Nhìn lại, năm 2007 nước ta đứng trước ngã 3 đường, hoặc là thay đổi triệt để để bước vào con đường của dân chủ văn minh và cùng tiến bước với nhân loại tiến bộ, hoặc là chấp nhận bất lực trước ranh giới cuối cùng của phương thức phát triển theo chiều rộng để tiếp tục bị động chìm sâu trong khủng hoảng toàn diện với những thách thức khôn lường. Rất tiếc là cảnh báo về ngã 3 đường này đã bị những người nắm trong tay vận mệnh đất nước - cụ thể ở đây là những người nắm quyền lực trong ĐCSVN - bỏ ngoài tai. Cái giá đất nước phải trả về kinh tế, đối nội và đối ngoại trong suốt những năm từ 2007 đến nay cho thấy rõ điều này. Vì vậy nên tham khảo bài này khi đọc "Viễn tưởng" (các bài 1, 2 và 3). Xin lưu ý bạn đọc. Nguyễn Trung./.
Đã đăng trên tạp chí Tia Sáng
12-2007 và 1-2008,
Vietnam Net 1-2008
Vietnam Net 1-2008
Nguyễn Trung
Năm 2007
có nhiều điểm rất đáng ghi nhớ đối với nước ta.
Nổi bật
nhất có lẽ là mọi yếu tố phát triển bên trong sau 22 năm đổi mới của đất nước,
những thành tựu mọi mặt đối nội và đối ngoại giành được, và những yếu tố do sự
vận động của tình hình thế giới và khu vực tác động từ bên ngoài vào nước
ta – tất cả hợp thành một tình thế đặt ra yêu cầu bức thiết hơn bao giờ hết: Việt Nam phải vươn lên chuyển mình sang một giai đoạn phát
triển mới.
Đương
nhiên, phát triển thịnh vượng là niềm khao khát thường trực của dân tộc ta –
nhất là nước ta đã phải trải qua bao nhiêu gian truân và mất mát lớn lao ròng
rã gần hai thế kỷ nay và hiện vẫn đang còn là một nước nghèo. Song nét mới của năm 2007 – năm thứ 22 của đổi mới - là sức
phát triển của đất nước, vị thế quốc tế mới giành được và những tác động từ bối
cảnh bên ngoài đặt ra cho nước ta một đòi hỏi mới, dứt khoát như một mệnh lệnh.
Trong lịch
sử quốc gia, phát triển bao giờ cũng là một quá trình mang tính liên tục,
thường khó xác định một cột mốc thời gian cụ thể cho một bước tiến hóa nào.
Song thật hiếm thấy ở nước ta có năm nào có những chuyển biến xuất hiện rõ ràng
như năm 2007: (a) quy mô nền kinh tế đã tới đạt đỉnh cao của phương thức phát
triển theo chiều rộng, (b) đòi hỏi về sự phát triển năng động mới đang trở nên
bức thiết, (c)thời cơ to lớn trong tay và những thách thức mới trong tình hình
hội nhập toàn diện càng thúc đảy phải đi tìm chiến lược phát triển mới. Cả 3
yếu tố này đang tạo ra một thôi thúc có thể cảm nhận được đến mức như khía vào
da thịt:
“Sống
hay là chết!.. Đất nước phải dấn lên bước vào một thời kỳ phát triển mới!”
Một cảm
nghĩ lãng mạn chăng?
Không phải
như vậy. Hãy cảm nhận lấy cuộc sống và để nó tự giải thích. Tình hình phảng
phất một không khí của năm 1986, khác chăng hồi đó là sự bức bách bất khả kháng
mở ra công cuộc đổi mới, còn bây giờ - năm 2007 – là sự thôi thúc không nhân
nhượng:
Hoặc
là năm 2007 sẽ đánh dấu sự mở đầu bước vào một thời kỳ mới với sự lựa chọn dứt
khoát chuyển sang sự phát triển năng động và bền vững để đi lên, hoặc là để cho
thời cơ tuột tay và mọi yếu kém hiện có lấn át - với tất cả hệ lụy trước sau sẽ
dẫn tới một bước ngoặt khác.
Tính chất
quyết liệt ấy chính là điều đáng ghi nhớ cho năm 2007.
I. Con đường chuyển sang
thời kỳ phát triển mới đã mở ra
thời kỳ phát triển mới đã mở ra
Trước hết,
năm 2007 nước ta đạt thành tích cao nhất trong 22 năm đổi mới, mặc dù vẫn còn
nhiều yếu kém lớn.
Những
thành tựu cụ thể và các chỉ số tăng trưởng nêu trong báo cáo của Chính phủ tại
kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khóa X nói rõ điều này. Tăng trưởng GDP năm 2007 đạt
8,5%, là mức cao nhất từ 10 năm này. Đương nhiên kết quả này là sự tiếp nối
những nỗ lực và thành tựu của những năm trước. So sánh tốc độ tăng trưởng từng
mặt của năm 2007 sẽ thấy hầu hết các chỉ số đều vượt tốc độ của năm 2006; (chỉ
riêng sức tăng trưởng xuất khẩu dầu thô giảm vì lượng khai thác dầu giảm khoảng
1 triệu tấn, tương đương 500 triệu USD); đặc biệt FDI thực hiện tăng 17% so với
2006; FDI cam kết đạt 13 tỷ USD – cao nhất từ trước đến nay[2].
Có thấu
hiểu hết mọi mất, được của 32 năm đầu tiên sau khi giành được độc lập thống
nhất để đi tới thành quả hôm nay, mới biết rõ được chặng đường đã qua và biết
được hiện nay đất nước ta đang đứng ở đâu.
Năm 2007 -
một năm quả là thời gian quá ngắn để nói lên điều gì, tuy nhiên có thể nhận
xét: Năm đầu tiên là thành viên WTO của VN là xuôn xẻ, mặc dù còn rất nhiều
chuyện hệ trọng phải bàn. Nhìn vào những việc đã làm được: Rõ ràng với tư cách
mới này, Việt Nam năm 2007 Việt Nam tăng thêm được sức phát triển năng động của
mình, đồng thời đã tạo ra được một vị thế quốc tế mới và một bước đột phá về
kinh tế đối ngoại.
Đặc
biệt là những mối liên kết mới trong quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa được thiết
lập trong những chuyến viếng thăm chính thức của các vị lãnh đạo nhà nước ta,
cũng như thông qua các đoàn chính giới và doanh nhân nước ngoài vào thăm Việt
Nam trong năm 2007 đã mở ra một không gian mới, với nội dung mới ở tầm cao hơn
cho hợp tác song phương, đa phương. Có thể nói lần đầu tiên kể từ sau năm 1975
Việt Nam đứng trước một triển vọng chưa bao giờ có trong việc mở rộng các mối
quan hệ hữu nghị và hợp tác trên quy mô toàn cầu, đặc biệt là với tất cả các
đối tác lớn nhất của nền kinh tế thế giới.
Tính riêng
các dự án kinh tế đạt được trong những chuyến viếng thăm này đã vượt 50 tỷ USD,
bao gồm những ngành kinh tế rất thiết yếu đối với thời kỳ phát triển sắp tới
của Việt Nam như: kết cấu hạ tầng, sản phẩm công nghiệp mới, sản phẩm công nghệ
cao, dịch vụ tài chính ngân hàng.., tất cả là những cam kết với các nước phát
triển. Thực tế này đòi hỏi bản thân nước ta phải tự vươn lên như thế nào để
những dự án này sẽ mở đường cho sự hợp tác ngang tầm với tiềm năng của đất nước
và bối cảnh cho phép của bên ngoài.
Dựa trên
những gì đã làm được trong năm 2007, Quốc hội khóa XII tại kỳ họp thứ 2 đã
thông qua mục tiêu phấn đấu năm 2008 sẽ vượt cái ngưỡng quốc gia có thu nhập
thấp tính theo đầu người. Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng phát biểu đầy tự tin:
mục tiêu tăng trưởng 8,5 – 9% của 2008 là khiêm tốn, tận dụng tốt những điều
kiện có trong tay còn có thể vượt, có ý kiến tính toán đến khả năng tăng trưởng
2 con số...
Nếu nhìn
nhận tình hình theo một hướng khác, phải chăng có thể đưa ra kết luận:
Việt
Nam hiện nay có đầy đủ những điều kiện bên trong và bên ngoài tốt nhất vừa đòi
hỏi, vừa cho phép mở đường đi vào một thời kỳ phát triển mới: Chất lượng hơn,
bền vững hơn, giá trị gia tăng cao hơn – chủ yếu dựa trên phát huy yếu tố con
người và hội nhập?
Đây mới chính
là vấn đề trung tâm của năm 2007, cần được xem xét từ mọi khía cạnh.
Những cái mới so với
trước
Ngoài vị
thế mới trên trường quốc tế sau khi Việt Nam được bầu làm ủy viên không thường
trực của Hội đồng Bảo an, kinh tế Việt Nam năm 2007 có 3 đặc trưng mới: thị
trường vốn trong nước phát triển nhanh, thu hút FDI mạnh, khả năng mở rộng xuất
khẩu và đầu tư ra nước ngoài ngày càng lớn.
Khai thác
và phát huy mạnh mẽ 3 đặc trưng mới này, sẽ tạo ra động lực to lớn cho kinh tế
phát triển mạnh cả về lượng và chất. Chính những thành tích mọi mặt đạt được,
cùng với 3 đặc trưng mới này đòi hỏi: Phải chuyển mạnh sang thời kỳ từ
lợi thế so sánh chủ yếu dựa trên lao động rẻ và khai thác tài nguyên, môi
trường – gọi là phát triển theo chiều rộng, sang thời kỳ tạo ra lợi thế so sánh mới chủ yếu dựa trên
phát huy nguồn nhân lực và khai thác hội nhập vào quá trình toàn cầu hóa – thời
kỳ phát triển theo chiều sâu. Đòi hỏi này là tất yếu khách quan vì sau chặng đường 22
năm tình hình bên trong và bối cảnh bên ngoài đã thay đổi sâu sắc:
a. quy
mô nền kinh tế nước ta ngày càng lớn (đạt tới đỉnh cao của phát triển theo
chiều rộng),
b. nguồn
lực trong và ngoài đưa vào nền kinh tế nước ta tăng nhanh,
c. nền
kinh tế nước ta có thị trường ngày càng mở rộng trong và ngoài nước, ngày càng
nhiều đối tác mới tầm cỡ quốc tế,
d. cạnh
tranh hàng dựa trên lao động rẻ và chất lượng thấp ngày càng lợi bất cập hại –
nhất là do giá cả nguyên nhiên liệu và sự trả giá về môi trường; trong khi đó
thị trường ngày càng bão hòa những mặt hàng này.
Thực tế
nêu trên tất yếu đòi hỏi phải nâng cao chất lượng sản phẩm và đi vào những sản
phẩm mới, với nhiều hàm lượng công nghệ và dịch vụ hơn, với giá trị gia tăng
cao hơn. Ví dụ, ngay cả việc tiếp tục xuất khẩu những mặt hàng truyền thống như
thủy sản, nông phẩm, hàng may mặc.., song rõ ràng trong những năm tới nếu những
sản phẩm này không được nâng cao chất lượng mọi mặt và dịch vụ, thì giữ
được thị trường và khách hàng cũ đã khó, đừng nói gì đến mở rộng. Nhưng quan
trọng hơn nhiều vẫn là phải sớm tìm đường đi vào những sản phẩm mới có hàm
lượng công nghệ và dịch vụ cao hơn.
Việc tạo
ra những sản phẩm mới như thế còn vô cùng bức bách ở chỗ nó là nội dung chủ yếu
của những cam kết hợp tác mới giành được trong năm nay và triển vọng của những
năm tiếp theo – bởi lẽ: ngoại trừ những kẻ chụp giựt, đánh quả, không đối
tác nào có tầm cỡ lại thừa tiền và công sức lựa chọn nước ta là bạn đồng hành
chỉ để sản xuất ra các thứ hàngđồ đồng nát.
Hơn thế
nữa, là một quốc gia có dân số đứng thứ 13 thế giới, đất hẹp người đông, ở vào
vị trí địa lý kinh tế và chính trị đầy thuận lợi bậc nhất cũng như thách thức
bậc nhất, Việt Nam sẽ là một đất nước ra sao? – tất cả tùy thuộc vào việc
nước ta từ nay lựa chọn phát triển theo hướng nào? Trước đây 22 năm còn có thể trì hoãn câu trả lời phải đi tìm
này, nhưng bây giờ không thể!
(a)
Nói về quy mô nền kinh tế: Ngay trước mắt, tổng vốn đầu tư toàn xã hội cho thời kỳ
2006-2010 dự kiến sẽ đạt trên 140 tỷ USD, trong đó vốn nước ngoài (FDI+ODA) dự
kiến trên 50 tỷ USD, so với các chỉ số này của thời kỳ 2001-2005 là 100 tỷ và
30 tỷ. Chí ít về mặt số học, quy mô nguồn lực đưa vào nền kinh tế thời kỳ 2006
-2010 lớn hơn thời kỳ 5 năm trước đó 1/3. Theo Vietnam Economic News Online
19-10-2007, vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Danh mục dự án quốc gia gọi vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thời
kỳ 2006 - 2010 với tổng số 163 dự án, ước tính 61 tỷ USD, nghĩa là quy mô
nền kinh tế có thể còn lớn hơn nữa...
Trong 22
năm qua dân số nước ta tăng khoảng 15 triệu người; nền kinh tế nước ta tính
theo GDP năm 2007 ước tính lớn gấp 6 lần năm 1986; quan hệ kinh tế đối ngoại
năm 2007 – ví dụ tính theo kim ngạch xuất nhập khẩu - lớn hơn khoảng 60 lần năm
1986[3]... Thiện chí hay không thiện chí, không
ai có thể bác bỏ thành tựu hiếm hoi này, mặt khác cũng không nên để cho những
lời khen ngợi quá mức quyến rũ và làm cho mê ngủ. Sự thật là từ những thập kỷ
cuối cùng của thế kỷ XX đến nay trên thế giới chỉ có Trung Quốc và Việt Nam là
hai nước đang phát triển đông dân đã giành được những kết quả như thế trong quá
trình chuyển đổi. Nhưng xin đừng giây phút nào quên: So với cả thế giới nước ta
vẫn còn thua kém rất xa trên nhiều phương diện.
Thành tựu
tự nó đặt ra những vấn đề mới, những thách thức mới: Xin các chuyên gia thống
kê làm giùm con tính so sánh trong quãng thời gian 22 năm này riêng kết cấu hạ
tầng vật chất kỹ thuật và những tiện ích công cộng khác đã tăng lên được bao
nhiêu? đã chuẩn bị được bao nhiêu cho 5 năm tới, 10 năm, 20 năm tới? Có cách
nào tính thử xem hay so sánh nguồn nhân lực và chất lượng của nó cũng như khả
năng quản trị quốc gia của nước ta trong 22 năm này đã tăng lên như thế nào?
Trong khi đó kinh tế nước ta đang phải đối mặt với sự thật hiển nhiên:
giá trị gia tăng trong sản phẩm và hiệu quả kinh tế nói chung của Việt Nam thua
tất cả các nước trong nhóm ASEAN6 (trong 5 năm vừa qua chỉ số ICOR của những
nước này thường là 3, của Việt Nam là 4 - 5, lạm phát của Việt Nam có chỉ số
cao nhất, hơn cả Trung Quốc...). Đứng trước tình hình như thế, giữ nguyên
sự phát triển theo chiều rộng hoặc cải tiến không đáng kể lợi thế so sánh hiện
có, đồng nghĩa với kéo dài và mở rộng thêm lạc hậu, nhân thêm
những yếu kém trước tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Hơn nữa,
từ nay trở đi nước ta sẽ phải hoạt động trong những lộ trình ngày càng cao hơn
của khung khổ WTO và gánh vác trách nhiệm ủy viên không thường thực của
HĐBALHQ, tầm suy nghĩ và việc làm phải thay đổi theo hướng này.
(b)
Nói về nguồn lực đưa vào nền kinh tế nước ta ngày càng lớn: Các số liệu về vốn đầu tư trong nước, về FDI, các dự án đã
cam kết với nước ngoài nêu trên, sự phát triển hiện nay của thị trường vốn – đó
là những dữ liệu cho phép lượng hóa khối lượng ngày càng lớn các nguồn lực đưa
vào nền kinh tế nước ta hiện nay và cho những năm tới. Bản thân sự tăng vượt
bực khối lượng các nguồn lực này đòi hỏi gay gắt phải chuyển sang chất lượng
phát triển mới; yêu cầu cạnh tranh và yêu cầu hội nhập làm cho đòi hỏi này càng
trở nên gay gắt. Nền kinh tế sẽ đi về đâu nếu với khối nguồn lực mới này – ví
dụ làm ra nhiều than hơn nữa, nhiều hàng gia công may mặc hơn nữa, nhiều gạo,
cà phê, cá..? Với quy mô lớn, sản phẩm chủ yếu dựa trên lao động cơ bắp và tài
nguyên thiên nhiên càng mất lợi thế cạnh tranh, sẽ đem lại những hệ quả khủng
khiếp: sản xuất những mặt hàng này đã tới trần, không thể mở rộng thêm, giá trị
gia tăng của sản phẩm rất thấp, ngày càng thấp (vì tiền lương và chi phí sản
xuất ngày một tăng), cũng không thể sử dụng hết các nguồn lực hiện có để đưa
vào (input) nền sản xuất này, sẽ dẫn tới nền kinh tế chết vì lạc hậu, ách tắc
và bội thực.
Các số
liệu nêu trên liên quan đến quy mô các nguồn lực mới của nền kinh tế chưa tính
tới nguồn nhân lực ở nước ta ngày càng lớn và năng suất lao động ngày càng cao,
khả năng ứng dụng những thành quả mới của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ ngày càng phát huy, khả năng phát triển cộng hưởng do giao lưu kinh tế
ngày càng thông xuốt hơn trên thị trường nội địa và trên thế giới – bao gồm cả
khả năng huy động tăng lên không ngừng các nguồn lực trong nước và nước ngoài
trong quá trình tiến triển của hội nhập.
(c)
Nói về thị trường ngày càng mở rộng cho nền kinh tế nước ta :
Ngoài những điều đã trình bày bên trên, cần đặc biệt lưu ý đến hiện tượng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế có liên quan đến hướng ngoại trong hầu hết các nước phát
triển và trong các nền kinh tế lớn - hiện tượng outsourcing (tạm dịch:
khai thác các nguồn lực bên ngoài). Hiện tượng này nổi lên từ một vài thập kỷ
nay và ngày càng bành trướng, càng tăng tốc, nhất là từ khi nền kinh tế Trung
Quốc trỗi dậy trở thành công xưởng của thế giới.
Có thể
quan sát hiện tượng này rất rõ nét tại các nền kinh tế Mỹ, Nhật, EU và một số
nền kinh tế khác như Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan... Việt Nam đang là một quốc
gia, một nền kinh tế trở thành một trong những điểm ngắm để hướng tới của hiện
tượng outsourcing này. Hiện tượng này còn liên quan
mật thiết với yêu cầu các nền kinh tế lớn đang muốn đảy mạnh đa dạng hóa thị
trường đầu tư để xan xẻ hay cân bằng các mối rủi ro kinh tế và chính trị.
Có thể nói
toàn bộ sự phát triển trình bày trên là một thời cơ lớn và đồng thời cũng là
một thách thức lớn đối với Việt Nam.
Xin thử
hình dung: Giả thử khai thác tốt tình hình trên, ví dụ Việt Nam sẽ là một
nền kinh tế cung ứng một cách tin cạy những sản phẩm mà nền công nghiệp Nhật
cần chuyển dịch ra nước ngoài, trở thành một nền kinh tế có những mối quan hệ
mật thiết (gần như quan hệ hữu cơ) với nền kinh tế Nhật... Việt Nam sẽ làm được
như thế với một số nền kinh tế lớn khác nữa (kể cả Trung Quốc, nếu được[4]), kết quả sẽ là: Việt Nam tự tạo ra cho
mình một sức phát triển năng động rất đáng mơ ước, với một vị thế kinh tế và
chính trị hoàn toàn khác so với hiện nay. Những dự án hợp tác lớn dành được sự
cam kết trong năm 2007 hé mở khả năng đáng mơ ước này. Tuy nhiên, nếu để cho Việt Nam trượt ra ngoài điểm ngắm của quá trìnhoutsourcing đang diễn ra, (ví dụ để điểm ngắm này rơi vào Thái
Lan), hệ quả sẽ không chỉ là bị giam hãm mãi trong sự bất lực “ta về ta tắm ao
ta”, mà nước ta còn phải hứng chịu số phận của kẻ đứng ngoài cuộc trên bàn cờ
kinh tế và chính trị của thế giới – kẻ trong tay không có sức mạnh đáng
kể để mặc cả với thiên hạ, vận mệnh đất nước ta sẽ bị các thế lực lớn trên thế
giới trao tay buôn bán với nhau trên đầu chúng ta như đã từng xảy ra trong quá
khứ thời chiến tranh lạnh. Ngày nay “số phận” này nếu phải hứng lấy, sẽ còn hẩm
hiu gấp nhiều lần, mọi người đều hiểu vì sao!
(d)
Nói về những cái bất lợi (disadvantages) của phát triển theo chiều rộng trong
nền kinh tế nước ta hiện nay:
Cái nghèo hiện hữu của đất nước mới chỉ là câu chuyện trước mắt.
Theo cách
nhìn con người là trung tâm và là mục đích của sự phát triển, điều tối quan
trọng là sau 32 năm hòa bình, trong đó có 22 năm đổi mới, nguồn nhân lực cả
nước vẫn còn tới 70% sống trong nông thôn và chủ yếu với nền nông nghiệp còn
lạc hậu; điều này có nghĩa nguồn lực quý báu nhất của quốc gia chưa được giải
phóng. Không gì nguy hiểm hơn một cách lâu dài và toàn diện cho đất nước nếu
không sớm khắc phục được thực trạng này. Liên quan mật thiết đến con người là
chất lượng nền kinh tế còn rất thấp, lợi ích con người được hưởng thụ - trước hết
là những người lao động ở nông thôn cũng như thành thị - còn rất ít so với tốc
độ tăng trưởng của nền kinh tế, cái giá phải trả cho môi trường xã hội và môi
trường tự nhiên rất lớn.
Nước ta
đang có nghịch lý nguồn nhân lực rất dồi dào, nhưng lại thiếu gay gắt nguồn
nhân lực có kỹ năng lao động cao, trong khi đó lại chưa xử dụng được tối ưu
nguồn nhân lực đã qua đào tạo. Tình hình nay khiến cho lợi thế lớn nhất của
nước ta không phát huy được, thậm chí đang nảy sinh nhiều vấn đề xã hội lớn –
trước hết là việc làm. Nhìn về lâu dài, trong môi trường thế giới ngày nay, nếu
nước ta không phát triển tốt nguồn nhân lực, nếu nước ta không tạo ra được môi
trường kinh tế - chính trị - xã hội thuận lợi cho sự phát triển của con người
tự do, chảy máu chất xám và di cư lao động sẽ là bất khả kháng, tới mức nào đó
nguyên khí quốc gia suy vong, đất nước sẽ cạn kiệt sinh lực không khác gì lắm
nguy cơ mất nước. Không thể coi thường nguy cơ này ngay từ bây giờ[5].
Ngay trước
mắt, trong những năm tới nếu không tạo ra được sự phát triển kinh tế - xã hội
hiệu quả hơn và bền vững hơn, hệ quả sẽ rất khắc nghiệt: Sau khi khai thác cạn
kiệt các yếu tố phát triển theo chiều rộng, thời kỳ phát triển với tốc độ cao
như hiện nay có thể ngắn lại đáng kể, đất nước sớm chồng chất nhiều vấn đề nan
giải mới, mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020
khó mà thực hiện được.
Hơn nữa,
nước ta đang đứng trước tình hình: Xu thế toàn cầu hóa đang ngày càng thúc đẩy
mạnh mẽ sự giao lưu đan xen lẫn nhau giữa các nguồn lực vốn, công nghệ và lao
động trên thế giới theo hướng ngày càng hình thành các “chuỗi” và “mạng” cung
ứng sản phẩm và dịch vụ trên thị trường toàn thế giới. Trong tình nhình như
vậy, các “chuẩn” của “chuỗi” và “mạng” sẽ ngày càng nhiều và luôn luôn thay
đổi, cạnh tranh để chiếm một vị trí tốt trong “chuỗi” và “mạng” sẽ càng gay
gắt. Ngày nay sẽ là hiểm họa cho nền kinh tế của quốc gia nào đứng ngoài các
“chuỗi” và “mạng” như thế, dù nó lớn như thế nào.
Mặt khác,
bên cạnh thể chế quốc tế WTO, thể chế song phương trong khung khổ Hiệp
định thương mại tự do (FTA - Free Trade Agreement) đang tiếp tục lan rộng tại
các châu lục. Đồng thời đang chớm xuất hiện những hợp tác mới của phạm vi khu
vực như ở Đông Á, châu Mỹ Latinh, hợp tác giữa các nước lớn Trung Quốc – Nga -
Ấn Độ. Toàn bộ sự phát triển này sẽ đặt ra nhiều rối rắm mới. Trong tình hình
phức tạp như thế, tiêu chí thế nào là một “nước công nghiệp theo hướng hiện đại”
vào thời điểm năm 2020 mà nước ta đang mong muốn chắc chắn sẽ ngày càng ít phụ
thuộc hơn vào mức độ sắt thép, điện đóm, đường xá, thu nhập... tính theo đầu
người, mà trước hết ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào khả năng nước đó mở rộng
thị trường đến mức nào, chiếm lĩnh được những vị trí thỏa đáng ra sao trong các
“chuỗi” và “mạng” của nền kinh tế toàn cầu. Nghĩa là đã đến lúc không thể dùng
các tiêu chí phấn đấu nước ta tự đặt ra cho mình khi xây dựng chiến lược công
nghiệp hóa – hiện đại hóa cách đây khoảng 20 - 30 năm!
Toàn thế
giới hiện nay đang loay hoay với cái “công xưởng của cả thế giới”. Trời đất
sinh ra nước ta ở sát nách cái “công xưởng của thế giới”, nước ta lựa chọn cho
mình chỗ đứng nào thích hợp trong tình hình này? Câu trả lời đáng mong muốn
nhất phải chăng nên là: Đặt mục tiêu phấn đấu trong vòng vài ba thế hệ, với ý
chí như rời núi lấp biển, phấn đấu xây dựng bằng được một Việt Nam phát triển
như một dạng Singapore trên bán đảo Đông Dương – một cầu nối giữa các nền kinh
tế trong khu vực và liên khu vực. Sự lựa chọn khác còn lại là hít khói bụi và
trở thành bãi thải.
Về lâu
dài, cần mạnh dạn nhìn nhận Việt Nam có lợi thế lớn hơn Singapore. Về lâu dài,
sự phấn đấu nêu trên còn là phương thức tạo ra thế đứng cần phải có cho nước ta
trong tình hình mới: Việt Nam trở thành đối tác của cả thế giới, cả thế giới là
đối tác của Việt Nam. Đứng cạnh cái “công xưởng của cả thế giới” thì cần lựa chọn
vị thế như vậy. Đường lối đối ngoại của nước ta là bạn với mọi quốc gia vì
hòa bình, hữu nghị và hợp tác, song đường lối này chỉ khả thi khi ta có thực
lực để trở thành một đối tác như thế, bởi vì tất cả những thứ nước ta rất mong
muốn này không ai cho không cả.
Trong
trường hợp trên thế giới xảy ra một chấn động mạnh không lường trước được (dưới
dạng một backlash), ví dụ do một tình huống bất khả kháng nào đó gây ra (một
“force majeure” – giá dầu lửa tăng vọt, đồng đô-la Mỹ suy sụp, một cái bong
bóng nào đó – giả dụ trong lĩnh vực ngân hàng – trong cái “công xưởng của
thế giới” nổ tung, sự đổ vỡ của tình hình Trung Đông, mâu thuẫn mới giữa các
“cực”, thiên tai hay dịch bệnh vượt quá khả năng kiểm soát, nạn khủng bố...),
tình hình sẽ còn phức tạp hơn nữa. Song dù thế nào, ở vào vị thế của nước ta,
trong một thế giới ngày càng có nhiều vấn đề phức tạp mới như vậy, lựa chọn cho
quốc gia mình một vai trò có thể ai cũng cần đến cho hòa giải, một vai trò có
ích cho giải pháp là đáng mong muốn nhất cho chính mình và cho thiên hạ. Muốn
được như vậy, việt Nam phải là một quốc gia có thực lực và bản lĩnh. Ngày nay, đối sách với mọi mâu thuẫn hay thách thức từ
thế giới bên ngoài tác động vào nước ta không phải là sự lựa chọn phương thức
lấy nước này đối trọng với nước kia để cân bằng tình thế. Mà hãy lựa chọn trí tuệ và ý chí phấn đấu trong sự đồng
thuận dân tộc cao nhất làm đối trọng cho mọi vấn đề thế giới bên ngoài đặt ra
cho nước ta, với tinh thần là đối tác của cả thế giới.
Thực tế trình bày trên cho thấy bối cảnh trong nước và thế
giới đặt ra những dữ kiện hoàn toàn mới, đó là cuộc sống, không nằm trong nghị
quyết nào cả, nhất là từ năm 2007. Con đường chuyển sang một giai đoạn phát
triển mới của đất nước đã mở ra. Thực tế này đặt ra yêu cầu gắt gao phải nhìn
nhận lại toàn diện con đường đi lên phía trước của nước ta đã được ghi trong
các Nghị quyết các Đại hội Đảng, nhất là chặng đường dự kiến sẽ đi cho tới
những năm 2020 - không phải là để xem xét nước ta tiến nhanh hay tiến
chậm, vấn đề này sẽ bàn sau vào một dịp khác, mà trước hết là để không lạc lõng
trong thế giới này, để không lại rơi vào tình cảnh tụt hậu hẳn một giai đoạn
phát triển của thế giới – nguyên nhân chính đã dẫn đến mất nước cách đây gần
hai thế kỷ.
II. Thành tựu đạt được và thời cơ trong tay
đang làm cho những yếu kém vốn có trở nên gay gắt hơn
đang làm cho những yếu kém vốn có trở nên gay gắt hơn
ăm 2007
cũng nổi lên một vấn đề lớn khác: Trong tình
hình mới, các yếu kém vốn có từ nhiều năm của nước ta càng bộc lộ rõ, nhiều yếu
kém đã đi tới điểm “nóng”, có điểm trở nên rất “nóng”.
Cái
“nóng” của quán tính ứng phó
Yếu kém
đáng nêu lên nhất là quán tính ứng phó – đối với thời cơ cũng như đối với
thách thức – nghĩa là thụ động, phản ứng theo lối mòn, ít sáng tạo, chưa ráo
riết chuyển sang cách ứng xử của một thành viên WTO.
Đối với
thuận lợi hay cơ hội mới, quán tính ứng phó thể hiện rõ nét nhất theo kiểu:
“tranh thủ được gì làm nấy”. – ví dụ năm 2007 còn thu hút quá nhiều nhiều dự án
FDI nhỏ, chủ yếu với mục đích “tăng GDP địa phương”, giải quyết vấn đề
việc làm tại chỗ, lấp chỗ trống cho khoảng 40 – 50% diện tích chưa sử dụng của
các khu công nghiệp... Cách làm như vậy đương nhiên ít nhiều thụ động
trước tác động của kinh tế thế giới, coi nhẹ những đòi hỏi trong định
hướng chiến lược của nước ta về công nghệ, môi trường, nguyên liệu... Không ít
dự án trong số này nếu có chính sách tốt có thể dành cho đầu tư trong nước. Tại
diễn đàn lãnh đạo các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp Đông Nam Á họp cuối
tháng 8-2007 có Ấn-độ và Trung Quốc tham dự, Việt Nam chưa được liệt kê vào
mạng các quốc gia sản xuất của khu vực, đến nay chưa có một
doanh nghiệp Việt Nam nào đứng vào được trong một “chuỗi” cung ứng sản phẩm và
dịch vụ của khu vực hoặc trên thế giới - nghĩa là Việt Nam vẫn chỉ là một nước
gia công. Tình hình này “nóng” đến mức có nguy cơ biến nước ta mãi mãi là kẻ
làm thuê![6], kéo dài tình hình này không phù hợp với
mục đích ta gia nhập WTO.
Quán tính
ứng phó còn thể hiện theo phong cách “xử lý tình thế”. Ví dụ dễ thấy nhất là
ngoại tệ dồn về nhiều, phải bỏ nội tệ ra mua khoảng 7 tỷ USD đã góp phần nhất
định vào việc đẩy lạm phát lên, đồng thời thiếu hẳn kế hoạch sử dụng nguồn
ngoại tệ thu vào được sao cho sinh lời tối ưu cho nền kinh tế[7].
Ngay sau
đó chính phủ đã cảm nhận được phản ứng tức thì của lạm phát. Tuy nhiên trong xử
lý, chính phủ thiên về dùng những biện pháp hành chính (kiềm chế giá săng, giảm
thuế nhập khẩu một số mặt hàng...), kết quả đạt được không như mong muốn. Những
tháng cuối năm lạm phát đã tới mức “nóng” – hết năm có thể bằng hoặc vượt chỉ
số tăng trưởng kinh tế, đang trở thành gánh nặng lớn đối với tầng lớp dân cư có
thu nhập thấp, đảy lùi đáng kể những nỗ lực xóa đói giảm nghèo[8]. Chính phủ đã phải tính đến những biện
pháp vỹ mô[9].
Thị trường
chứng khoán phát triển mạnh liên quan mật thiết đến “sốt bất động sản” (không
loại trừ sự tham gia của hoạt động “rửa tiền”), một tình huống khó lường trước
và mang nhiều đặc thù phải xem xét từ những chính sách kinh tế vỹ mô. Song cách
giải quyết đang thiên về tìm kiếm những biện pháp ứng phó trước mắt nhằm chống
đầu cơ bất động sản (ví dụ tăng thuế sử dụng đất đai và chuyển nhượng bất động
sản), thay vì cần tập trung nỗ lực vào việc tìm ra những công cụ vỹ mô khác tạo
nguồn cung mới để thu hút những nguồn tiền nóng từ những cơn sốt của thị trường
bất động sản. Trong khi đó hạ nhiệt giá đất nói chung ở Việt Nam đang là một
vấn đề “rất nóng”, nhưng đến nay chưa có một phương sách khả thi nào được đề ra.
Thị trường
vốn trong nước phát triển nhanh là một bước phát triển mới quan trọng, song sẽ
rất dễ trở thành vấn đề “nóng” nếu không chủ động có những chính sách thông
minh của nhà nước nhằm kiểm soát chặt chẽ sự vận động của các dòng vốn – đặc
biệt là trước tình hình các tập đoàn kinh tế quốc doanh đang có xu hướng dùng
thế và lực của mình nhảy vào thị trường vốn, thị trường bất động sản, hoặc thậm
chí đang lăm le chiếm lĩnh trận địa lập ngân hàng hay công ty tài chính riêng
cho mình. Thụ động ứng phó với thực trạng này, tới mức nào đó tình hình sẽ có
thể là “bom” chứ không còn là “nóng” nữa, ngay từ bây giờ phải rất cảnh giác![10]
Nhìn chung
những lúng túng của Chính phủ vấp phải trong năm đầu
tiên của thời kỳ phát triển mới - năm 2007 - trong các vấn
đề tài chính tiền tệ - đặc biệt là vấn đề lạm phát, thị trường vốn và thị
trường bất động sản... một mặt cho thấy tình hình có nhiều vấn đề khó lường
trước, rất khác với các dự báo ghi trong nghị quyết – tình hình này là lẽ tự
nhiên nhưng phải hết sức chú ý để phản ứng và xử lý kịp thời; mặt khác báo hiệu
sẽ có những thách thức lớn hơn và phức tạp hơn đối với khả năng điều hành của
chính phủ trong những năm tới, bởi vì tính chất phát triển và sự vận động của
nền kinh tế có nhiều điểm khác trước.
Xin lưu ý:
Lạm phát 2 con số năm 2007 (12,6%) và hai tháng đầu năm 2008 tăng thêm 6,04%,
nhập siêu tăng bất thường, biến động giá cả chóng mặt, những rối loạn trên thị
trường tiền tệ (vấn đề thanh khoản của các NHTM, tỷ giá hối đoái, lãi suất, thị
trường chứng khoán...) cùng với tình hình đầu cơ trên thị trường bất động sản,
các biện pháp sốc “chữa cháy” của Chính phủ tỏ ra kém hiệu quả[11]... Có thể nói
lạm phát ở mức “báo động đỏ” hiện nay về bề nổi và trực tiếp là do những nguyên
nhân tiền tệ; song về chiều sâu thì phải nhận định lạm phát hiện nay còn là hệ
quả tất yếu (a)của những nguyên nhân thuộc về hệ thống điều hành không tuân thủ
những nguyên tắc của thể chế kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền, và (b)
hệ quả tất yếu của những nguyên nhân thuộc về cơ cấu kinh tế phát triển theo
chiều rộng nhưng kém chất lượng và hiệu quả thấp từ nhiều năm nay[12]. Tất cả đang cảnh báo nghiêm khắc nguy cơ “vỡ bong bóng”.
Thiên tai (đặc biệt là rét kéo dài) và tác động của suy thoái kinh tế thế giới
bắt nguồn từ Mỹ làm trầm trọng thêm những vấn đề của nước ta. Tình hình những
tháng cuối năm 2007 và 2 tháng đầu năm 2008 làm bộc lộ những yếu kém trầm trọng
của hệ thống điều hành kinh tế vỹ mô và quản trị đất nước. (Nói một cách hình
ảnh: Vào trận mới nếm trải được hết những yếu kém của mình).
Cái
“nóng” trong quy hoạch phát triển
Một tồn
tại cố hữu là tính quy hoạch chưa cao nên xảy ra tình trạng nhiều dự án kinh tế
bị tồn đọng hoặc triển khai chậm – nhất là do các khâu đền bù giải tỏa đất đai,
hoặc do những điều kiện cung ứng bất cập (đường, điện, nước, nguồn nhân lực
thích hợp...), có những công trình trở nên “đắt” nhất
thế giới. Trong khi đó vì thiếu hụt nhiều
thứ khác, trước hết là thiếu quy hoạch, nên nhiều dự án FDI quan trọng đành bỏ
lỡ hay tạm “gác lại”. Nguồn vốn có thể huy động được từ thị trường trong nước
và từ kiều hối tăng nhanh, nhưng thiếu các kênh và các dự án đủ sức hấp dẫn
những nguồn vốn này vào các hoạt động kinh tế, trong khi đó nhiều dự án có sẵn
lại thiếu vốn – chủ yếu vì ít hấp dẫn hoặc tính khả thi thấp.
Sâu xa hơn
nữa, sự hẫng hụt của quy hoạch phát triển, của quy hoạch tổng thể đã “nóng” tới
mức làm cho chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung và chiến lược công
nghiệp hóa – hiện đại hóa nói riêng mang nặng tính chất của từng kế hoạch 5 năm
với những thay đổi và sự nhấn mạnh khác nhau của từng thời đoạn, không còn giữ
được tính liên tục với đường nét rõ ràng của một chiến lược, không giữ được
tính tập trung vào một hướng phát triển – ví dụ hướng phát huy ưu thế lớn nhất
của đất nước là con người và tận dụng tình hình hội nhập. Thực trạng này có thể
dễ dàng nhận thấy ở sự chồng chéo, trùng lặp và tính cục bộ trong các chiến
lược ngành cũng như trong các chiến lược phát triển của các địa phương. “Nền
kinh tế GDP tỉnh” là một biểu hiện rất đặc trưng của sự phát triển này. Hệ quả
là kinh tế cả nước đã là một thị trường thống nhất nhưng tính manh mún và cục
bộ vẫn còn khá đặm nét. Tư duy “nhiệm kỳ” hoành
hành nặng nề và đang làm cho thực trạng manh mún này “nóng” thêm nữa.
Riêng về
quy hoạch phát triển giao thông vận tải và phát triển đô thị để giải quyết ách
tắc cũng như để tạo ra sức phát triển năng động mới – đặc biệt là tạo ra sức
phát triển hướng ra biển (rộng hơn khái niệm kinh tế biển) – còn đang là vấn đề
đại đại sự và hết sức lúng túng, đụng chạm trực tiếp đến tư duy lựa chọn chiến
lược phát triển nào. Hình như không một bộ óc nước ngoài siêu việt nào có thể
cố vấn cho chúng ta trong vấn đề quy hoạch này nếu như trước đó tự chúng ta
chưa lựa chọn cho mình một tư duy, một chiến lược phát triển rõ ràng: Đi vào thời kỳ phát triển mới chủ yếu dựa trên phát huy con
người và hội nhập.
Cái
“nóng” của lãng phí, tham nhũng
Trước hết
hiệu quả chung của cả nền kinh tế còn thấp, chỉ số ICOR ước tính là 4 - 5 -
nghĩa là cao nhất trong khu vực; lạm phát cũng cao nhất trong khu vực, trong
khi đó tốc độ tăng trưởng kém xa các nước NICs ở vào giai đoạn phát triển như
nước ta hiện nay[13]. Giá thành xây dựng 1 km đường, một KW
điện... nói chung cao hơn giá trung bình của Trung Quốc và các nước trong khu
vực. Thực tế này cho thấy ngay tình trạng lãng phí và tham nhũng là rất lớn.
Rất tiếc đến nay chưa có những điều tra và so sánh một cách khách quan để đưa
ra công luận những con số cụ thể.
Trong so
sánh với 125 nước, năng lực cạnh tranh của Việt Nam xếp thứ 74 năm 2005, tụt
xuống thứ 77 năm 2006; tình trạng tham nhũng xếp thứ 111 năm 2005, tụt hạng
xuống thứ 123 năm 2006, mặc dù Việt Nam hiện nay xếp thứ 6 trong “top ten” thu
hút FDI và xếp hạng môi trường kinh doanh được tăng lên 13 bậc. Đấy là những
con số cũng phản ánh tình trạng lãng phí.
Báo cáo
của Kiểm toán nhà nước năm 2007 cho thấy con số thất thoát 7600 tỷ đồng
trong phạm vi các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước và là 9400 tỷ đồng nếu tính
cả khu vực an ninh và quốc phòng; tuy nhiên đây mới chỉ là một phần của sự việc
(VNN ngày 24-09-2007). Theo một điều tra xã hội học mới đây nhất của Thụy Điển
chỉ có 6% người được hỏi ý kiến ở Việt Nam chấp nhận chống tham nhũng, điều này
nói lên tính nan giải của vấn đề và sự bi quan của người dân trước hiện tượng tiêu
cực này (ở Thụy Điển chỉ số này là 70% - VNN 03-12-2007).
Nghiêm
trọng hơn là lãng phí dưới dạng “đầu bài sai” trong đầu tư nói chung (lựa
chọn công trình đầu tư kém hiệu quả, tốn đất đai, trả giá đắt về môi trường,
các chương trình kinh tế sai như “1 triệu tấn đường”, “đánh cá xa bờ”...),
trong xây dựng cơ bản (không đồng bộ, chắp vá, cầu chờ đường dẫn, đường chờ
cầu, cảng chờ đường...), trong giáo dục (các chương trình cải cách), trong
nghiên cứu khoa học (các đề tài kém giá trị ứng dụng)... Các đầu bài sai thường
có 3 nguyên nhân chủ yếu: (a)hạn chế của tư duy và tầm nhìn, (b)duy ý chí,
(c)sự can thiệp của yếu tố chính trị. Những “đầu bài sai” như thế chắc không
ít, nhưng đến nay chưa liệt kê ra được. Riêng thất thóat về đất đai thời gian
1994 - 2004 Gs. Đặng Hùng Võ đưa ra con số 70 tỷ USD[14]...
Những năm
gần đây liên tục thiếu điện (năm 2006 thiếu 1,1tỷ kwh; năm 2007 thiếu 6,6 tỷ
kwh, năm 2008 Tập đoàn Điện EVN dự báo thiếu 8,6 tỷ kwh) song từ nhiều năm nay
có nhiều dự án FDI lớn về nhiệt điện có tính khả thi cao lại phải nằm chờ -
nguyên nhân chính thường được đưa ra để biện minh là chưa đạt được thỏa thuận
giá ta bán than và mua điện, cách ta mua điện... Không thể không đặt ra câu hỏi
“ta” đây là ai? Các lý lẽ biện minh nói chung thiếu sức thuyết phục...
FDI và các
nguồn vốn khác cho phát triển kết cấu hạ tầng rất sẵn sàng (đường sắt cao tốc
xuyên Việt, đường tầu điện ngầm cho các thành phố lớn...), nhưng đang thiếu quy
hoạch, thiếu dự án, thiếu nhân lực..; có khi còn chưa làm rõ cả quan điểm sơ bộ
ban đầu cho sự lựa chọn – ví dụ nên làm ngay toàn bộ, hay làm từng bước hệ
thống đường sắt hiện đại Bắc – Nam, thế nào là tối ưu nhất?.. Tất cả chưa có
câu trả lời, mà sự lựa chọn nào thì sẽ hệ lụy ấy... FDI cho công nghệ cao cũng
đang phải chầu chực: Các khu công nghệ cao Hòa Lạc, Bắc Ninh... triển khai
chậm... – hiện tượng “bội thực” dự án vì khả năng “hấp thụ” hạn chế. Đồng thời
trong khi đó báo chí rền rĩ chuyện “vốn nước ngoài đang bí đầu ra” (TBKTVN
30-10-2007)...
Phân bổ
nguồn lực mọi mặt không tối ưu hóa sự lựa chọn trước sau cũng tạo ra lãng phí
lớn, bởi lẽ trí, lực, thời gian đều có giới hạn, cái nào nên làm ngay – ví dụ
kết cấu hạ tầng (điện. đường, trường, trạm...), đào tạo nguồn nhân lực, cải
cách hành chính.., cái nào có thể để chậm lại dăm mười năm cũng không sao – ví
dụ xây mới các trụ sở cơ quan...
Lãng phí
còn đẻ ra lãng phí ở chỗ nhiều nơi tiếp tục tình trạng bước trước cản trở bước
tiếp theo. Chuyện nhỏ nhất thường xảy ra là làm đường xong lại đào bới lên lắp
cống lắp điện. Chuyện lớn hơn là việc tiếp tục phát triển đô thi hướng vào bên
trong, việc mở rộng đô thị và phát triển các đô thị vệ tinh trên cơ sở quy
hoạch rắm rối đang gây thêm nhiều ách tắc và bất cập mới, đang làm cho bần cùng
hóa nông thôn gia tăng...
Cái lãng
phí lớn nhất không được nói đến nơi đến chốn là lãng phí về con người, vì nhiệm
vụ giáo dục – đào tạo và phát triển nguồn nhân lực từ hàng chục năm nay sa đà
vào phát triển đại trà và bệnh thành tích, do đó làm nên thất bại: Chi phí của
toàn xã hội rất lớn, nhưng kết quả đạt được không tương xứng, ưu thế lớn
của nước ta về nguồn nhân lực không phát huy được, không đón trước được sự phát
triển của tình hình nên hiện nay đang nảy sinh hẫng hụt lớn về nguồn nhân lực
thích ứng, chất lượng nguồn nhân lực nước ta hiện nay thấp nhất so với 5 nước
ASEAN6 và Trung Quốc. Giáo dục – đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta
hiện nay đang tích tụ nhiều vấn đề nan giải lâu năm và chưa tìm được lời giải[15].
Còn phải
kể tới từ nay đến năm 2010 nếu không tạo ra được một trạng thái phát triển mạnh
mẽ theo chiều sâu – bao gồm cả đổi mới năng lực điều hành vỹ mô và quản lý toàn
bộ đời sống đất nước, sẽ dễ xảy ra lãng phí về cơ hội với những thách thức khó
lường.
Những
cái “nóng” hàng ngày cũng rất nóng
Nhiều điểm
“nóng” khác đã trở nên bức xúc hàng ngày, như: tai nạn giao thông, kẹt xe, vấn
đề điện, nước, y tế, nhà ở cho người nghèo, về văn hóa, xã hội...
Nhiều địa
phương có các công trình kết cấu hạ tầng xây dựng trước năm 1975 nay xuống cấp
hàng loạt, tai nạn dập dình hàng ngày; việc phải cử công an chặn hai đầu cầu
Đồng Nai – cửa ngõ đi vào TPHCM - để giảm bớt lượng xe cùng một lúc có
mặt trên cầu phòng ngừa sập cầu bất kỳ lúc nào là ví dụ rợn người. Một số công
trình lớn mới xây dựng cũng xuống cấp nhanh chóng vì chất lượng thấp (ví dụ:
đập Ea Súp Thượng – Đắc Lắc, một số quốc lộ và đê đập khác...).
Trong cả
nước xảy ra nhiều vụ khiếu kiện đông người và kéo dài của nông dân, chủ yếu
liên quan đến vấn đề đất đai... Cho đến nay chưa có cách gì giảm bớt một cách
cơ bản những căng thẳng phát sinh trong quá trình phát triển công nghiệp, đô
thị hóa, phát triển nông nghiệp và nông thôn - nhất là vấn đề tạo việc làm và
cuộc sống ổn định cho nông dân những vùng phải di dời. Thực trạng này là một
trong những nguyên nhân chính gia tăng khoảng cách giàu nghèo và làm nảy sinh
nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội khác.
Liên tiếp
trong 2 năm 2006 – và 2007 thiên tai và dịch bệnh xảy ra nhiều và lớn hơn các
năm trước với tổn thất lớn, trong đó một phần có nguyên nhân môi trường tự
nhiên bị xâm hại quá mức, uy hiếp đáng kể khả năng phát triển năng động của đất
nước, tiêu hao nguồn lực tích lũ được và thách thức khả năng xử lý hữu hiệu của
bộ máy nhà nước.
Trong
những bức xúc hàng ngày, phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng tại kỳ họp thứ 2 của
Quốc hội thừa nhận cái khó nhất vẫn là vấn đề cải cách hành chính. Nói thẳng
thắn: cái “nóng” nhất của mọi cái “nóng” trong cả nước là khả năng quản trị
quốc gia còn nhiều bất cập.
Trong cải
cách hành chính, nói về con người:
So với chức năng nhiệm vụ của nó, nhân lực của hệ thống hành chính quốc gia –
nhất là đội ngũ cán bộ kỹ trị và chuyên môn - đang là một trong những bộ
phận có nhiều yếu kém nhất trong toàn bộ nguồn nhân lực cả nước. Nói về bộ máy:
Tình trạng quan liêu tham nhũng và chất lượng bất cập của nền hành chính quốc
gia đang là trở lực trực tiếp đối với sự phát triển năng động và bền vững của
đất nước. Điều tra mới đây của Phòng Thương mại và Công nghiệp VN (VCCI) phối
hợp với Dự án Nâng cao Năng lực Cạnh tranh VN (VNCI) cho thấy chỉ số nâng cao
năng lực cạnh tranh (PCI) năm 2007 tuy được cải thiện hơn 2006 nhưng vẫn còn
nhiều vấn đề: Khoảng 70% doanh nghiệp còn phải trả “phí không chính thức” để
cho công việc được chạy; 56% doanh nghiệp cho biết phải có “quan hệ” mới có
thông tin cần thiết cho công việc kinh doanh của mình; 44% doanh nghiệp cho
thấy quan hệ với cán bộ thuế rất quan trọng; số giờ doanh nghiệp hàng năm phải
chi dùng riêng cho việc đóng thuế là 900 – 1050 giờ, cao nhất trong khu vực;
tiếp cận với thông tin về đất đai còn rất nhiều khó khăn... Có thể tin rằng các
số liệu này mới chỉ là cái mỏm băng nhìn thấy được của cả tảng băng.
Các đánh
giá của một số cơ quan nghiên cứu nước ngoài, trong đó Economist Intelligence
Unit (EIU), Transparency International (TI).., cho rằng có các nhóm lợi ích chi
phối đáng kể hoạt động của các tập đoàn kinh tế - biểu hiện rõ nét nhất là ưu
tiên dồn các nguồn lực tài chính và nhiều ưu ái khác cho bộ phận kinh tế này,
việc thực hiện cổ phần hóa tại một số đơn vị kinh tế thực ra là tiến hành tư
nhân hóa gần như trực tiếp vào túi những người trong nhóm lợi ích, sự bất công
gia tăng. Báo chí trong nước có không ít bài phanh phui những hiện tượng này.
Xin
hãy quan sát những cái “nóng” khác trong đời sống thường ngày:
· chuyện
xảy không hiếm trong bộ máy chính quyền như người thiếu đạo đức được trọng dụng
– ví dụ như gần đây nhất là dư luận phản ứng gay gắt việc ông Đỗ Văn Công
nguyên bí thư huyện ủy Tân Uyên/Bình dương - cha của cảnh sát giao thông Đỗ
Hoài Minh Phương (múa kiếm tại sân bay Đà Nẵng) vừa mới được bổ nhiệm làm Bí
thư Đảng ủy khối dân - chính - Đảng tỉnh, ông Nguyễn Thành Phương - khi
còn làm Phó viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh - đã từng liên quan đến vụ mua dâm trẻ em -
được bổ nhiệm làm Chủ tịch huyện Tân Uyên[16];
· những
sai trái trong đời sống pháp luật – tiêu biểu là các vụ xử án oan sai, vụ
quan thanh tra tham nhũng ngay trong khi làm việc thanh tra (Lương Cao Khải),
vụ tòa án Đồ Sơn xử án tham nhũng đất đai như một màn kịch hề vụng về;
· những
tội phạm hình sự trong đời sống xã hội - điển hình như vụ nhân viên trường mầm
non Lĩnh Nam (Hoàng Mai - Hà Nội) âm mưu đầu độc học sinh cả trường bằng thuốc
chuột 3 lần không thành – đáng lo nữa là mọi chuyện rơi tõm vào lãng quên, hay
là cuộc sống đã trở nên quá chai sạn?[17]
· cháu
gái Nguyễn Thị Bình bị 21 tuổi chưa biết đọc, bị ngược đãi bằng nhục hình man
rợ hàng chục năm trời ngay giữa thủ đô mà xã hội chung quanh khoanh tay còn bộ
máy chính quyền thì không hay biết – đây là sự vô cảm hay sự bất lực?[18];
· vụ
dân quân đánh đòn dã man 4 học sinh lớp 9 tại trụ sở chỉ huy quân sự P. 10 Q.
15 TPHCM để lấy cung chiều 13-11-2007 làm chết tim người đọc, thêm một lần chết
nữa là vụ này lại do chính thầy giáo của trường các em yêu cầu[19];
· những
hiện tượng xuống cấp trong đời sống văn hóa xã hội và sự bất lực của học tập
bồi dưỡng đạo đức cho thế hệ trẻ – điển hình là sử nước thì không thuộc nhưng
tên các ca sỹ trên M-TV thuộc vanh vách, vụ video clip “Vàng Anh”..;
· tình
hình trí tuệ và người tài phải lùi bước trước những mối “quan hệ” phức tạp,
chưa có được chỗ đứng và tiếng nói lẽ ra phải có trong đời sống mọi mặt của đất
nước..,
· mấy
ngày nay báo chí rôm rả chuyện cười làm se lòng người trong đối thoại ở Trà
Vinh giữa dân và cán bộ liên quan đến tính thu nhập bình quân theo đầu người;
có thể diễn đạt: tại bàn tiệc nọ hai người được ăn một con gà, như vậy bình
quân mỗi người được ăn nửa con gà, trong đó một người được chén cả con, một
người không được miếng nào!..[20]
· Vân
vân...
Tất cả
những cái “nóng” ấy trong cuộc sống hàng ngày cho thấy câu hỏi “hoặc là.., hay là..?” đặt ra cho đất nước hôm nay thật như xóc vào gan ruột! Một
tâm tư lo lắng cho tương lai đất nước đang lan rộng[21].
Trên con
đường công hiệp hóa – hiện đại hóa, những thành tựu đạt được sau 22 năm đổi mới
và thời cơ đang có trong tay làm bộc lộ rõ tình hình: kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự còn
đang ở mức rất thấp, nếu không xoay chuyển hẳn được tình hình này sẽ là lún sâu
không cưỡng lại được vào con đường của sự phát triển hoang dã, sẽ không thể có
ổn định bên trong, sẽ lệ thuộc nhiều mặt vào bên ngoài. Đi
sâu nữa vào kịch bản này, lòng người sẽ ly tán, vì số đông sẽ không thể vừa
lòng với cuộc sống mình có, vừa phải chịu tác động mọi mặt gián tiếp hoặc trực
tiếp từ bên ngoài – kể cả mọi hình thức can thiệp. Cơ hội sẽ tan biến nhanh
chóng và để lại những thách thức. Bài học của các nước Liên Xô Đông Âu cũ đã
cho thấy: Để xảy ra đổ vỡ từ bên trong, tình hình sẽ là không cứu vãn được.
III. Chuyển sang con đường phát triển theo chiều
sâu
Sau
22 năm đổi mới, đất nước bây giờ đã tạo ra được tình hình: thực lực của bản
thân cho phép nắm lấy thời cơ bên trong và bên ngoài để bước sang thời kỳ phát
triển mới: Phát huy yếu tố con người và hội nhập. Trước đây 22 năm không thể có
tình hình này. Thậm chí cách đây 5 năm cũng chưa thể tạo ra tình hình này,
nguyên nhân hàng đầu là vì chưa hội đủ những yếu tố bên trong.
· Nhưng
nắm bắt lấy bằng cách nào?
· Bằng
cách tiếp tục kéo dài con đường của 22 năm phát triển theo chiều rộng như vừa
qua?
Hiển nhiên
các giới hạn không được phép vượt qua của sự phát triển theo chiều rộng đã ở
ngay sát chân chúng ta – nhìn về bất kể phương diện nào cũng thấy như vậy: đất
đai, tài nguyên, môi trường, lao động giá rẻ và trình độ phát triển thấp của
nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng, trình độ quản trị quốc gia... Hiện nay
đã xuất hiện những ách tắc, những mâu thuẫn cục bộ không dễ gì khắc phục được
về nhiều phương diện. Đi tiếp con đường phát triển như 22 năm vừa qua, sẽ tích
tụ thêm mãi những mâu thuẫn nội tại phát sinh ngay trong lòng bản thân quá
trình phát triển này của đất nước.
Có thể nói
dứt khoát, không một diễn biến hòa bình của thế lực nào thù địch với việt
Nam có thể đảo ngược được thành quả độc lập thống nhất đất nước đã giành được
của dân tộc ta. Nhưng để cho bất cập và tha hóa đẻ thêm mãi các mâu thuẫn nội
tại và ách tắc hiện nay, thì tới một lúc nào đó là hoàn toàn có thể! Độc lập
quốc gia trong trường hợp này sẽ biến dạng thành lệ thuộc; tình hình này sẽ cám
dỗ sự can thiệp bất khả kháng từ bên ngoài, những yếu kém nội tại sẽ biến chứng
thành sự bùng nổ hay đổ vỡ phải đến.
Có thể nói
hình ảnh thế này: Sau 22 năm đổi mới, sự phát triển bên trong của nước ta và
thời cuộc quốc tế đang đặt nước ta trước ngã 3 đường của sự nghiệp công nghiệp
hóa – hiện đaị hóa:
· Sẽ
tiến tới một nước “NIC” trong tương lai không xa lắm – ví dụ dưới dạng một Việt
Nam Hàn Quốc?
· Hay
là để cho quán tính tiếp tục chi phối, cuối cùng sẽ đưa nước ta trở thành một
quốc gia vẫn là lạc hậu – ví dụ một Việt Nam kiểu như Philippines?[22]
Bèo
dạt mây trôi, được tới đâu hay tới đó, dựa dẫm, duy ý chí, cầu xin ô dù,
phiêu lưu, thiển cận, bóc ngắn cắn dài, thân cô thế cô, lạc lõng một mình một
kiểu, khôn vặt, van nài sự thông cảm.., mọi tư duy loại này ở thế giới chúng ta
đang sống hôm nay chỉ mang lại cho nước ta một kết cục thảm hại giống nhau. Tự
giác hay không tự giác chọn cách sống như thế thì cũng đáng với số phận như
thế.
Mà nếu là
một quốc gia nghèo, hèn, lạc hậu, chẳng những sẽ không có nhiều thứ, mà bên
trong thì phân tán, chia rẽ, bên ngoài thì bị các thế lực khác nhau xâu xé, đất
nước không yên, không thể trở thành một quốc gia có tự trọng. Để xảy ra tình
hình này khác gì lại mất nước một lần nữa? – lần này sẽ không phải là dưới dạng
đô hộ như ngày xưa, mà có thể là dưới dạng lệ thuộc, hèn, độc lập chủ quyền bị
xâm phạm, thể diện quốc gia bị chà đạp. Và một dạng “vong quốc” nào chắc gì dễ
chịu hơn một dạng “vong quốc” nào? Độc lập thống nhất 32 năm rồi, có lúc nào
một ý nghĩ về nguy cơ có thể mất nước dưới dạng như thế làm gợn lòng chúng ta?
Ở đỉnh cao của thành tựu và thời cơ, để xảy ra suy sụp sẽ là hiểm họa. Lịch sử
các quốc gia xưa nay không hiếm thất bại hiểm nghèo nhất đến từ chiến thắng lẫy
lừng nhất.
Nếu
với tất cả trí tuệ và bản lĩnh của một dân tộc biết tự trọng, với tất cả những
giá trị xây dựng được làm cho cái tên gọi Việt Nam đã đi vào lòng nhân
dân thế giới, biết tận dụng lợi thế nước đi sau để lựa chọn con đường tối ưu
cho phép trở thành một nước phát triển trong trào lưu chung của thế giới[23], nước ta sẽ có tất cả, nhân dân hạnh
phúc, độc lập và chủ quyền quốc gia được bảo tồn; một Việt Nam như thế mới có
ích cho hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác trong khu vực – và chỉ có ích
như vậy cho thiên hạ Việt Nam mới được nể trọng trong cái thế giới hôm nay. Bạn
bè trên thế giới của nước ta đông lắm và cũng mong mỏi như vậy, đừng làm họ
thất vọng.
Là người
việt Nam xin đừng lúc nào quên nước ta từ bao thế kỷ nay có vị trí địa lý, kinh
tế, chính trị thuận lợi số 1 và thách thức số 1 - trong thế giới hôm nay
và trong tương lai cũng vậy. Tạo hóa đặt nước ta vào vị trí này mà! 80
năm mất nước và những hệ quả sau đó có nguyên nhân quan trọng là dân tộc ta đã
đứng với tư thế nào trên vị trí tạo hóa trao cho này trong bối cảnh của thế
giới đương thời. Cái giá của độc lập thống nhất của đất nước hôm nay đắt lắm,
chúng ta vẫn chưa có đủ khoảng cách thời gian, cái tâm và tầm nhìn lường hết
được. Vì thế không được phép để cho quốc gia đi tới viễn cảnh trở thành kẻ làm
thuê về kinh tế và vong quốc vì lệ thuộc! Như một mệnh lệnh[24] của đất nước: Đứng trước ngã ba này, phải tìm đường đưa đất
nước trở thành quốc gia phát triển, hiện đại!
Cũng phải
nói ngay, lựa chọn đúng và thực hiện đúng sự lựa chọn là hai chuyện khác nhau.
Đã 6 thập kỷ trôi qua, cả thế giới thứ ba mới chỉ xuất hiện được vài ba “con
rồng”, còn lại hàng chục nước đang phát triển khác tuy đã giành được những bước
tiến rất xa, nhưng vẫn chưa thoát hẳn tình trạng các nước nghèo và lệ thuộc,
không ít nước vẫn còn ở thời kỳ phát triển hoang dã. Ngay trong ASEAN, các nước
như Indonesia, Thái Lan... đã phát triển năng động trong 3 thập kỷ kiên tiếp,
nhưng từ hai thập kỷ trở lại đây, nhất là từ 10 năm nay đang giẫm chân tại chỗ;
Philippines cũng vậy, và ngày nay chủ yếu vẫn là một quốc gia làm thuê.
Là nước đi sau, nước ta phải ngẫm nghĩ rất nhiều về thực tế lịch sử này. Trước sau bí quyết của các nước thành công vẫn là phát huy yếu
tố con người – do xây dựng được hệ thống kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội
dựa trên yếu tố phát huy con người.
Một
thành tựu quan trọng khác của năm 2007 – tuy còn rất khiêm tốn - nhưng nếu được
tiếp tục phát huy sẽ có ý nghĩa sâu xa đối với toàn bộ sự phát triển của đất
nước trong tương lai, đó là một số tiến bộ mới trong quá trình dân chủ hóa đời
sống mọi mặt của đất nước – trước hết là trên lĩnh vực kinh tế. Có thể đo những
tiến bộ mới này qua nhiều giác độ khác nhau, từ giảm bớt một chút thủ tục hành
chính phiền hà, cải tiến hệ thống luật pháp theo hướng thân thiện hơn với kinh
tế thị trường và phù hợp với những cam kết quốc tế và khu vực, tiến thêm một
bước trong tự do hóa thương mại và đầu tư, môi trường kinh doanh năm 2007 được
World Bank xếp cao lên 13 bậc, riêng thuận lợi về cấp tín dụng 2006 xếp thứ
80/104 năm 2007 xếp thứ 48/104; có một số biện pháp mới khuyến khích khu vực
kinh tế tư nhân và thực hiện một số biện pháp đảy mạnh kinh tế quốc doanh ra
thị trường, cải thiện một số chính sách đối với cộng đồng người Việt ở nước
ngoài, tiếng nói của báo chí ngày càng giữ vai trò quan trọng hơn trong sự
nghiệp phát triển đất nước... Thực tế này càng làm rõ: Chỉ có thể thông
qua phát huy dân chủ để khơi dạy mọi ý chí và nguồn lực chuyển hướng nền kinh
tế sang phát triển theo chiều sâu.
IV. Khắc phục tình trạng
“thắt cổ chai”
Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng và nhiều đồng chí lãnh đạo khác của Đảng và Nhà nước thẳng thắn
nêu ra sự bất cập của kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực kém phát triển và năng
lực quản trị quốc gia hẫng hụt. 3 yếu kém này tạo nên tình trạng “thắt cổ chai”
kìm hãm sự phát triển năng động của quốc gia. Chiến lược nào hay kế hoạch gì
cho trước mắt và cho nhiều năm tới cũng phải bắt đầu từ khắc phục tình trạng
“thắt cổ chai” này – đòi hỏi ưu tiên số 1.
Rất
đáng huy động trí tuệ cả nước mổ xẻ nguyên nhân mọi mặt để nhận dạng chính xác
thực trạng cái “thắt cổ chai” này. Huy động trí tuệ khắc phục cái “thắt cổ
chai” này là thực hiện dân chủ có thực chất nhất.
Thực hiện
dân chủ ở đây trước hết là thực hiện quyền nói của
người dân, của trí tuệ về những vấn đề hệ trọng liên quan đến xóa bỏ cái “thắt
cổ chai”. Đứng trước yêu cầu phải thực hiện ưu tiên số 1 này, dân chủ có nội
dung vô cùng đơn giản và rõ ràng, có một sức mạnh giải phóng không thể lường
hết được! Tuy nhiên, thực hiện quyền này lại đang là việc rất khó, và chỉ có thể khả thi hơn trên
cơ sở thực hiện công khai minh bạch, nâng cao dân trí và thường xuyên nâng cao
những quyền khác của công dân, trước hết là quyền được thông tin, quyền được
nói - để cả nước cùng nhìn thẳng vào sự thật, cùng sẵn sàng chia sẻ mọi khó
khăn thử thách, cùng chung một quyết tâm đưa đất nước đi lên.
Yêu cầu
khắc phục tình trạng “thắt cổ chai” này đòi hỏi trong năm 2008 cần hình thành
được các chiến lược phát triển cho từng vấn đề: (1)kết cấu hạ tầng, (2)nguồn
nhân lực, (3)quản trị quốc gia, với những quy hoạch và kế hoạch cụ thể. Có thể
nói trong vòng 5 – 10 năm tới và đến năm 2020 phải tiến hành những cải cách lớn
cho 3 vấn đề nêu trên, có như vậy mới hy vọng chuyển mạnh sang một thời kỳ phát
triển cao hơn và mới có điều kiện thực hiện lộ trình của những cam kết trong
khung khổ WTO, tạo ra động lực thực hiện thành công chiến lược phát triển đến
năm 2020.
Về
kết cấu hạ tầng: Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng cho cả nước là điều
kiện hàng đầu để quy hoạch phát triển các vùng kinh tế, quy hoạch phát triển đô
thị và nông thôn, tạo điều kiện chuyển nền kinh tế sang chiến lược mới phát
triển theo chiều sâu. Một vấn đề bức xúc mới là thiên tai ngày càng gay gắt,
những dự báo về thay đổi môi trường tự nhiên do tổn thất tầng ô-zôn của bầu khí
quyển liên quan đến nước ta đầy lo ngại, có thể kiểm chứng qua 3 năm gần đây có
sự gia tăng rõ rệt của lũ lụt miền Trung và triều cường. Riêng lũ lụt miền
Trung năm nay cướp đi 70 sinh mạng và gây thiệt hại ước khoảng 30 nghìn tỷ
đồng, tương đương 3% GDP; nếu tính gộp cả thiệt hại năm 2007 do kẹt xe ở
hai thành phố lớn và triều cường, tổng thiệt hại lến tới khoảng 4% GDP. Thực tế
này đặt ra bài toán nên chăng phải dồn lực trong một số năm tới cho việc phát triển
kết cấu hạ tầng, những công trình phòng chống thiên tai, những dự án bố trí lại
các khu dân cư... Đây là những vấn đề từ năm 2007 trở đi không thể trì hoãn
được nữa.
Ngay trước
mắt, những ách tắc về giao thông – đặc biệt là ở TPHCM và Hà Nội phải cần tới 2
– 3 năm mới giải quyết được nếu có phương án xử lý đúng đắn[25].
Việc
khắc phục những yếu kém hiện tại trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực: Nếu làm
giỏi mọi việc, dự báo chúng ta có lẽ cũng phải cần tới khoảng 10 năm mới có thể
cải cách xong hệ thống giáo dục và đào tạo hiện nay để đi vào một hướng phát
triển mới của nguồn nhân lực đáp ứng được những đòi hỏi của đất nước[26]. Nhiệm vụ
này chỉ có thể thực hiện thành công với sự vận động rộng lớn toàn xã hội tham
gia gìn giữ, xây dựng những giá trị nền tảng của đất nước; gắn với việc đổi mới
nhiều vấn đề, nhiều chính sách trong hệ thống chính trị theo những kỷ cương của
nhà nước pháp quyền – nhất là chính sách dùng người và phát huy con người. Ví
dụ: Mọi nỗ lực cải cách hay đổi mới giáo dục – đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực sẽ trở nên vô nghĩa nếu xã hội và hệ thống chính trị còn dung tha chuyện
chạy ghế, còn tồn tại chuyện dùng người theo các mối quan hệ, những thủ đoạn
học giả bằng thật vẫn còn đất dụng võ... Nói một cách khác, nhiệm vụ này thành
hay bại gắn hữu cơ với những đổi mới sâu xa trong xã hội và trong đời sống
chính trị của đất nước – và hiển nhiên đây không thể là câu chuyện ngày một
ngày hai.
Việc
nâng cao được năng lực quản trị quốc gia theo kịp nhịp độ phát triển của đất
nước: Lâu nay nhiều nghị quyết của Đảng nhấn mạnh sự cần thiết đổi
mới hệ thống chính trị phải theo kịp đổi mới kinh tế. Song nhận thức đúng đắn
này khi biến thành hành động cụ thể lại chỉ khuôn vào vấn đề cải cách hành
chính, mà đúng ra phải là nhiệm vụ nâng cao năng lực quản trị quốc gia.
Cuộc sống
cho thấy chỉ có thể nâng cao năng lực quản trị quốc gia thông qua đổi mới hệ
thống chính trị – đây là một tồn tại lớn, đã đến lúc phải đặt lên bàn nghị sự.
Rõ ràng việc tiến hành cải cách hành chính với nội dung hạn hẹp như hiện nay và
tách rời khỏi hệ thống chính trị nói chung và hệ thống nhà nước nói riêng như
đang làm không thể mang lại hiệu quả mong muốn. Các Đại hội Đảng, các dịp tổng
kết kết thúc nhiệm kỳ đã đánh giá: nhiệm vụ cải cách hành chính tiến hành chậm,
ít hiệu quả, không theo kịp đòi hỏi tình hình... Trong những văn kiện này không
hiếm sự phê phán nghiêm khắc những bất cập của bộ máy hành chính quốc gia, có ý
kiến nêu rõ cải cách hành chính chỉ có khả năng thành công nếu xuất phát từ đổi
mới toàn diện vai trò lãnh đạo của Đảng. Đó là những đánh giá xác đáng. Chỉ cần
dựng lên một sơ đồ sự vận hành của hệ thống chính trị, bao gồm cả hệ thống nhà
nước, sẽ càng thấy rõ việc nâng cao năng lực quản trị quốc gia cần bắt đầu từ
việc đổi mới và nâng cao chất lượng vai trò lãnh đạo của đảng cầm quyền.
Việc đổi
mới hệ thống quản trị đất nước đòi hỏi bao nhiêu năm, nhanh hay chậm, thành hay
bại, tất cả phụ thuộc vào việc đổi mới triệt để Đảng CSVN trở thành lực lượng
tinh hoa của dân tộc, để có khả năng thực hiện được vai trò lãnh đạo sự nghiệp
xây dựng đất nước trở thành một quốc gia phát triển, nghĩa là không làm nhiệm
vụ của một đảng nắm quyền cai trị đất nước. Toàn bộ sự vận động kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội của đất nước phải nằm trong khung khổ kinh tế thị trường,
nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự ngày càng phát triển. Nhận thức đúng tình
hình và nhiệm vụ đặt ra cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ một Việt Nam như thế
trong thế giới ngày nay, giác ngộ được sức mạnh và lợi ích của dân tộc – đó là
cơ sở tạo nên tính tiền phong chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện
nay, đó là định hướng, là xác định nội dung việc đổi mới Đảng. Từ xuất phát
điểm này tạo mọi điều kiện đổi mới hệ thống chính trị và bộ máy quản trị quốc
gia trên cơ sở phát huy triệt để các yếu tố dân tộc, dân chủ và văn hóa. Nhằm
vào nhiệm vụ chính trị như thế để đổi mới Đảng là kế thừa truyền thống lịch sử
vẻ vang của Đảng và của dân tộc, là phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng bằng sự
lựa chọn cho mình sứ mệnh là ngọn cờ của dân tộc trên con đường phát triển mới
của đất nước. Lựa chọn sứ mệnh như thế, chỉ có thể là sự lựa chọn của Đảng được
xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh[27].
Sau 22 năm
đổi mới, tình hình phát triển mọi mặt ở nước ta hiện nay đã đến mức cho phép
kết luận: Không xây dựng được một hệ thống quản trị quốc gia hiện đại,
sẽ không thể có một Việt Nam công nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Đây thực sự
là thách thức lớn nhất đối với đảng cầm quyền (xem
thêm chú thích 21).
Tình hình
và mọi điều kiện đất nước đang có trong tay cho phép nhiệm vụ khắc phục tình
trạng “thắt cổ chai” trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển
năng động và bền vững của đất nước về mọi mặt, thực hiện được với chất lượng tốt
hơn những mục tiêu tăng trưởng và phát triển đã đề ra cho đến năm 2010. Đấy
cũng là sự phản ứng quyết liệt và dứt khoát nhất cần phải có trước những vấn đề
năm 2007 đặt ra cho đất nước, là hướng phấn đấu đúng nhất, để đất nước ta sẽ
không ngoặt vào hướng đi dẫn tới một quốc gia lạc hậu.
V. Trí
tuệ, ý chí chính trị và thời gian là quyết định
Chuyển sang thời kỳ phát triển mới như thế nào?
Trước khi tìm câu trả lời cho câu hỏi này, có lẽ nên đặt thêm một câu hỏi khác: Nước ta – ở đây xin được hiểu với nghĩa bao chùm là nhân dân
ta, nhà nước ta, đảng lãnh đạo... – đang nghèo nhất cái gì?
Sự thực là
như vậy.
Tiền bạc,
nguồn lực vật chất, nguồn lực chất xám có thể huy động được cho phép nước ta
chuyển lên thời kỳ phát triển cao hơn có thể nói không thiếu. Hy vọng phần I
của bài này đã lý giải được như thế. Song sẽ phải bàn cãi rất nhiều: Huy động
chúng bằng trí tuệ nào, với ý chí được thống nhất ra sao? cũng có nghĩa là nhằm
vào mục tiêu nào? Đã có sự lựa chọn? Tất cả - ở đây là nhân dân, nhà nước, đảng
lãnh đạo – đã thống nhất trong một sự lựa chọn?
Còn thời
gian? Chúng ta nhận thức nó đang là thúc bách, là đang ở ngã 3 “hoặc
là... hay là..,” hay là chỉ là sự tiếp nối bình thường muôn thuở
giữa ngày hôm qua, hôm nay và ngày mai? Chúng ta nghĩ gì cảnh trâu chậm uống
nước đục? Nhận thức nào, sẽ hệ lụy ấy. Chúng ta đã đi tới một nhận thức thống
nhất?
Như vậy
cái nghèo lớn nhất bây giờ phải chăng là trí tuệ, ý chí chính trị và thời gian?
Làm thế
nào khắc phục cái “nghèo” này? – đấy phải là câu hỏi của mỗi người và của tất
cả mọi người, chỉ có thể tìm được câu trả lời một khi cùng nhau chia sẻ nỗi bức
xúc: Làm gì để đất nước trở thành một quốc gia phát triển?
Hỏi như
thế, sẽ phải rà xoát lại và xác định lại tất cả cho phù hợp với tình hình mới,
yêu cầu mới.
Ví
dụ: Than phát triển mạnh và xuất khẩu nhiều như hiện nay đang phát sinh hệ quả
gì? Hàng loạt các mỏ khoáng sản trong các tỉnh biên giới phía Bắc đang được
triển khai, sắp tới sẽ là quặng bauxite ở Tây Nguyên, sẽ tiếp tục khai thác để
xuất khẩu dầu thô?.. Như thế có phải là sự lựa chọn tối ưu không cho một quốc
gia đất hẹp người đông với một vị thế đầy thách thức hay không? Tiếp tục hay
không việc có thêm những công trình kinh tế gây ô nhiễm môi trường đến nỗi báo
chí đã phải tặng cho cái tên “kẻ giết người thầm lặng” (Tuổi
trẻ ngày 29-10-2007 và các số tiếp theo), trong khi đất nước
đang xuất hiện những dòng sông “chết”, các làng ung thư..? Chúng ta lựa chọn
ngành đóng tầu biển, ngành bột giấy, ngành khai khoáng... là chiến lược dài
hạn, hay “giải pháp tình thế”?.. Là nước đi sau có nhất thiết phải chấp nhận
tất cả những gì các nước đi trước đang thải loại không?..
Tư duy
“nhiệm kỳ” đang là nguyên nhân của nhiều căn bệnh trong chiến lược và quy hoạch
phát triển, trong phát huy sức mạnh của nền kinh tế thống nhất, trong công tác
tổ chức cán bộ... Tư duy “nhiệm kỳ” là một trong những nguyên nhân sâu xa của
tình trạng kẻ ăn ốc, người đổ vỏ, các thế hệ tương lai sẽ phải trả giá. Lối tư duy này đối kháng với lợi ích phát triển chiến lược
của quốc gia. Ai không muốn khắc phục tư duy này? Trí tuệ và ý chí nào để cho
nó kéo dài sự tồn tại?
Vân...
vân...
Không chủ
quan tự mãn, thì còn rất nhiều câu hỏi như thế phải đặt ra. Giả thử tìm được
câu trả lời đúng, song có gan vượt lên sức ép tâm lý nhiều bề và của chính mình
để lựa chọn quyết định đúng không?
Chỉ có cách
bám chắc vào thực tế khắc nghiệt của bối cảnh thế giới để quyết định: Là một quốc gia đất hẹp, người đông, có vị trí địa lý kinh
tế và chính trị thuận lợi số 1, đồng thời cũng chịu thách thức số 1, nước ta
lựa chọn gì cho mình – từ sản phẩm kinh tế cho đến vị thế chính trị quốc tế?
Phải làm gì để thực hiện được sự lựa chọn ấy?
Đất
nước này là của dân, do dân, vì dân, sẽ có câu trả lời.
Lời kết: Bài học của Đại hội VI
Đại
hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đi vào lịch sử là mở đầu thời kỳ đổi mới. Nội
dung cách mạng nhất của Đaị hội này là ý chí nhìn thẳng vào sự thật, nhờ vậy đã
xác lập được con đường đổi mới, nhờ vậy đã dẫn tới thành quả đất nước giành
được như hôm nay. Vì lý do này, bài học quan trọng của Đaị hội VI thường được
nhắc tới là thái độ nhìn thẳng vào sự thật. Trên chặng đường đất nước đi vào
thời kỳ phát triển mới, bài học này càng có ý nghĩa. Bởi vì nhìn thẳng vào sự
thật thì tránh được lạc hậu với sự thật, hơn thế nữa đó là cách nhìn, là tiền
đề không thể thiếu cho mỗi quyết định đúng nhất thiết phải có.
Đại hội VI
còn một bài học khác quan trọng không kém, cần được nhấn mạnh trong năm 2007: Đừng bao giờ lặp lại tình hình bị dồn đến chân tường mới
quyết định đổi mới.
Xin lưu ý,
trong 22 năm đổi mới vừa qua có không ít trường hợp đã để cho cơ
hội tuột tay hoặc không được tận dụng được.
Ví dụ, mỗi
một lần Đại hội Đảng, mỗi lần bầu Quốc hội mới đều là một cơ hội cực kỳ lớn để
giải phóng nghị lực sáng tạo của toàn dân mang lại sức mạnh mới cho đất nước,
để đổi mới Đảng, để nâng cao năng lực, phẩm chất của hệ thống nhà nước..; mỗi
lần đại hội cấp tỉnh và bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh cũng mang lại những cơ
hội như vậy cho mỗi tỉnh... Nếu mỗi lá phiếu bầu trong những dịp như thế có
chất lượng và sức nặng đích thực của nó!.. Song tiếc rằng những gì đạt được qua
những lá phiếu như thế chưa đủ sức nâng hệ thống chính trị lên ngang tầm đòi
hỏi của nhiệm vụ, chưa nói đến những tha hóa mới. Chẳng lẽ lại chờ đợi nước đến
chân mới nhảy?
Xem lại tư
liệu báo chí, toát lên một thực tế quan trọng: Bình thường hóa quan hệ Việt –
Mỹ, ký kết Hiệp định Thương mại song phương Việt – Mỹ (BTA), việc gia nhập WTO
lẽ ra có thể diễn ra sớm hơn một số năm. Tiếc thay những cơ hội cho phép đạt
kết quả sớm hơn đã không được tận dụng – tất nhiên cái giá của sự chậm chạp
không bao giờ rẻ.
Đàm phán
để gia nhập WTO kéo dài một thập kỷ, song chuẩn bị cho hậu WTO không được bao
nhiêu; thị trường vốn trong nước và quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển đột
phá, nhưng thiếu vắng sự sẵn sàng cần thiết – nổi cộm nhất hiện nay
là nguồn nhân lực, dự án khả thi, kết cấu hạ tầng, năng lực quản trị...
Còn bao
nhiêu cơ hội khác nữa đang có trong tay không đủ kiên nhẫn chờ đợi sự chậm chạp
của chúng ta? Hàng ngày có biết bao nhiêu nỗ lực, trí tuệ, khát vọng của hàng
triệu, hàng triệu người dân trong cả nước muốn làm giầu cho mình và cho đất
nước không nhận được sự hậu thuẫn thỏa đáng của bộ máy điều hành và quản lý đất
nước, thậm chí bị cản trở hoặc làm thui chột?
Nhớ lại,
tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội của nước ta vào giữa những năm 1980 đã lên
tới đỉnh điểm, tác động của bối cảnh quốc tế càng làm gay gắt thêm đến tột độ.
Song may mắn thay cuộc sống đã đi trước những bước quyết định: từ hiện tượng
Kim Ngọc, đến khoán chui, khoán 10, khoán 100, bù giá vào lương, kế hoạch 3,
nguồn hàng của cá nhân những người Việt các “binh chủng” sinh sống[29] tại các nước Liên Xô Đông Âu cũ kiên nhẫn gửi về... Khi công
cuộc đổi mới được tiến hành, ngay lập tức một sức sống mới được giải phóng. Yêu
cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh quốc tế mới đặt ra cho Đảng tình
hình và nhiệm vụ hoàn toàn khác hẳn trước. Không ý thức sâu sắc điều này sẽ là
thảm họa.
Lịch sử
không nhất thiết lúc nào cũng lặp lại may mắn như thế, cũng không có chữ “nếu”.
Song lịch sử nhắc nhở: Đừng bao giờ lại để xảy ra tình trạng bị dồn vào chân
tường mới quyết!
Đấy cũng
là lời gửi gắm của năm 2007 cho năm 2008, tất cả cho một quốc gia Việt Nam phát
triển theo hướng hiện đại!
Hết
Hà Nội, 20-11-2007
[1] Bài viết này đúc kết lại từ bài tùy bút Cảm nhận 2007.
Cảm ơn anh Việt Phương đã gợi ý tôi viết lại bài này theo bố cục mới.
[2] Tham khảo báo cáo của Thủ tướng Chính phủ về tình hình kinh
tế xã hội năm 2007 tại kỳ họp thức 2 Quốc hội khóa XII.
[4] Trên thực tế sản phẩm chế biến của Việt Nam bắt đầu len vào
ngày càng nhiều trên thị trường Trung Quốc, đã bắt đầu có đầu tư của Việt Nam
vào Trung Quốc, đương nhiên với những con số rất khiêm tốn. Hiện nay Việt Nam
vẫn là nước nhập siêu lớn của Trung Quốc.
[5] Thực tế này đang xảy ra ở Philippines từ hàng chục năm nay
và không có cách gì cứu vãn. Ở nước ta, đội ngũ trí thức còn quá mỏng và thiếu,
trong khi đó chất xám hiện có chưa được sử dụng và phát huy hết; một ví dụ
khác: giả thử cho đến năm 2010-2015 đào tạo thêm được 20.000 tiến sỹ có
chất lượng, nhưng vì những lý do nào đó trong nước không dùng được họ, hoặc số
đông được đào tạo ở nước ngoài không muốn trở về nước sinh sống, tình hình phát
triển nguồn nhân lực sẽ ra sao? Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, “Nguồn nhân lực
cho cơ hội phát triển mới” – Tia Sáng số 06-11-2007
[9] Tham khảo: Vũ Thành Tự Anh, “6 lý do để lo lắng về lạm phát
hiện nay” TBKTSG 8-11-2007; một số cơ quan nghiên cứu nước ngoài cho rằng Việt
Nam thực ra đang lạm phát 2 con số. Phải chăng lạm phát cao năm 2007 ít nhiều
có những bóng dáng rất kinh điển của những năm 1970 – 1980, nghĩa là do nhiều
nguyên nhân tổng hợp lại: Sức đẩy của chi phí, sức kéo của cầu, chính sách tiền
tệ (tìm hiểu các ý kiến của Vũ Quang Việt rải rác trong nhiều bài). Hiện nay
đang có ý kiến đề cập tính chỉ số lạm phát theo công thức mới, xin miễn bàn ở
đây để khỏi lạc đề.
[10] Bài học cay đắng nhất của khủng hoảng tài chính tiền tệ năm
1997 là chính phủ các nước lâm sự mất sự kiểm soát sự vận động của các dòng vốn
và để xảy ra những quả “bom” khốc liệt từ thị trường địa ốc và thị trường tài
chính; sự đổ vỡ của một số Chaebol Hàn Quốc – điển hình là sự sụp đổ hoàn toàn
của tập đoàn Daiwoo có thể được coi như một bài học kinh điển của sự câu kết
giữa tập đoàn + quyền lực + tài chính, với sự trả giá khủng khiếp của cả nền
kinh tế (Hàn Quốc tự đánh giá: bị kéo lùi 10 năm!). Ở nước ta kiểm soát sự câu
kết này khó hơn, để xẩy ra sự câu kết này, tình hình còn nguy hiểm hơn, vì các tập đoàn này thuộc quyền sở hữu nhà nước, nên tự nó
có những điều kiện gắn kết hữu cơ với quyền lực nhà nước. Rất nên xem xét lại hoặc thiết kế lại chủ trương cho phép
tập đoàn kinh tế thuộc sở hữu nhà nước lập các công ty tài chính hay ngân hàng
riêng của mình - Nguyễn Trung.
[11] Chính phủ chỉ giải thích: Thừa nhận có yếu kém trong lĩnh
vực tiền tệ, các biện pháp xử lý không khớp, không sai lầm về chính sách, nhưng
yếu kém trong dự báo... Đấy là cách giải thích không nghiêm túc và không thỏa
đáng, bởi lẽ mới chỉ nói về vấn đề tiền tệ, các nguyên nhân tiền
tệ, và nói cũng chưa hết (nhất là vấn đề in tiền), không đụng chạm
đến những nguyên nhân sâu sa của tình hình lạm phát hiện nay: (i) bất cập của
hệ thống điều hành kinh tế vỹ mô, (ii)yếu kém của cơ cấu kinh tế tăng trưởng về
số lượng nhưng kém hiệu quả và chất lượng thấp, chỉ số ICOR cao gấp đôi so với
các nước trong khu vực, (iii)duy dưỡng và phát triển cái mà báo chí gọi là “chủ
nghĩa tư bản thân hữu” – mà điển hình là tập đoàn quốc doanh Cosevco (xem Tuổi
trẻ ngày 27-01-2008 & 01-03-2008 và các báo chí khác), (iv)thiếu hẳn một
chiến lược kinh tế thích ứng với tình hình mới... Không thể không đặt ra
câu hỏi: Những biện pháp “chữa cháy” này – dành cho vấn đề thanh khoản, cứu thị
trường chứng khoán, cứu thị trường nhà đất... – là cứu ai? Trong khi đó
các hộ sản xuất kinh doanh nhỏ và khu vực kinh tế tư nhân nói chung làm ra
khoảng 60% tổng sản phẩm xã hội (GDP) đang chịu tác động nặng nề nhất của khủng
hoảng và lạm phát hiện nay, song lại ít có điều kiện nhất được “cứu” vì không
thể với tới những những nguồn vốn được bơm vào để cứu.
Dưới đây xin
nêu thêm một số ý kiến về các vấn đề cụ thể:
(1). Lạm
phát: Sự thật là những vấn đề kinh tế vỹ
mô hiện nay của nước ta liên quan đến lạm phát rất phức tạp, song hầu hết các
giải pháp chung quanh những vấn đề như mua ngoại tệ, xiết tiền mặt, trái phiếu
bắt buộc cho các ngân hàng thương mại, kiềm chế lãi suất... là cần thiết, nhưng
đó chỉ là những biện pháp rời rạc, thụ động, mang tính xử lý tình thế, nên hiệu
quả chỉ là “muối bỏ biển”, không như mong đợi. Thiếu hẳn những biện pháp điều
chỉnh hợp lý vấn đề tỷ giá và kiểm soát có hiệu quả sự lưu chuyển của các dòng
vốn (nhất là vốn đầu tư gián tiếp và vốn từ thị trường chứng khoán). Thiếu hẳn
những biện pháp cắt giảm chi tiêu ngân sách và những dự án đầu tư không có hiệu
quả kinh tế, những biện pháp thúc đẩy cạnh tranh kinh tế để giữ được tăng
trưởng và kiềm chế lạm phát, làm trong sạch bộ máy hành chính và thực hiện công
khai minh bạch để bớt gánh nặng cho toàn bộ nền kinh tế (đáng tiếc là tình
trạng quan liêu còn nặng nề, tình trạng tham nhũng hiện nay vừa tinh vi vừa
trắng trợn hơn trước – nhất là trong lĩnh vực thị trường bất động sản – chưa
lúc nào tình hình đáng lo ngại như lúc này).
(2). Vấn
đề bơm tiền ra (chủ yếu thông qua in tiền) để mua 10 tỷ USD làm dự trữ
ngoại hối cũng cần được đánh giá lại để rút kinh nghiệm trên các khía cạnh:
(a) bơm tiền mua ngoại tệ làm dự trữ rất khác với dự trữ có
nguồn gốc từ xuất siêu, gần như là 2 chuyện hoàn toàn khác nhau, bơm tiền như
thế để mua ngoại tệ làm dự trữ gần như là lấy tiền trong túi dân ra mua (dân
trả bằng lạm phát);
(b) trong tình hình USD đổ vào nhiều, cần phải mua, nhưng
cách mua thế nào, mua vào dùng làm gì hay cách dự trữ thế nào (vì không thể để
tiền chết), sức cho phép mua vào đến đâu và cần chấp nhận tình trạng “đôla hóa”
đến đâu (vì lực của ta không thể cho phép duy ý chí đôla vào bao nhiêu mua hết
bấy nhiêu), giải quyết tiếp tục vấn đề “đôla hóa” còn lại như thế nào, các dự
án đầu tư hấp thụ số đôla thu hút được vào thị trường Việt Nam. Khi bơm tiền ra
mua USD đã đặt lên bàn mọi vấn đề hệ lụy tiếp theo và đã sẵn sàng các giải pháp
chưa, hay là “chộp” thời cơ theo kiểu đánh cờ nước một? Cái gì dẫn đến
“chộp” thời cơ theo kiểu như vậy?
(c) lãi suất tiền Việt cao (hiện nay khoảng 12%) và đồng USD
đang mất giá (hiện nay là – 10%), việc gửi ngoại tệ ra cho vay ở nước ngoài với
lãi suất thấp (khoảng 4 – 5%) đồng nghĩa với ăn lẹm vào vốn; giá trị thực của
10 tỷ USD mua được thực ra hiện nay chỉ còn khoảng 9 tỷ so với đồng Euro, chưa
kể sự thua thiệt về lãi suất, ngoài ra ngoại tệ mua được còn ném vào đâu nữa?
hiệu quả?... Chung cuộc hệ quả là: Toàn bộ bài toán kinh tế mua đôla này
- được thực hiện dưới danh nghĩa “tạo dự trữ ngoại tệ cho thương mại” -
là con số âm rất lớn đối với nền kinh tế, ai chịu?
Vân
vân...
Phải chăng việc
bơm tiền mua 10 tỷ USD như thế là giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước “lạm
phát” vốn đã đày từ nhiều năm nay và đang gây ra nguy cơ “vỡ bong bóng” hiện
nay. Ai tính được cái giá phải trả từ nay cho đến khi kéo được lạm phát
trở lại một con số? Nghĩa là bài học trả giá đắt, rất đắt, đầy tính phiêu
lưu rất nguy hiểm nữa! (Giả thử tuột tay trong chống lạm phát lần này sẽ ra
sao?). Nếu như vậy thì không thể nói chính sách đúng nhưng điều
hành không khớp, dự báo không tốt! Càng không thể tư duy “đánh quả” trong kinh
tế vỹ mô - nhất là trong tình hình trong vòng 3 năm 2005-2007 cung tiền
tăng 135% trong khi đó tổng tăng GDP của 3 năm này chỉ là 27%, cả nước có không
biết bao nhiêu công trình kinh tế dở dang vì thiếu vốn!
(3). Tập
đoàn: Hiện nay xu hướng thành lập tập
đoàn quốc doanh như vậy vẫn đang được khuyến khích – Bộ Xây dựng đang chuẩn bị
2 tập đoàn mới: một cho xây dựng, một cho kinh doanh nhà đất và bất động sản...
Rất nhiều câu hỏi đang đặt ra cho vấn đề tập đoàn với nghĩa là một chủ thể quá
biệt đãi trong nền kinh tế.
(4). Vấn
đề đất đai và thị trường bất động sản là một trong những vấn đề trọng yếu
nhất của nền kinh tế. Vấn đề này đang nóng lên và có nguy cơ làm đổ vỡ nền kinh
tế, đặc biệt là nạn đầu cơ đất đai. Có thể nói hiện nay Đảng và Nhà nước chưa
có kế sách gì khả dĩ làm chủ và giải quyết được vấn đề này. Sự phân hóa giàu
nghèo nóng bỏng nhất, sự bần cùng hóa gay gắt nông dân và người lao động đang
diễn ra trước hết và chủ yếu là do vấn đề đất đai – vì 3 nguyên nhân
chính: (a)rối loạn và
hoàn toàn bị động, thiếu tự giác chuyển từ công hữu đất đai sang sở hữu tư
nhân, trên thực tế quá trình tư nhân hóa sở hữu đất đai bắt buộc phải tiến hành
trong đổi mới vừa qua nhiều khi biến tướng thành sự tước đoạt đất của nông dân
và “cướp” đất đai công hữu của nhà nước; rối loạn về sở hữu đất đai như vậy là
nghiêm trọng nhất và cực kỳ nguy hiểm cho nền kinh tế, cho chế độ chính trị; (b)năng lực quản
lý quốc gia hoàn toàn bất cập trước tình trạng đất đai và thị trường bất động
sản hiện nay; ngoài khuynh hướng muốn đẻ thêm các sắc thuế để hy vọng kiểm soát
được tình hình, nhà nước chưa có kế sách gì khả thi khác; riêng trong vần
ban hành thêm sắc thuế chưa làm rõ và chưa có cách gì tách bach được đánh thuế
vào đâu? - vào đầu cơ hay vào đầu tư đất đai? cách đánh thuế thế nào không làm
sụp đổ thị trường bất động sản – ngành kinh tế xương sống của đất nước? xin lưu ý:
riêng đầu cơ đất đai và bất động sản có 10 nguồn tiền đổ vào:
1- thị trường
chứng khoán,
2 - kiều hối,
3- FDI,
4- lãi từ đầu cơ đất đai và bất động sản lại đổ ngược vào
thị trường này để đầu cơ tiếp, - rửa tiền qua các ngân hàng thương mại,
6 – các
tập đoàn quốc doanh, nhất là các tập đoàn quốc doanh có ngân hàng riêng,
7 – các
nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài,
8 – tiền ăn chênh lệch giá khi đền bù giải tỏa đất đai
(thường là “cưa đôi, cưa ba...”, nhiều khi dưới dạng đất đai),
9 – tiền
tham nhũng các loại, bao gồm cả cổ phần, cổ phiếu, nhất là trong quá trình cổ
phần hóa,
10 – tiền VNĐ
được bơm ra để mua USD có một phần đáng kể chảy vào thị trường bất đai và bất
động sản.
Tách bạch ra như vậy sẽ có câu hỏi: thuể đánh vào đầu cơ đất đai và bất động sản làm sao đánh vào
được 10 nguồn tiền này? Do đó bài
toán giải đầu cơ trên thị trường đất đai và bất động sản hiển nhiên chỉ có thể
là bài toán tổng hợp nhiều biện pháp của kinh tế vỹ mô theo hướng: tăng nguồn
cung, kết hợp với các biện pháp chế tài nghiêm ngặt đối với mọi người tham gia
thị trường kể từ nhà nước đến, nhà đầu tư, doanh nhân và người dân.
Bao chùm lên tất cả là nước ta đất
hẹp người đông, tài nguyên không thể gọi là giàu, có vị thế địa kinh tế và địa
chính trị thuận lợi nhưng cũng đầy thách thức, song lại đang thiếu hẳn một
chiến lược khai thác và phát huy tối ưu nhất đất đai trong thời đại ngày nay,
nguồn lực quan trọng nhất của đất nước sau con người.
Vân vân...
[12] Những nguyên nhân về hệ thống điều hành và cơ cấu kinh tế
kéo dài từ nhiều năm nay, song do nền kinh tế còn dư địa cho phát triển theo
chiều rộng và những thuận lợi từ bên ngoài quá lớn (FDI, khả năng mở rộng thị
trường xuất khẩu, kiều hối, sự hấp dẫn của thị trường VN...), nên tác động của
những nguyên nhân này bị che khuất, thậm chí có sự cố ý che khuất (do tư
tưởng thành tích – điển hình là cuối năm 2007 áp dụng cách tính mới để đo chỉ
số lạm phát). Nói một cách khác: Thời cơ và những thuận lợi có trong tay không
được vận dụng vào việc khắc phục các yếu kém và tìm đường chuyển sang một giai
đoạn phát triển mới, mà bị lạm dụng cho những mục đích chính trị và các lợi ích
“nhóm”, không nhằm vào tăng trưởng và phát triển bền vững và đổi
mới cơ cấu kinh tế đất nước. Còn một sư thật nữa là đang diễn ra sôi động
hơn một quá trình tranh thủ cơ hội cho “tư nhân hóa mầu đỏ” mà báo chí gọi là
“chủ nghĩa tư bản thân hữu”. Đảng phải nhận trách nhiệm về mình và cần tìm cách
sớm đảo ngược tình hình này. Nếu đối chiếu tình hình này với Nghị quyết hội
nghị Trung ương 6 khóa X tháng 2-2008 về “xây dựng giai cấp công nhân” và
“kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa” thì đấy là hai thực tế đối nghịch nhau
quyết liệt.
[13] Ví dụ, tham khảo một số tài liệu, sách báo, được biết: Hàn
Quốc, Đài Loan trong giai đoạn phát triển tương tự như nước ta hiện nay – nghĩa
là thời kỳ đạt GDP p.c. khoảng 800 - 1000 USD - chỉ số ICOR thường là >3,
đạt tăng trưởng 2 con số hàng chục năm liền, lạm phát khoảng 5 – 6%, song vào
thời điểm này kết cấu hạ tầng của Hàn Quốc đã đi trước sự phát triển kinh tế
khoảng 5 năm. Cách đây vài năm có tài liệu của chuyên gia nước ngoài cho
rằng tham nhũng, lãng phí của Việt Nam hàng năm ước khoảng 3 - 4% GDP hoặc hơn
nữa.
Chú ý: Cho
đến nay diện tích đất đai đã được Nhà nước cấp quyền sử dụng chiếm 71% diện
tích lãnh thổ quốc gia (trên thực tế - de facto – là giao quyền sở hữu), song
Nhà nước vẫn “nghèo” và hầu như không tạo ra được nguồn vốn đáng kể nào từ sự
việc này cho việc phát triển kinh tế của đất nước. Cũng có thể nói Nhà nước đã
để “mất” một nguồn vốn rất lớn của quốc gia; mặt khác để lại nhiều hậu quả lớn,
trong đó có vấn đề giá đất nói chung của cả nước quá cao đang kìm hãm sự phát
triển của nền kinh tế. – Nguyễn Trung.
[15] Tham khảo: Nguyễn Trung, “Nguồn nhân lực cho cơ hội phát
triển mới” Tia Sáng online 15:02:42 01/11/2007, và Nguyễn Trung: Suy nghĩ về phát triển nguồn nhân
lực ở nước ta - Viet-Studies 10-11-2007
[16] Xem báo Người Lao động 09-11-2007; xem thêm các bài “Tân Uyên, Bình Dương: Xe ông Hai - “vua” của “xe vua” –
Tuổi trẻ, Tuổi trẻ online 26 và 27-08-2007. Tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khó
XII một số đại biểu quốc hội chất vấn về tình hình “chạy ghế”...
[18] Xem: Gặp người giải cứu em Nguyễn Thị Bình, Tiền Phong, thứ Năm, 08/11/2007, 08:48; cách xử lý là
cách chức tổ trưởng dân phố và kiểm điểm cơ quan chính quyền phường, quận.
[21] Trong các cuộc tiếp xúc với cử tri đầu tháng 12-2007 ở một
số địa phương, Chủ tịch quốc hội Nguyễn Phú Trọng cũng nêu lên câu hỏi đầy tâm
tư của cử tri về vấn đề này.
[22] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, “Chỗ đứng của Việt Nam trong
thế giới đa cực” – Thời đại mới số 11 tháng 7-2007 (Nếu Việt Nam là
một Philippines trong tương lai...). Tuổi trẻ 30-11-2007: Philippines: "Sẽ không có gì
thay đổi"
[23] Đất nước bị đô hộ và chiến tranh xâm lược tàn phá đã đánh
cắp mất của nước ta 2 thế kỷ. Lịch sử đau thương này chỉ để lại cho nước ta một
sự an ủi duy nhất: Lợi thế nước đi sau.
Không đủ trí tuệ và bản lĩnh tận dụng lợi thế này chẳng những khó có thể giành
lại thời gian bị mất, mà còn có nguy cơ còn phải trả giá tiếp cho cảnh theo voi
ăn bã mía!
[25] Xin lưu ý: Nói riêng về kết cấu hạ tầng (hệ thống giao
thông, thông tin, điện, nước, thủy lợi...) nếu nước ta giữ tốc độ xây dựng như
hiện nay thì tụt hậu khoảng 10 - 15 năm so với Thái Lan hoặc Malaysia; cả hai
nước này vẫn chưa được coi là NIC; khoảng cách tụt hậu về hệ thống hành chính
quốc gia của ta so với hai nước này cũng khá lớn; khoảng cách GDP danh nghĩa
tính theo đầu người hiện nay ta kém Thái Lan khoảng 2000 USD (tính theo PPP là
5300 USD), kém Malaysia khoảng 4300 USD (tính theo PPP là 8300 USD) (tham khảo
báo cáo IMF 2006 và 2007, Wikipedia 2006). Xem như thế, sẽ có câu hỏi: Mục tiêu
nước ta trở thành nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020 sẽ theo
tiêu chí nào?
Xin
lưu ý: Đối chiếu giữa một bên là chiến
lược công nghiệp hóa – hiện đại hóa được đề ra trong các văn bản chính thức của
Đảng và Nhà nước và một bên là quá trình công nghiệp hóa đang diễn ra trên thực
tế trong xuốt 22 năm đổi mới, nhất là trong vòng 10 năm trở lại đây, thấy
có nhiều điểm không khớp nhau, có nhiều điểm sai, bị cuộc sống lôi kéo đi nhiều
hơn là làm kim chỉ nam cho cuộc sống. Tư duy “nhiệm kỳ” và mọi ảnh hưởng của nó
(nhất là bệnh “tân quan tân chính sách” của mỗi nhiệm kỳ) càng làm cho chiến
lược đã đề ra bị biến dạng hay gián đoạn. Tình hình có hai điểm nổi bật
như sau: (a)không ít những việc hay mục tiêu định làm thì
thất bại hoặc thành công không như mong đợi (chế tạo cơ khí, công nghiệp
nặng, khai khoáng, hợp tác xã kiểu cũ, các xí nghiệp quốc doanh lỗi thời...) –
nguyên nhân chủ yếu là không thực tế, duy ý chí, không theo quy luật; (b)nhiều vấn đề
hay mục tiêu không đề ra hoặc không coi là trọng tâm lại phát triển rất
mạnh (sản phẩm chế biến, công nghiệp nhẹ phục vụ xuất khẩu, nông lâm thủy sản,
dịch vụ, khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế trang trại...) – nguyên nhân
chủ yếu của những thành công này là hợp quy luật phát triển và khai thác được
thế mạnh nội tại, khai thác được hợp tác với bên ngoài. Từ những thất bại và
thành công như vậy trong thực tiễn cần đánh giá lại tư duy và phương pháp làm
chiến lược với tầm nhìn mới để xác định những bước đi sắp tới.
[26] Xin tạm gạt sang một bên vấn đề y tế để bàn vào một dịp
khác; xin chưa đặt vấn đề nâng cao nền giáo dục của ta ngang tầm khu vực hay
trên thế giới.
[27] Cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh nói một cách thật ngắn gọn là
kế thừa, là phát huy truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam và tiếp
thu sáng tạo tinh hoa của văn minh nhân loại để vận dụng vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Điều này rất khác với những gì đang diễn ra lâu nay trong các
hội thảo hội thi về học tập tư tưởng Hồ Chí Minh với hàng tấn các bài viết tham
gia.
[28] Tham
khảo thêm: Nguyễn Trung, “Nhìn lại một năm”, Doanh nhân Sài Gòn cuối tháng, số
tháng 11-2007.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét