3
việc hầu như không thể,
nhưng
phải tìm cách làm
Bài 4 – viết về đại hội XII sắp tới của ĐCSVN[1]
Bài 4 A: Bàn về Cải cách thể chế chính trị
Nguyễn Trung
nguyentrung-vt.blogspot.com
Lời
nói đầu
Trong bài 3 tôi cho
rẳng để đưa đất nước ra khỏi tình trạng bế tắc hiện nay, đại hội XII sắp tới
nên tập trung giải quyết 3 việc lớn:
-
Cải
cách thể chế chính trị toàn trị hiện nay (Bài 4 A)
-
Hoàn
thiện kinh tế thị trường (Bài 4 B)
-
Đổi
mới ĐCSVN để phấn đấu trở thành đảng của dân tộc (Bài 4 C).
Cũng trong bài 3 tôi
đã phân tích: Nhìn vào sự thật cuộc sống đất nước hiện tại và nhìn vào quá
trình chuẩn bị đại hội XII đang diễn ra, tôi cho rằng cả 3 việc phải làm nêu
trên dù bức bách sống còn đến mức nào chăng nữa đối với chế độ chính trị toàn
trị hiện hành, song tôi vẫn phải dự báo hầu như 99% là không thể làm được. Hoặc
là tôi sai?
Cho đến khi tôi viết
những dòng chữ này, cả 3 nhiệm vụ nêu trên hầu như không được nói tới tại bất cứ
diễn đàn nào chính thức của ĐCSVN đang làm công việc chuẩn bị đại hội. Chủ yếu
vì lãnh đạo đảng dứt khoát đến giờ phút này vẫn không chịu thay đổi, vẫn đang
tiếp tục trấn áp các ý kiến “trái luồng”, chứ không phải vì thiếu thông tin hay
vì không nhận được những kiến nghị về đại hội XII tới này. [Trong một số dịp
khác nhau, tôi được một số cơ quan mời trình bầy những quan điểm của mình, song
nhằm để biết tôi nghĩ gì, chứ không phải để thảo luận, trao đổi, tìm tòi…]
Sự thật là: Thế giới
hôm nay, nhất là cục diện chính trị hiện tại trong khu vực, không thèm đặt ra
cho nước ta câu hỏi “Việt Nam các ngươi
có thể làm được gì và không thể làm được gì trong cục diện quốc tế mới này?”,
mà chỉ đặt nước ta đứng trước vấn đề: Việt Nam là đột phá khẩu trong giai đoạn mới
của chiến lược Trung Quốc bá chiếm Biển Đông, và do đó trở thành đối tượng cần
khuất phục! Tôi không thể chấp
nhận đất nước bị khuất phục, nên phải nghĩ tiếp. Dù chỉ còn le lói 1% thôi,
song tôi vẫn phải suy nghĩ tiếp, kiến nghị tiếp.
Nếu không cam chịu bị
khuất phục, chỉ còn con đường chúng ta phải tìm mọi cách làm cho bằng được 3 việc
hầu như không thể nêu trên.
Ba việc phải làm này
hầu như là không thể, bởi vì (1)đấy là những việc rất khó, (2)chúng ta là những
người dân mong muốn đất nước thay đổi nhưng lại dốt và tay không, (3)trong khi
đó quyền lực rất ngoan cố và càng dốt về cải cách nhưng lại quá nham hiểm về
cai trị, (4)lại thêm bối cảnh đối nội và đối ngoại rất nhậy cảm. Đấy là sự thật
trần trụi.
Cuộc sống chỉ dành
cho chúng ta một con đường rất hẹp: Phải chỉ tay lên trời mà thề đất nước này dứt
khoát không bao giờ chịu khuất phục, nhất quyết thực hiện 3 việc hầu như không
thể nói trên, bắt đầu từ những bước đi nhỏ nhất. Điều này cũng có nghĩa phải
nén lòng lại, kiên gan chịu đựng tất cả để tìm cách bắt đầu sự nghiệp thay đổi
đất nước từ những bước đi nhỏ nhất, song cũng triệt để nhất. Sốt ruột, bi quan,
chán nản… sẽ chẳng giúp được gì, nếu không là làm hại thêm sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc.
Xin nói rành rọt suy
nghĩ của tôi như vậy trước khi bàn luận.
Tôi dự kiến sẽ trình
bầy bài 4 này thành 3 bài nhỏ riêng biệt, mang tính đặt vấn đề, để tất cả tham
khảo. Mỗi bài bàn một chủ đề, dựa trên những điều tôi quan sát được, và chủ
yếu là để nói lên mong mỏi của bản thân – với tính cách và trách nhiệm của
một công dân.
Công việc
nghiên cứu nghiêm túc có tính khoa học và có giá trị thực tiễn để làm cơ sở cho
hành động thực hiện, phải là nhiệm vụ của giới học thuật, của chính khách, các
viện và cơ quan đang trực tiếp gánh vác trách nhiệm đối với đất nước. Xin đặc biệt nhấn mạnh như vậy.
*
Bài 4 A
Bàn về cải
cách thể chế chính trị
Nội dung:
I.Thực chất của cái gọi là “định hướng
xã hội chủ nghĩa”,
tr. 2. Bàn về hậu quả của vấn đề “đảng
hoá” hệ thống chính trị và đời sống đất nước. Cốt lõi của cải cách thể chế chính
trị là tách bạch ra đảng là đảng, nhà nước là nhà nước, khắc phục chế độ đảng trị để xây
dựng nhà nước pháp quyền.
II. Vấn đề rừng luật và luật rừng, tr. 9 - Cải cách phải quan tâm xoá bỏ
luật rừng và những di sản nặng nề của quá khứ.
III. Nội lực lớn nhất chưa được phát huy
đúng mức: Con người, tr. 13 - Cải cách phải nhằm xoá bỏ chế độ "xã hội
được chăn dắt"; cần phải xây dựng xã hội dân sự trở thành một trong hệ thống
3 trụ cột "kinh tế thị trường - nhà nước pháp quyền - xã hội dân sự"
tạo ra nền móng bền vững cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
IV.Kết luận – Sự thiếu hụt của ý
chí chính trị: Lợi ich quốc gia không phải là trên hết, tr. 18.
*
I. Thực chất của cái
gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa”
Xem xét khái quát về
mặt hình thức, hệ thống chính trị hiện hành của nước ta, có thể nói là một hệ
thống tương đối hoàn chỉnh, nghĩa là đầy đủ đầu mình chân tay như ở mọi quốc
gia bình thường trên thế giới ở trình độ các nước đang phát triển. Hệ thống này
đại thể bao gồm: các lực lượng tham chính, hệ thống nhà nước, các lực lượng dân
sự trong xã hội.
Song ở nước ta có những
khác biệt quan trọng là: Lực lượng tham chính là duy nhất ĐCSVN; hệ thống nhà
nước được đảng hoá cao độ nên trên thực tế trở thành bộ máy thực thi quyền lực
của đảng; các lực lượng dân sự còn lại trong xã hội được thâu tóm nốt vào trong
hệ thống đoàn thể dưới cái mũ mặt trận (MTTQVN) - cũng được đảng hoá toàn diện.
Nói một cách khái
quát: Toàn bộ đời sống mọi mặt của đất nước, bao gồm cả đời sống tinh thần, được
bao quát dưới cái vòm trời ý thức hệ của đảng “độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội” – mặc dù Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng phải thừa nhận “…đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH
hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa” – và nằm gọn trong tầm kiểm soát từ A-Z
của hệ thống chính trị. Tất cả những gì còn lại nằm bên ngoài vòm trời này
hoặc vượt ra khỏi sự kiểm soát của nó thì được xếp vào “lề trái” hay “trái chiều”
trong đời sống tinh thần; còn trong đời sống xã hội thì cái trái chiều như vậy được
xếp vào các loại (a)thành phần đối tượng của chuyên chính, (b)thành phần đối tượng
tiềm tàng của chuyên chính, (c)hoặc là ngoài vòng pháp luật (dưới dạng xã hội
đen, các nhóm lợi ích…). Vì vậy có thể nói: Toàn bộ cuộc sống đất nước
được ĐCSVN khuôn vào hệ thống chính trị đảng trị, trên trời dưới đất có khung
khổ và ranh giới rõ ràng, không được vượt qua.
Trong toàn bộ cuộc sống
đất nước, mọi chuẩn mực tinh thần và các thang giá trị đều phải được xác lập
theo các chuẩn mực thế giới quan (ý thức hệ) của ĐCSVN, nếu ngược lại đều bị
coi là “ngoại đạo”, “tà đạo”... – nhiều trường hợp được vạch mặt chỉ tên là những
hiện tượng “thoái hoá biến chất”, “suy thoái đạo đức chính trị, tư tưởng…”, “diễn
biến hoà bình”... Trường hợp quyết liệt hơn nữa thì được quy là “các thế lực
thù địch” để xác định cách đối xử.
Sự bế tắc đến gần
như sụp đổ trong quá trình thực hiện những lý tưởng của chủ nghĩa xã hội đã dẫn
tới đổi mới 1986, xoá bỏ cơ bản nền kinh tế bao cấp với tính cách là con đẻ của
lý tưởng xã hội chủ nghĩa, giải toả được phần nào những ách tắc trong kinh tế,
thực sự đã mở ra một bước ngoặt mới thay đổi diện mạo đất nước.
Tuy nhiên, sau khi
tháo gỡ được cái nút thắt của kinh tế bao cấp (1986), kinh tế càng phát triển
càng đi ngược với các chuẩn mực tinh thần và các thang giá trị được gọi là “chủ
nghĩa xã hội” đặt ra cho đất nước.
Đất nước rơi vào
tình hình: Toàn bộ hệ thống thượng tầng kiến trúc hiện có đang ngày càng không
thể vận hành nổi nền kinh tế đất nước đang ngày càng mạnh mẽ đi thẳng vào con
đường của kinh tế thị trường. Hệ thống chính trị qua đó ngày càng lâm vào nhiều
bế tắc và bất cập mới – chính thực tế này là một nguồn gốc quan trọng của những
tệ nạn tham nhũng tiêu cực. Tình hình này khiến cho cải cách chính trị trở
thành đòi hỏi tất yếu để tìm lối thoát. Nhưng nỗi lo mất chế độ đã chống lại dứt
khoát ngay từ trong trứng nước mọi ý tưởng manh nha muốn thông qua cải cách
chính trị để ra khỏi tình trạng bế tắc này (các vụ Trần Độ, Trần Xuân Bách, v…
v…), nhân danh phải giữ vững ổn định chính trị. Những năm tháng đổ vỡ rối ren ở
Liên Xô sau perestroika và glasnost càng được coi là những lý do “sống” biện
minh cho thái độ cự tuyệt hay trì hoãn cải cách chính trị. Hội nghị toàn quốc của
đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII (01-1994) nhấn mạnh 4 nguy cơ (1)tụt hậu kinh tế; (2)chệch
hướng xã hội chủ nghĩa; (3)tham nhũng tiêu cực; (4)diễn biến hòa bình[2].
Hội nghị giữa nhiệm
kỳ đánh dấu bước lùi nghiêm trọng: nhân danh bảo vệ chế độ dứt khoát gác lại nhiệm vụ cải cách chính trị;
trên thực tế cái gọi là “chống diễn biến hoà bình”trở thành nhiệm vụ chính trị
trung tâm.
[Đổi mới đã lùi xa gần
3 thập kỷ. Nhìn lại, sự thật vẫn chỉ ra là cải cách chính trị là tất yếu và phải
làm ngay cùng thời khi tiến hành đổi mới kinh tế, vấn đề chỉ là ở chỗ làm sao
thiết kế được các bước đi phù hợp mà thôi. Song đây là thách thức quá lớn, vượt
quá tầm năng lực và phẩm chất của của đảng ở thời điểm 1986 và sau này. Trước
sau nỗi lo mất chế độ vẫn tiếp tục trì hoãn cải cách chính trị cho đến tận hôm
nay.]
Càng trốn tránh cải
cách chính trị, những mâu thuẫn không thể giải quyết nổi, giữa một bên là các
chuẩn mực của ý thức hệ và một bên là thực tiễn không thể cưỡng lại được của cuộc
sống, ngày càng trở nên bất khả kháng. Chủ trương bảo vệ chế độ đến cùng đã buộc
lý luận của đảng phải sáng tác ra khái niệm “định hướng xã hội chủ nghĩa” như một
cái “đuôi” thêm vào những việc bắt buộc phải làm – ví dụ như xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… Vân vân… Đơn giản vì thời bình không thể thiếu một nhà
nước pháp quyền, nhưng nó phải có tính định hướng xã hội chủ nghĩa, đối với
kinh tế thị trường sau đổi mới cũng vậy… (Gần đây lý luận của đảng có lúc đã đề
xuất “xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa”, nhưng đề xuất này chết yểu ngay
tức khắc).
Ngoài những thay đổi
hay cải tiến nhỏ giọt và hình thức (ví dụ: lập các “ban cán sự đảng” trong các
bộ máy của hệ thống chính trị quốc gia, lập các “đảng đoàn”, “đảng uỷ”, hoặc “đảng uỷ khối”… trong hệ thống bộ máy
nhà nước hoặc trong mọi tổ chức kinh tế và chính trị - xã hội khác khắp đất nước,
v.., v…), đảng đã bỏ không ít công sức thổi hồn sống cho cái “đuôi” thêm vào
này nhưng không thành. Ví dụ: Dù đã thực hiện nhiều nỗ lực cải tiến, bao gồm cả
những biện pháp mở rộng dân chủ cơ sở, mở rộng dân chủ trực tiếp.., song không
gặt hái được gì có thực chất. Thất bại tiêu biểu nhất của những nỗ lực này là
hiện tượng đảng viên vẫn chiếm tỷ lệ khoảng <80% số đại biểu trong quốc hội,
trên thực tế quốc hội vẫn là cơ quan thừa hành của quyền lực đảng. Trong ngôn
ngữ công khai không ít lần được nói thẳng ra trong các kỳ họp quốc hội: Bộ Chính trị là cấp trên của quốc hội..,
…Cái này Bộ Chính trị đã cho ý kiến… Cái này chờ có ý kiến Bộ Chính trị rồi sẽ triển
khai tiếp... Phải chăng đấy là nội dung đích thực của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa?.. … Vân vân…
Cái tiến thoái lưỡng
nan (dilemma) là xây dựng đúng nhà nước pháp quyền thì mất đảng trị, giữ đảng
trị trong nhà nước thì không thể có nhà nước pháp quyền. Cái gốc của vấn đề là
đảng muốn “nắm” chặt trong tay mọi thứ và bằng mọi giá, chứ không muốn chỉ giữ
vai trò sống thanh khiết làm “linh hồn hay ý tưởng lãnh đạo” đất nước. Trong
kinh tế và trong mọi lĩnh vực khác đảng cũng đều rơi vào hoàn cảnh éo le như vậy:
nắm, chứ không phải lãnh đạo. Có bộ trưởng đã phải kêu lên “làm gì có cái gì là mô hình định hướng xã hội
chủ nghĩa như thế mà cất công tìm tòi và xây dựng!”. Sự thật là tha hoá của quyền lực ngay từ sau
30-04-1975 đã từng bước cướp đi khả năng và phẩm chất là đảng lãnh đạo của đảng, và cuối cùng ngày nay làm cho ĐCSVN chỉ
còn lại vỏn vẹn là lực lượng chính trị mạnh nhất nắm quyền cai trị đất nước.
Công tác lý luận của
đảng cũng nỗ lực đề cao các khái niệm “dân giầu nước mạnh, xã hội dân chủ công
bằng văn minh”, xây dựng “nhà nước của dân, do dân, vì dân”, tiêu chí quốc gia
được ghi rõ là “độc lập – tự do – hạnh phúc”…
Tuy nhiên, vì thiếu vắng một thể chế pháp quyền thực thi, nên tất cả những
giá trị này cũng như hầu hết các quyền công dân đã được ghi trong hiến pháp
cũng chỉ là trên giấy. Vì vậy, nội dung thực chất của việc sáng tạo ra cái đuôi
“định hướng xã hội chủ nghĩa” chỉ là duy trì ảnh hưởng quyết định của ĐCSVN
trong nhà nước pháp quyền, trong kinh tế thị trường, trong tất cả mọi lĩnh vực
của cuộc sống…
Song trớ trêu là ở chỗ
trong cuộc sống thực, cái “đuôi” được gắn thêm vào này mới là cái yếu tố cuối
cùng quyết định toàn bộ sự vận động của cái thực thể mang nó trên lưng mình – đảng
quyết định tất cả. Diễn tả nôm na, đấy là hiện tượng cái đuôi con chó làm cái
chức năng điều hành toàn bộ sự vận động của con chó. Nghịch lý này đã biến tướng
nghiêm trọng mọi thứ trên đời, tạo ra không biết bao nhiêu hiện tượng giả, diễn,
hão…. Ví dụ: bầu cử là để thực hiện “đảng cử dân bầu” ở các cấp, nền pháp quyền
định hướng xã hội chủ nghĩa thực thi pháp luật bằng cách xử án theo kiểu đã có
sẵn án bỏ túi của quyền lực đảng, nhiệm vụ thanh tra/kiểm tra được thiết kế
theo kiểu vừa đá bóng vừa thổi còi, văn học thì phải là nền văn học định hướng
xã hội chủ nghĩa, báo chí thì phải là “lề phải”, vân vân…
Hệ thống nhà nước đảng
trị trong vận hành như vậy của toàn bộ đời sống kinh tế - chính trị - văn hoá -
xã hội của đất nước biến thành chế độ toàn trị, với đặc trưng nổi bật
là “độc quyền chân lý, áp đặt tư duy, quy
kết tuỳ tiện”, và quyền lực đảng luôn luôn là yếu tố chi phối cuối cùng, bất
chấp mọi mâu thuẫn và những điều phi lý…
Hệ quả là:
-
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ngày càng đặm nét kinh tế của chủ nghĩa tư bản thân quen (crony
capitalism) hoặc chủ nghĩa tư bản hoang dã (do quyền lực đảng và các nhóm lợi
ích đủ mọi mầu sắc chi phối).
-
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trở
thành nhà nước đảng hoá, trên thực tế lại là công cụ thực thi quyền lực của đảng.
Điều 4 của Hiến pháp chỉ mang một nội dung đạo lý (nghĩa là không ràng buộc và
không quy định trách nhiệm giải trình) nhưng khẳng định rất rõ vị thế đảng đứng
ngoài và đứng trên hệ thống nhà nước, trên thực tế Bộ Chính trị (BCT) là cơ
quan quyền lực tối cao điều hành đất nước do đảng tự giành lấy cho mình, không
phải do nhân dân bầu ra, không chịu trách nhiệm giải trình trước bất kỳ cái
gì...
-
Toàn thể các lực lượng chuyên chính vũ trang
và bán vũ trang (quân đội, công an, tự vệ, dân phòng…) do quyền lực đảng nắm giữ,
và trở thành công cụ chuyên chính trực tiếp của quyền lực đảng.
-
…
…
Tóm lại, “định hướng
xã hội chủ nghĩa” thực chất chỉ là nỗ lực “đảng hoá” toàn bộ đời sống mọi mặt của
đất nước và phương thức điều hành quốc gia. Hệ quả chung là:
(a) Đảng bỏ mất vai trò
lãnh đạo, để trở thành trên thực tế là người trực tiếp nắm quyền với tất cả mọi
thẩm quyền, nhưng ngoài quyền lực chính trị ra, năng lực của đảng quản lý quốc
gia rất thấp hoặc gần như không có. (Trần Xuân Bách gọi đấy là hiện tượng đảng
lấy quyền lực thay cho năng lực).
(b) Trong khi đó nhà nước
thật ra phải là người điều hành toàn bộ công việc quốc gia nhưng lại bị “đảng
hoá” về mặt tổ chức và chịu sự chỉ đạo về mặt điều hành của bên đảng và người của
đảng, nên năng lực quản trị quốc gia vừa thấp vừa bị giới hạn, trên thực tế chỉ
là người thực thi lệnh của đảng.
Hệ quả chung cuộc là
bộ máy cầm quyền của quốc gia (bao gồm bên đảng và bên chính quyền) rất cồng kềnh,
chồng chéo, chất lượng thấp, tệ nạn quan liêu tham nhũng là đương nhiên và tất
yếu. Toàn bộ kết cấu tổ chức và sự vận động như vậy của bộ máy cầm quyền của
quốc gia phản ánh sinh động lỗi của hệ thống, cắt nghĩa vì sao mọi “sửa chữa” lặt
vặt hay thay đổi cục bộ không thể đem lại kết quả, thể chế chính trị ngày càng
bế tắc và kìm hãm đất nước ngày càng trầm trọng.
Để kết luận, có thể
đưa ra một bức tranh tổng hợp: Định hướng XHCN thực chất là những nỗ lực thực
hiện “đảng hoá”, để hình thành một hệ thống chính trị - nhà nước quyện
vào nhau cai quản quốc gia, trong đó đội ngũ điều hành (a)không ai có đủ
năng lực làm đúng việc của mình; (b)người phải làm đúng việc của mình vừa kém cỏi
vừa luôn luôn có khuynh hướng chủ động hay bị động bước sang việc của người
khác trong khi không làm tròn phận sự của chính mình; (c)không ai bị ràng buộc
phải có trách nhiệm giải trình; (d)đội ngũ điều hành chủ yếu được tạo ra
theo xắp xếp và phân chia quyền lực (chứ không phải thông qua đào tạo, rèn luyện
và thử thách), (e)vì đảng lấy quyền lực thay cho năng lực cho nên sau mỗi khoá
nhiệm kỳ năng lực và phẩm chất đều tụt đi một nấc; (f)toàn bộ cuộc sống đất nước
bị giam hãm trong vòm trời ý thức hệ của đảng và trong ranh giới của chế độ
toàn trị, hoàn toàn thiếu vắng sự công khai minh bạch; (g)cuộc khủng hoảng toàn
diện nước ta lâm vào từ năm 2007 đến nay chưa có lối ra là kết cục tất yếu của
quá trình “đảng hoá” này, và diễn tiến này nói lên tất cả.
Vì vậy có thể nói, ở
nước ta hiện nay, cải cách thể chế chính trị trước hết là việc tách bạch giữa đảng
và nhà nước, để ai làm đúng việc nấy với trách nhiệm ràng buộc, theo tinh thần:
(1) Nhà nước pháp quyền
là hình thái quyền lực quốc gia duy nhất và tối thượng, thể hiện quyền làm chủ
đất nước của nhân dân.
(2) Đảng chỉ được phép
thực hiện vai trò của mình là đảng cầm quyền, với nghĩa thông qua
việc đề ra những chủ trương chính sách và chiến lược thực hiện cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc đã được nhân dân chấp nhận thông
qua quá trình tranh cử và bầu cử; các đảng viên của đảng được bầu chọn vào
làm việc trong hệ thống nhà nước theo quy định của hiến pháp - nói nôm na là được
dân thuê
dưới dạng được bầu là đại biểu quốc hội, hội đủ những điều kiện để thực hiện
nhiệm vụ lập nội các… “Thuê” phải được hiểu là dân có quyền
lựa chọn bất kỳ ai có đủ năng lực và phẩm chất thực hiện việc dân giao phó, có
quyền sa thải kẻ làm thuê yếu kém. Vì
những lẽ như vậy, hệ thống đa nguyên chính trị và chế độ đa đảng trở thành lẽ tất
yếu. Nghĩa là: không ai có thể đứng trên nhà nước; trong nhà nước không có đảng
như một thực thể chính trị độc lập; trong nhà nước chỉ có đảng cầm quyền,
tồn tại như một danh nghĩa kẻ được thuê, do hội đủ số đại biểu trúng cử để lập
nội các theo quy định của hiến pháp - chứ không phải là một thực thể độc lập đứng
ngoài hiến pháp và luật pháp - để thực hiện những cam kết của đảng đã được
nhân dân chấp thuận qua vận động bầu cử (nghĩa là thực hiện những vấn đề đảng
đưa ra đã được luật hoá và trở thành chủ trương chính sách của nhà nước). Nói rốt
ráo: Trong phạm trù nhà nước chỉ có hiến pháp và bộ máy thực thi hiến pháp,
không tồn tại đảng là một thực thể độc lập với hiến pháp hay với nhà nước dưới
bất kỳ hình thức nào đối với nhà nước; cũng như không thể tồn tại khái niệm “đảng
lãnh đạo” trong mối quan hệ đối với nhà nước pháp quyền, mà chi có “đảng cẩm
quyền” theo quy định của hiến pháp do thắng cử.
(3) Đảng với tính cách
như đã trình bầy trong điểm (2) nêu trên, đảng chỉ là một bộ phận tập hợp dân
cư, bình đẳng như mọi bộ phận tập hợp dân cư khác trong cộng đồng xã hội, chịu
sự chi phối tuyệt đối và bình đẳng của hiến pháp và pháp luật. Vai trò lãnh đạo
của đảng chỉ có thể là kết quả phấn đấu của đảng giành được trong những hoạt động
vận động nhân dân trong phạm vi xã hội dân sự. Nói cách khác: Khái niệm “đảng
lãnh đạo” chỉ có thể tồn tại trong phạm trù xã hội dân sự. Nghĩa là, một khi
thông qua phấn đấu trong xã hội dân sự, đảng giành được uy tín và ảnh hưởng đối
với nhân dân, qua đó nhận được sự đồng tình của nhân dân đối với những điều đảng
theo đuổi, dựa vào thành quả phấn đấu này tham gia tranh cử để trở thành đảng cầm
quyền như nêu trong điểm (2) bên trên. Đạt được như thế chính là thực hiện vai
trò lãnh đạo. Xin nhấn mạnh một lần nữa: khái niệm “đảng lãnh đạo” không tồn tại
trong phạm trù nhà nước.
Cũng có thể nói, cải
cách thể chế chính trị toàn trị hiện nay để chuyển sang thể chế pháp quyền dân
chủ có nghĩa trước hết và chủ yếu là làm cái việc tách bạch đảng là đảng, và
nhà nước là nhà nước trong toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của đất
nước, trên cơ sở đó xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Đảng
phải trở về sống trong xã hội dân sự, xây dựng và tích luỹ cho mình ảnh hưởng tại
đó, thông qua ảnh hưởng giành được ấy để phấn đấu trở thành đảng cầm quyền nhờ
thắng cử. Nhà nước pháp quyền phải là tam qyền phân lập, hiến pháp là tối thượng.
Tuyên Ngôn Độc Lập 02-09-1945 và Hiến pháp 1946 là những tiền đề lịch sử quan
trọng để xây dựng một nhà nước pháp quyền như thế.
Viết đến đây, tôi vô
cùng chua sót việc sửa đổi hiến pháp năm 2013 rốt cuộc là một màn kịch rất tốn
kém lừa dối đất nước, chỉ vì đòi hỏi “hiến pháp phải thể hiện cương lĩnh của đảng”,
do chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trực tiếp chỉ thị như vậy cho đảng và cả
hệ thống chính trị phải thực hiện. Trong bối cảnh đất nước đang đứng trước những
uy hiếp hiểm nghèo, giả thử hôm nay đất đước đã có được một hiến pháp đúng đắn
như biết bao nhiêu trí tuệ tâm huyết đã góp ý làm nền tảng cho phát huy sức mạnh
dân tộc, chắc chắn đất nước hôm nay đã có một bước khởi đầu đúng đắn cho cuộc cải
cách thể chế chính trị đã chín muồi, nhất là sau sự kiện giàn khoan HD 981.
Trách nhiệm đối với sai lầm này hoàn toàn thuộc về đảng, trước hết là Tổng bí thư.
II. Vấn
đề rừng luật và luật rừng
Không
biết thế nào là đủ, song phải nói nước ta có một hệ thống luật pháp rất phong
phú, nhiều luật đúng và tốt, dù rằng vẫn còn nhiều luật quan trọng chất lượng
chưa đạt yêu cầu, các luật chồng chéo nhau cũng không ít. Nói một cách khác, chỉ
riêng việc thực thi tốt hệ thống luật pháp hiện hành, tình hình đất nước sẽ có
thể khả quan hơn rất nhiều.
Như vậy vấn đề nóng
bỏng là: Vì sao có nhiều cái tốt trong luật nhưng không thực thi được; có cả một
rừng luật, mà tại sao luật rừng vẫn ngang nhiên hoành hành?
Những nguyên nhân
chung nhất thuộc về tình trang phát triển của đất nước hiện nay về nhiều mặt
còn ở trình độ thấp. Tình trạng phát triển ở trình độ thấp này là vấn đề của thời
gian, nên không bàn đến ở đây. Chỉ xin tập trung bàn những nguyên nhân do sự yếu
kém của thể chế chính trị và của chủ quan con người hiện tại.
Phần I.
bên trên đã trình bày những yếu kém của thể chế. Chỉ xin nêu thêm nhận xét là:
Thể chế chính trị chồng chéo và quyện vào nhau như nước ta hiện có hoàn toàn đối
nghịch với bản chất một hệ thống quyền lực của nhà nước pháp quyền. Do đó khách
quan tự thân thể chế này đã cản trở việc thực thi luật pháp do chính nó đề ra.
Lại thêm tình trạng vừa thiếu vắng và vừa không thể thực hiện được (cho dù nếu
muốn) trách nhiệm giải trình của
bộ máy trong hệ thống quyền lực cũng như của mỗi cá nhân hay những người nắm
vai trò điều hành, nên tình trạng luật pháp không nghiêm minh là tất yếu. Ngày
xưa Louis XIV nói "L'État, c'est moi"
(“Nhà nước là ta!”), bây giờ ở nước ta cũng có thể nói “luật là đảng”. Cái biến
tấu qua thời gian hoạ chăng ngày xưa “vua” bao giờ cũng chỉ một, bây giờ có
“vua tập thể” (Nguyễn Văn An), song trước sau vẫn chỉ có một nghĩa: Người làm
luật là “vua”, luật không phải là để áp dụng cho “vua”, áp dụng luật như thế
nào là tuỳ ý “vua”. Đây là nội dung cốt lõi nhất của chế độ đảng trị. Có thể cảm
nhận được rất rõ cái không khí “vua” này khi có công việc đụng tới các cơ quan
công quyền hay khi phải tiếp xúc với quyền lực và luật pháp. Vì vậy công việc sửa
đổi luật pháp hiện đang tiến hành sẽ là vô nghĩa, nếu bỏ qua việc cải cách thể
chế chính trị.
Về con người trong bộ máy quyền lực quốc
gia, cần đặc biệt nhấn mạnh một đặc điểm nổi bật là đông về biên chế, nhưng phẩm
chất chính trị và năng lực chuyên môn nhìn chung thấp (Ở nước ta tính theo tỷ lệ
100.000 dân, số cán bộ viên chức trong biên chế của bộ máy nhà nước, số binh sỹ
trong lực lượng vũ trang các loại và công an ăn lương nhà nước.., nhìn chung
cao gấp 4 – 7 lần so với nhiều nước đang phát triển và nước công nghiệp trên thế
giới, kể so với cả Mỹ!). Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này là:
(a)
Các bộ máy của chế độ toàn trị rất cồng
kềnh và kém hiệu quả theo tinh thần lấy quyền lực thay cho năng lực (Trần Xuân
Bách), vì thế rất đông, chất lượng thấp.
(b)
Những người trong biên chế của bộ máy
nhìn chung là sản phẩm của một nền giáo dục đầy khuyết tật, đặc biệt là quốc
gia chưa có một hệ thống giáo dục đào tạo có chất lượng các cán bộ kỹ trị cho
công việc quản lý quốc gia, hệ thống trường hành chính quốc gia và hệ thống trường
đảng hiện có không đáp ứng được yêu cầu này.
(c)
Thể chế chính trị hiện hành không có
chỗ đứng cho các giá trị đúng đắn và sự trung thực, người tài và thẳng thắn thường
phải bật ra khỏi hệ thống, các chuẩn mực tuyển chọn vừa không đủ tầm vừa phải
chịu tác động của các “chính sách”, các “quan hệ”, các tệ nạn tiêu cực khác (chạy
chức chạy quyền, bằng giả, mua ghế, lựa chọn con đường tiến thân qua con đường
đảng, v… v…), hầu như không có một thể chế sàng lọc và đào thải hoạt động hữu
hiệu.
(d)
Thiếu vắng hẳn hoặc không thể thực
thi được chế độ trách nhiệm cá nhân rành mạch vì bản chất của thể chế chính trị
hiện hành đề kháng với đòi hỏi này, mãi gần đây mới thực hiện thí điểm “lấy phiếu
tín nhiệm” nhưng chỉ là công việc “phủi bụi” mà cũng chưa thành, không thể đụng
chạm được vào thực chất vấn đề của nhiệm vụ sàng lọc và đào thải, không hiếm
trường hợp kỷ luật cán bộ bằng cách “đá lên” hoặc “đá ngang”…
(e)
Đường lối và chính sách tổ chức cán bộ
của đảng có nhiều yếu kém nghiêm trọng, nổi bật là những hiện tượng “sống lâu
lên lão làng”, “tuần tự vị tiến và hầu như chỉ tiến không lùi”, “cát cứ theo địa phương và cát cứ theo ngành”, hoặc
ngược lại là hễ có chức vụ đảng thì bố trí làm chức vụ chuyên môn tương đương bất
cứ ngành nghề gì cũng được, lấy sự trung thành với chế độ chính trị hay với đảng
làm chuẩn mực tuyển chọn và xắp xếp cao nhất, song vẫn không sao thoát khỏi hiện
tượng chia chác quyền lực thành phe nhóm ngay trong đảng.
(f)
vân vân…
Nhân
bàn về yếu tố con người trong hệ thống quyền lực, có lẽ phải đi tới nhận định:
Mục đích tối thượng và chi phối tất cả trong đường lối chính sách tổ chức cán bộ
hiện hành của đảng là nhằm bảo vệ chế độ toàn trị của đảng. Vì lý do này, trí
tuệ và dân chủ không thể có chỗ đứng ở đây. Đường lối chính sách tổ chức cán bộ
hiện hành của đảng là một trong những nguyên nhân sâu xa và quan trọng nhất trực
tiếp làm tha hoá đảng và toàn bộ hệ thống chính trị của quốc gia, mang nhiều đặc
tính phong kiến hủ bại đồng thời tăng cường tính ngoan cố của chế độ toàn trị
hiện hành. Đảng vẫn nói trong hệ thống chính trị này con người là quyết định,
và đúng là theo dòng thời gian đường lối chính sách tổ chức cán bộ hiện hành của
đảng đã xây dựng nên các thế hệ con người ngoan cố nhưng ngày càng thiếu trí
tuệ và phẩm chất chính trị gìn giữ cái chế độ toàn trị mà hệ thống này muốn
bảo vệ; vì thế chế độ cứ ngày càng tha hoá. Qua đó có thể nói: Đường lối chính
sách tổ chức cán bộ hiện hành còn là một trong những yếu tố nghiêm trọng trực
tiếp kìm hãm, huỷ hoại sự phát triển của đất nước.
Nói
khái quát: Bia Văn Miếu ghi “Hiền tài là
nguyên khí quốc gia” (Thân Nhân Trung), song đường lối chính sách tổ chức
cán bộ của đảng 4 thập kỷ đất nước độc lập thống nhất là đố kỵ với hiền tài, là
làm khuynh bại nguyên khí quốc gia! Đảng có và chỉ theo các chuẩn mực của đảng
trị để giữ cái chế độ toàn trị.
Về hiện tượng luật rừng trong rừng luật
còn phải bàn đến những tác động “kinh tế của chủ nghĩa tư bản thân quen”, “kinh
tế của chủ nghĩa tư bản hoang dã” đang là những hiện tượng đặm nét trong nền
kinh tế nước ta, xuất phát từ đặc thù là trưởng thành và tích tụ sự giàu có chủ
yếu nhờ những cơ hội “chụp giựt”. Những hiện tượng này là sát thủ lạnh lùng của
kỷ cương và luật pháp, mang lại cho đất nước những hệ quả không thể tưởng tượng
nổi trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Không ít những hiện
tượng này mở đường cho sự thâm nhập của Trung Quốc và làm trầm trọng sự lệ thuộc
mọi mặt của đất nước vào Trung Quốc, tác động nghiêm trọng đến an ninh quốc
gia, lũng đoạn sâu sắc tình hình nội trị đất nước, huỷ hoại môi trường tự
nhiên. Tổn thất về kinh tế đất nước phải chịu đựng là không lường nổi, song mọi
hệ luy khác của luật rừng còn nguy hiểm hơn nhiều, nhất là luật rừng không có tổ
quốc.
Khai thác bauxite trên Tây Nguyên, khu công
nghiệp Vũng Áng, hàng chục công trình công nhiệp then chốt do Trung Quốc trúng
thầu (EPC) đã đi vào hoạt động đang phát sinh vấn đề, việc cho thuê đất thuê rừng,
70 – 80% đầu vào cho công nghiệp may và công nghiệp giầy da phải nhập từ Trung
Quốc, tình trạng biên mậu và hàng nhập lậu hầu như không thể kiểm soát được, những
thủ đoạn lũng đoạn vô hình khác, vân vân… Đấy là những vấn đề nhức nhối hàng
ngày, gây nhiều tổn thất lớn cho đất nước, phản ánh rõ nét hệ quả của luật rừng.
Song đáng lo ngại hơn thế nhiều là sự hoành hành của luật rừng trở thành phương
thức vận động chủ yếu của kinh tế của chủ nghĩa tư bản thân quen và của chủ
nghĩa tư bản hoang dã, lại trong môi trường của chế độ toàn trị và cùng với sự
can thiệp của quyền lực mềm Trung Quốc đang gây ra cho đất nước những ách tắc
và hệ quả tệ hại:
-
Càng phát triển càng phát sinh nhiều
vấn đề và mâu thuẫn lớn, bất công lớn;
-
các nhóm lợi ích càng có điều kiện
hoành hành;
-
xã hội ngày càng phân hoá, chia rẽ,
nguy cơ an ninh quốc gia bị xâm phạm càng lớn;
-
các thang giá trị và đạo đức bị huỷ
hoại, tha hoá và tội ác lây lan như dịch bệnh…
-
…
Thực tế nêu trên hầu
như chặn đứng con đường phát triển của đất nước, có nguy cơ giam hãm lâu dài đất
nước ta trong kinh tế của chủ nghĩa tư bản hoang dã (đang được gán cho cái tên
“cái bẫy của nước có thu nhập trung bình”, nhưng thật ra nước ta hiện nay đang
là nước có thu nhập trung bình thấp). Tổ quốc lâm vào tình cảnh đất nước có nhiều
mặt đồi truỵ giữa lúc bị bành trướng Trung Quốc lũng đoạn và uy hiếp nặng nề,
trong khi đó tình hình thế giới đang đặt ra cho đất nước ngày càng nhiều thách
thức quyết liệt về mọi mặt.
Vì vậy
vấn đề luật rừng trong bối cảnh đối nội và đối ngoại hiện nay của đất nước
không đơn thuần chỉ là một vấn đề của trạng thái phát triển quốc gia còn nhiều
yếu kém, mà đây đang là một trong những nguyên nhân gốc làm suy yếu nghiêm trọng
nội tình đất nước trong đối phó với mọi thách thức nhạy cảm từ bên ngoài. Bởi
vì không một chính sách đối ngoại nào có thể thành công bắt nguồn từ một tình
hình nội trị yếu kém và có luật rừng lũng đoạn từ bên trong. Thực tế này tăng
thêm tính thúc bách phải tiến hành cải cách thể chế chính trị.
Liên
quan trực tiếp đến vấn đề “luật rừng” trong tầm nhìn dài hạn, còn phải đặt ra
nhiệm vụ triệt để cải cách nền giáo dục nước nhà và thực hiện một tiến trình
canh tân đất nước. Cần nhận thức đầy đủ nhiệm vụ này với sự giác ngộ sâu sắc một
sự thật đau lòng: Ý thức hệ cộng sản và con đường gian truân phức tạp đất nước
đã trải qua từ Cách mạng Tháng Tám đến nay đã gây ra nhiều hệ quả tiêu cực có
tác động sâu xa vào đời sống kinh tế - chính trị - văn hoá – xã hội của đất nước.
Nghĩa là, ngoài sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh kéo dài mấy thế hệ, đã xảy
ra trên đất nước ta một quá trình tàn phá tinh thần và đạo đức, để lại quá nhiều
vết hằn và những “hội chứng chiến tranh”, “hội chứng cách mạng”… khó xoá, làm
trầm trọng thêm tình trạng lạc hậu và tụt hậu của đất nước. Hệ quả nặng nề tới
mức thực sự đất nước chúng ta bây giờ có nhiều việc phải làm lại từ đầu, phục hồi
lại từ đầu, nhất là trong những việc: xác lập lại tinh thần đoàn kết hoà giải
dân tộc và ý chí dân tộc, nâng cao các thang giá trị và đạo đức xã hội, gìn giữ
những truyền thống tốt đẹp để giữ lấy chính mình, thay đổi nếp nghĩ nếp sống,
khắc phục dối trá, dốt nát và ươn hèn, đấu tranh chống lại tội ác và tham
nhũng… Có rất nhiều việc khó và gian khổ phải làm, để dân tộc ta trở thành một
dân tộc được dẫn dắt bởi trí tuệ và các thang giá trị chung của nhân loại! Bốn
thập kỷ quốc gia có độc lập mà dân tộc ta vẫn chưa bước vào được thời kỳ này.
Điều này đáng khao khát hơn nhiều lần so với ước mong công nghiệp hoá như đang
diễn ra!.. Cái gọi là độc lập gắn với chủ nghĩa xã hội mà quyền lực đảng đang kiên
trì thực hiện bốn thập kỷ vừa qua, cuối cùng hôm nay trên thực tế đã mang lại
cho đất nước ta một nền kinh tế của những người đi làm thuê, đất nước đang trở
thành đất nước cho thuê, người dân chưa phải là chủ của đất nước.
[Thú
thực, nhiều lúc tôi miên man không sao dứt ra được, liều lĩnh đặt câu hỏi: Có lẽ
đã đến lúc dân tộc Việt Nam ta phải thức tỉnh để tìm lại chính mình?! Phải như
thế để không tiếp tục bị cướp mất chính mình nữa!.. Dân tộc ta càng phải làm
quyết liệt như thế, nếu không muốn chính tự tay mình cũng đang đánh mất chính
mình!.. Hiện nay hình như cả nước đang chai lỳ với mọi cái nhục và hèn kém,
quen sống mãi với cái tâm thế cam chịu?.. Có phải thế không?..
Quá
khứ bẩy thập kỷ vừa qua, của gần hai thế kỷ qua thật tai ác quá! Đã nhấn chìm đất
nước chúng ta trong quá nhiều đau thương của chiến tranh, trong không ít lầm lẫn
và tội ác… Những hệ quả của tình trạng này đến hôm nay vẫn chưa buông tha dân tộc
ta. Vâng 40 năm đất nước có độc lập, mà vẫn chưa được buông tha! Vì thế vẫn
chưa tự đứng lên được! Chẳng lẽ cuộc đấu tranh của dân tộc ta để tự giải phóng
chính mình bây giờ mới bắt đầu?!.. – nghĩ thế thật không khỏi rùng mình.
Có thể
gửi gắm những suy nghĩ ray rứt này vào sự nghiệp cải cách thể chế toàn trị hiện
hành này sang thể chế pháp quyền dân chủ được không?
Con
đường tự giải phóng này có lẽ chỉ có thể là con đường của cải cách, có phải như
thế không?
Làm
sao ngồi lại được với nhau để cùng nhau bóc tách hết mọi chuyện, để cuối cùng
chỉ còn lại một cái nhìn chung về phía trước?
Tôi
khát khao điều này cho đất nước mình… Vì
tôi tin rẳng cải cách về bản chất là thuộc về dân chủ và phát triển. Hay là tôi
sai?.. ]
Vì những lẽ trình bầy
trên, cải cách thể chế chính trị hiện hành còn phải gắn liền với việc lựa chọn
cho đất nước một con đường phát triển hoàn toàn mới, tạo ra cho đất nước khả năng
thực hiện nó. Cải cách là để đưa đất nước đi vào con đường phát triển của dân tộc
và dân chủ.
III. Nội lực lớn nhất chưa được phát huy đúng mức:
Con người
Việt
Nam là nước đang phát triển có thu nhập trung bình (thấp), có trình độ giáo dục
phổ cập ở mức tương đối cao so với các nước cùng mức thu nhập, có nguồn nhân lực
lớn, lại ở vào khu vực đang có sự phát triển năng động. Tuy nhiên trong 3 thập
kỷ vừa qua (kể từ sau khi bắt đầu đổi mới 1986) Việt Nam chưa đat được sự phát
triển tương xứng với mọi điều kiện và cơ hội cho phép, một trong những nguyên
nhân quan trọng là chưa phát huy đúng mức được nội lực – trước hết nội lực từ
con người, nguồn lực quan trọng nhất của quốc gia.
Cốt
lõi của vấn đề phát huy nguồn lực con người là giải phóng con người, một vấn đề
vừa là khát vọng dân tộc, đồng thời vừa là con đường phát triển đất nước. Tại bất
kỳ quốc gia nào, nhất là trong thế giới ngày nay, con người được giải phóng đến
đâu, quốc gia ấy phát triển được tới đấy. Giải phóng con người là nội dung quyết
định nhất của một thể chế chính trị tiến bộ và là nguồn lực sâu xa nhất làm nên
sức mạnh quốc gia. Vì thế, khi nói đến phát huy nguồn lực con người, thực chất
là bàn về thực hiện các quyền tự do dân chủ của con người, nhằm tạo ra sự phát
triển mang lại đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng cao, với mục
đích cuối cùng và cao nhất là phục vụ sự phát huy chính bản thân con người – vì
lợi ích của chính nó và vì lợi ích của cộng đồng dân tộc. Nói cách khác, bàn về
phát huy nguồn lực con người cuối cùng là phải bàn về bản chất tiến bộ/phản động
hoặc là bản chất tốt/xấu của chế độ chính trị trong mỗi quốc gia. Nghĩa là phải
mổ xẻ: chế độ chính trị này vì con người, hay chà đạp con người?
Trong
tình hình cụ thể của nước ta hiện nay, mục đích sâu xa nhất của nhiệm vụ cải
cách chế độ toàn trị để chuyển sang chế độ pháp quyền dân chủ phải là nhằm tạo
ra được một thể chế chính trị phục vụ tốt hơn yêu cầu phát huy con người với
tinh thần và nội dung: Giải phóng con người để làm nên sức mạnh quốc
gia. Chính đòi hỏi này xác định những nhiệm vụ cụ thể cuộc cải cách
chính trị này phải thực hiện.
Song
vấn đề nổi cộm nhất đối với chế độ chính trị hiện hành của nước ta là những quyền
tự do dân chủ cơ bản của công dân và những quyền con người đã được ghi trong Hiến
pháp từ nhiều thập kỷ nay chỉ nằm trên giấy. Thực ra phải nói bản thân Hiến
pháp qua việc thiết kế nên hệ thống quyền lực do đảng độc quyền lãnh đạo toàn
diện và tuyệt đối đã tự nó bác bỏ khả năng thực thi chính Hiến pháp. Câu chữ của
hiến pháp mới sửa đổi (2013) về những quyền này được sửa sang chút ít, song mọi
chuyện trong đời sống thực chẳng có gì thay đổi. Mới đây nhất là việc báo chí
“lề phải” tiếp tục mạt sát (nghĩa là dùng lời lẽ nặng nề mang tính trấn áp và
không có lý lẽ) các ý kiến trái chiều, vụ bắt nhà báo Nguyễn Hữu Vinh (Ba Sàm),
vụ kết án nhóm những người bất đồng chính kiến Bùi Thị Minh Hằng bất chấp sự
bác bỏ đầy lý lẽ của luật sư về cáo tội của toà… nói lên tất cả. Nêu lên thực
trạng này chỉ nhằm đi tới nhận định dứt
khoát: Giữ chế độ chính trị như hiện hành, không thể có phép tiên nào phát huy
được huy nội lực mà lẽ ra đất nước ta phải làm bằng được để ra khỏi tình hình
nguy hiểm hiện nay và mở ra một thời kỳ phát triển mới.
Hơn
thế nữa, “nước được
độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lí gì!” Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh được coi là một cuộc vận động chính trị trọng đại từ nhiều năm nay mà lại
bỏ qua điều cốt lõi này, hành xử trước sau hoàn toàn trái ngược với điều cốt
lõi này, thử hỏi còn lời nói nào của đảng và của chế độ chính trị hiện hành có
thể giữ được lòng tin của nhân dân?
Trên đây
là nói về phát huy nội lực liên quan đến đòi hỏi việc thực thi các quyền của
dân đã ghi trong hiến pháp. Phát huy nội lực còn một vế nữa quan trọng không
kém, đó là phát huy sự giác ngộ của bản thân con người về quyền và trách nhiệm
của mình – đối với chính bản thân và đối với quốc gia. Có 2 vấn đề có liên quan dưới đây phải bàn tiếp.
(1)Đường lối chính sách vận động chính trị tư tưởng
Đất nước
độc lập thống nhất đã 4 thập kỷ, song có thể nhận xét khái
quát: Sống giữa thời đại thông tin, nhưng về cơ bản nước ta vẫn đang ở trong
tình trạng có dân trí thấp, cản trở nghiêm trọng sự tiến bộ của quốc gia.
Nguyên nhân cơ bản không phải tội lỗi của dân, mà tại việc duy trì những hiện
tượng tiêu cực trong đời sống tinh thần như là một biện pháp bảo vệ sự ổn định
của chế độ chính trị. Khẩu hiệu “phát huy quyền làm chủ của nhân dân” luôn luôn
được nhấn mạnh, song người dân làm chủ như thế nào nếu không được dùng đến cái
tai, cái mắt, cái mồm của chính mình để tiếp cận với sự thật và nói sự thật?
Trong
những hiện tượng tiêu cực như vậy của đời sống tinh thần, đặc biệt nghiêm trọng
là những hiện tượng:
- sự áp
đặt “tư duy lề phải” và bài trừ những tư duy trái chiều,
- sự
ngăn cấm không được đụng đến những vấn đề cho là huý kỵ,
- chính
sách thông tin có định hướng, bưng bít và nói sai sự thật, nói sự thật một nửa..,
- tình
trạng thiếu công khai minh bạch,
- sự trấn
áp bằng bạo lực để khủng bố tinh thần (Ghi chú: trong khi tôi đang
ngồi đọc lại những trang này, tin đến: Giáo sư Hồng Lê Thọ và nhà văn Nguyễn
Quang Lập đã bị bắt; “tội” của họ là do nặng lòng với đất nước nên dù
đã ở tuổi nghĩ hưu và đầy bệnh tật trong người, nhưng vẫn phải dấn
thân làm blogers chuyển tải những thông tin của sự thật phơi bầy cái sai
trái của quyền lực cai trị… Ai là người không biết Hồng Lê Thọ và
Nguyễn Quang Lập đã từng hết mình làm những việc cống hiến trực
tiếp cho chính chế độ này!?. Những người chủ trương trấn áp không
hiểu rằng các hành động khủng bố như vậy của họ chẳng những đang
chà đạp lên những hy sinh gian khổ của cả nước để có hôm nay, mà còn
làm cho cái ngày con giun xéo mãi
cũng quằn đến gần? Lợi ích quốc gia đứng ở đâu khi họ nghĩ và
hành động như vậy?.. Thú thực, nghĩ đến đây, ruột gan tôi tím bầm!..)
- sự
nuôi dưỡng cái giả dối...
- vân
vân...
Mọi
thứ trái với cái gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa” đều bị
coi là phản động, là thù địch để đối xử! Kết quả chủ yếu của chính sách này là
chỉ tạo ra được một sự vận động thụ động nào đó (chứ không phải là sức mạnh với
đúng nghĩa) của một cộng đồng dân cư được chăn dắt và hành động theo sự chăn dắt
– trong khung khổ của vòm trời ý thức hệ và trong ranh giới của chế độ toàn trị.
Tất cả nhân danh thực hiện sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của đảng. Tên gọi
đúng nhất của chính sách chính trị tư tưởng này là chính sách ngu dân,
nghe rất “sốc”. Song rất tiếc, bản chất của sự vật là như thế[3].
Đường
lối chính sách công tác vận động chính trị tư tưởng như vậy tạm đặt cho cái tên
là “chính
sách chăn dắt”. Đấy không phải là chính sách thông qua tuyên truyền vận
động của giáo dục trí tuệ nhằm tạo ra sức mạnh của một cộng đồng dân cư hành động
trên cơ sở tự giác ngộ được khả năng và quyền năng của mình, cho cuộc sống của
chính mình và cho quốc gia; tạm gọi là “chính sách khai phóng”.
Sự thật là “chính sách chăn dắt” và “chính
sách khai phóng” chẳng phải là phát kiến mới mẻ gì, mà đấy chỉ là 2 sự lựa chọn
khác nhau xuất hiện trên thế giới từ nhiều thế kỷ nay cho các chế độ chính trị
khác nhau ở các quốc gia mà thôi.
Hiển
nhiên, chế độ toàn trị chỉ có thể dung nạp được “chính sách chăn dắt” và coi đấy
là nguyên tắc sống của nó. Bắt buộc phải như vậy, vì không áp dụng chính sách
ngu dân thì làm sao mà “chăn dắt” được. Kết quả đạt được là chúng ta có một đất
nước đang trong trạng thái èo uột như hôm nay, năng lực sáng tạo và ý chí quật
cường của nhân dân bị kìm hãm. Một dân tộc 40 năm đất nước độc lập thống nhất rồi
mà vẫn phải “chăn dắt” như thế làm sao
có thể sống yên thân bên cạnh Trung Quốc bá quyền? Rồi còn phải đối xử với cả
cái thế giới đang tranh giành nhau ngày càng quyết liệt này?.. Trong bối cảnh
như vậy, phải nói: giải phóng tư duy để phát huy sức mạnh dân tộc là đòi hỏi sống
còn của quốc gia. Vì lẽ này, cướp quyền tự do tư duy của dân tộc phải được coi
là một tội ác nghiêm trọng đối với quốc gia. Không phải ai khác, chính Lý Quang
Diệu đã không dưới một lần cho rằng vai trò đứng đầu Đông Nam Á ngày nay lẽ ra
phải là Việt Nam, vì đất nước này có đầy đủ mọi điều kiện và cơ hội để giữ vai
trò đó sau khi ra khỏi chiến tranh!.. Còn hôm nay đất nước chúng ta đang đứng ở
đâu? ĐCSVN là người phải chịu trách nhiệm về thực trạng này của đất nước.
(2)Vấn
đề xã hội dân sự
Cuộc
sống luôn luôn là con ngựa bất kham đối với bất kể sự chăn dắt nào, đó là quy
luật muôn đời.
Thời
bao cấp trước đổi mới, có một hiện tượng nổi bật làm nên lịch sử, đó là vấn đề
“phá
rào” để mà sống và phải sống. Phá rào hồi ấy chính là sự phản ứng, là một
loại hình hành động của xã hội dân sự: Dân tự đứng lên hiệp đồng với
nhau, tự làm mọi việc phải làm để tự cứu lấy mình trong đời sống kinh tế bức bách
hồi ấy, bất chấp những nỗ lực này bị cấm đoán và trù dập khốn khổ, phải lên bờ
xuống ruộng ê chề nhiều năm ròng, và phải chuốc lấy không ít oan khiên!... Khỏi
phải nói, nhờ “phá rào” kinh tế đất nước mới có ngày hôm nay. Dựa vào hiện tượng
“phá rào” này của dân, xin đưa ra một định nghĩa dân dã về xã hội dân sự: Đó
chí là một hiện tượng xã hội đối nghịch với hiện tượng xã hội được chăn dắt như
đã nêu ra! Xã hội dân sự là như thế, sao lại cấm?
Nếu
như có trí tuệ cần thiết và không bị dị ứng ý thức hệ, nhìn nhận được hiện tượng
“phá rào” này là thuộc phạm trù xã hội dân sự, có lẽ đất nước ta hôm nay không
đến nỗi èo uột và lệ thuộc như thế này.
Ngày hôm nay, dù không được phép tồn tại trong
ngôn ngữ chính thống của hệ thống chính trị cũng như trong nhà trường, dù vẫn bị
coi như một hiện tượng huý kỵ... – xã hội dân sự tiếp tục tự nó cứ lừng lững (Nguyên Ngọc) đi vào cuộc sống.
Đơn giản vì mọi người đều phải sống và vì chẳng có bạo lực nào diệt nổi cuộc sống
– cho dù quyền lực đang trấn áp xã hội
dân sự như thế nào, cho dù xã hội dân sự ở nước ta còn yếu về ảnh hưởng đối với
đất nước và chưa phát triển so với những điều kiện cho phép…
Thế
nhưng hôm nay, đối với một bộ phận nào đó trong quyền lực đảng – bao gồm cả một
số trí thức của đảng – cụm từ “xã hội dân sự” vẫn như là cụm mấy từ của tiếng
nước ngoài, tối nghĩa, và… không có tiếng
Việt để dịch (?!) – nghĩa là không tồn tại trong ý thức vì không tồn tại
trong ngôn ngữ của quyền lực (nói theo Trần Đức Thảo!)... Thậm chí không hiếm
trường hợp cụm từ xã hội dân sự còn
được dùng làm tên gọi dành riêng cho các
thế lực thù địch! Mặc dù điều 3 của Hiến pháp hiện hành và toàn bộ 25 điều
khác nêu trong Chương II của Hiến pháp đã nêu tương đối đầy đủ các quyền của
công dân mà thực chất đấy cũng là các quyền của xã hội dân sự. Những gì thuộc
quyền của xã hội dân sự nhưng không thể nêu lên hết được trong Hiến pháp đều được
làm rõ trong nguyên tắc hiến định của nhà nước pháp quyền: Nhà nước chỉ được làm những gì hiến pháp cho phép, người dân được phép
làm tất cả những việc hiến pháp không cấm.
Mặc
dù hôm nay xã hội dân sự vẫn bị cấm đoán trực tiếp hoặc gián tiếp, chính quyền
có không ít những hành động trấn áp thô bạo bằng bạo lực, song những gì các hoạt
động của xã hội dân sự đã làm được và vai trò của các tổ chức phi chính phủ mọi
loại hình (dù được pháp luật thừa nhận hoặc không được luật pháp thừa nhận)
đang đóng góp ngày càng nhiều cho cuộc sống đất nước – kể cả trong sự nghiệp đấu
tranh bảo vệ chủ quyền của đất nước, ngày càng trở thành một lực lượng chính trị
làm khó dễ cho quyền lực chăn dắt xã
hội. Song chuyên chính của chính quyền đang khẳng định đây là nguy cơ lật đổ chế
độ.
Cũng
như mọi hiện tượng xã hội khác, đều có cái tốt và cái xấu. Tại các nước phát
triển, ngoài luật pháp, xã hội dân sự được hướng dẫn và nuôi dưỡng chủ yếu bằng
nâng cao dân trí, bằng phát huy các giá trị và đạo đức xã hội, bằng phát huy
các truyền thống văn hoá tốt đẹp, bằng những nỗ lực xây dựng một xã hội mở, qua
đó loại bỏ những hiện tượng xấu… Vì những lẽ này xã hội dân sự trở thành môi
trường nhân dân thông qua đó trực tiếp tự giáo dục mình, thực hiện quyền lực của
mình với tư cách là người chủ của đất nước, là trường học không thể thiếu để
nhân dân tự nâng cao khả năng và quyền năng của mình - vì cuộc sống của chính
mình và của đất nước. Vì những lẽ này, xã hội dân sự trở thành yếu tố không thể
thiếu đối với nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường. Nghĩa là thiếu xã hội
dân sự, nhà nước pháp quyền trở thành nhà nước mafia, kinh tế thị trường trở
thành kinh tế thị trường hoang dã – đây đang là hiện trạng đầy nguy khốn của nước
nhà.
Xin đừng
bao giờ quên: Hệ thống trụ cột chân kiềng cho sự tồn tại và phát triển bền vững
của một quốc gia nhất thiết phải là “bộ ba” kinh tế thị trường – nhà nước pháp
quyền – xã hội dân sự.
Song
cho đến hôm nay, quyền lực chăn dắt của nước ta lẽ ra phải thông qua con đường
đối thoại tạo ra sự đồng thuận với xã hội dân sự, lại chỉ một chiều nhất quán lựa
chọn con đường bác bỏ và đối kháng với xã hội dân sự - bằng chuyên chính và bạo
lực. Vì bản chất của chế độ toàn trị là như vậy. Cách tiếp cận này đã biến
không ít lực lượng tốt trong nhân dân thành thù địch, đồng thời tạo ra không ít
không gian hoạt động cho các thế lực thực sự thù địch với lợi ích quốc gia của
Việt nam, trong đó đặc biệt là sự can thiệp của quyền lực mềm Trung Quốc.
Lẽ
đương nhiên lợi ích quốc gia đòi hỏi: Cải cách thể chế chính trị nhất thiết phải
xoá bỏ mọi hành xử "chăn dắt" con dân.
Song
còn hơn thế, thiết nghĩ cải cách thể chế chính trị lần này phải hướng vào mục
tiêu trong đại: Đẩy mạnh phát triển xã hội dân sự ở nước ta, để hoàn thiện và củng
cố cái trụ cột đang yếu nhất trong hệ thống kiềng ba chân “kinh tế thị trường –
nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự”, để tạo dựng được nền móng căn bản của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Rất nên bỏ tâm trí và công sức xây dựng xã hội
dân sự như một hướng mới, một phong trào vận động mới để nhân dân tự đứng lên
thực hiện các quyền tự do dân chủ của mình, xoá bỏ bằng được “chế độ chăn dắt”.
Đất nước phải được xây dựng và bảo vệ bằng những người con tự giác ngộ được
chính mình, chứ không phải bằng một bầy cừu ngoan (dựa theo cách nói của Ngô Bảo
Châu).
Có
thể kết luận, trung tâm của cải cách thể chế chính trị hiện nay là nhằm phát
huy nguồn lực quan trọng hàng đầu của quốc gia: Con người.
Vì
lẽ ấy, cái đích của cải cách thể chế chính trị phải nhằm vào là xây dựng một xã
hội khai phóng, mở đầu một thời kỳ phát triển mới của đất nước. Hơn thế nữa, giải
phóng con người là con đường khắc phục sự tụt hậu của đất nước. Quan điểm này
phải được thể hiện trong một chiến lược kinh tế phù hợp có khả năng xử lý hài
hoà mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển, thậm chí lấy phát triển
làm động lực bền vững của tăng trưởng.
*
IV. Thay cho phần kết
Sự thiếu hụt của ý
chí chính trị: Lợi ích quốc gia không phải là trên hết
IV.1. Điểm xuyết lại
vấn đề cải cách trên thế giới
-
Các cuộc nổi dậy ở các nước Bắc Phi
(được ban cho cái tên gọi của các mùa hoa) thực chất là một dạng thức của các
cuộc cách mạng, với nghĩa nổi dậy phá vỡ cái trật tự hiện hữu, chứ không phải
là những cuộc cải cách. Bởi lẽ những lực lượng tham gia sự vận động này quá đa
dạng và có những lợi ích quá khác biệt nhau – đặc biệt trên hai phương diện
(1)sắc tộc, và (2)giáo phái – do đó họ không có hoặc không thể có những ý đồ
chiến lược thống nhất cho sự phát triển đất nước tiếp theo sau khi đã lật đổ được
chính quyền đương thời. Vì không thể có chiến lược cải cách tiếp nối sau khi
tiến hành cách mạng, những nước này rơi ngay vào những rối loạn mới là lẽ tất
yếu[4].
-
Các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũ
cuối thập kỷ 1980s trải qua một quá trình sụp đổ trong hoà bình, chứ không
phải là quá trình cải cách, mặc dù phong trào cải cách ở những nước này
phát triển rất sớm, liên tiếp bị trấn áp, và do đó không thay đổi được chế
độ. Nguyên nhân chính có thể là những nước này không hề có các cuộc cách mạng
XHCN; các chính quyền XHCN ở đấy hình thành và tồn tại được chủ yếu nhờ được
Liên Xô giải phóng và hậu thuẫn, sự khống chế của Liên Xô đủ sức đè bẹp mọi cuộc
nổi dậy của cải cách ở những nước Đông Âu này... Song vì những mâu thuẫn nội
tại, khủng khoảng ở những nước này xảy ra liên tiếp, bước vào thập kỷ 1980s trở
nên ngày càng nghiêm trọng. Nhưng phải đợi cho đến khi Liên xô không đủ lực bao
cấp và khống chế nữa (đặc biệt trên phương diện quân sự), và cũng là lúc
Liên Xô phải đồng thời từ bỏ chính sách đối ngoại thời chiến tranh lạnh do lực
bất tòng tâm, khối “hiệp ước Varsovie” không còn sức kham nổi vai trò nó tự
đặt ra cho mình, Liên Xô buông xuôi, các nước XHCN Đông Âu tất yếu sụp đổ,
song may mắn là trong hoà bình.
-
Liên Xô thực sự tiến hành cải cách
triệt để (cả kinh tế và chính trị) khi Gorbachov làm tổng bí thư, vì tình hình
đất nước quá quẫn bách mọi mặt và đã kéo quá dài (kể từ khi Brejnev lên cầm quyền
1964 - 1982). Cuộc cải cách này thất bại, vì cả về lý thuyết và thực tiễn tiến
hành đều có quá nhiều cái sai. Nói cải cách này thất bại, vì mọi mục tiêu người
cải cách đề xướng đều không thực hiện được (cải cách nhưng vẫn muốn giữ nguyên
chế độ xô-viết và ĐCSLX). Kết quả đạt được là chế độ xô-viết sụp đổ, ĐCSLX bị đặt
ra ngoài vòng pháp luật và tan rã. Trên bình diện quốc gia, cuộc cải cách này
cho dù thất bại, song đấy vẫn là sự chuyển đổi hoà bình và không tự giác,
xoá bỏ được chế độ xô-viết trong tình thế không còn các lý do và điều kiện để
tiếp tục tồn tại. Nước Nga của chế độ mới ngày nay ra đời.
-
Sự chuyển đổi ở các XHCN LXĐÂ cũ từ
thể chế chính trị cộng sản sang thể chế chính trị dân chủ là sự chuyển đổi triệt
để (radical), dù diễn ra dưới hình thức nào song về cơ bản đấy vẫn là sự
chuyển đổi hoà bình, nhờ vậy sau khoảng 2 thập kỷ các nước này hồi phục
và bắt đầu lấy lại sức phát triển của mình. Thực tế này chỉ rõ: Cho dù có những
đặc thù nào đối với từng quốc gia riêng lẻ, song vẫn nói lên 2 điều: (a)trong
những điều kiện nhất định, có thể chuyển đổi triệt để trong hoà bình chế độ
toàn trị sang chế độ dân chủ, (b)chuyển đổi hoà bình như thế hiển nhiên là con
đường ngắn nhất và tiết kiệm xương máu nhất cho sự phục hồi và phát triển sau
đó. Vì vậy tìm kiếm con đường chuyển đổi hoà bình luôn luôn là một khả
năng có thể, và phải được coi là giải pháp ưu tiên một khi chế độ hiện hành
không còn lý do tồn tại.
-
(Tuy nhiên, riêng đối với nước Nga
còn phải nêu thêm một số nhận xét khác nữa: (a)kể từ khi LX sụp đổ, nước Nga
sau ¼ thế kỷ chuyển đổi đã không đi hẳn vào con đường dân chủ, mà lại ngoặt
sang con đường phục hưng đế chế Nga, bắt đầu tư sự kiện sáp nhập Krym; (b)bước
ngoặt này có tính tất yếu, bởi vì lực lượng chính trị (chung quanh Putin)
chi phối vận mệnh nước Nga chủ trương khôi phục vị thế cường quốc mà thời
Sa hoàng đã từng có vai trò đế chế; có phải như vậy không? (c)nếu sự trở lại (hoặc đang tìm đường
trở lại) vị thế đế chế Nga là tất yếu như đang diễn ra, sự xuất hiện Liên Xô
(1917 – 1991) phải chăng là một “chặng đường vòng tốn kém”, hệ quả là, với
sự kiện Krym, đế chế Nga của hôm nay đang cố mon men tới vạch xuất
phát mà nó đã đứng cách đây đúng một thế kỷ, với một triển vọng
không mấy sáng sủa thời Putin! (e)phải chăng con “đường vòng” như thế nếu xảy
ra luôn luôn có nghĩa là một bi kịch quốc gia? – nghĩa là: một quốc
gia – dù là cường quốc – nếu không
đi cùng được với xu thế vận động của thế giới, tất yếu nó sẽ rơi
vào con đường vòng luẩn quẩn và phải trả giá rất đắt; – câu chuyện
này có lẽ nước nào cũng phải quan tâm. Lịch sử thế giới cận đại ghi
nhận đến nay chỉ có 2 cường quốc là Đức và Nhật thoát khỏi được
con đường vòng đã từng đẫm máu cả nhân loại, để hôm nay cùng đi với
cả nhân loại, đứng trong hàng ngũ tiên tiến của nhân loại).
-
Thể chế quân phiệt ở Myanmar đang tìm
đường cải cách để hoà bình chuyển sang thể chế dân chủ, bắt đầu tiến hành từ thời
tổng thống Thein Sein (2011), trong những điều kiện rất nghiệt ngã, trong đó có
sự can thiệp rất trầm trọng của Trung Quốc vào nội tình Myanmar.Đây là cuộc cải
cách đang
được tiến hành từng bước, bắt đầu từ cấp cao nhất của quyền lực xuống và từ
trong hệ thống quyền lực ra ngoài xã hội. Đã gặt hái được những kết quả
đầu tiên rất khích lệ, tuy rằng con đường dài và rất gian truân của dân chủ
và phát triển vẫn còn nguyên vẹn ở phía trước. Nguyên nhân thành công chủ
yếu của những bước đi vừa qua là: Cấp cao nhất của quyền lực Myanmar
(a)đã giác ngộ được nguy cơ mất còn của quốc gia, (b)quyết tâm đặt lợi ích quốc
gia lên trên hết, và (c)biết phát huy sự đóng góp của giới trí thức và phong
trào dân chủ để tiến hành cải cách cứu nước. Điều này
rất đáng để Việt Nam suy nghĩ. Đây chính là điều duy nhất cấp cao nhất của quyền
lực ở nước ta đang thiếu và không hiểu được.
IV.2. Sự thiếu hụt của
ý chí chính trị: Lợi ích quốc gia không phải là trên hết
Đến đây có thể rút ra những kết luận
như sau:
1. Tình
hình trong nước và trên thế giới cũng như những bài học của các nước đi trước
cho thấy Việt Nam hoàn toàn có thể tiến hành thành công một cuộc cải cách thể
chế chính trị không thể thoái thác bằng con đường hoà bình.
2. Vấn đề
cải cách thể chế chính trị ở Việt Nam đã thực sự chín muồi - với nghĩa chế độ
hiện hành đã tích tụ quá nhiều thối nát, càng chậm trễ càng nguy hiểm cho đất
nước về mọi phương diện, thậm chí với những hệ quả đẫm máu. Bối cảnh quốc tế về
cơ bản cũng thuận lợi cho một cuộc cải cách triệt để thể chế chính trị như thế ở
nước ta - ngoại trừ yếu tố Trung Quốc, song đây là vấn đề nước ta hoàn toàn có
thể xử lý được.
3. Cải
cách thể chế chính trị sẽ mở ra cho đất nước bước ngoặt chiến lược: (a)đưa nước
ta vào một thời kỳ phát triển mới, (b)đồng thời sẽ mang lại cho nước ta sức mạnh
và vị thế quốc tế đoạn tuyệt được với thân phận một quốc gia "leo
dây" èo uột và lệ thuộc, (c)tạo điều kiện vững chắc cho nước ta có thể chủ
động xây dựng quan hệ láng giềng, hữu nghị và hợp tác tốt với Trung Quốc - đây
là con đường khả dĩ và hiệu quả nhất chống lại chính sách bành trướng bá quyền
của siêu cường đang lên Trung Quốc. Nói đến nơi đến chốn:
Chỉ có thông qua một cuộc cải cách thể chế chính trị triệt để như thế, nước ta
mới có thể trở thành một quốc gia có khả năng chủ động mở ra một thời kỳ mới của
quan hệ Việt - Trung trên cơ sở hoà bình, hữu nghị, bình đẳng, hợp tác cùng có
lợi; chỉ có như thế Việt Nam mới có thể bảo vệ được vững chắc độc lập chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia của mình. Dứt khoát phải chủ động như thế,
vì không bao giờ và mãi mãi không bao giờ có thể van xin được Trung Quốc điều
này.
4. Mọi
điều kiện kinh tế, chính tri, văn hoá, xã hội của nước ta hiện nay, cũng như mọi
tri thức đã hình thành được trong nước và trên thế giới có thể vận đụng được,
hoàn toàn cho phép vạch ra một chiến lược và thiết kế được các bước đi cụ thể
cho sự nghiệp cải cách đưa đất nước ta vào một thời kỳ phát triển mới, kế thừa
được những bước phát triển đã tạo ra trong 70 năm qua, đồng thời tạo ra cho đất
nước khả năng thích nghi tốt nhất đối với mọi đòi hỏi mới của tình hình mới
trong khu vực và trên thế giới.
5. Điều cực kỳ quan trọng
là khát vọng của nhân dân cả nước về một cuộc cải cách đổi đời đất nước như thế
giờ đây không kém gì khát vọng về độc lập tự do như thời Cách mạng Tháng Tám. Đấy
là sự thức tỉnh ngày càng ray rứt trong nhân dân sau 40 năm xây dựng mà đất nước
đang ngày càng nhiều bất công và không có độc lập tự do. Giập tắt khát vọng đổi
đời này, có thể đốt cháy đất nước và kẻ giập tắt nó. Khơi dạy khát vọng này, đất
nước sẽ đứng lên bất khả kháng xây dựng bằng được dân giầu, nước mạnh, công bằng,
dân chủ, văn minh. Khát vọng cải cách này để đổi đời cho mình và cho đất nước
được dấy lên chính là sức mạnh quốc gia đang rất cần lúc này. Đây là điều
ĐCSVN, trước hết là những người nắm quyền lực cao nhất trong đảng, cần nhận thức
rõ và rút ra những kết luận cho mình, dám chấp nhận dấn thân khơi dậy khát vọng
này. Nhận thức được như thế, ĐCSVN sẽ biết được phải làm gì và làm được,
qua đó sẽ thay đổi được chính mình để trở thành đảng của dân tộc. Đây chính là
nhiệm vụ tối thượng đặt ra cho đại hội XII.
Tuy nhiên, với tất cả
nhận thức của tôi về tình hình và về đòi hỏi cải cách thể chế chính trị như đã
trình bầy, cho đến giờ phút này tôi vẫn phải đánh giá: Tất cả những gì đang diễn
ra trong quá trình chuẩn bị đại hội XII cho thấy khát vọng cải cách thể chế
chính trị đến 99% là không hiện thực. Nguyên nhân chủ yếu và duy nhất là
sự thiếu hụt ý chí chính trị của ĐCSVN - trước hết là đội ngũ lãnh đạo của nó:
Không dám đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Tôi cầu mong tôi sai, để
cho đất nước mình khỏi khổ, nhưng hình như tôi nhận định như thế không sai. Vì
thế, dù chỉ còn 1% cũng vẫn phải nói đến cùng, nếu không thủng được vào cái tai
của đảng, thì lọt vào tai của nhân dân vậy, vào tai các đảng viên yêu nước.
Nguyên
nhân hàng đầu của sự thiếu hụt ý chí chính trị này trong đảng trước sau vẫn chỉ
là tha hoá và tham nhũng trong đảng! Điều vô cùng đơn giản rất dễ thấy này và
cũng hết sức tầm thường này lại là sự thật chết người, và hiện nay gần như vô
phương cứu chữa. Điều này thật cay đắng làm sao! Cả một cái đảng có truyền thống
cách mạng bao nhiêu thế hệ, cuối cùng gục ngã trước một cái điều đơn giản, quá
tầm thường, và dễ thấy này: Sự sa đọa của chính mình! Cả một đất nước có lịch
sử hào hùng đang trở thành nô lệ của cái điều vô cùng ẩm ương và vô cùng phi lý
này!
Có ý
kiến nói nguyên nhân cơ bản của sự thiếu hụt này là ý thức hệ. Tôi thấy nghĩ thế
không sai, song có lẽ chưa đủ. Bởi vì ý thức hệ được rêu rao thực chất bây giờ
chỉ còn là cái cớ để trói buộc người khác, là cái lá nho phô ra để che giấu những
điều xấu xa trước dân chúng, bản thân những người giao giảng ý thức hệ XHCN đâu
có tin và càng không theo (tôi đã dẫn chứng việc học tập tư tưởng và đạo đức Hồ
Chí Minh).
Tha
hoá trầm trọng nhất trong đảng hiện nay là tha hoá về chính trị, điểm tột cùng
của tha hoá đạo đức.
Tham
nhũng tồi tệ nhất trong đảng hiện nay là tham nhũng quyền lực, cha đẻ của mọi
tham nhũng vật chất, của cải và các giá trị tinh thần khác, kể cả tham nhũng lịch
sử và sự cướp đoạt tự do tư duy...
Cái
vô cùng khó là tha hoá và tham nhũng như thế đã trở thành một nếp nghĩ, nếp sống
ngay càng lan rộng và lan sâu trong mọi cộng đồng dân cư từ nông thôn đến thành
thị, trong mọi lĩnh vực ngành nghề dù thuộc dân sự, quân sự, võ trang, khoa học
kỹ thuật, nghệ thuật hay kinh tế, đoàn thể xã hội... Công việc hay ngành nghề,
dự án hay công trình… càng quan trọng hoặc càng lên cao, hoặc càng lớn… tha hoá
và tham nhũng càng lớn theo, kể từ cấp cơ sở lên đến cấp cao nhất, trong một
ngành hoặc liên ngành, trong từng mảng cuộc sống của đất nước, xuyên địa danh,
xuyên họ tộc... Tha hoá và tham nhũng cấp dưới công kênh cấp trên và cứ thế
công kênh nhau, bỏ phiếu cho nhau và cố kết thành bè thành mảng; trị một nơi
hay một vụ việc lập tức bị trị lại; đổ một nơi lập tức có nguy cơ “domino” kéo
đổ cả một dây nên cố níu kéo nhau dứt khoát không cho nơi nào đổ… Cần thì trấn
áp bằng bạo lực bất kể sự phản kháng nào từ dân, để giữ không cho cái đổ xẩy
ra… Cái gì không che giấu được thì xuyên tạc. Phản kháng đụng chạm đến chế độ chính
trị, trấn áp sẽ càng quyết liệt hơn, bất chấp đạo lý và luật pháp. Tình trạng
này khiến cho đối mặt với tha hoá và tham nhũng hầu như chỉ có mỗi cái sợ. Đất
nước bao chùm các nỗi sợ có tên và không tên. Kẻ thấp cổ bé miệng sợ bị quyền lực
trù giập, bị khủng bố, hoặc không giữ được niêu cơm, cam chịu vẫn là sự lựa chọn
dễ thở hơn… Kẻ có chức có quyền sợ mất phe cánh, bổng lộc của mình có thể bị
teo tóp, hoa lợi của con cháu bị ảnh hưởng, nên không ai bảo ai cứ nhũn như con
chi chi và mũ ni che tai trước mọi tội ác, đồng loã với tội ác… Phần đông những
vụ tội ác lớn vỡ lở là do đánh nhau là chủ yếu, chứ không phải do kết quả thực
thi pháp luật. Hủ tục, sự dốt nát và các tàn dư phong kiến cũ là đồng minh chí
cốt của tha hoá và tham nhũng… Dù hô hào đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, hô
hào học tập như thế nào đi nữa, tha hoá và tham nhũng vẫn cứ ngang nhiên hoành
hành và bất trị, cứ như ung thư tàn phá không thương tiếc cơ thể đất nước. Tình trạng tồi tệ đến mức ngôn ngữ không mang
tải nổi, thần kinh con người khó trụ lại được khi phải tiếp xúc những điều bỉ ổi
lộ ra…
Sự kiện
xẩy ra bạo loạn đập phá khoảng 800 xí nghiệp trong hai ngày 13 và 14-05-2014 là
một trong những ví dụ điển hình, cho thấy tha hoá và tham nhũng vô hình trung
đã tiếp tay cho quyền lực mềm Trung Quốc đánh bại đất nước như thế nào trong trận
đánh cụ thể này: biểu tình chống sự việc giàn khoan HD 981 bị bàn tay quyền lực
mềm Trung Quốc biến tướng thành bạo loạn đập phá, hệ thống an ninh của ta hoàn
toàn bị bất ngờ, phía ta tốn kém phải bồi thường thiệt hại đập phá và còn phải
xin lỗi nữa, sự việc gây chia rẽ nội bộ đất nước...
Song
cũng phải nói ngay Myanmar dưới thời quân phiệt những chuyện tha hoá và tham
nhũng hoành hành như thế không thiếu và không ít tắm máu…
Lại
câu hỏi, thế nhưng tại sao cấp cao nhất ở Myanmar vẫn dám tiến hành cải cách,
nhưng ở ta lại không dám?
Lại
câu trả lời: Cấp cao ở nước ta thiếu cái cấp cao Myanmar dám: đặt lợi ích quốc
gia lên trên hết và phát huy được vai trò của trí thức và phong trào dân chủ.
Có thể còn một nguyên nhân nữa là xã hội phật giáo Myanmar còn giữ được nhiều
giá trị đạo đức và tinh thần quan trọng, trong khi đó ở nước ta những giá trị
này 40 năm nay bị huỷ hoại nặng nề.
Sự thật
là Myanmar đã và đang tiến hành cải cách, bắt đầu từ những việc dễ làm nhất, rõ
ràng, với từng bước đi nhỏ nhất trong một chiến lược cải cách tổng thể. Ngay cả
bước nhỏ nhất cũng được chia ra làm nhiều phần để làm dần: Ví dụ việc thả tù
chính trị là bước đi đầu tiên, được chia thành nhiều bước nhỏ, thực hiện kéo
dài khoảng 2 năm, cứ ổn định đến đâu thả tiếp đến đấy, tổng cộng có tới khoảng
2000 người được thả. Quyền tự do báo chí, quyền biểu tình cũng làm theo phương
thức chia ra từng bước như vậy. Quyền tự do bầu cử cũng được chuẩn bị rất kỹ lưỡng
sau khi đã giàn xếp xong với phe dân chủ, và trước mắt cũng mới chỉ là bầu cử bổ
xung 44 ghế còn khuyết trong quốc hội, được tiến hành trung thực, công khai và
dân chủ, trước sự chứng kiến của quốc tế. Trong khi đó hiến pháp hiện hành vẫn
giữ nguyên cho quân đội có đặc quyền giữ 25% số ghế trong quốc hội… Và như một
phép mầu khó tưởng tượng, những biện pháp cải cách chính trị như thế giúp cho
việc tháo gỡ những ách tắc nghiêm trọng trong kinh tế nhẹ nhõm hẳn và dễ thông
xuốt; đơn giản vì trí thức có những tham vấn có chất lượng, luật rõ ràng, được
nhân dân tin và hưởng ứng. Ví dụ: Việc thực hiện tỷ giá tự do đồng nội tệ Kyat
(trước cải cách cao gấp 100 lần tỷ giá chính thức của ngân hàng quốc gia)
Myanmar đã hoàn thành trong vòng không đầy một năm kể cả khâu chuẩn bị; trong
khi đó ở nước ta việc này phải làm đi làm lại trầy trật mãi, kéo dài gần một thập
kỷ mới xong. Quyền tự do kinh doanh ở Myanmar cũng đang được mở rộng từng bước,
nhưng vẫn phải theo hiến pháp hiện hành… Bản thân tổng thống Theinsein và lãnh
tụ phong trào dân chủ Aung San Suu Kyi nhiều lần trực tiếp tham gia đối thoại
công khai trước cả nước với các bên khác nhau trong những nỗ lực tìm kiếm đồng
thuận xã hội cho đẩy mạnh cải cách… Bản thân tổng thống Thein Sein đã phải có
không ít những quyết định khó khăn để xử lý những vấn đề rất nhạy cảm trong
quan hệ với Trung Quốc, như hạn chế sự can thiệp của Trung Quốc vào những vấn đề
sắc tộc ở Myanmar, huỷ hợp đồng thuỷ điện Myitsone 1,6 tỷ USD, huỷ hợp đồng đường
sắt xuyên Myanmar từ Trung Quốc xuống thẳng vịnh Bengale 20 tỷ USD, các hợp đồng
kinh tế khác, giải quyết bao nhiêu áp lực chính trị/kinh tế khác trong và ngoài…
Bí
quyết của những thành công ban đầu này tại Myanmar ngoài sự hậu thuẫn rất quan
trọng của trí thức (trong đó có nhiều nhà kinh tế, các nhà kỹ trị, các luật
gia... sống lưu vong dưới chính quyền quân phiệt nay quay về giúp nước), xây dựng
được chương trình cải cách đúng đắn với những bước đi có tính toán hợp lý, điều
có ý nghĩa quyết định là (1)chính quyền trung ương và quân đội giữ được trật tự
trong quá trình tiến hành cải cách, không để xảy ra việc dùng quân đội đàn áp
biểu tình, rõ nét nhất là thời gian vận động và tiến hành cuộc bầu cử bổ sung, (2)tạo
ra được những cải thiện hay tiến bộ rõ rệt trong kinh tế. Chính sự ổn định
chính trị và sự cải thiện kinh tế từng bước đạt được này đã hỗ trợ tích cực trở
lại các bước cải cách tiếp theo. Cải cách áp dụng nguyên tắc không hồi tố.
Hòn
đá tảng đầy thách thức cam go trước mặt đối với Myanmar là xây dựng hiến pháp mới,
trong đó có vấn đề xử lý thế nào đặc quyền cho quân đội chiếm 25% ghế trong quốc
hội. Chắc chắn còn nhiều sóng gió phía trước, vấn đề các sắc tộc ở Myanmar vẫn
đang rất nóng bỏng, nguy cơ cải cách bị đảo ngược không phải là ít. Dù sao, sau
3 năm thực hiện, cải cách đã khai mở được những bước đi quyết định đầu tiên
trên con đường phát triển mới của đất nước; trong khi đó Trung Quốc vẫn không
ngừng can thiệp bằng quyền lực mềm.
Nhìn
vào Việt Nam:
Ngoại
trừ cái điều mà cấp cao của quyền lực ở Myanmar dám làm nhưng quyền lực cấp cao
ở nước ta không dám, phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay đi trước Myanmar khoảng
10 – 15 năm, GDP p.c. của nước ta cao gấp đôi của Myanmar, nước ta không có vấn
đề sắc tộc nặng nề như Myanmar… Quả là phi lý không thể chấp nhận được là cải
cách thể chế chính trị ở Myanmar là có thể và đang thu lượm kết quả đầu tiên,
nhưng ở nước ta cho đến giờ phút này cải cách thể chế chính trị tuy rất cấp
bách nhưng vẫn hầu như là không thể.
Các
phần I, II và III của bài viết này đã nêu lên những vấn đề quan trọng cuộc cải
cách thể chế chính trị này ở nước ta phải giải giải quyết (xem kết luận của
mỗi phần). Trong những năm gần đây, đặc biêt là khi bàn về sửa đổi hiến pháp, những
kiến nghị cụ thể của những người yêu nước trong cả nước về thực hiện cuộc cải
cách này rất phong phú. Gần đây nhất là thư ngỏ ngày 28-07-2014 của 61 đảng
viên gửi cho Bộ Chính trị và BCHTƯ yêu cầu lãnh đạo ĐCSVN (1)bạch hoá quan hệ
Việt Trung, (2)chấm dứt việc đàn áp những người yêu nước, (3)huỷ bỏ cương lĩnh
lỗi thời hiện nay của ĐCSVN để xây dựng đảng trở thành đảng của dân tộc, (4)xây
dựng nhà nước pháp quyền dân chủ, (5)đại hội XII phải được tiến hành theo cách
đáp ứng những đòi hỏi vừa nêu trên, (6)phải tổ chức bầu cử trung thực quốc hội
khoá tới để mở đầu cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ.
Phần
giới thiệu tóm tắt về diễn tiễn quá trình cải cách ở Mynamar cũng đưa ra những
gợi ý các bước đi cụ thể đầu tiên cho vệc tiến hành cải cách ở nước ta, dù rằng
mỗi quốc gia đều có đặc thù riêng…
Trong
khi bắt tay vào cải cách thể chế chính trị, cần đặc biệt quan tâm hỗ trợ và
thúc đẩy các biện pháp cải cách thể chế kinh tế chính phủ đang nỗ lực triển
khai. Kinh nghiệm Myanmar cho thấy điều này vô cùng quan trọng, bởi vì vừa
phòng ngừa được đổ vỡ gây tổn thất, vừa mang lại những khích lệ thiết thực tạo
không khí hợp tác và đối thoại cho xúc tiến cải cách.
Tóm lại
đất nước hội đủ mọi điều kiện căn bản cho phép tiến hành thành công nhiệm vụ cải
cách trọng đại này. Không phải tìm kiếm đâu trên trời dưới đất xa xôi, nếu
ĐCSVN hôm nay trung thành với chính lý tưởng đã khai sinh ra mình: Hãy quay trở
lại phấn đấu thực hiện nghiêm túc Tuyên Ngôn Độc Lập 02-09-1945 và xây dựng nhà
nước pháp quyền dân chủ theo tinh thần Hiến pháp 1946!
Trở
ngại duy nhất là vẫn đang thiếu quyết tâm chính trị trong cấp cao nhất của quyền
lực đảng: Đặt lợi ích quốc gia lên trên hết!
Đại hội
XII tới sẽ đặt ĐCSVN trước giờ phút của sự thật:
Đảng
lựa chọn đất nước để tiến hành cải cách thể chính trị, đại hội XII sẽ đánh dấu
một bước ngoặt lịch sử đổi đời đất nước và cả bản thân đảng. Đảng trì hoãn hoặc
thậm chí đối kháng cuộc cải cách đã chín muồi này, đại hội XII sẽ đẩy đất nước
vào một thời kỳ đen tối mới, như hội nghị Thành Đô đã một lần đánh dấu thời kỳ
lệ thuộc của đất nước./.
Hết
Hà
Nội, 02-09-2014
[1]
Bài 1: Còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thuỷ
Bài 2: Hiểm hoạ
đen
Bài 3: Chúng
ta lựa chọn gì cho tổ quốc?
(tìm xem
trong: nguyentrung-vt.blogspot.com)
[2]
Có thể nói “nguy cơ diễn biến hoà bình” được nhập khẩu nguyên đai nguyên kiện từ
Trung Quốc, tác giả của nó là tướng Dương Thượng Côn.
[3] Xin đừng
quên: Một trong những tội ác nghiêm trọng của thực dân Pháp mà Cách mạng Tháng
Tám đã lên án là "chính sách ngu dân". Các cơ quan làm công tác nghiên cứu của đảng
rất nên làm công việc khảo sát để so sánh với hôm nay.
[4]
Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, bài 3 “Chúng ta lựa chọn gì cho tổ quốc?”, phần
nói về “Kịch bản 3” – nguyentrung-vt.blogspot.com, nhãn: Đại hội XII
ĐCSVN,
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_LuaChonGiChoToQuoc.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét