm có TMĐT doanh nghiệp với doanh nghiệp
(B2B: Business to business). Doanh nghiệp với tư nhân (B2C: Business to
consumers), tư nhân với tư nhân (C2C: Consumers to consumers), và tư nhân với
doanh nghiệp (C2B: Consumers to business).TMĐT B2B chủ yếu nhằm tăng hiệu năng
và giá thành dịch vụ của khâu quản lý dây chuyền cung ứng (supply chain
management): các Công ty chế biến công nghiệp mua thiết bị, phụ tùng, bán thành
phẩm cần thiết từ hàng trăm, hàng ngàn Công ty cung ứng qua mạng Internet, vừa
tiết kiệm phí tổn vừa có hiệu năng cao (nhanh chóng, kịp thời, chính xác và giảm
nhu cầu tồn kho). Việc định giá thường được thực hiện bằng cách đấu thầu, nên
quá trình khám phá giá hữu hiệu và chính xác. Nói chung mức tiết kiệm do TMĐT
B2B khá lớn, khoảng 10%-25% toàn bộ giá của khâu cung ứng; vì vậy nó tăng lợi
nhuận của các Công ty chế biến, và do áp lực cạnh tranh, giảm giá thành cuối
cùng cho người tiêu thụ. TMĐT B2C đã giúp cho các doanh nghiệp bán lẻ có thể
kết hợp chiến lược tiếp thị vừa rộng (phổ biến tới càng nhiều người càng tốt)
vừa sâu (biết rõ và đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của từng khách hàng). Trước đây,
các nhà bán lẻ phải chọn một trong hai mục tiêu này, vì không thể thực hiện cả
hai trong cùng một lúc, hay qua cùng một phương tiện tiếp thị. Dịch vụ bán lẻ
do đó ngày càng phong phú và tinh tế, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu
thụ. TMĐT C2C và C2B tạo cơ hội cho các cá nhân có thể mua hay bán những hàng
hay dịch vụ mình cần, nhưng ít có doanh nghiệp cung cấp, vì nó có thể nối một
số ít người bán và một số ít người mua. Điều này mở rộng khả năng chọn lựa của
các cá nhân.
Theo
Gartner Group, giá trị của các hoạt động thương mại điện tử hiện nay ước tính
vào khoảng US$ 136 tỷ; đến năm 2003 ước tính sẽ lên tới US$ 4.4 ngàn tỷ. TMĐT
B2B chiếm tỷ trọng lớn nhất, trên 80% và sẽ tăng trưởng nhanh nhất; các dịch vụ
B2C chiếm khoảng dưới 20%. Thương mại điện tử xuất hiện và phát triển mạnh nhất
ở Mỹ, và hiện nay cũng đang được phổ biến rộng rãi ở châu Âu, châu á và Mỹ La Tinh. Sau đây là thí dụ một
số dịch vụ TMĐT điển hình đã góp phần làm thay đổi cách sống và hàng hoá xã hội.
·
Trong lãnh vực người tiêu thụ tư nhân, có amzon.com cung cấp
sách, nhạc gần như trên toàn thế giới; etrade.com thực hiện dịch vụ môi giới
kinh doanh chứng khoán và dần dần sang các dịch vụ tài chánh khác; ebay.com
(một hình thức TMĐT C2C) tạo điều kiện cho mọi cá nhân ở mọi nơi có thể quảng
cáo, bán và mua lẫn nhau mọi thứ hàng hoá, bằng cách ra giá hay đấu thầu, vì
vậy nó mở rộng tầm chọn lựa của các cá nhân người tiêu thụ. Một số địa điểm Web
như Keen.com, InfoMarkets.com, Exp.com tạo điều kiện để các cá nhân có thể cung
cấp hay sử dụng các dịch vụ tư vấn chuyên môn về đủ mọi lãnh vực (luật, thương
mại, trồng hoa v.v...)
·
Bộ tự điển Bách Khoa Britanica được đưa lên Internet, ai
cũng có thể sử dụng được và hoàn toàn miễn phí. Các cửa vào Internet (portal)
như AOL, Yahoo!, hotmail đã trở thành quen thuộc khắp thế giới, phí sử dụng
giảm nhiều và ở nhiều nơi đã được miễn phí để thu hút khách hàng. Điều này càng
làm cho số người dùng Internet tăng nhanh. Lợi tức cho các Công ty này là lệ
phí quảng cáo và hoa hồng khi thương vụ được thực hiện trên mạng của mình.
·
Trong năm vừa qua, hãng NTTDoMoCo (Nhật) đã tung ra dịch vụ
máy điện thoại di động vô tuyến i-mode đầu tiên trên thế giới. Dịch vụ được
phát triển dựa công nghệ PDC (Personal Digital Cellular, của NTT) và sử dụng
mạng chuyển gói nên có thể thường trực nối mạng Internet. Nó cho phép người
dùng có thể nói chuyện; luôn luôn truy cập Internet để trao đổi e-mail, dùng
các dịch vụ TMĐT như nhận tin tức thời sự, khí hậu hay thị trường chứng khoán ở
bất cứ nơi và lúc nào (lý do là vì ĐTDĐVT I-Mode sử dụng ngôn ngữ HTML
[Hyper-Text Mark-up Language] rất thông dụng để viết các địa điểm Web). Ra đời
mới hơn 1 năm, dịch vụ này đã thu hút được 7 triệu người thuê bao. Với tốc độ
20.000 người mỗi ngày, đến cuối năm 2001, ước tính sẽ có 20 triệu người thuê
bao. Nhờ sự thành công này, NTTDoCoMo đã trở thành Công ty có giá trị thị
trường chứng khoán lớn nhất nước Nhật. Cuối năm 2000/đầu 2001 dịch vụ này sẽ
được cải thiện và kết hợp với công nghệ GPRS (General Packet Radio Service) để
có thể trao chuyển số liệu nhanh hơn và sẽ được tung ra ở châu Âu, và sau đó
mới tới Mỹ. Đây là thế hệ 2.5 của điện thoại cơ động vô tuyến, một giai đoạn
chuyển tiếp trước khi đạt tới thế hệ 3G (dựa trên tiêu chuẩn chung IMT2000, có
khả năng chuyển tải băng rộng (broadband) và chuyển mạng (roaming) gần khắp thế
giới; phần quả đất còn lại trên sa mạc, đại dương v.v... thì phải dùng hệ thống
viễn thông vệ tinh, thí dụ như GlobalStar). Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trong
tương lai không xa lắm, điện thoại di động vô tuyến sẽ trở thành dụng cụ phổ
thông nhất để truy cập Internet, và B2C e-Commerce (thương mại điện tử) sẽ trở
thành m-Commerce (mobile Commerce – thương mại di động).
·
Dịch vụ ngân hàng trên Internet đã giảm giá thành rất nhiều
cho các ngân hàng. Tính trung bình, một dịch vụ ngân hàng ở Mỹ được thực hiện
tại chi nhánh tốn US$1.14, thực hiện qua điện thoại tốn 85 xu, thực hiện qua
máy rút tiền tự độngATM tốn 45 xu, nhưng chỉ tốn có 1 xu nếu thực hiện trên
mạng Internet. Điều này đã làm cho các ngân hàng trên thế giới phải tiến hành
tái cấu trúc, tăng cường các dịch vụ trên Internet và tinh giản hệ thống chi
nhánh của mình.
·
Dịch vụ đăng ký và bán vé máy bay qua Internet chỉ tốn dưới
US$ 1 cho một vé, so với khoảng US$ 10 nếu thực hiện qua hệ thống đại lý hãng
máy bay qua Công ty du lịch.
·
DELL Computer Co. đã rất thành công khi dùng Internet để
thực hiện hệ thống sản xuất hoá khi khách hàng đã chọn lựa mẫu mã, chi tiết kỹ
thuật. Cách thức sản xuất này tối đa hoá sự lựa chọn của khách hàng; đồng thời
tối thiểu hoá lượng sản phẩm tồn kho và dư thừa vì không hợp thị hiếu khách
hàng. Kết quả là cách sản xuất và bán hàng này đã chiếm 50% tổng kim ngạch của
Công ty; giá thành giảm, lợi nhuận Công ty tăng và khách hàng được thoả mãn
nhiều hơn. Đây là một lợi thế cạnh tranh quan trọng của DELL. Các Công ty trong
nhiều ngành công nghiệp khác cũng đang bắt chước phương thức sản xuất này.
·
Công ty Electrolux ở Thụy Điển đang chuyển hướng hoạt động
từ chỗ bán hàng (máy giặt) sang cung cấp dịch vụ giặt giũ. Khách hàng được cung
cấp máy giặt, 3-5 năm thay máy mới; mỗi lần giặt chip vi tính đặt trong máy sẽ
tính và thông báo cho Công ty Điện, cuối tháng sẽ tính vào hoá đơn điện. Chíp
điện tử cũng thông báo cho Công ty về tình trạng bảo trì của máy giặt, nếu có hư
Công ty sẽ phái người đến sửa ngay. Tái cấu trúc doanh nghiệp từ vị thế bán
hàng hoá vật chất thành ra cung cấp dịch vụ, tạo sự liên hệ lâu bền với khách
hàng, là một chiến lược chính yếu giúp các Công ty trong nền kinh tế cũ tham
gia nền kinh tế mới.
·
Công ty siêu thị WalMart áp dụng công nghệ Internet và số
hoá để tự động hoá gần như toàn bộ dây chuyền cung cấp, vận tải, quản lý kho
hàng và bầy bán hàng trong cửa hiệu. Với mạch rằn chứa mã số số hoá, mỗi món
hàng khi bán đi lập tức được thông báo cho ban quản lý cửa hiệu, các cấp giám
đốc cao hơn và các Công ty cung ứng hàng hoá, sản phẩm cho WalMarrt; hàng được
nhanh chóng cung ứng và đưa ra bày bán. Việc quản lý đội xe tải cung cấp (gồm
4.300 xe tải di chuyển trên 600 triệu dặm đường, thực hiện 1.2 triệu lượt giao
hàng cho 3000 cửa hiệu trong năm 1999) cũng được tối ưu hoá, qua việc kết hợp
với hệ thống vệ tinh GPS (Global Positioning System). Phương thức hoạt động này
tối ưu hoá dây chuyền cung cấp không những chỉ cho WalMart, mà còn cho hàng
ngàn Công ty cung ứng phục vụ cho WalMart. Với khả năng thông tin trong thời
gian thực (real time), hệ thống này cũng tăng cường khă năng quản lý tài chánh
và tiếp thị, đặc biệt giúp WalMart có thể nhanh chóng nắm bắt được sự thay đổi
trong thị hiếu khách hàng. WalMart vì thế đã trở thành Công ty siêu thị lớn
nhất thế giới và đang bành trướng ra các châu lục. Các Công ty siêu thị khác
cũng bó buộc phải bắt chước phương thức hoạt động này.
·
British Telecom đã tổ chức cho 1000 Công ty cung ứng vật
liệu. Máy móc, thiết bị cần cho mình, việc cung ứng và thanh toán đều thực hiện
trên Internet. Kết quả là BT giảm được US$ 1 tỷ trong US$ 9 tỷ tổng ngân sách
mua hàng năm. Riêng đối với 1.3 triệu dịch vụ hành chánh mà BT phải thực hiện
hàng năm, giá thành trung bình giảm từ US$ 80 xuống US$ 8.
·
General Motors, Ford và Daimler- Chrysler vừa công bố sẽ hợp
nhất các hệ thống cung ứng Internet của mình, với kim ngạch mua bán US$ 250 tỷ,
hình thành một hệ thống trao đổi cung ứng cho ngành công nghiệp ô tô, gồm hàng
chục ngàn Công ty cung ứng vật liệu, bán thành phẩm, máy móc, thiết bị; cũng
như các hãng đại lý bán xe và các Công ty ô tô khác. Đây là một hệ thống mở cho
toàn cầu nhằm tạo điều kiện cho nhiều người cung thoả mãn nhiều người cầu qua
cơ chế đấu thầu (Toyota, Renault, Fiat, Nissan, Mitsubihi và Mazda cũng vừa
tuyến bố sẽ tham gia hệ thống này). Sau khi thoả mãn yêu cầu chất lượng, cơ chế
đấu thầu tạo sức ép giảm giá, có lợi cho phía cầu. Phía cung có cái lợi là có
thể chào hàng rộng rãi, khắp cả thế giới chứ không bị giới hạn vào một Công ty
ô tô như trước. Các Công ty ô tô ở Mỹ có thể tiết kiệm khoảng US$ 2.700 trên
một chiếc ô tô; mức tiết kiệm này rất lớn, vì hiện nay các Công ty này chỉ được
lời trung bình khoảng US$ 2.000 một chiếc sau khi trừ hết mọi chi phí sản xuất,
phân phối và hành chánh. Hệ thống này sẽ đẩy mạnh khuynh hướng đặt hàng bên
ngoài (out-sourcing) của các Công ty ô tô, kể cả đặt hàng việc chế tạo cỗ máy
và lắp ráp toàn bộ chiếc xe; để các Công ty này có thể tập trung vào các hoạt
động tạo nhiều giá trị gia tăng nhất như thiết kế mẫu mã mới. Quản lý thương
hiệu và tiếp thị. Mặt khác, hệ thống mua bán qua Internet cũng được mở rộng cho
người tiêu thụ, qua đó Công ty không chỉ bán xe ô tô mà còn nhằm thoả mãn toàn
bộ nhu cầu vận chuyển bằng ô tô của khách hàng, từ dùng xe ở bất cứ nơi nào và
lúc nào cần, đến sửa chữa bảo trì, tài trợ và bảo hiểm. Hiện nay, trong một số
loại xe ô tô cao cấp đã có dụng cụ truy cập Internet và liên lạc với hệ thống
vệ tinh GPS (Global Positioning System); qua đó Công ty ô tô có thể cung cấp
nhiều dịch vụ TMĐT (e-Trade) khác, kể cả bản đồ điện tử, định vị trí và hướng
dẫn đường đi (thí dụ như hệ thống On Star của GM). Tuy nhiên, TMĐT B2C nhằm bán
xe trực tiếp cho người tiêu thụ gây ra sự chống đối mạnh mẽ của giới đại lý bán
xe vì kênh phân phối TMĐT B2C trong lãnh vực ô tô, hay các lãnh vực có hệ thống
đại lý bán lẻ đã tồn tại lâu đời và đông đảo.
·
Với ngân sách cung ứng US$ 38 tỷ/năm, Công ty hàng không
Boeing đã cùng các Công ty Lockheed Martin, BAE Systems và Raytheon Company
thành lập hệ thống cung ứng trên Internet cho công nghiệp hàng không, không
gian và quốc phòng. Tham gia mua bán là các Công ty chế tạo, các hãng hàng
không và cung cấp dịch vụ trên khắp thế giới, kể cả Nga và TQ; mỗi ngày thực
hiện hơn 20.000 thương vụ.
·
Hệ thống trao đổi cung ứng trên Internet cũng được đáp ứng
rộng rãi trong các ngành công nghiệp thuộc nền kinh tế cũ như hoá, giấy, sắt
thép, bệnh viện v.v... Vừa qua, hầu hết các Công ty dầu khí phương Tây cũng đã
hợp tác thành lập mạng trao đổi cung ứng trên Internet, với kim ngạch buôn bán
hàng năm khoảng US$ 100 tỷ.
·
Hệ thống cung ứng dựa trên Internet cũng được áp dụng ở các
nước ĐPT, thí dụ như ở Trung Quốc. CARN (China Automotive Rainbow Network), trụ
sở đặt ở Thượng Hải, có hơn 1000 thành viên là các Công ty chế tạo ô tô và các
Công ty cung ứng phụ tùng, bán thành phẩm trên khắp TQ. Một thí dụ khác :
MeetChina.com là một mạng lưới TMĐT B2B nhằm phục vụ xuất khẩu cho TQ. Nó liệt
kê cả ngàn thành viên là các doanh nghiệp trên khắp TQ chế biến hàng xuất khẩu,
với đủ chủng loại hàng hoá và giá cả; cùng với các Công ty cộng tác viên cung
cấp các dịch vụ tư vấn như thương lượng và ký hợp đồng; tìm hiểm tình trạng tài
chánh và tư cách tín dụng của doanh nghiệp đối tác TQ (qua Công ty Mỹ Dun &
Bradstreet); kiểm tra và bảo đảm chất lượng (qua Công ty Thụy Sĩ Societé
Generale de Surveillance SGS); bảo hiểm kho vận (qua Công ty Mỹ AIG); và chi
trả thanh toán (qua Western Union và Commercial Bank of San Francisco). Hệ
thống TMĐT này tăng tính trong suốt (transparency) và an toàn của thị trường
xuất khẩu TQ. Nó cũng tạo ra môi trường
tổng hợp “một cửa” gồm hết mọi khâu từ đầu đến cuối trong quá trình mua và nhập
hàng từ TQ, vì vậy làm dễ dàng cho các doanh nghiệp nước ngoài.
IV - Phân
tích nền kinh tế mới TCH
Phân tích một hiện tượng mới mẻ như nền kinh tế mới không
phải là một việc dễ dàng. Vì thiếu kinh nghiệm tích luỹ với chiều dày thời gian
cũng như thiếu số liệu thống kê, không dễ gì phân biệt được những tác động có
tính cách cơ cấu với những dao động có tính ngẫu nhiên và tạm thời. Tuy nhiên
ta có thể có cái nhìn tổng quát và có hệ thống về nền kinh tế mới TCH qua sự
phân tích 10 nét biểu hiện đặc trưng của nó. Nếu ta có thể kết luận những đặc
điểm này có tính chất cơ cấu, không phải là tạm bợ, thì chúng có thể diễn tả
nội dung của nền kinh tế mới TCH.
A. Tầm mức quan trọng của công nghệ thông tin và viễn thông
(ITC: Information and Communication Technology) ngày càng tăng. Mức đầu tư vào
công nghệ tin học viễn thông tăng nhanh trong những năm qua, chiếm tỷ trọng trung
bình 7% trong GDP của các nước OECD [7]. Đồng thời nó cũng kích thích tăng đầu
tư đổi mới công nghệ, thiết bị nói chung trong các ngành kinh tế khác. Các nước
OECD chiếm 80% tổng sản lượng ICT toàn cầu; Mỹ là nước dẫn đầu với 36% thị phần
của OECD. Các lãnh vực CNTH rất nhiều. Trong khi đó, các ngành xây dựng và khai
thác nguyên liệu còn sử dụng ít CNTH.
Tỷ lệ đầu tư ICT trên GDP, năm 1997
Nước
|
TH
phần cứng
|
TH
phần mềm
|
CN
viễn thông
|
Tổng
cộng
|
Mỹ
|
1.8%
|
2.2%
|
3.9%
|
7.9%
|
Anh
|
1.7
|
2.8
|
3.2
|
7.7
|
Nhật
|
1.3
|
2.2
|
4.0
|
7.5
|
OECD
|
1.4
|
2.4
|
3.2
|
7.0
|
Pháp
|
0.9
|
2.6
|
2.8
|
6.3
|
Hàn Quốc
|
1.8
|
0.8
|
3.5
|
6.1
|
Đức
|
1.0
|
2.0
|
2.8
|
5.8
|
Mexico
|
0.5
|
0.8
|
2.4
|
3.7
|
Nguồn
:OECD
Mỹ dẫn đầu
thế giới trong các lãnh vực đầu tư này; trong thời gian 1992-98 giá trị đầy tư
thực vào thiết bị, máy móc (nhất là dụng cụ tin học) tăng trung bình 11.2% một
năm. Đây là suất tăng trưởng thực (real growth rate) cao nhất trong một thời
gian dài như vậy từ Thế Chiến II. Vì mức lạc hậu (obsolescence rate) trong CNTH
hiện nay rất cao, đầu tư cao như thế có tính chất đầu tư chiều sâu (capital
deepening) nên không gây ra tình trạng thừa khả năng sản xuất như ở Nhật (đầu
tư tăng cao trong 2 thập kỷ 1970/1980, nhưng chủ yếu là đầu tư chiều rộng
[capital widening]). Ngược lại, nó làm cho khối (stock) vốn tư bản KHKT của Mỹ
luôn luôn được cập nhật hoá và hiện đại hoá. Vì thế, năng suất tư bản (capital
productivity – còn có thể gọi là hiệu quả của vốn) của Mỹ cao hơn
năng suất của các nước khác trong OECD. Hiện nay, tỷ số vốn cố định trên GDP ở
Mỹ chỉ có khoảng 1.2; so với mức gần 3 ở các nước châu Âu và Nhật [8]. Năng
suất tư bản cố định ở Nhật suy giảm nhiều nhất kể từ giữa thập kỷ 1960, khi tỷ
số tư bản/GDP ở Nhật ngang với ở Mỹ (khoảng 1.2).
Từ năm
1995 đến 1998 ở Mỹ, sản lượng của công nghiệp tin học và viễn thông chiếm 8%
GDP, nhưng tạo ra 35% sự tăng trưởng kinh tế trong thời gian này [9]. Cũng theo
Bộ thương mại Mỹ, đến năm 2006 các ngành công nghiệp sản xuất TH và sử dụng
nhiều TH sẽ thu dụng một nửa tổng số lao động ở Mỹ, so với 36% trong năm 1990
và chỉ có 23% trong năm 1980. ảnh hưởng trực tiếp của CNTH đối với nền kinh tế
ngày càng tăng; và có ảnh hưởng gián tiếp của nền kinh tế Internet và thương
mại điện tử, nó còn phổ quát hơn nữa. ở châu Âu và châu
á tỷ phần của CNTH còn nhỏ hơn ở Mỹ, nhưng hiện nay đang tăng trưởng
nhanh. Hội nghị thượng đỉnh của Liên hiệp Châu Âu tại Lisbon (23/3/2000) đã đặt
ra mục tiêu đuổi kịp nền kinh tế Internet của Mỹ, với một số biện pháp cụ thể
như: hoàn tất khung pháp luật cho TMĐT trong năm nay; làm cho tất cả các trường
học ở châu Âu đều có thể truy nhập Internet trong năm 2001; và đến năm 2002,
thì hoàn toàn tự do hoá thị trường viễn thông, hình thành qui chế bằng sáng chế
(patent) chung cho EU (Liên minh châu Âu), và kết mạng với vận tốc cao tất cả
các trường Đại học, Thư viện, và Viện nghiên cứu.
Tiến bộ và
sự phát triển nhanh chóng của CNTH và CNVT đã góp phần không nhỏ trong việc
thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế. Theo McKinsey & Co., phần thực
sự cạnh tranh toàn cầu (globally contestable), với nghĩa thực sự cạnh tranh
toàn cầu trong các thị trường đầu vào, đầu ra và tài sản doanh nghiệp, đã tăng
rất nhanh: từ US$ 4 ngàn tỷ (hay 1/7 GDP toàn cầu) trong năm 1995 lên tới US$
21 ngàn tỷ (hay 1/2 GDP toàn cầu) trong năm 2000 [4].
Nền kinh
tế mới toàn cầu hoá, dựa theo hai phạm trù nói trên, đã trở thành hiện thực và
tác động ngày càng sâu sắc lên toàn bộ nền kinh tế thế giới.
B. Nâng cao suất tăng trưởng và tính ổn định của nền kinh tế
Mỹ (tiêu biểu nhất cho nền kinh tế mới). Từ quý I: 1991, kinh tế Mỹ đã tăng
trưởng liên tục, hiện nay bước vào năm thứ 10 và đã trở thành cuộc tăng trưởng
lâu bền nhất lịch sử kinh tế Mỹ. Hơn thế nữa, từ năm 1996 tỷ lệ tăng trưởng GDP
hàng năm tăng vọt lên trên 4%, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống rất thấp còn 4%,
trong khi lạm phát giá cả vẫn ở mức độ thấp giữa 2%-3%. Trạng thái kinh tế này
gần như tối ưu, giống như thời đại hoàng kim mà nền kinh tế Mỹ đã trải qua
trong một vài giai đoạn trước đây, thí dụ như cuộc tăng trưởng lâu bền thứ nhì
trong thập kỷ 1960.
So sánh tăng trưởng kinh tế trong thập kỷ 1960 và 1990
|
Thập
kỷ 1960
|
Thập kỷ
1990
|
GDP thực: năm thứ 1
|
7.5%
|
2.7%
|
Năm thứ 8
|
2.0%
|
4.2%
|
So với đầu thập kỷ
|
52.6%
|
36.4%
|
Lạm pháp: năm thứ 1
|
1.1%
|
3.4%
|
Năm thứ 8
|
4.8%
|
1.5%
|
So với đầu thập kỷ
|
22.9%
|
16.3%
|
Sử dụng nhân lực so với đầu thập
kỷ.
|
29.9%
|
17.6%
|
Số việc làm mới/năm
|
2 050 000
|
2 544 000
|
Đầu tư mới: năm thứ 1
|
3.0%
|
0.9%
|
Năm thứ 8
|
4.8%
|
4.7%
|
Mức tăng trưởng TT chứng khoán:
năm thứ 8
|
-14.4%
|
19.5%
|
So với năm đầu thập kỷ
|
46.5%
|
291.6%
|
Nguồn:
Institute for Policy Innovation, Economic Scorecard, Dallas /2000
Sự khác
biệt chính trong thập kỷ 1990 so với thập kỷ 1960 là nền kinh tế ngày càng hoạt
động tốt hơn khi cuộc tăng trưởng kéo dài, như thế có khả năng giúp nó tiếp tục
lâu bền hơn. Ngoài ra, giá thị trường chứng khoán tăng cao hơn gấp 6 lần so với
thập kỷ 1960.
Trong hơn
thập kỷ vừa qua, tính ổn định của nền kinh tế Mỹ cũng tăng cao. Theo [10], mức
sai biệt chuẩn (standard deviation) của tỷ lệ tăng trưởng GDP từng quý đã giảm
xuống một nửa (bằng 2.2%) trong 15 năm vừa qua, so với 25 năm trước đó. Có
nhiều nguyên nhân giải thích hiện tượng giảm biên độ dao động GDP. Trước tiên,
kỹ thuật tiến tiến sử dụng máy vi tính điện tử và Internet đã tối ưu hoá việc
quản lý hàng tồn kho trong qua trình sản xuất và phân phối. Hàng tồn kho chiếm
tỷ trọng ngày càng nhỏ và ít dao động trong tổng kim ngạch sản xuất và phân
phối. Sau hơn 9 năm tăng trưởng, tỷ lệ hàng tồn kho trên tổng kim ngạch buôn
bán giảm xuống mức kỷ lục 1.3. Hiện tượng này trái với kinh nghiệm trước đó,
nếu cuộc tăng trưởng càng kéo dài thì tỷ lệ hàng tồn kho càng tăng cao, vì tỷ
lệ này có tính đi theo chu kỳ (procyclical). Chu kỳ hàng tồn kho cắt nghĩa một
nửa chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế Mỹ từ sau Thế Chiến II. Vì thế, nếu biên
độ dao động của chu kỳ hàng tồn kho giảm xuống, thì nền kinh tế Mỹ ổn định hơn.
Thứ hai, việc quy chế hoá và hiện đại hoá thị trường tài chánh trong lãnh vực
địa ốc đã làm cho cung và cầu trong việc tài trợ địa ốc được cân đối nhanh
chóng và nhuần nhuyễn hơn, giúp cho chu kỳ địa ốc ổn định hơn so với trước đây.
Sau cùng. Tỷ trọng của dịch vụ trong GDP Mỹ đã tăng từ 64% trong năm 1980 lên
75% trong năm 1997. Cung và cầu trong lãnh vực dịch vụ thường được cân đối một
cách tiệm tiến, ít khi bị chênh lệch đến mức hâm nóng hay làm suy thoái nền
kinh tế. Điều này cũng giúp nâng tính ổn định của nền kinh tế nói chung.
C. Năng suất lao động tăng cao. Năng suất lao động Mỹ ngoài
lãnh vực nông nghiệp đã giảm liên tục từ các thập kỷ 1950/60 cho đến giữa thập
kỷ 1990 mới bắt đầu tăng trở lại. Suất tăng trưởng của giá thành đơn vị lao
động cũng giảm liên tục từ thập kỷ 1970’s (trong thập kỷ này, Mỹ bị nạn suy
phát [stagflation], kinh tế ngưng trệ nhưng lạm phát tăng cao).
|
Năng
suất lao động
(ngoài
nông nghiệp
|
Giá
thành đơn vị lao động
|
1960’s
|
2.8% p.a
|
2.0% p.a
|
1960’s
|
1.9
|
6.3
|
1960’s
|
1.4
|
4.3
|
1990-95
|
1.5
|
2.1
|
1996-99
|
2.7
|
1.6
|
1999
|
3.0
|
1.7
|
Nguồn :US
Labor Department
Nếu chỉ
xét trong lãnh vực công nghiệp chiế biến (manufacturing), thì năng suất lao
động đã tăng rất cao trong hai năm qua, thể hiện kết quả của quá trình tái cấu trúc
doanh nghiệp và áp dụng CNTH vào quá trình sản xuất, chế biến. Việc tăng năng
suất vào giai đoạn sau của một cuộc tăng trưởng lâu bền cũng khác với kinh
nghiệm trong quá khứ. Trước đây, năng suất tăng cao khi nền kinh tế vừa bước ra
khỏi suy thoái và giảm dần khi cuộc tăng trưởng kéo dài, vì vào lúc này suất
thất nghiệp giảm, và doanh nghiệp phải thu dụng những công nhân mới, ít lành
nghề. Tăng năng suất lao động cũng đã làm cho suất tăng trưởng giá thành đơn vị
lao động trở thành âm trong nhiều quý; góp phần quan trọng trong việc ổn định
tình trạng lạm phát giá cả trong tăng trưởng kinh tế lâu bền này.
|
Năng
suất lao động
(công
nghiệp chế biến)
|
Giá
thành đơn vị lao động
|
1 Q 1998
|
1.6%
|
2.4%
|
2 Q
|
3.9
|
-1.33
|
3 Q
|
7.8
|
-0.9
|
4 Q
|
6.1
|
-3.1
|
1 Q 1999
|
7.3
|
-2.7
|
2 Q
|
5.5
|
0.3
|
3 Q
|
4.4
|
1.5
|
4 Q
|
10.3
|
-5.8
|
Nguồn :US
Labor Department
Việc tăng
năng xuất lao động trong những năm gần đây đã giải đáp phần lớn “nghịch lý năng
suất” mà một số nhà kinh tế đã đặt ra: từ cuối thập kỷ 1980 và nửa đầu thập kỷ
1990, giới doanh nghiệp Mỹ đã tiến hành tái cấu trúc, tinh giảm biên chế và đầu
tư rất lớn để hiện đại hoá máy móc, thiết bị, nhất là trong CNTH. Thế nhưng số
liệu thống kê quốc gia, cho đến những năm gần đây, đã không phản ánh được nhận
xét rất phổ biến trong giới kinh doanh và đầu tư là năng suất lao động đã phục
hồi và tăng nhanh trong thập kỷ 1990. Kinh tế gia Robert Solow, trong năm 1987,
đã đưa ra một nhận xét dí dỏm: “Thời đại máy tính điện tử nhan nhản ở đâu cũng
thấy, chỉ trừ trong các số thống kê năng suất” [xem 11, 12 và 13]. Có hai
nguyên nhân chính giải thích tình trạng này. Thứ nhất, sau khi một kỹ thuật,
công nghệ mới ra đời, cần phải có thời gian dài để phổ biến rộng rãi, mọi người
học tập cách sử dụng, và áp dụng nó vào trong tiến trình sản xuất và phân phối;
đến lúc đó mới phát huy tác dụng. Trong trường hợp CNTH, trước tiên Công ty bỏ
tiền mua máy tính điện tử, nhân viên phải bỏ thì giờ học cách sử dụng; trong
giai đoạn này, năng suất thường là giảm, chứ chưa nói đến tăng. Sau khi đại bộ
phận nhân viên đã vận dụng máy tính thành thạo, và nhất là khi các máy tính
được nối mạng với nhau qua Internet, thì CNTH mới bắt đầu phát huy tác dụng
tăng năng suất. Khả năng tăng hiệu năng và năng suất sẽ ngày càng to lớn thêm,
khi các mô hình thương mại điện tử B2B và B2C được áp dụng rộng rãi trong nền
kinh tế toàn cầu. Thứ hai, lãnh vực dịch vụ ngày càng tăng trong GDP. Năng suất
trong lãnh vực dịch vụ vốn thấp lại khó tăng, nhất là khi so sánh với công
nghiệp chế biến, nên đã trì kéo lùi số thống kê năng suất của toàn nền kinh tế.
Ngoài ra, việc đo lường năng suất trong lãnh vực dịch vụ còn rất nhiều khuyết
điểm. Thí dụ trong ngành ngân hàng, nếu xét theo hiện tượng giảm giá thành các
dịch vụ ngân hàng hay tăng lợi nhuận tính trên từng nhân viên thì rõ ràng có sự
tiến bộ vượt bậc. Thế nhưng theo số thống kê chính thức thì năng suất trong
lãnh vực ngân hàng vẫn còn thấp kém, không có sự thay đổi nào. Cả hai lý do này
cho thấy việc mới tăng năng suất lao động trong mấy năm vừa qua có tính cơ cấu,
vì vậy sẽ tiếp tục trong tương lai, chứ không phải là tạm bợ.
Nếu tăng
năng suất lao động Mỹ tiếp tục tăng 2.5%-3% một năm, lực lượng lao động tăng 1%
một năm như trong hơn một thập kỷ vừa qua, thì tỷ lệ tăng trưởng GDP khuynh
hướng (trend growth rate) sẽ lên 3.5%-4%, cao hơn hẳn so với mức 2.5% được ước
tính trước đây. Đối với một nền kinh tế to lớn và hiện đại như Mỹ, sự tăng tốc
suất tăng trưởng này sẽ tạo ra thế lực kinh tế khổng lồ (cứ tăng trưởng 1% hàng
năm, sẽ tạo ra thêm US$ 100 tỷ GDP). Kết hợp với điểm B nói trên, nếu chu kỳ
kinh tế Mỹ phần lớn dao động trong biên độ +/-- 2.2%, có khả năng nền kinh tế
Mỹ trong tương lai rất ít khi phải trải qua suy thoái, hiểu theo nghĩa GDP tăng
trưởng âm trong 2 quý liên tiếp. Thực ra trong cả 17 năm vừa qua, Mỹ chỉ bị suy
thoái kinh tế trong 8 tháng (hay 4% thời gian). Để so sánh, xin lưu ý nền kinh
tế Mỹ đã bị suy thoái 40% thời gian trong thế kỷ từ 1853 đến 1953.
D.
áp lực giảm phát (disinflationary) thường xuyên có mặt, và
đã trở thành một thuộc tính của nền kinh tế mới TCH. Bốn yếu tố cơ bản góp phần
tạo ra áp lực này. Trước tiên do tiến bộ vượt bậc trong khoa học kỹ thuật, giá
thành trong CNTH và viễn thông (máy tính, chip điện tử, dụng cụ viễn thông,
phần mềm...) tiếp tục giảm rất nhiều so với khả năng xử lý, lưu trữ và chuyển
tải dữ liệu [14]. Điều này góp phần quan trọng hạ giá thành trong mọi hoạt động
kinh tế sử dụng CNTH và mạng Internet.
E.
Khả năng xử lý, lưu trữ và chuyển tải dữ liệu
|
1970
|
1980
|
1990
|
1999
|
Chip/bộ
vi sử lý (MHz)
|
0.11
|
8
|
50
|
800
|
DRAM
(lưu trữ Kilobit)
|
1
|
64
|
4000
|
1000000
|
Bandwidth
(vận tốc Kilobit/giây)
|
50
|
56
|
46080
|
9600000
|
Nguồn: FRB
of Dallas
Giá xử lý, lưu trữ vận tốc chuyển tải
|
1970
|
1980
|
1990
|
1999
|
Giá
1MHz
|
0.11
|
8
|
50
|
800
|
Giá
lưu trữ 1 Megabit
|
1
|
64
|
4000
|
1000000
|
Giá
chuyển tải 1000 Gigabit
|
50
|
56
|
46080
|
9600000
|
Nguồn: FRB
of Dallas
Thứ hai, trong quá trình phi quy chế hoá trong những lãnh
vực trước đây thuộc độc quyền nhà nước ở các nước công nghiệp phát triển, như
điện thoại, viễn thông, điện nước... đã và sẽ tiếp tục giảm giá các dịch vụ
này.
Thứ ba, cạnh tranh toàn cầu cũng có khuynh hướng giảm giá
nhất là trong lãnh vực chế tạo phẩm công nghiệp. Lượng đầu tư trực tiếp (FDI)
ngày càng lớn, lan ra khắp cả thế giới đã dễ dàng kết hợp công nghệ tiên tiến,
hiện đại với lực lượng lao động lương rẻ ở rất nhiều nước đang phát triển để
cung cấp cho thị trường toàn cầu hàng chế tạo phẩm chất tốt, giá thành rẻ. Các
doanh nghiệp sản xuất hay cung cấp, bất kỳ lớn hay nhỏ, mất khả năng chủ động
tăng giá, mà phải chấp nhận giá hình thành bởi thị trường toàn cầu. Cuối cùng việc
tăng năng suất lao động ở các nước công nghiệp phát triển và các nước ĐPT có
FDI du nhập vào, đã giảm giá lao động/đơn vị, góp phần giảm giá thành đơn vị.
Điều này rất quan trọng trong việc ức chế khả năng lan truyền áp lực tăng lương
(ở những nền kinh tế có suất thất nghiệp thấp như Mỹ hiện nay). áp lực này tạo
ra áp lực lạm phát giá cả nói chung.
Trong năm
vừa qua, chỉ có giá dầu thô tăng mạnh; nhưng đây chủ yếu là do OPEC khống chế
mức cung. Vì nhiều lý do kinh tế lẫn chính trị, nội tại lẫn quốc tế, OPEC sẽ cố
giữ giá dầu thô ổn định ở mức tạo ra thu nhập thoả đáng cho họ, chứ không thể
tăng giá liên tục mãi được. Việc tăng giá dầu thô cũng không ảnh hưởng nhiều
lắm đến các nước công nghiệp phát triển vì hiệu năng sử dụng năng lượng của các
nước này đã tăng rất nhiều. Giá trị năng lượng cần tiêu thụ để sản xuất một đơn
vị GDP hiện nay chỉ bằng nửa so với thập kỷ 1970, khi xảy ra cuộc khủng hoảng
năng lượng đầu tiên. Trong trường hợp của Mỹ, giá trị số lượng dầu được tiêu
dùng trong nền kinh tế hiện nay chỉ chiếm 3%GDP, so với mức 9% GDP ở đầu thập
kỷ 1980. Trong trung hạn, với giá dầu thô như hiện nay, nhiều nguồn dự trữ mới
sẽ được khai thác (trong 25 năm qua, trữ lượng dầu thô được kiểm chứng tăng 50%
lên đến mức 1000 tỷ thùng, tương đương với 40 năm sử dụng như hiện nay). Các
nguồn năng lượng khác, chủ yếu là khí đốt cũng sẽ được phát triển và sử dụng
rộng rãi trong sản xuất và tiêu dùng. Tất cả sẽ làm suy yếu khả năng can thiệp
vào thị trường của OPEC. Ngoài ra, theo [15] kể từ đầu thập kỷ 1980 cho đến
nay, việc tăng giá dầu chỉ ảnh hưởng đến chỉ số lạm phát chung tương ứng với tỷ
phần của dầu thô trong các chỉ số này, chứ không ảnh hưởng đến chỉ số lạm pháp
cơ bản (core inflation; trừ giá năng lượng và thực phẩm) như trong thời gian
trước.
E. Cộng sinh giữa nền kinh tế mới và cũ. Sự cộng sinh này có
thể quan sát được ở mọi nước , với tỷ trọng cao (như ở Mỹ) hay thấp khác nhau.
Sự cọ sát giữa những khác biệt cơ bản trong nền kinh tế cũ và mới đã tạo ra
nhiều mâu thuẫn xã hội và ngày càng làm chúng căng thẳng thêm. Đồng thời nó
cũng là một động cơ tích cực thúc đẩy quá trình cải cách và tái cấu trúc. Trước
tiên, nền kinh tế mới sử dụng nhân viên có trình độ KHKT cao, nói chung tốt
nghiệp Đại học. Thu nhập của tầng lớp này càng tăng nhanh, nâng cao khoảng cách
giữa họ và tầng lớp công nhân lao động giản đơn trong nền kinh tế cũ. Trong năm
1979 ở Mỹ, thu nhập của nhân viên tốt nghiệp Đại học cao hơn công nhân tốt
nghiệp Trung học phổ thông trung bình khoảng 38%. Đến năm 1999, khoảng cách này
tăng lên 71% (thu nhập thật sự, sau khi trừ đi lạm phát, của giới công nhân lao
động giản đơn gần như không tăng chút nào trong cả thập kỷ vừa qua). Trên thị
trưởng chứng khoán, sự khác biệt trong việc định giá cổ phiếu của các Công ty
thuộc nền KTM (trong lãnh vực CNTH, CNVT và CNSH) và các Công ty thuộc nền KTC
tăng rất cao. Từ năm 1995 tới nay trong chỉ số SP 500, khoảng cách giữa mức
tăng giá cao nhất (các ngành công nghệ tiên tiến) và thấp nhất (hay giảm giá
nhiều nhất; thường là các ngành KTC) trung bình mỗi năm là 120 điểm phần trăm
(percentage point), tăng gấp 3 lần so với thời gian trước đó. Giá trị trên thị
trường chứng khoán của các Công ty KTM vì vậy đã tăng gấp nhiều lần trong những
năm qua, biến chúng thành những Công ty lớn nhất thế giới. Thí dụ cụ thể là
Công ty Cisco System với giá trị thị trường chứng khoán của Công ty General
Motors. Thế nhưng, trong khi GM thu dụng
khoảng 300.000 công nhân viên trên khắp thế giới, Cisco chỉ dùng có 29.000. Đây
cũng là một điểm khác biệt rất quan trọng: giá trị thị trường chứng khoán tính
trên đầu nhân viên, hay lợi nhuận tính trên đầu nhân viên của các Công ty KTM
cao hơn rất nhiều lần so với các Công ty KTC. Điều này thể hiện hiệu năng cao
của nền KTM; nhưng mặt trái của nó là nhu cầu nhân dụng thấp, phần lớn tập
trung vào lớp nhân viên có trình độ KHKT cao. Một sự khác biệt quan trọng khác
là môi trường pháp lý và quy chế. Các Công ty trong nền KTM vì cung cấp những
hàng hoá và dịch vụ hoàn toàn mới, với cách kinh doanh cũng mới, nên ít bị trói
buộc bởi luật lệ, quy chế được hình thành qua bao nhiêu đời nay trong nền KTC.
Thí dụ cụ thể: các dịch vụ qua Thương mại Điện tử hiện không bị trả thuế buôn
bán hay thuế trị giá gia tăng như trong nền KTC. Với môi trường pháp lý nhẹ
nhàng và thoáng hơn, các Công ty KTM rất năng động, phát triển nhanh, có tiềm
năng rất lớn, và đã trở thành mũi nhọn trong phát triển kinh tế. Điển hình là
công nghiệp Điện tử phần mềm ở ấn Độ trong thập kỷ qua đã phát triển rất nhanh,
trở thành một ốc đảo hiện đại trong một nền kinh tế nói chung vẫn còn lạc hậu, còn bị trói buộc bởi nhiều luật lệ
quan liêu, rườm rà và phi kinh tế [16]. Trong trường hợp của Nhật, khu vực CNTH
tăng trưởng 12% một năm, năng suất tăng 7%, trong khi nền kinh tế nói chung lại
rơi vào suy thoái (GDP tăng trưởng âm trong quý 3 và 4 năm 1999); các Công ty
trong nền KTC vẫn bị đè bẹp bởi nạn 3 Dư Thừa (thừa nợ, thừa nhân công và thừa
khả năng sản xuất).
F. Trong nền kinh tế mới, có sự hội tụ (convergence) của nhiều
ngành công nghiệp, không những để hình thành những công nghiệp mới, mà còn thay
đổi cách tổ chức, hoạt động của cả nền kinh tế, cũng như cách sinh hoạt, giải
trí của xã hội. Rõ ràng nhất là sự hội tụ giữa công nghiệp tính toán (máy tính
điện tử, máy vi tính, bộ vi xử lý...), công nghiệp điện thoại và viễn thông (hệ
thống dịch vụ điện thoại / viễn thông
hữu tuyến và vô tuyến) và công nghiệp thông tin, phát hành (sách, báo,
âm nhạc, truyền thanh và truyền hình). Về mặt kỹ thuật, có ba loại hội tụ: hội
tụ giữa chuyển tải và nội dung, hội tụ giữa chuyển tải tiếng nói và dữ liệu, và
hội tụ giữa điện thoại hữu tuyến và vô tuyến. Biểu hiện cho quá trình hội tụ
này là việc các Công ty thuộc các ngành công nghiệp nói trên đã hợp nhất với
nhau để hình thành những doanh nghiệp lớn, có thể cung cấp một cách tối ưu vừa
khả năng chuyển tải và xử lý dữ liệu, vừa
nội dung của các thông tin, chủ yếu dựa trên mạng Internet toàn cầu
(điển hình là việc AOL mua Time-Warner, hay Vodafone mua Mannesmann).
Sự hội tụ
này tạo ra nhiều hướng, cơ hội và điều kiện nghiên cứu, phát minh trong nhiều
ngành KHKT khác nhau, hứa hẹn sẽ tiếp tục thay đổi đời sống của nhân loại. Nó
cũng tăng tốc độ phổ biến và tăng ảnh hưởng của các phát minh KHKT tràn (spill-over effect) lên các mặt hoạt
động khác của xã hội.
G. Nền kinh tế mới TCH cũng là nền kinh tế nối mạng toàn cầu
(globally networked economy). Việc tăng hiệu năng kinh doanh trong sản xuất và
phân phối phần lớn, nếu không muốn nói là hoàn toàn, tuỳ thuộc vào việc kết
mạng, qua Internet, giữa các nhà sản xuất, cung ứng bán thành phẩm và linh
kiện, bán buôn và bán lẻ với giới tiêu thụ. Hệ thống cung ứng, trao đổi qua
Internet tạo điều kiện để có sự gặp gỡ giữa rất nhiều người cung và người cầu.
Việc trao đổi thông tin về khả năng cung cấp, nhu cầu về mẫu mã, phẩm chất, giá
cả v.v... xảy ra trong thời gian thực (real time – hiểu theo nghĩa cần phải có)
ngày càng ngắn, vì vậy quá trình khám phá giá (ngã giá) rất nhanh chóng và hữu
hiệu; phí tổn hành chánh giảm rất nhiều cho mọi bên đối tác. Hệ thống nối mạng
này càng mở, càng có nhiều thành viên trên khắp thế giới, thì nó càng hữu ích
và có giá trị cho mỗi thành viên. Phía cầu được hưởng giá rẻ, hàng phẩm chất
tốt; phía cung có khả năng sản xuất với khối lượng lớn, để có thể tận dụng tính
kinh tế của quy mô lớn (economy of scale). Mô hình kinh tế nối mạng vì thế tạo
ra lợi ích cho cả hai bên cung và cầu, khác với tình trạng “bên được, bên thua”
(trong trò chơi mà kết quả cộng lại bằng không [zero-sum game]) thường thấy
trong nền kinh tế cũ. Việc hợp tác giữa các thành viên trong mạng vì vậy trở
thành nhu cầu khách quan, mang lại lợi ích cho mọi người. Mặt trái của mô hình
này không phải ai cũng có thể tham gia các hệ thống cung ứng, trao đổi này
được. Chỉ những doanh nghiệp, và ở các nước, hội đủ tiêu chuẩn tối thiểu về khả
năng kỹ thuật, chất lượng, tổ chức, quản lý và định chế mới được mời tham gia
và tham gia được. Sau khi được kết mạng, các doanh nghiệp phải luôn luôn tìm
cách cung cấp hàng hoá hay dịch vụ có thể tạo ra giá trị gia tăng lớn nhất cho
các đối tác của mình, thì mới được sử dụng mạng. Nếu không được kết mạng, hoặc
đã ở trong mạng nhưng không còn khả năng tạo giá trị gia tăng, doanh nghiệp sẽ
nhanh chóng bị biên tế hoá (đảy ra ngoài biên) hay bị đào thải. Nền kinh tế nối
mạng toàn cầu vì vậy vừa mở ra nhiều cơ hội kinh doanh có hiệu năng kinh tế
cao, nhưng cũng làm cho sự cạnh tranh càng sâu sắc thêm. “Vừa cạnh tranh, vừa
hợp tác” với những phương thức mới đã trở thành một nét tiêu biểu cho nền kinh
tế kết mạng toàn cầu. Tuy nhiên, nếu cạnh tranh trong nền kinh tế TCH là khó
khăn, thì hợp tác trong nền kinh tế TCH còn khó khăn hơn nữa, vì cạnh tranh
thành công rồi mới được mời hợp tác.
Trong nền
kinh tế kết mạng, việc phân phối thông tin nhanh, trên diện rộng và hữu hiệu
(đưa thông tin cần thiết đúng lúc đến đúng người cần sử dụng) cũng trở thành
một đòi hỏi, đồng thời cũng là một lợi thế; nó nâng cao hiệu năng kinh tế của
mỗi thành viên trong mạng và của toàn mạng. Mô hình hoạt động này tăng tính dân
chủ của thông tin, việc sử dụng thông tin và quá trình quyết định: mọi thành
viên của doanh nghiệp hay trong mạng lưới, khi được cung cấp đầy đủ thông tin,
đều có thể phản ánh thông tin trở lại, bồi bổ cho vốn thông tin chung, làm cho
nó nhạy bén, toàn diện và hữu ích hơn. Cách hoạt động này ngược hẳn với mô hình
cũ, trong đó độc quyền lưu giữ thông tin và bí mật thông tin là cơ sở tạo nên
quyền lực.
Để thành công trong nền kinh tế kết mạng, một nước hay doanh
nghiệp cần có 3 loại tư bản: tư bản vật chất (máy móc, thiết bị, công nghệ...);
tư bản con người (giáo dục, đào tạo, trình độ KHKT, cung cách làm việc chính
quy hiện đại, khả năng thay đổi và thích ứng); và tư bản xã hội (khả năng kết
mạng, chia sẻ tiêu chuẩn và thang giá trị chung, tính tin cậy xã hội). Tư bản
vật chất dễ kiếm nhất vì nó có thể mua được, chỉ cần có tiền. Tư bản con người
cần quá trình giáo dục và đào tạo văn hoá; tưbản xã hội cần xây dựng văn minh
và định chế. Cả hai loại tư bản này, tự chúng đã trở thành những đòi hỏi không
thể thiếu được để hội nhập vào nền kinh tế mới TCH, song không dễ gì ngày một
ngày hai có thể tạo ra được.
H. Nền kinh tế TCH vừa triển khai kỹ thuật, công nghệ mới, tạo
ra sản phẩm, dịch vụ mới, lại vừa lan ra trên phạm vi toàn cầu còn rất nhiều
chỗ thiếu đầu tư, nên đang ở giai đoạn “tăng tốc kết quả (lãi) khi tăng quy mô”
(increasing return to scale) [17]. Trong mô hình này, giá biên tế (marginal
cost) rất thấp, hiệu ứng mạng cao, nên giá thành trung bình giảm xuống trong
dài hạn. Trái lại, nền kinh tế cũ đã trưởng thành, bắt đầu thừa ở đầu vào (dư
thừa khả năng sản xuất) và gặp giới hạn ở đầu ra (tình trạng bão hoà mức cầu
trên thị trường), nên đã đi vào giai đoạn “giảm thiểu kết quả (lãi) khi tăng
quy mô” (decreasing return to scale). Điều này có nghĩa nếu sản lượng tăng quá
một mức nào đó, thì giá thành trung bình cũng tăng theo. Có nhiều thí dụ cụ thể
biểu hiện tình trạng tăng tốc kết quả. Phần lớn các loại hàng này trong nền
kinh tế Internet như thông tin, chương trình phần mềm, âm nhạc hay giải trí
không có tính “loại trừ nhau” (non rivalry – không thù nghịch nhau); một người
dùng không triệt tiêu hay cản trở sự thụ hưởng của người khác. Khi được phân
phối qua Internet, giá biên tế của các loại hàng này gần như là số không. Các
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và mạng Internet, nếu càng thu hút được nhiều
khách thuê bao, nhiều Công ty quảng cáo và bán hàng, dịch vụ trên mạng, thì nội
dung của mạng càng thêm phong phú, và càng có giá trị cho người sử dụng. Khi
mạng bắt đầu có ích lợi, thì lại càng dễ thu hút khách hàng thuê bao và Công ty
quảng cáo, và như vậy càng tăng thêm giá trị. Một thí dụ khác là Microsoft và
hệ thống điều hành Windows; càng nhiều người sử dụng Windows thì càng có nhiều
Công ty sản xuất chương trình phần mềm, máy vi tính, dụng cụ điện tử cầm tay...
dựa trên Windows; như vậy càng làm cho nó gần như trở thành tiêu chuẩn cho công
nghệ PC, và càng có giá trị hơn cho người sử dụng lẫn cho Công ty. Trong lãnh
vực tính toán, xử lý, chuyển tải dữ liệu cũng như viễn thông, tiến bộ KHKT đã
làm khả năng này ngày càng tăng và giá thành giảm gấp bội phần. Điều này làm
cho tình trạng tăng tốc kết quả (lãi) khi tăng quy mô trở nên hiện thực. Nhiều khi tiến bộ KHKT đã thay đổi
một hệ thống cũ trong trường hợp công nghệ ADSL làm tăng rất lớn tốc độ chuyển
tải số liệu qua hệ thống dây điện thoại bằng đồng dẫn tới nhà. Các Công ty điện
thoại truyền thống, những tưởng phải chi rất lớn để xây dựng hệ thống cáp
quang, thì nay có thể cung cấp dịch vụ Internet, ngay cả qua băng rộng, qua hệ
thống dây đồng có sẵn, biến một nhược điểm thành lợi thế cạnh tranh.
Hậu quả
của tình trạng tăng tốc kết quả (lãi) khi tăng quy mô là những doanh nghiệp đi
đầu trong các lãnh vực KHKT thường được hưởng lợi thế rất lớn so với các doanh
nghiệp đi sau. Lợi thế này đã giúp các doanh nghiệp tiên phong thành công, phát
triển nhanh và rộng lớn; giá trị thị trường chứng khoán tăng gấp bội phần và
lớn hơn GDP của nhiều quốc gia.
Giá các Công ty ở thời điểm 6/4/2000
Công
ty
|
Giá
trị TT chứng khoán
|
Tương đương với GDP của
|
General Electric
|
US$ 515 tỷ
|
Tây Ban Nha
|
Cisco System
|
491
|
ấn độ
|
Microsoft
|
448
|
Hà Lan
|
NTT DoCoMo
|
312
|
Thụy Sỹ
|
AOL
|
150
|
Đan Mạch
|
Nguồn :
Trần Quốc Hùng.
Điều này
cũng giải thích tại sao phần lớn các Công ty CNTH khổng lồ này là của Mỹ, vốn
đã đi đầu trong công việc đầu tư và phát triển CNTH và Internet. Đại bộ phận
(hơn 95%) việc chuyển tải thông tin, dữ liệu qua hệ thống viễn thông và
Internet trên thế giới trung chuyển qua Mỹ, cũng như 96 trên 100 máy chủ
Internet thông dụng nhất trên thế giới là Mỹ. Theo [18], trong việc chuyển tải
dữ liệu theo giao thức Internet IP, công suất chuyển tải giữa Mỹ với các châu
lục cao nhất; công suất chuyển tải giữa các châu lục với nhau còn thấp. Vì lý
do này, trong năm 1998, 50% luồng giao thông Internet giữa các nước châu
Âu phải trung chuyển qua Mỹ. Đến cuối
năm 1999, thì lượng trung chuyển này giảm xuống còn 1/3 (nguồn: Financial
Times).
Sự tập
trung này, chủ yếu phản ánh mô hình “giá tài sản cố định cao, giá thành biên tế
(marginal cost, còn gọi là giá thành biên độ) rất thấp, gần như không”, cũng
dẫn đến tình trạng độc quyền, dựng hàng rào cản các doanh nghiệp đi sau. Đây là
nội dung sự kết án của Bộ Tư pháp Mỹ đối với Công ty Microsoft và hệ điều hành
Windows. Nhưng trong thời đại cách mạng KHKT, đe doạ lớn hơn cho Microsoft chưa
hẳn là chính phủ Mỹ, mà có thể là sự cạnh tranh của hệ thống điều hành Linux,
hiện đang được phổ biến miễn phí với cả chương trình gốc trên Internet, cho nên
ngày càng được nhiều người sử dụng và cải thiện. Nói một cách khác, trong nền
kinh tế mới, ngay cả các doanh nghiệp tiên phong đã thành công cũng bị đe doạ
biến thành lạc hậu nếu không chịu luôn luôn đổi mới.
Công suất chuyển tải (Megabit/giây)
Mỹ - Châu Âu
|
13258
|
Mỹ - Châu /TBD
|
5916
|
Mỹ - Châu Mỹ La Tinh
|
949
|
Châu Âu - Châu á /TBD
|
152
|
Châu Âu - Châu Mỹ La Tinh
|
63
|
Nguồn:
TeleGeography Inc
I. Quá trình hình thành nền kinh tế mới TCH cũng là quá trình
thay đổi, cải cách, huỷ diệt doanh nghiệp và cách thức làm ăn cũ; nhưng đồng
thời xây dựng, phát triển nhiều doanh nghiệp và ngành kinh tế mới. Tiêu biểu
cho quá trình này là kinh nghiệm của Mỹ trong hai thập kỷ qua. Trước khi được
hưởng những thành quả của KMT như đã trình bày ở trên (tăng năng suất, suất
tăng trưởng kinh tế, ổn định, lạm phát và thất nghiệp thấp...), Mỹ đã phải kinh
qua gia đoạn tái cấu trúc rất khốc liệt trong một thời gian dài. Hàng triệu
công nhân lắp ráp của các Công ty công nghiệp chế biến bị sa thải, nhằm tăng
năng suất để có thể cạnh tranh trên thị trường TCH. Hàng trăm ngàn cán bộ quản
lý cấp thấp và cấp trung bị “tinh giản biên chế” trong nỗ lực làm cho bộ máy
hành chánh, quản lý mỏng, nhẹ, không quan liêu rườm rà, như hiện nay, và đã gây
nhiều chấn động xã hội, nhất là tâm lý tự tin và sự an toàn trong công việc.
Hàng trăm ngàn doanh nghiệp bị phá sản, nhiều ngành công nghiệp (đặc biệt trong
lãnh vực hàng gia dụng điện và điện tử) bị tiêu diệt vì không cạnh tranh nổi
với các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI, ở các nước
thị trường mới xuất hiện. Một cách cụ thể hơn, trong cả nửa thế kỷ từ 1930 đến
đầu thập kỷ 1980, số doanh nghiệp ở Mỹ bị phá sản, phải giải thể mỗi năm dưới
15.000. Nhưng từ 1984 cho tới nay, con số này tăng lên tới mức 60.000 đến
90.000 mỗi năm [19].
Tuy nhiên,
nhờ cơ cấu xã hội, định chế pháp lý và thị trường khoẻ mạnh, thích hợp, quá
trình “huỷ diệt” này đã tiến hành song song với quá trình “sáng tạo”. Hàng trăm
ngàn doanh nghiệp mới ra đời trong các lĩnh vực dịch vụ cũng như các lãnh vực
KHKT tiên tiến trong CNTH và CN Sinh học. Từ năm 1994 đến nay, mỗi năm có từ
150.000 đến 180.000 doanh nghiệp mới ra đời [20]. Nhiều ngành công nghiệp mới
xuất hiện, cung cấp hàng hoá, dịch vụ mới cho một xã hội đang có lối sống, lối
làm việc mới. Những doanh nghiệp này đã tạo ra 17 triệu công ăn việc làm mới
trong thập kỷ 1990, không những chỉ bù đắp cho số công nhân bị sa thải (ít nhất
là 5.25 triệu người từ các hãng lớn, có loan báo), mà còn dư để giảm tỷ lệ thất
nghiệp xuống còn 4% lao động toàn xã hội, mức thấp nhất trong 30 năm qua (mặc
dù trong thập kỷ qua, lực lượng lao động ở Mỹ tăng rất nhanh do di dân và tăng
tỷ lệ số người tham gia lao động). Các doanh nghiệp nhỏ (dưới 100 công nhân
viên) đã đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình này: trong thập kỷ vừa
qua, chúng đã tạo ra 2/3 việc làm mới, và hiện đang thu dụng 1/2 tổng số lực
lượng lao động của Mỹ.
Điểm nổi
bật trong quá trình này là cơ chế huy động vốn đầu tư hoàn toàn mới mẻ, mang tính chất mạo hiểm
(venture capital), cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán (tăng giá
trị cổ phiếu của các Công ty KHKT mới) đã thành công trong việc chuyển hướng
đầu tư từ nền kinh tế cũ sang nền kinh tế mới.
|
Số công nhân bị sa thải hàng năm
|
1989
|
110.000
|
1990
|
315.000
|
1991
|
585.000
|
1992
|
500.000
|
1993
|
610.000
|
1994
|
520.000
|
1995
|
430.000
|
1996
|
495.000
|
1997
|
425.000
|
1998
|
685.000
|
1999
|
685.000
|
Nguồn:
Challenger, Gray & Christmas
Quá trình
“huỷ diệt sáng tạo” đó (creative destruction - thuật ngữ của kinh tế gia Joseph
Schumpeter) đã chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế Mỹ từ cũ thành mới một cách tương
đối nhanh chóng, tuy nhiên vẫn phải mất hơn một thập kỷ. ở các nước khác, quá
trình chuyển đổi cơ cấu đã diễn ra một cách khó khăn, chậm chạp, không đồng bộ
và vấp phải nhiều sự phản kháng. Có hai lý do chính (không loại trừ lẫn nhau):
nhà nước vì nguyên nhân chính trị hay ý thức hệ tìm cách duy trì, bảo vệ nền
kinh tế cũ; hoặc các nước ấy vì hoàn cảnh phát triển lịch sử, không có hệ thống
định chế thích hợp, hoặc có hệ thống pháp luật quá cứng nhắc, để hỗ trợ và
khuyến khích quá trình “huỷ diệt sáng tạo”. Tiêu biểu cho trường hợp này là
kinh nghiệm của Nhật. Khi nền kinh tế bong bóng bị phá vỡ từ năm 1990, Nhật rơi
vào tình trạng ngưng trệ kinh tế triền miên; GDP tăng trưởng trung bình chỉ có
1.6%/năm trong cả một thập kỷ. Chính phủ Nhật đối phó bằng cách ban hành 10
chương trình bội chi ngân sách để kích cầu, tổng cộng hơn US$ 1.1 ngàn tỷ (bằng
GDP trung bình của nước Pháp trong 10 năm qua!). Đồng thời Chính phủ Nhật cũng
ban hành nhiều biện pháp nhằm bảo vệ nền kinh tế cũ, thí dụ như chương trình
bảo đảm tín dụng, giúp các doanh nghiệp có nhiều nợ vẫn có thể vay ngân hàng để
tiếp tục hoạt động, không bị bó buộc phá sản, gây ra thất nghiệp. Kết quả là số
thống kê chính thức về thất nghiệp và phá sản của doanh nghiệp được giữ ở mức
tương đối thấp, nhưng cả nền kinh tế bị đè bẹp bởi khủng hoảng “3 dư thừa”
(thừa nợ, thừa công nhân, thừa khả năng sản xuất ) nên hiệu năng kinh doanh rất
thấp; nền kinh tế bị ngưng trệ và liên tục rơi vào suy thoái. Chương trình kích
cầu chỉ có tác dụng trong 1 hoặc 2 quý, sau đó thì vẫn như cũ, ngoại trừ gánh
nặng công nợ của mọi cấp nhà nước cộng với gánh nặng tương lai cho quỹ hưu bổng
đã lên tới 250% của GDP, cao nhất trong các nước OECD. Mãi cho đến khi chịu tác
động của cuộc khủng hoảng kinh tế châu á
1997-98, chính phủ nhật mới chịu tiến hành cải cách, cho các Công ty lớn
nước ngoài tăng đầu tư trực tiếp, mua các Công ty Nhật bị đe doạ phá sản, khuyến khích các ngân hàng hợp nhất
v.v.. Các doanh nghiệp CNTH và Internet (thí dụ như NTT DoCoMo hay Softbank)
cũng bắt đầu phát triển, đặt nền móng cho nền KTM ở Nhật. Tuy nhiên, triển vọng
kinh tế Nhật trong năm nay và năm tới vẫn chưa có gì sáng sủa.
Các nước
trong Liên hiệp Tiền tệ châu Âu (European Monetary Union) cũng trải qua kinh
nghiệm tương tự, tuy nhẹ hơn Nhật. Các nước này có chế độ bảo hiểm và phúc lợi
xã hội rất cao, với luật lệ nặng nề, cứng nhắc trong mọi ngành kinh tế, nhất là
trong thị trường lao động; đây là kết quả của thời kinh tế phồn vinh trong thập
kỷ 1960. Từ sau khủng hoảng năng lượng thập kỷ 1970, và bị áp lực toàn cầu hoá,
các nước này cũng phải tiến hành cải cách ngân sách quốc gia, phi quy chế hoá
và tái cấu trúc doanh nghiệp. Tuy nhiên, vì môi trường kinh doanh bị sơ cứng,
quá trình “sáng tạo” tiến chậm hớn quá trình “huỷ diệt”, do đó không tạo ra đủ
số công ăn việc làm mới, gây ra nạn thất nghiệp cao trong một khoảng thời gian
dài (trên 10% trong gần một thập kỷ). Thất nghiệp cao và lâu dài không những
trở thành gánh nặng trợ cấp cho ngân sách nhà nước, mà còn gây ra nhiều tệ nạn
xã hội, chủ yếu là việc tạo ra một tầng lớp người thất nghiệp thường trực, mất
hoàn toàn khả năng hội nhập vào nền kinh tế. Đây là miếng đất màu mỡ nuôi dưỡng
các đảng phái cực hữu ở châu Âu.
Nhân dụng và giá lao động
ở Mỹ và các nước EU (1970 - 1998)
|
Tăng
giá lao động (thực)
|
Tăng
nhân dụng
|
Mỹ
|
25%
|
66%
|
các
nước Liên minh tiền tệ EMU
|
65%
|
9%
|
Nguồn: OECD & IMF
Riêng Thụy
Điển, trong thời gian1975 - 1995, bị mất 3% số công ăn việc làm trong nền kinh
tế, vì giá lao động quá cao, không cạnh tranh nổi trong nền kinh tế TCH.
Bài học
kinh nghiệm của Nhật và nhiều nước khác trong thời gian qua là các nước phải
tìm cách để thực hiện quá trình chuyển đổi cơ cấu một cách ít đau đớn và phù
hợp bản sắc, truyền thống dân tộc nhất, chứ không thể bảo vệ nền KTC, không thể
chống lại việc chuyển đổi cơ cấu trong hội nhập nền kinh tế TCH (vì sau cùng
chỉ đi đến thất bại và còn gây thiệt hại to lớn và lâu dài hơn nữa).
J. Quá trình hình thành nền kinh tế mới TCH diễn ra song hành
với quá trình phân hoá giàu nghèo và tạo ra sự thay đổi sâu sắc trong xã hội.
Sự phân hoá xảy ra trong nội bộ mỗi nước, cũng như giữa các quốc gia trên thế
giới. Theo Angus Maddison, từ 1820 cho đến nay, dân số thế giới tăng 6 lần,
nhưng tổng sản lượng toàn cầu tăng gấp 50 lần. Tuy nhiên, mức tăng sản lượng
khổng lồ này được phân phối không đồng
đều. Theo [21], ở đầu thế kỷ 19, tỷ lệ thu nhập thật tính trên đầu người giữa
quốc gia giầu nhất và nghèo nhất là 3:1. Đến năm 1900, tỷ lệ này lên tới 10:1;
và tới năm 2000, tỷ lệ này vượt tới mức 60:1. Hiện nay, tổng sản lượng thế giới
tính trên đầu người (dựa theo cách tính giá trị cân đối sức mua, Purchasing
Power Parity - PPP) là US$6.000; tuy nhiên ở nước giàu nhất là US$29.000 và ở
nước nghèo nhất là US$500. Một tỷ người ở các nước có thu nhập cao chiếm 60%
tổng thu nhập toàn thế giới; và khoảng gần 5 tỷ người còn lại chia nhau phần
còn lại.
Tuy nhiên,
nếu xét theo lịch sử từng nước, thì nói chung có sự tiến bộ lớn trong thế kỷ
vừa qua, thể hiện qua sự tăng trưởng của hệ số phát triển con người (HDI: Human
Development Index) [22]. HID đo lường sự tiến bộ từ mức thấp nhất đến cao nhất,
theo 3 tiêu chuẩn là giáo dục, lợi tức và tuổi thọ.
HDI cho một số nước
|
1870
|
1913
|
1950
|
1995
|
ấn
Độ
|
--
|
0.055
|
0.160
|
0.451
|
Brazil
|
--
|
0.159
|
0.371
|
0.809
|
Mexico
|
--
|
0.182
|
0.418
|
0.855
|
Tây
Ban Nha
|
0.219
|
0.368
|
0.581
|
0.935
|
Nhật
|
0.160
|
0.381
|
0.607
|
0.940
|
Mỹ
|
0.467
|
0.733
|
0.844
|
0.943
|
Nguồn: UNDP, Human Development
Report, 1999
Điều này
có nghĩa là tăng trưởng kinh tế thế giới và tiến bộ khoa học kỹ thuật nói chung
đã giúp cho mọi nước phát triển, nhưng một số nước phát triển với tốc độ rất
nhanh so với nhiều nước khác, nhất là so với các nước châu Phi nói chung.
Trong
trường hợp nước Mỹ, sự bất bình đẳng trong thu nhập gia đình tăng cao trong hai
thập kỷ qua. Hệ số Gini (do sự bất bình đẳng trong thu nhập, 0 là bình đẳng tuyệt đối, 1 là bất
bình đẳng tuyệt đối) tăng từ 0.365 trong năm 1979 lên tới 0.425 trong năm 1996,
hay tăng 16% [23]. Lý do giải thích sự tăng bất bình đẳng cũng phức tạp. Theo
Gary Burtless, từ 33% đến 43% việc tăng này là do sự phân hoá trong lương bổng
(thực). Trong thời gian nói trên, lương bổng của 1/5 lao động nam loại thấp lương
nhất giảm 19%; trong khi lương của 1/10 lao động nam loạ lương cao nhất tăng
trên 10%. Trái lại, lương của 1/5 lao động nữ loại lương thấp nhất tăng 8%;
lương của 1/5 lao động nữ loại lương cao nhất tăng 40% (thu hẹp khoảng cách
lương giữa nam và nữ). Sự phân hoá lương bổng này cơ bản là do tiến bộ KHKT,
đòi hỏi công nhân phải có trình độ giáo dục ngày càng cao, mới được hưởng lương
cao. Công nhân lao động giản đơn thì chịu áp lực giảm lương vì mức cầu giảm đi,
và một phần nữa cũng vì áp lực của lao động lương rẻ ở các nước ĐPT. Quan trọng
hơn sự phân hoá lương bổng trong việc giải thích sự bất bình đẳng thu nhập gia
đình là sự thay đổi trong cơ cấu gia đình ở Mỹ. Trong năm 1979, 74% dân Mỹ sống
trong gia đình có đủ cặp vợ chồng; tỷ lệ này giảm xuống còn 65% trong năm 1996. Hộ gia đình có đủ cặp vợ
chồng, thường cùng đi làm, nên có khả năng tăng thu nhập gia đình cao; trong
khi hộ gia đình chỉ có một người đi làm thường có thu nhập gia đình thấp. Đa số
những gia đình nghèo (thu nhập dưới US$ 17.000 một năm cho hộ gia đình 4 người)
ở Mỹ là thuộc loại này. Sự phân hoá giàu nghèo, nhất là sự phân hoá thu nhập, ở
các nước công nghiệp phát triển, vì vậy chủ yếu là do sự tiến bộ của khoa học
kỹ thuật và sự thay đổi trong văn hoá xã hội, chỉ một phần nhỏ là vì tự do
thương mại. Như đã phân tích ở phần E, trong nền kinh tế mới, chuyên viên có
trình độ Đại học và khả năng KHKT cao sẽ có thu nhập thực ngày càng cao so với
nhân công lao động đơn giản. Nếu như các chuyên viên KHKT này lại có tinh thần
kinh doanh và chấp nhận rủi ro kinh doanh, thànhlập Công ty dịch vụ Internet,
rồi sau đó đăng ký bán trên thị trường chứng khoán NASDAQ, thì có thể trở thành
tỷ phú nhanh chóng. Hiện tượng tạo ra tài sản rất lớn và rất nhanh như thế, nếu
xét theo một quan điểm chủ quan về đạo đức, thì có thể cho là không công bằng.
Tuy nhiên, nếu xét theo tính hệ thống của nền kinh tế, thì đây lại là nhân tố
rất tích cực để thúc đẩy, khuyến khích việc chuyển hoá nền kinh tế và xã hội.
Sự phân
hoá giàu nghèo giữa các nước trên thế giới, nhất là tình trạng cùng khổ ở nhiều
nơi thuộc thế giới thứ 3, đã được giải thích bằng sự bóc lột của chủ nghĩa tư
bản. Cách giải thích này đã phản ánh được nhiều nét hiện thực trong qúa trình
cạnh tranh và tích luỹ tư bản trong nền kinh tế thị trường, nhưng nó không giúp
ta hiểu một cách sâu sắc những nhân tố tích cực đã thúc đẩy sự tiến bộ KHKT
vượt bậc của nhân loại, làm cơ sở cho sự phát triển kinh tế nhanh chóng, trong
nửa thế kỷ vừa qua. Theo [24], các tiền đề của sự phát triển kinh tế được phân
bổ (diffused) một cách chậm chạp và không đồng đều, vì vậy các nước trên thế
giới bắt đầu quá trình phát triển thành từng đợt, ở những thời điểm khác nhau.
Mỗi đợt khi bước vào bậc thang phát triển sẽ tăng trưởng nhanh hơn đợt trước,
cho đến khi đuổi kịp thì tỷ lệ tăng trưởng sẽ giảm xuống ngang với đợt trước
đó. Theo mô hình này, ở mỗi thời điểm, có một số nước đi trước, một số nước
đang đuổi kịp, và một số rớt lại đằng sau. Tỷ lệ tăng trưởng thế giới thoạt đầu
tăng lên, mở rộng mức phân hoá; sau đó sẽ giảm xuống trong khi mức phân hoá thu
hẹp lại. Sau cùng, thu nhập thế giới sẽ hội tụ, nhưng ở mức cao hơn trước. Như
thế, để có thể phát triển thành nền kinh
tế công nghiệp và hiện đại, một nước
phải có một số điều kiện cần và đủ. Nước Anh đã hội tụ đủ những điều kiện này
khi bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp vào thế kỷ 18; nền kinh tế Anh vì vậy
phát triển nhảy vọt, tăng khoảng cách phân hoá đối với các nước khác. Sau một
quá trình phổ biến, một số các nước như Tây Âu, Mỹ cũng hội đủ những điều kiện
này, và bắt đầu phát triển nhảy vọt; không những đuổi kịp , giảm khoảng cách
phân hoá, mà còn vượt qua Anh. Trong nửa thế kỷ qua, nhiều nước, đặc biệt là ở châu á đã trải qua kinh nghiệm này, và đã phát triển
nhanh chóng, thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với các nước tiên tiến. Theo [25],
sự bất bình đẳng trong thu nhập toàn cầu, đo bằng hệ số Gini, ở mức 0.39 trong
năm 1900; tăng lên 0.45 trong năm 1940; 0.53 trong năm 1950 và lên tới mức tối
đa là 0.54 trong năm 1980. Sau đó khi TQ và ấn Độ bắt đầu phát triển, thì hệ số
Gini toàn cầu giảm xuống, ước tính là vào mức 0.49 trong năm nay. Đặc biệt là
tiến bộ của TQ: giá trị thực của tiêu thụ tư nhân tính trên đầu người tăng
trung bình 7.7% một năm từ 1980 - 1997; và tỷ lệ xuất khẩu trên GDP tăng từ 6%
trong năm 1980 lên 22% trong năm 1998; chứng tỏ càng hội nhập thì càng có cơ
hội phát triển. Các nước nghèo nhất, vì nhiều lý do chủ quan lẫn khách quan, đã
không có những điều kiện để phát triển, và đã chủ động hay bị động đứng bên lề
của nền kinh tế thế giới. Nói cách khác, các nước này nghèo vì không tham gia
nền kinh tế toàn cầu; thí dụ như Myanmar, CHDC Congo, Sierra Leone, Rwanda
v.v... Theo cách giải thích này nền kinh tế toàn cầu càng phát triển và mở
rộng, thì càng có cơ hội phổ biến điều kiện phát triển hữu hiệu hơn, và như thế
làm cho nhiều nước cũng bắt đầu có những điều kiện để phát triển. Cơ chế lan
truyền những điều kiện phát triển chủ yếu là luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), vốn đã tăng cao trong thời gian qua và có khả năng hiện đại hoá công
nghệ lẫn định chế ở các nước chậm phát triển. Tất nhiên các nước này phải tạo
điều kiện thích hợp để thu hút FDI. Trong dài hạn, quá trình này sẽ thu hẹp
khoảng cách phân hoá giàu nghèo trên thế giới.
Phát triển
quốc gia tất nhiên không chỉ đơn thuần là tăng trưởng kinh tế. Nhưng tăng
trưởng kinh tế thế giới, theo sự phân tích kinh nghiệm của giai đoạn sau TCH
cho đến nay [26], đã tăng thu nhập của các tầng lớp nghèo trên thế giới (1/5
dân số thế giới có thu nhập thấp nhất) tương ứng với mức tăng thu nhập trung
bình. Hơn thế nữa, các chính sách nhà nước nhằm tăng sự ổn định nền kinh tế vĩ
mô, giảm bội chi ngân sách nhà nước, tự do mậu dịch và hội nhập nền kinh tế
toàn cầu, xây dựng cơ cấu định chế pháp luật thích hợp, không những giúp tăng
trưởng kinh tế mà cũng tăng thu nhập cho thành phần nghèo. Đặc biệt các chính
sách giảm bội chi ngân sách và giảm lạm phát có thể làm cho mức tăng thu nhập
của thành phần nghèo cao hơn tỷ lệ tăng thu nhập trung bình trong một quốc gia;
đấy có thể là một hướng cùng với các chính sách kinh tế, xã hội khác góp phần
giảm sự phân hoá giàu nghèo.
Nói chung, nền kinh tế mới TCH càng phát triển rộng rãi và
sâu sắc, thì càng gây sức ép đòi hỏi mọi quốc gia, mọi doanh nghiệp và mọi cá
nhân phải thay đổi, cải cách để phù hợp với những tiêu chuẩn chung của nền kinh
tế mới này. Những tiêu chuẩn này trở thành điều kiện tất yếu để có thể hội nhập
vào nền kinh tế kết mạng toàn cầu. Thế nhưng sự phân hoá giàu nghèo quá rõ rệt
hiện nay, cộng với phản ứng quán tính chống thay đổi đã hình thành một phong
trào chống lại quá trình toàn cầu hoá. Phản ứng này được biểu hiện không những
qua cuộc biểu tình phản đối Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) trong Hội nghị
Seattle tháng 11/1999, mà còn có thể thấy được ở khắp các nơi trên thế giới, ở
ngay trong nước giàu và cả trong nước nghèo. Tuy cùng một khẩu hiệu chống toàn
cầu hoá, nhưng động cơ, lý do và đòi hỏi của các thành phần chống đối rất khác
biệt, nhiều khi mâu thuẫn lẫn nhau. Các lý do bao gồm từ tôn giáo, ý thức hệ,
chính trị, đến đạo đức, bảo vệ môi trường, bảo hộ mậu dịch và cạnh tranh thương mại. ở các nước Âu Mỹ,
phong trào chống TCH thể hiện dưới nhiều dạng phức tạp; từ chỗ đòi hỏi bảo hộ
mậu dịch chống các nước ĐPT (qua những đòi hỏi về tiêu chuẩn lao động và môi
trường của các công đoàn và tổ chức phi chính phủ), đến việc chống mọi nỗ lực
cải cách trong nước vì nó đe doạ các phúc lợi xã hội mà hiện nay ngân sách quốc
gia không còn đài thọ nổi vì công nợ đã quá lớn. Một số sự chống đối có màu sắc
“cực tả” (chống cơ chế thị trường) lẫn “cực hữu” (bài ngoại và kỳ thị các cộng
đồng di dân thiểu số -- đây là khẩu hiệu dân tuý của các đảng phái tân phát-xít
đang bắt đầu xuất hiện trên chính trường châu Âu – trước hết ở áo). Nhiều người
trong giới trí thức ở châu Âu chống TCH vì coi TCH đồng nghĩa với “Mỹ hoá”, là áp
đặt lên toàn thế giới mô hình “xã hội thị trường” và văn hoá tiêu thụ đại chúng
“nông cạn” của Mỹ, làm mờ nhạt và thui chột các nền văn hoá dân tộc lâu đời của
châu Âu. Các nước ĐPT thì chống lại những khía cạnh bất bình đẳng trong quan hệ
mậu dịch thế giới (Âu Mỹ bảo hộ và yểm trợ nông nghiệp của mình, trong khi đòi
các nước ĐPT phải mở cửa thị trường và bảo vệ sở hữu trí tuệ); cũng như tính
đầu cơ và bất ổn định trong việc tư do hoá dòng chảy tư bản ngắn hạn. Một số
nước Hồi Giáo lại muốn trở về với những quan hệ kinh tế phù hợp với luật
Sharia; nhất là không chấp nhận việc trả và nhận lãi suất, thay vào đó bằng
việc chia lợi nhuận mỗi giai đoạn kinh tế (thực ra đây không phải là đặc điểm
của Hồi Giáo; vì các tôn giáo khác phát xuất từ Trung Đông như Do Thái Giáo và
Thiên Chúa Giáo, cũng như các nơi khác trên thế giới ở thời Thượng Cổ và Trung
Cổ đều chống việc cho vay lấy lãi, thực tế phản ánh quan hệ sản xuất trong nền
kinh tế nông nghiệp cổ truyền). Nói chung, phong trào chống đối TCH có tính
chất “bảo thủ” (chống sự thay đổi) chứ không phải “cấp tiến” (thay đổi để làm
cho tốt hơn); và nhất là không đưa ra được giải pháp hoặc mô hình phát triển
khả thi khác thay thế. Tuy thế, phong trào chống đối sẽ làm cho quá trình hình
thành nền kinh tế mới TCH không có tính chất tất định; bước phát triển của nó
phải trải qua nhiều khúc quanh, có khi phải thoái bộ rơi vào tình trạng bảo hộ
mậu dịch hay chiến tranh thương mại. Nếu nguy cơ này trở thành hiện thực vì
chính phủ các nước Âu Mỹ chịu sức ép của các thế lực chống TCH, do đó phạm sai
lầm về chính sách kinh tế, thì sự tăng trưởng lâu bền của nền kinh tế mới cũng
bị đe doạ, mặc dù trong dài hạn xu thế toàn cầu hoá là xu thế khách quan, không
thể đi ngược lại. Nếu các nước Âu Mỹ ý thức được nguy cơ này, duy trì chính
sách kinh tế mở cửa và cải cách, đồng thời đề ra chính sách hỗ trợ phát triển
thoả đáng cho các nước ĐPT, thì có thể góp phần bảo đảm sự phát triển ổn định
và lâu bền của nền kinh tế mới TCH. Bài học lịch sử: nền kinh tế toàn cầu vào
đầu thế kỷ 20 bị rơi vào khủng hoảng phần lớn vì chính sách kinh tế sai lầm của
các nước lớn thời ấy, nhất là các biện pháp tăng cường bảo hộ mậu dịch.
V.
Cơ hội và thử thách với các nước Đang phát triển.
Nền kinh tế TCH tạo ra nhiều cơ hội tốt, đồng thời cũng đặt
ra nhiều thử thách to lớn đối với các nước ĐPT.
Trong nền
kinh tế mới TCH, vốn tư bản và công nghệ hiện đại không còn là những yếu tố
hiếm hoi như trước đây. Bất cứ một quốc gia nào, nếu tạo được điều kiện thích
hợp (ổn định chính trị và xã hội; luật lệ, định chế rõ ràng, bảo đảm hữu hiệu
cho kinh doanh; mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới) thì đều có thể thu
hút vốn đầu tư FDI, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để sản xuất hàng hoá với
chất lượng hiện đại, giá thành rẻ. Các nước ĐPT cũng có thể học hỏi và tiếp thu
cách làm việc, kinh doanh và quản lý mới và tốt nhất trên thế giới. Với các hệ
thống cung ứng trao đổi trên Internet, các nước này có khả năng chào hàng và
cung cấp cho cả thế giới, chứ không bị giới hạn như trước. Nó cũng giúp các nhà
sản xuất nhỏ có cơ hội bình đẳng hơn trong tiếp thị, so với các Công ty đa quốc
gia to lớn.
Lượng đầu
tư FDI vào các nước ĐPT đã tăng cao trong thời gian qua; từ dưới 1% trên GDP ở
đầu thập kỷ 1990 lến tới khoảng dưới 3% trong năm 1997, và ổn định ở mức này
cho đến nay. Trái lại, lượng đầu tư tài chánh vào thị trường cổ phiểu, trái
phiếu và cho vay ngân hàng rất dao động; tăng lên tới 2.6% của GDP trong năm
1996 trước khi giảm xuống dưới 1% của GDP trong năm 1999 và có thể tăng thêm
một ít trên 1% của GDP trong năm nay.
Châu á /Thái Bình Dương đặc biệt đã thu hút
được lượng FDI rất lớn so với cá nước ĐPT khác, và tương đối ổn định, ngay cả
trong thời gian khủng hoảng 1997/98 [27]. Trong thập kỷ 1990, 80% lượng FDI vào
các nước ĐPT tập trung vào 20% số quốc gia, phần lớn là ở châu á /TBD.
Lượng FDI vào châu á /TBD (trung bình hàng năm), tỷ USD
|
1983
-86
|
1987
- 90
|
1991
- 94
|
1995
- 98
|
1999
|
Châu
á-TBD
|
5.4 tỷ
|
15.8 tỷ
|
40.9 tỷ
|
80.6 tỷ
|
$ 91 tỷ
|
CATBD/thếgiới
|
8.5%
|
8.4%
|
20.3%
|
17.8%
|
---
|
CATBD/ĐPT
|
32.2%
|
55.9%
|
60.2%
|
54.6%
|
---
|
Nguồn
UNCTAD
Nhờ vậy,
tỷ trọng của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài (FDI) trên GDP cao nhất ở các
nước Đông Nam á, so với các nước khác [28]. Đây là yếu tố quan trọng giúp các
nước ĐNA tăng trưởng vượt bậc trong hai thập kỷ qua, và đã phục hồi tương đối
nhanh chóng sau khủng hoảng 1997-98. Tỷ lệ khối FDI/GDP ở Nhật rất thấp, chứng
tỏ Nhật tuy là một cường quốc thương mại nhưng nền kinh tế vẫn còn đóng cửa đối
với thế giới.
Khối FDI so với GDP trong năm 1997
|
tỷtrọng
% của GDP
|
Tỷ
US$
|
ĐNA
|
24.0%
|
253
|
TQ/HK
|
22.5
|
244
|
Mexico/Brazil/Argentina
|
17.0
|
249
|
Tây
Âu
|
13.5
|
1277
|
Bắc
Mỹ
|
10.0
|
858
|
Nhật
|
4.0
|
164
|
Nguồn:
World Bank
Châu
á cũng có sẵn nhiều lợi thế cạnh tranh trong CNTH, là mũi nhọn
trong nền kinh tế mới, sản xuất hàng phần cứng trong CNTH khá cao so với các
nước khác; xuất khẩu hàng điện tử chiếm một tỷ trọng quan trọng trong GDP các
nước này. Qua các mạng lưới TMĐT B2B, châu á có
khả năng vận dụng khuynh hướng đặt hàng bên ngoài của các Công ty Âu Mỹ để trở
thành căn cứ chế biến công nghiệp cho nền kinh tế TCH. Doanh số TMĐT ở châu á sẽ tăng rất nhanh, từ khoảng US$ 2 tỷ trong
năm 2000, lên tới US$ 35 tỷ trong năm 2003 (theo Access Media International).
Kim ngạch xuất khẩu hàng điện tử
Trung
bình 1990-1997
|
Singapore
|
mã Lai
|
Phi
Luật Tân
|
Đài
Loan
|
Hàn
Quốc
|
Điện
tử/ tổng KN xuất khẩu
|
70%
|
55%
|
50%
|
40%
|
20%
|
Xuất
khẩu/ GDP
|
130%
|
90%
|
40%
|
50%
|
30%
|
Điện
tử/GDP
|
90%
|
20%
|
20%
|
20%
|
6%
|
Nguồn:
IDEA
Sản xuất phần cứng CNTH
Nước
|
Kim
ngạch sản xuất phần cứng CNTH
|
mỹ
|
tỷ US$ 267
|
Nhật
|
218
|
Hàn
Quốc
|
49
|
Singapore
|
41
|
Anh
|
33
|
Đức
|
32
|
Đài
Loan
|
31
|
Pháp
|
31
|
Mã
Lai
|
29
|
Brazil
|
19
|
Toàn
thế giới
|
890
|
Nguồn:
OCED
Trong hai
năm qua, các Công ty điện tử tại những nước châu á nói trên đã canh tân và hiện đại hoá
mặt hàng xuất khẩu của mình. Trước cuộc khủng hoảng 1997-98, sản phẩm chính của
các Công ty này là chip bộ nhớ Dram và hàng gia dụng điện tử, kể cả PC. Các mặt
hàng này đã lâm vào tình trạng thừa khả năng sản xuất, nên bị mất giá rất mạnh;
góp phần làm suy giảm cán cân thanh toán thương mại, gây mất tin tưởng vào tỷ
giá hối đoái, mở đầu cho khủng hoảng [29]. Hiện nay, các Công ty nói trên đã
chuyển hướng sang sản xuất chip logic và các dụng cụ Internet; mức cầu của các
loại hàng này tăng rất nhanh, ước tính 60% trong năm nay. Nhiều doanh nghiệp
khác cũng đã xuất hiện, đưa thương mại điện tử và cửa vào Internet vào phục vụ
thị trường địa phương. Đặc biệt trong lãnh vực công nghệ điện thoại vô tuyến di
động/ truy cập Internet và dịch vụ điện thoại qua giao thức Internet (giảm phí
rất nhiều cho người tiêu thụ), Nhật và một số nước châu
á như Singapore, Hong Kong, Đài Loan, Hàn Quốc đã đi đầu trong việc đưa
ra thị trường những dịch vụ mới.
ấn Độ tiếp
tục phát triển công nghiệp phần mềm của mình; hiện nay đã hình thành hơn 600
Công ty phần mềm, sử dụng hơn 280.000 kỹ sư phần mềm; năm 1999 xuất khẩu US$ 4
tỷ các sản phẩm và dịch vụ phần mềm (so với mức US$ 150 triệu năm 1991) [13].
Trong năm nay, mức xuất khẩu này có thể tăng lên US$ 5.7 tỷ, đóng góp 25% vào
tỷ lệ tăng trưởng 7% của nền kinh tế (với GDP khoảng US$ 400 tỷ). Theo McKinsey
Co. và Nasscom, mức xuất khẩu phần mềm có khả năng lên tới US$ 50 tỷ trong năm
2008, tương đương với 33% tổng kim ngạch xuất khẩu so với tỷ lệ 10% hiện nay.
Nhiều Công ty công nghiệp phần mềm ấn Độ như Infosys Technologie hay Satyam Infoway
đã đăng ký niêm yết cổ phiếu của mình trên thị trường chứng khoán Nasdaq để có
thể thu hút vốn và tài năng kỹ thuật. Nhiều nước trong khu vực cũng đang theo
gương ấn Độ để đầu tư xây dựng công nghiệp phần mềm tại nước mình. Bài học quan
trọng nhất: chính phủ ấn Độ nhận thấy vai trò quan trọng của CNTH nên đã mở
cửa, nâng khối lượng FDI hiện nay là US$ 3 tỷ mỗi năm lên US$ 10 tỷ mỗi năm.
Mức sử
dụng PC và truy cập Internet cũng tăng nhanh ở các nước
châu á, tạo cơ sở để phát triển công nghiệp tin học. Theo Access Media
International, số người dùng Internet sẽ tăng rất nhanh trong những năm tới;
đến 2003 sẽ trên 200 triệu người, nhiều hơn số 170 triệu người dùng Internet ở
Mỹ.
|
Dùng
PC (% hộ gia đình)
|
Dùng
Internet (triệu người)
|
Nhật
|
30
|
20
|
Hàn
Quốc
|
23
|
7.8
|
Đài
Loan
|
35
|
4.2
|
ấn
Độ
|
2.5
|
2.1
|
Trung
Quốc
|
1.7
|
10
|
Nguồn:
Business Week 31/1/2000
Để so
sánh, ở Việt Nam hiện naymới có khoảng 35.800 người thuê bao Internet, một nửa
là người và đơn vị nước ngoài [30].
Trong lãnh vực giáo dục Đại học, nhất là về KHKT, rất quan
trọng trong việc cung cấp lực lượng lao động cho nền kinh tế mới châu á cũng có lợi thế cạnh tranh. Đặc biệt
trong ngành kỹ sư, các trường Đại học ấn Độ hàng năm đào tạo hơn 122.000 kỹ sư
(khoảng một triệu nếu tính cả số chuyên viên được đào tạo từ các trường Bách
Khoa và Cao Đẳng kỹ thuật), gần gấp đôi số kỹ sư tốt nghiệp từ các trường Đại
học Mỹ.
1990-1996
|
Tỷ
phần trong sự tăng trưởng số sinh viên Đại học
|
Suất
tăng trưởng hàng năm
|
Châu
á
|
62.6%
|
5.9%
|
Châu
Âu
|
16.1%
|
2.1%
|
Châu
Mỹ
|
11.9%
|
1.3%
|
Châu
Phi
|
9.4%
|
7.2%
|
Nguồn:
UNESCO
Nền kinh
tế mới TCH cũng đặt ra nhiều thử thách to lớn các nước ĐPT. Trước tiên, nếu các
nước công nghiệp phát triển như Mỹ và Tây Âu tiếp tục tăng tốc độ phát triển
nhờ lợi dụng tiềm năng của kinh tế mới TCH, thì khoảng cách giữa họ và các nước
ĐPT không những thu hẹp lại mà còn mở rộng ra thêm. Điều này củng cố địa vị chủ
chốt có tính chất độc quyền của các doanh nghiệp Âu Mỹ trong các mạng lưới kinh
doanh toàn cầu. Các nước ĐPT nếu có tham gia thì thường chỉ với tư cách phụ,
trong biên tế (margin – ở bên lề). Trong điều kiện cạnh tranh toàn cầu đã trở
thành luật lệ của nền kinh tế thế giới, lại do WTO đôn đốc và giám sát việc
thực hiện, các nước ĐPT cũng khó duy trì thị trường có bảo hộ để nuôi dưỡng các
công nghiệp bản xứ. Hơn nữa, khi nền kinh tế toàn cầu mang nhiều tính kết mạng,
thì càng đòi hỏi các nước trên thế giới phải đạt một số tiêu chuẩn tối thiểu để
có thể tham gia và đóng góp giá trị gia tăng vào các mạng lưới kinh doanh toàn
cầu. Các tiêu chuẩn này không những chỉ áp dụng tới các lãnh vực kết cấu hạ
tầng như sân bay, bến cảng, đường xá, viễn thông hay khả năng KHKT; mà chủ yếu
là về lãnh vực luật lệ, thể chế, định chế sao cho ổn định, không phân biệt đối
sử, trong suốt, hữu hiệu, phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm đảm bảo tự do kinh doanh và thực hiện
các khế ước kinh doanh. Đối với một số nước ĐPT, đòi hỏi này vừa có nghĩa là
một cuộc cách mạng về thể chế, vừa là một nỗ lực canh tân, hiện đại hoá xã hội
và định chế... Hiện đại hoá là một tiến trình văn hoá, xã hội, thay đổi nếp
sống, nếp nghĩ của mọi người, nên rất khó khăn và tốn thời gian. Hơn nữa, không
phải ở đâu cũng có thể mạnh dạn hướng dẫn công cuộc canh tân một cách nhuần
nhuyễn vào nền kinh tế mới TCH được, phải đương đầu với nguy cơ ngày càng tụt hậu
và bị gạt sang bên lề phát triển... Mặt khác, các nước ĐPT cũng phải chạy đua
và cạnh tranh với nhau trong việc hiện đại hoá định chế để thu hút FDI. Sự cạnh
tranh này đã trở thành một động lực thúc đẩy các nước ĐPT cải cách.
Hiện đại
hoá định chế cũng rất cần thiết để tạo điều kiện cho KHKT tiên tiến, công nghệ
hiện đại, và cung cách kinh doanh có hiệu năng, sau khi được du nhập vào trong
nước, có thể phổ biến lan truyền ra khắp nền kinh tế, và trở thành động lực
phát triển quốc gia. Nếu không tạo ra định chế thích hợp, thì có thể mua nhập
máy móc, thiết bị hiện đại, nhưng chỉ có thể hình thành vài ốc đảo KHKT trong
một nước nghèo nàn, lạc hậu chứ không thể phát triển kinh tế, xã hội một cách
toàn diện được. Hơn thế nữa, CNTH và mô hình kinh doanh dựa trên mạng Internet
sử dụng tương đối ít nhân công, cần có trình độ KHKT cao, nên tự bản thân nó
không có khả năng tạo ra công ăn việc làm nhiều như những ngành công nghiệp lắp
ráp, xây dựng hiện đang rơi vào tình trạng dư thừa, nên sinh lợi nhuận thấp.
Thách thức lớn và cấp bách là phải tạo việc làm cho mọi người trong hoàn cảnh
lực lượng lao động ở các nước ĐPT tăng rất nhanh (vì tăng dân số và sự chuyển
dịch lao động từ khu vực nông nghiệp). Lời giải nằm ở chỗ làm sao cho nền kinh
tế phát triển năng động, có nhiều cơ hội kinh doanh, hình thành nhiều doanh
nghiệp, đặc biệt thuộc loại vừa và nhỏ, để tạo ra nhiều công ăn việc làm thu
hút số lao động dôi ra trong quá trình cải cách.
Một điểm
nhỏ, nhưng không kém phần quan trọng, là vấn đề ngôn ngữ. Tiếng Anh đã trở
thành ngôn ngữ chung trong quan hệ kinh doanh trong nền kinh tế mới TCH; khả
năng sử dụng tiếng Anh một cách thuần thục trở thành một điều kiện cần thiết để
hội nhập. Một số nước cựu thuộc địa của Anh và Mỹ, như ấn Độ, Mã Lai,
Singapore, Hong Kong và Phi Luật Tân đã có lợi thế trong lãnh vực này, cụ thể
nhất là trường hợp ấn Độ trong công nghiệp phần mềm. Các nước khác gặp nhiều
khó khăn, đến mức như Nhật và Hàn Quốc, vốn có tinh thần dân tộc rất mạnh mẽ,
cũng đang đặt vấn đề nên chăng chọn tiếng Anh làm ngôn ngữ thứ hai, chứ không
chỉ là một ngoại ngữ.
VI
- Chiến lược phát triển
Tiến trình phát triển bao gồm hai nội dung chính là công
nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trong nửa thế kỷ qua, nhiều nước như Nhật và các
nước Đông
á đã tăng trưởng kinh tế nhanh nhờ đẩy mạnh công nghiệp hoá bằng cách
huy động tiết kiệm trong và ngoài nước, đầu tư rất cao cho các ngành công
nghiệp (nói chung, tỷ lệ đầu tư trên GDP cao hơn gấp đôi tỷ lệ ở các nước Âu
Mỹ). Tất nhiên các nước đang và chậm phát triển, hiện nay vẫn còn lệ thuộc vào
nông nghiệp hay khai thác nguyên liệu thô, phải tiến hành công nghiệp hoá mới
phát triển được. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế mới TCH, có hiện tượng
dư thừa khả năng sản xuất nhiều loại hàng, xây dựng thành công các ngành công nghiệp
khó khăn hơn các thập kỷ trước rất nhiều. Hàng tiêu dùng chế tạo trong nước,
nếu không cạnh tranh nổi về chất lượng và giá cả đối với hàng ngoại có khuynh
hướng lan tràn khắp nơi qua tuyến nhập khẩu chính thức lẫn không chính thức,
thì sẽ bị ế đọng; các doanh nghiệp sản xuất chúng sẽ thua lỗ. Các loại hàng
dùng trong sản xuất như thiết bị, bán thành phẩm, nguyên liệu công nghiệp
v.v... cũng gặp sự cạnh tranh tương tự; nếu có được lợi thế ở thị trường trong
nước và nhờ các biện pháp bảo hộ mậu dịch, thì sẽ gây khó khăn cho các doanh
nghiệp khác, bị bắt buộc phải dùng hàng phẩm chất kém hơn, giá đắt hơn. Kết quả
là làm cho toàn bộ nền kinh tế méo mó và lạc hậu. Hơn nữa, trong lúc xu thế tự
do hoá thương mại đang phát triển mạnh trong khu vực lẫn trên thế giới, khó có
thể duy trì chế độ bảo hộ mậu dịch mãi được. Thử thách quan trọng nhất vì thế
không phải là huy động đầu tư hay tăng gia sản xuất, mà là tăng hiệu năng kinh
tế của các hoạt động đầu tư. Kinh nghiệm trong nửa thế kỷ qua ở khắp các nước
trên thế giới với các thể chế khác nhau, từ Liên Xô (cũ) Đông Âu, ngay đến Nhật
và các nước châu á trong khủng hoảng vừa qua cho thấy nếu một hoạt động kinh tế
không có hiệu năng, thì dù được thực hiện với ý đồ tốt đẹp nhất, cũng không thể
duy trì mãi được, rốt cuộc sẽ bị khủng hoảng và phá sản. Nhưng muốn tăng hiệu
năng kinh tế, thì phải chấp nhận cạnh tranh toàn cầu, vì không có cạnh tranh
thì không có tiến bộ, nhất là trong tình trạng KHKT tiến bộ nhanh chóng, luôn
luôn thay đổi các mô hình tổ chức và kinh doanh. Điều này có nghĩa là phải tạo
mọi điều kiện thích hợp để có thể hội nhập, trở thành thành viên của nền kinh
tế mới TCH. Thực ra, không có sự lựa chọn nào cho các nước ĐPT: nếu không hội
nhập nền kinh tế mới TCH, thì phải chịu tụt hậu, lạc hậu và nghèo đói. Chiến
lược phát triển hiện nay vì thế phải đặt trọng tâm vào việc hiện đại hoá, nhất
là định chế, pháp luật và môi trường kinh doanh để có thể phù hợp với thông lệ
quốc tế; tạo điều kiện dễ dàng và thuận tiện nhất để các ngành nghề, doanh
nghiệp cá nhân trong nước có thể hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Mục tiêu
chính trong nỗ lực này là tạo điều kiện và môi trường thuận lợi nhất để thu hút
đầu tư nước ngoài (FDI), tạo điều kiện giúp nó nhanh chóng phổ biến rộng rãi
công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, cách quản lý và kinh doanh hiện đại...
Bảng sau
đây so sánh chất lượng định chế ở các khu vực trên thế giới, theo các tiêu
chuẩn ICRG (International Country Risk Guide - đánh giá mức độ
rủi ro ở các nước): đo lường sự tham nhũng trong chính phủ, chất lượng của bộ
máy hành chánh, mức độ rủi ro của nguy cơ quốc hữu hoá, mức hữu hiệu của pháp
luật, tính tôn trọng giao kèo của nhà nước, điểm tối đa là 50; tiêu chuẩn ENFORCE
(đo tính thực thi hữu hiệu của luật pháp và các cam kết, hợp đồng...), điểm tối
đa là 10, và sự đánh giá về tham nhũng trong kinh doanh (điểm càng cao
càng ít tham nhũng) điểm tối đa là 10 [22]. Trong thời gian qua, sự khác biệt
về chất lượng định chế có tương quan đến tỷ lệ tăng trưởng kinh tế giữa các
nước: chất lượng định chế đã trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc
phát triển.
Chất lượng các định chế
|
ICRG
|
ENFORCE
|
Tham nhũng trong kinh doanh
|
Tây
Âu & Nhật
|
44
|
9.4
|
7.8
|
Trung
Âu
|
44
|
--
|
5.2
|
Đông
á
|
40
|
7.0
|
4.8
|
Mỹ
La Tinh
|
32
|
5.4
|
3.0
|
Nam
á
|
30
|
4.0
|
2.4
|
Nga
|
28
|
--
|
2.3
|
Châu
phi
|
26
|
4.4
|
2.5
|
Nguồn: IMF
Phát triển, như thế không phải chỉ đơn thuần là công nghiệp
hoá, nhất là lo xây dựng những tổng Công ty, nhà máy công nghiệp to lớn nhưng
không thực sự tạo ra giá trị gia tăng nào cho nền kinh tế tham gia toàn cầu
hoá. Nguy hiểm hơn nữa là tìm cách dựng hàng rào bảo hộ mậu dịch để yểm trợ cho
các hoạt động không có hiệu năng kinh tế này; vì làm như thế chỉ duy trì tình
trạng yếu kém lạc hậu của mình và cản trở sự tiến bộ của toàn nền kinh tế nước
mình.
Nói tóm
lại, để có thể đối phó với những thử thách, và tranh thủ tận dụng những cơ hội
mà nền kinh tế mới TCH đặt ra, các nước ĐPT cần chú ý hơn nữa vào việc hiện đại
hoá “phần mềm”, chứ không thể chỉ lo xây dựng “phần cứng”.
Tài
liệu tham khảo
[1]
Charles Leadbeater, Living on Thin Air: the New Economy, Panguin Books UK 2000
[2]
International Telecommunication Union, Challenges to the Network: Internet for
Development, Geneva 1999.
[3]
Goldman Sachs, The race to build the Broadband Kingdom, New York 8/1999
[4] Robert
Atkinson & Randolph Court, The New Economy Index: Understanding America’s
Economic Transformation, Progressive Policy Institute’s Technology, Innovation
and New Economy Project, Washington D.C.11/1998.
[5]
Goldman sachs, B2B: 2B or not 2B, New York 12/1999
[6]
Goldman sachs, Internet Retailing, New York 1/1999
[7] OECD,
Information Technology Outlook 2000, Paris 3/2000
[8] OECD,
Economic Surveys: Jacpan, Paris 11/1999
[9] US
Department of Commerce’s Economics and Statistics Administration, The Emerging
Digital Economy II, Washington D.C. 6/1999
[10] M.M
McConnell &P.C. Moser and G.P.Quiros, “A Decomposition of the Increased
Stability of GDP Growth”, Current Issues in Economics and Finance, Federal
Reserve Bank of New York, 9/1999
[11] Alan
Blinder, The Internet and New Economy, The Internet Policy Institute, Brookings
Institution, Washington D.C. 1/2000
[12] Paul
A. David, “Digital Technology and the Productivity Paradox: After 10 years,
what has been learned?”, Conference on “Understanding the Digital Economy:
Data, Tools and Research”, US Department of Commerce, Washington D.C.
25-26/5/1999
[13] Jack
E. Triplett, “Economic Statisties, the New Economy and the Productivity
Slowdown, Brookings Institution, Washington D.C. 1/1999
[14]
Michael Cox & Richard Alm, “The New Paradigm”, Federal Resrve Bank of
Dallas 1999 Annual Report 3/2000
[15] Mark
Hooker, “Are Oil Shocks Inflationary? Asymmetric and Non-linear Specifications
versus Changes in Regime”, Working Papers 1999-65, Federal Reserve Board,
Washington D.C. 11/1999
[16] Trần
Quốc Hùng, “ấn Độ phát triển công nghiệp phần mềm”, Thời báo kinh tế Sài Gòn,
số 40-99 (457), TP HCM 30/9/1999
[17] W.
Brian Arthur, “Increasing Returns and the New World of Business”, Harvard
Business Review, Cambridge July-August 1996
[18]
TeleGeography Inc, Global Backbone Database,New York 9/1999
[19] Dun
& Bradstreet, Business Failure Record, New York 1998
[20] Dun
& Bradstreet, Business Starts Record, New York 1998
[21] UNDP,
Human Development Report, New York 1999
[22]
Nicholas Crafts, “Globalisation and Growth in the Twentieth Century”, Working
Paper, IMF, Washington D.C. 3/2000
[23] Gary
Burtless, “Effects of Growing Wage Disparities and Changing Family Composition
on the US Income Distribution”, Center on Social and Economic Dynamics, Working
Paper 4, Brookings Institution, Washington D.C. 7/1999
[24]
Robert Lucas, “Some Macroeconomics for the 21st Century”, Journal of
Economic Perspectives, AEA Winter 2000
[25]
Andrew Boltho & Gianni Toniolo, “The Assessment: The Twentieth
Century-Achievenments, Failures, Lessons”, Oxford Review of Economic Policy,
Winter 1999
[26] David
Dollar & Aart Kraay, “Growth is Good for the
Poor”, World Bank, Washington D.C, Mach 2000
[27]
UNCTAD, The World Invesment Directory 2000: Volume VII, Asia and the Pacific,
Geneva 2/2000
[28] World
Bank, World Development Report. Washington D.C. 1999
[29] Võ Tá
Hân & Trần Quốc Hùng và Vũ Quang Việt, Châu : Từ khủng hoảng nhìn về thế kỷ 21, NXB TP
Hồ Chí Minh, Thời báo kinh tế Sài Gòn, VAPEC, TP HCM 1/2000
[30] Trần
Hữu Quang, “Internet ở Việt Nam : do đâu chậm phát triển : “Thời báo kinh tế
Sài Gòn 21/10/1999
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét