Thứ Hai, 2 tháng 12, 2013

Về kinh tế trí thức




Kinh tế tri thức và con đường hội nhập
của chúng ta


Phan Đình Diệu
Đại học Quốc gia Hà nội

                       
           
Sinh thời, Norbert Wiener, cha đẻ của Điều khiển học (Cybernetics) đã dự báo: “Chúng ta đang làm biến đổi môi trường của ta tận gốc rễ đến mức rồi ta phải tự biến  đổi chính mình để tồn tại được trong môi trường mới đó[1]. Quả thực, mấy chục năm qua, dưới tác động của những tiến bộ vũ bão của khoa học và công nghệ, mà nổi bật là công nghệ thông tin, môi trường kinh tế và xã hội đang có những biến đổi căn bản, đang chuyển biến tới một môi trường kinh tế và xã hội về cơ bản là mới, mà ta bắt đầu gọi là kinh tế tri thức và xã hội tri thức. Con người tạo ra môi trường đó, nhưng rồi đến lượt mình, chính sự phát triển khách quan của môi trường đó, với tất cả tính phức tạp, bất định và thường xuyên biến động của mình, lại đòi hỏi con người phải tự biến đổi để có được cách nhìn mới, cách nghĩ mới, nhiều năng lực trí tuệ mới khác về chất so với các năng lực cũ, nhằm giúp mình thích nghi với môi trường mới, có khả năng hành động linh hoạt trong cái phức tạp, bất định và thường xuyên biến động đó của môi trường mới.
Các nước châu Á với việcTrung Quốc gia nhập WTO

T.s. Lưu Ngọc Trịnh
Viện Kinh tế thế giới
Báo Nhân Dân ngày 28-6-2000, tr. 5


Theo quy định của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Trung Quốc cần phải đạt được các hiệp định tự do hoá thương mại với tất cả 134 nước thành viên trước khi được xét kết nạp. Mặc dù hiện nay, Trung Quốc còn phải giải quyết một số vấn đề có tính thủ tục và đạt được thoả thuận thương mại song phương với bốn nước nữa là Thụy Sĩ, Mê-hi-cô, Goa-tê-ma-la và Ê-cu-a-đo, song bằng việc đạt được thoả thuận thương mại với Mỹ vào tháng 11/1999, với Liên hiệp châu Âu (EU) vào ngày 19-5-2000, và bằng việc Hạ viện Mỹ phê chuẩn dành cho Trung Quốc Quy chế thương mại hoà bình vĩnh viễn (PNTR) vào ngày 11-5 vừa qua, Trung Quốc đã vượt qua được những rào chắn lớn nhất trong cuộc đàm phán kéo dài 14 năm xin ra nhập WTO. Do vậy, theo nhiều đánh giá, chậm nhất vào cuối năm nay, Trung Quốc sẽ trở thành thành viên của WTO, với thị trường 1.3 tỷ người tiêu dùng, một nền kinh tế có quy mô là 3.928,4 tỷ USD (tính theo đồng giá sức mua - PPP), với giá trị xuất khẩu chiếm 3,3%, đứng hàng thứ 6.
Version revised 3

Suy ngẫm về thời cuộc

 
Nguyễn Trung[1]


Nội dung

Dẫn đề………………………………………………………………………………………………………… tr.  1

I – Vài nét về thế giới hôm nay……………………………………………… tr.  3
II – Đôi lời về Mỹ …………………………………………………………….   tr.  4        
III – Đôi điều lưu ý về Mỹ……………………..  .…………………………     tr. 11
IV -  Trung Quốc trở thành vấn đề của cả thế giới……………………….   tr. 28
V -  Siêu cường đang lên Trung Quốc có thể với tới đâu………………..  tr. 43
VI – Siêu cường Trung Quốc không thể lãnh đạo thế giới………………   tr. 52
VII – Nhìn lại chặng đường 38 năm………………………………………     tr. 63
VIII - Thách thức, cơ hội và sự lựa chọn của Việt Nam  ………………..   tr. 96

 Tài liệu tham khảo…………………………………………………………. tr. 123

Chủ Nhật, 1 tháng 12, 2013

tiểu thuyết "Hiến dâng" - file G




Phụ trương


“...Đông ghì riết lấy Na, nói sát vào tai Na:
-         ...Anh phải cảm ơn em. Cảm ơn em nhiều lắm! Chính em mới là người giúp anh.  ...Anh có thể chịu đựng mọi điều, nhưng không thể nào chịu đựng nổi ý nghĩ đầu hàng... Anh đã bị cướp đi tất cả. Chỉ còn mỗi niềm tin, em ơi... Chỉ còn niềm tin là lẽ sống của anh. Nếu em thất bại, thì có nghĩa chính là anh bị đánh bại! Em nói đúng đấy, cái chết không cướp được quyển hồi ký của Bảo, em càng không được thất bại em ạ. Tâm và Bách đã chia lửa với anh... Chiến tranh đi qua rồi, nhưng đúng là Tâm và Bách đã chia lửa với anh trong cuộc chiến này. Nếu em thất bại, cũng có nghĩa cả Tâm và Bách phải cùng anh chịu thất bại... Nhưng em đã thắng! Trong trận này chúng ta đã thắng...”

(tiểu thuyết Hiến Dâng, trích)
Nền kinh tế mới toàn cầu hoá
Cơ hội và thử thách đối với các nước đang phát triển

Trần Quốc Hùng
5/2000

I - Giới thiệu

Nền kinh tế toàn cầu (KKTC) cơ bản có nghĩa là tự do mậu dịch và tự do được diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Nói một cách chi tiết hơn, tiến trình tiết kiệm, đầu tư, sản xuất, phân phối và tiêu thụ diễn ra trên phạm vi toàn cầu, vượt ra biên giới quốc gia. Trong khoảng thời gian 40 năm trước Thế Chiến I, nền kinh tế thế giới tương đối tự do, ít kiểm soát, di dân cũng dễ dàng. Lượng thương mại và đầu tư thế giới cao so với GDP lúc ấy.
Tỷ lệ xuất khẩu hàng hoá trên GDP của toàn thế giới là 6% trong năm 1890; 9% trong năm 1913 so với 10% trong năm 1970 và 13% trong năm 1990. Tỷ lệ khối đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) trên GDP là 18.6% trong năm 1900 so với 17.7% năm 1980 và 56.8% trong năm 1995. Nói chung nền kinh tế thế giới lúc bấy giờ mang nhiều nét tiêu biểu cho khái niệm KTTC. Yếu tố làm KTTC cuối thế kỷ 20/ đầu thế kỷ 21 khác về lượng và phẩm đối với KTTC cuối thế kỷ 19, cũng như giúp phát huy hết tiềm năng của khái niệm này, là sự tiến bộ vượt bực và sử dụng phổ biến công nghệ thông tin (CNTT), đặc biệt là Internet; công nghệ viễn thông (CNVT); và nói chung trong lãnh vực giao thông vận tải. CNTT tăng khả năng và giảm thời gian trong việc tính toán và xử lý dữ liệu; vì thế nó giúp giảm giá thành trong các hoạt động kinh tế. Khi mạng Internet được nối trên khắp thế giới, thành mạng toàn cầu (World Wide We:WWW), nó đã thay đổi cách tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp, nâng cao năng suất và tính cạnh tranh của chúng. Hiện nay, với những tiến bộ về mọi mặt, CNTT/Internet và CNVT đã tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ và kỹ nghệ mới, cũng như đã thu nhỏ quả đất lại và thay đổi dần nếp sống, nếp nghĩ cũng như cách làm việc và giải trí của xã hội. Nó tăng sự cạnh tranh và tính trong suốt (transparency) của nền kinh tế; giúp quá trình khám phá giá được nhanh chóng và hữu hiệu hơn; giảm giá thực hiện dịch vụ (transaction cost – còn gọi là chi phí cơ hội). Nền kinh tế mới toàn cầu hoá (TCH) ngày càng được thể hiện rõ nét, và đã trở thành nhân tố tích cực nhất để cải cách nền kinh tế cũ.
Hoang tưởng và hiện thực
(Thư trao đổi ý kiến với anh Tống Văn Công,
đồng gởi anh Lữ Phương)

Nguyễn Trung

          Anh Tống Văn Công  và anh Lữ Phương thân mến,

          Có lẽ đây là lần đầu tiên tôi nhận được món quà từ người bạn quý mến của mình, anh Tống Văn Công,  bằng một câu hỏi choang ngay vào đầu:

Lũ ! Sao không vỡ bờ?

          Hình như bằng cách đó, anh Công muốn cho tôi một câu trả lời?
Cũng có thể anh muốn san sẻ cho tôi niềm hy vọng của mình?

Thư ngỏ ngày 19-02-2013

Nguyễn Trung
10(60A) ngõ 45 A phố Võng Thị
Phường Bưởi, Quận Tây Hồ
Hà Nội


Hà Nội, ngày 19-02-2013

Thư ngỏ

Kính gửi

-         Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam,
-         Toàn thể Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt nam,
-         Chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam


 Kính thưa,

                Tôi là Nguyễn Trung, 78 tuổi, trú tại 10(60A) ngõ 45A, phố Võng Thị, phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội. Với tư cách là một trong những người tham gia Kiến nghị của 72 nhân sỹ trí thức về việc sửa đổi Hiến pháp[1] (gọi tắt: Kiến nghị 72),  xin được phép trình bầy một số suy nghĩ của tôi liên quan đến việc sửa đổi Hiến pháp đang được lấy ý kiến nhân dân cả nước

Nhìn lại mốc thời gian năm 2007 và nuối tiếc

Đã đăng trên tạp chí Tia Sáng 12-2007 và 1-2008,
Vietnam Net 1-2008

Ngã ba 2007[1]
Nguyễn Trung

Năm 2007 có nhiều điểm rất đáng ghi nhớ đối với nước ta.
Nổi bật nhất có lẽ là mọi yếu tố phát triển bên trong sau 22 năm đổi mới của đất nước, những thành tựu mọi mặt đối nội và đối ngoại giành được, và những yếu tố do sự vận động của  tình hình thế giới và khu vực tác động từ bên ngoài vào nước ta – tất cả hợp thành một tình thế đặt ra yêu cầu bức thiết hơn bao giờ hết: Việt Nam phải vươn lên chuyển mình sang một giai đoạn phát triển mới.
Đương nhiên, phát triển thịnh vượng là niềm khao khát thường trực của dân tộc ta – nhất là nước ta đã phải trải qua bao nhiêu gian truân và mất mát lớn lao ròng rã gần hai thế kỷ nay và hiện vẫn đang còn là một nước nghèo. Song nét mới của năm 2007 – năm thứ 22 của đổi mới - là sức phát triển của đất nước, vị thế quốc tế mới giành được và những tác động từ bối cảnh bên ngoài đặt ra cho nước ta một đòi hỏi mới, dứt khoát như một mệnh lệnh.
Tài liệu tham khảo


1.     Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1963.
2.     Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng Sản Việt Nam, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1991.
3.     Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, tháng 1-1994.
4.     Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng Sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
5.     Các văn kiện các Hội nghi Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN khoá VIII lần thứ hai, ba, bốn năm, sáu1, sáu2, NXBCTQG, Hà nội 1997-1998.
6.     Thư của Tổng bí thư ĐCSVN Lê Khả Phiêu nhân dịp 55 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam 22-12-1944– 22-12-1999, Báo Quân đội Nhân dân, số Xuân Canh Thìn.
7.     Đảng Cộng sản Việt Nam mãi mãi vì dân, vì nước, thuỷ chung với bè bạn – diễn văn của Tổng bí thư Lê Khả Phiêu nhân dịp kỷ niệm lần thứ 70 ngày thành lập ĐCSVN, báo Nhân Dân ngày 3-2-2000.
8.     Báo cáo của chính phủ do Thủ tướng Phan Văn Khải trình bày tại kỳ họp thứ 6  Quốc hội khoá IX, tháng 11-1999.
9.     Bước vào thế kỷ 21 – báo cáo của Ngân hàng Thế giới 1999-2000, bản tiếng Việt, NXBCTQG, Hà nội 1999.
10.            1999 World Development Indicators, CD-ROM, World Bank.
11.            Economic Accounts of the European Union 1998, Eurostat, Theme 2.
12.            Taiwan Statical Data Book 1999, Council for Economic Planning and Development, Taiwan.
13.            Niên giám thống kê, Tổng cục Thống kê, Hà Nội 1999.
14.            Tư liệu kinh tế các nước thành viên ASEAN, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê, Hà Nội 1988.
15.            Global economic Prospects and the Developing coutries, 1998/1999, The World Bank, Washington 1999.
16.            Immanuel Geiss, Geschichte im Ueberblick, Rowohlt, Hamburg 1995.
17.            Globaler Wettbewerb und Nationaler Handlungspielraum – neue Anforderungen an Wirtschaft, Staat und Gesellsachft, Weltforum Verlag, Koeln 1996.
18.            Xây dựng Đảng, Học viên Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 1999 (tái bản, có sửa chữa, bổ sung).
19.            Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, Trần Việt Phương.
20.            Cuộc  cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và sự xuất hiện nền kinh tế tri thức, Đặng Hữu, tài liệu nghiên cứu chuyên đề.
21.            Nguyễn Mại: Vấn đề phát huy nội lực trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế hiện nay. Tài liệu nghiên cứu chuyên đề về FDI 1999
22.            Khơi thông ách tắc để phát triển kinh tế, Ngô Tuấn Kiệp, tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ, số 5 tháng 3-2000.
23.            Chủ nghĩa Mác và nền kinh tế tri thức, Hứa Tác Cầu, tạp chí Thế trào đương đại, Bắc Kinh, số 1-1999.
24.            Toàn cầu hoá - Quan điểm và thực tiễn, của nhiều tác giả, NXB Thống kê, Hà Nội 1999.
25.            “Những kịch bản của toàn cầu hoá - cách nhìn”, đặc san chuyên đề của báo Le Monde (Pháp) tháng 11-1996.
26.            Xu hướng đổi mới trong lịch sử Việt Nam - Những gương mặt tiêu biểu, Trung tâm thông tin tư liệu lịch sử và văn hoá Việt Nam, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội 1998.
27.            Sử Ký, Tư Mã Thiên, NXB Văn Học, Hà Nội 1988.
28.            “The World Trading System”, 2nd editon, John H. Jackson, The MIT Press, Cambridge, Massachusetts, London, 1999.
29.            Nhà máy ô-tô Lexus và cây ô-liu,  Thomas Friedman, New York Times, New York, 1999.
30.            Hứa Tác Cầu: “Chủ nghĩa Mác và kinh tế tri thức”, tạp chí Thế trào đương đại, TQ, số   1-1999.
31.             “The knowldge Economy”, NXB Buttherworth Heinemann, Đức, 1988: nhiều tác giả.
32.            “Kết quả vòng đàm phán Uruguay về hệ thống thương mại đa biên” Bộ Thương Mại, NCXB Thống Kê, Hà Nội 2000.
33.            Hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam, Văn Phòng Quốc Hội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
34.            “Con đường đi đến năm 2015...”, John L. Petersen, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
35.            Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1999.
36.            “So sánh môi trường  đầu tư của Việt Nam với Trung Quốc đại lục...”, Dương Đại Ninh, Viện Nghiên cứu quản lý doanh nghiệp quốc tế của trường đại học Văn hoá Trung Quốc, Đài Loan tháng 1-2000.
37.            “Cạnh tranh cho tương lai”, Thái Quang Sa biên soạn, Trung tâm thông tin KHKT hoá chất, Hà Nội 1999.
38.            “Vận dụng  lợi thế so sánh để phát triển đất nước” Nguyễn Trung, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội 1998.
39.            Làn sóng WTO tác động vào nước ta như thế nào?, Bạch Quang, NXB Trung Quốc kiến tài công nghiệp xã, Bắc Kinh, tháng 6-1999.
40.            Nguyễn Xuân thắng, Khu vực mậu dịch tự do – ASEAN và tiến trình hội nhập của Việt Nam, NXB Tổng cục Thống kê, Hà Nội, 1999.
41.            Sự thịnh vượng và nghèo khó của các quốc gia, David S. Landes, NXB W.W. Norton & Company, New york-London, 1998.



Và một số sách báo, bài viết khác của các cuộc hội thảo khoa học.