Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2014

Đại hội XII ĐCSVN





Bài 5
Bàn về hoàn thiện kinh tế thị trường
(Bài viết về đại hội XII sắp tới của ĐCSVN)

Nguyễn Trung
nguyentrung-vt.blogspot.com
Hà Nội, 02-09-2014


I.           Đánh giá khái quát con đường 40 năm

Góp phần tổng kết kinh tế mà đại hội XII nhất thiết phải làm, tôi xin nêu lên một số nhận xét chính dưới đây, trước khi bàn đến chủ đề hoàn thiện kinh tế thị trường ở nước ta.

Trong bài 2 và bài 3, tôi cho rằng 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên là một thời kỳ phát triển thất bại, hoặc dễ nghe hơn: cơ bản là thất bại (song “dễ nghe hơn” như thế chẳng ích lợi gì thêm cho đất nước).

Nói là thất bại, bởi lẽ: Không đạt được các mục tiêu chiến lược, thành tựu hay kết quả thu được không xứng với thời gian, công sức, của cải đã bỏ ra và những cơ hội có được. Bao chùm lên tất cả là đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội thất bại, đến 1986 phải xoá bỏ nền kinh tế bao cấp để tiến hành đổi mới, đề ra cái gọi là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về thực chất suốt 29 năm đổi mới vẫn là kiên trì chủ nghĩa xã hội mà chính tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có lần thừa nhận chưa rõ nó sẽ là cái gì. Đường lối sai, sửa lại rồi mà cũng không rõ được, như thế làm sao có thể thành công được? Cho nên thất bại là tất yếu. Dưới đây xin điểm lại cho rõ.


Trong 40 năm này, nước ta mất trên dưới 10 năm vào 2 cuộc chiến tranh tiếp theo kháng chiến chống Mỹ (chiến tranh Campuchia, chiến tranh Trung quốc xâm lược biên giới), lại thêm những thất bại trong đường lối kinh tế bao cấp (xin dùng tạm tên gọi này) kéo dài cho đến khi tiến hành đổi mới 1986. Thời kỳ 10 năm này (1975 - 1986, về những mặt nào đó phải tính đến 1989) đảng đã vấp phải những sai lầm rất nghiêm trọng cả về đối nội (bao gồm cả kinh tế) và đối ngoại, với nhiều hậu quả lâu dài. Nguyên nhân chủ yếu là chủ quan, duy ý chí, không hiểu thế giới và không hiểu chính bản thân nước ta: Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội! Từ nay không có kẻ thù nào dám động đến ta!Đương nhiên, những nguyên nhân khách quan cũng rất quan trọng, có những mặt bất khả kháng, song dù sao vẫn phải nói những nguyên nhân chủ quan của lãnh đạo và của hệ thống chính trị là những tác nhân trực tiếp mang tính chất quyết định của những sai lầm thời hậu chiến.

Trong những nguyên nhân chủ quan, cái nguyên nhân không hiểu thế giới, không hiểu chính bản thân nước ta cho đến hôm nay vẫn đang là một cái u-bướu chết người trong não bộ tư duy của ĐCSVN.

Kinh tế nước ta thực sự phát triển kể từ khi tiến hành đổi mới 1986, ngày nay đạt mức “nước đang phát triển có thu nhập trung bình (thấp)”[1]. Nếu so sánh nước ta hôm nay với nước ta 1986, kinh tế nước ta đã đi được một chặng đường dài: từ nước chậm phát triển lên nước đang phát triển, giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng được thế giới ghi nhận, GDP p.c. 2014 cao gấp khoảng 10 lần khi tiến hành đổi mới năm 1986 (2000 USD / 200 USD). Đã có lúc kinh tế nước ta giành được sự phát triển ngoạn mục (nhất là thời kỳ 1986 – 1995…), dấy lên nhiều hy vọng khiến trên thế giới người ta đã bắt đầu nói tới “con hổ Việt Nam”, nhưng con hổ này chưa kịp cất lên tiếng gầm nào thì đã biến mất tăm.

Song nếu so nước ta với các nước chung quanh, khoảng cách tụt hậu của ta ngày càng rộng thêm. Ví dụ: năm 1986 GDP p.c. (GDP tính theo đầu người) của Trung Quốc gấp đôi của nước ta (400 USD / 200 USD, năm nay cao gấp trên 3 lần; khoảng cách lúc ấy (1986) GDP p.c.Trung Quốc cao hơn nước ta ước chừng <+200 USD, nhưng khoảng cách này hiện nay là <+5000 USD; so với các nước đi trước ta trong ASEAN cũng cho thấy mối tương quan như vậy. Nghĩa là 3 thập kỷ vừa qua, càng chạy đua ta càng tụt hậu. Năm 1990, với tư cách đại sứ tại Thái Lan, tôi tìm hiểu mọi vấn đề và báo cáo về nước: Việt Nam tụt hậu khoảng 20 năm so với Thái Lan. Năm nay (2014), nghĩa là sau ¼ thế kỷ, khoảng cách này không hề thu hẹp, mặc dù Thái Lan từ vài thập kỷ nay không thể ra khỏi cái bẫy các nước có thu nhập trung bình. Lý do: đến nay Thái Lan vẫn chưa thiết lập được cho mình một thể chế chính trị của một nước công nghiệp, mặc dù đã hội nhập quốc tế từ những năm 1930s. Đây là bài học nhãn tiền cho Việt Nam.

Điều đặc biệt đáng lo ngại là sau 3 thập kỷ phát triển (kể từ 1986), kinh tế nước ta đã tận dụng hết (đến mức cạn kiệt) mọi yếu tố nội/ngoại có được cho phát triển theo chiều rộng (chủ yếu dựa trên lao động giản đơn, khai thác tài nguyên và đất đai, tăng trưởng chủ yếu nhờ vào đầu tư mới…) song vẫn chưa tạo ra được nền tảng kinh tế vững chắc để đi vào thời kỳ phát triển theo chiều sâu (chủ yếu dựa trên khoa học & công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao, thể chế quản trị quốc gia hiện đại). Cho đến ngày hôm nay, nước ta mới chỉ tạo ra được một nền kinh tế gia công. Nói nôm na, đấy là một nền kinh tế chỉ bán đi được những thứ ta tự có: lao động rẻ, tài nguyên, đất đai, môi trường, vị trí địa lý, cơ hội… Cho đến hôm nay vẫn chưa đi vào được thời kỳ phát triển một nền kinh tế bán các sản phẩm ta tự làm ra – với nghĩa có hàm lượng cao về trí tuệ và công nghệ của một nền kinh tế dựa vào chất lượng cao của nguồn nhân lực và năng lực quản trị của nhà nước; bởi vì còn thiếu nghiêm trọng những điều kiện tiên quyết cho thời kỳ phát triển mới này trên mọi phương diện (chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng giáo dục, thể chế chính trị quốc gia, thể chế kinh tế thị trường thực thụ, lực lượng doanh nghiệp, kết cấu hạ tầng vất chất kỹ thuật…) Kinh tế đã đi hết đoạn đường phát triển theo chiều rộng, nhưng hôm nay đang lâm vào khủng hoảng cơ cấu trầm trọng, nên vừa bế tắc (cái bẫy “nước có thu nhập trung bình – thấp”), vừa chưa chuẩn bị được những điều kiện phải có cho việc chuyển nền kinh tế đi tiếp vào thời kỳ phát triển theo chiều sâu.

Còn 6 năm nữa, năm 2020, nước ta phải trở thành nước công nghiệp, hoặc là “cơ bản là nước công nghiệp theo hướng hiện đại” (một khái niệm rất “cao-su”, tùy tiện, và rất thiếu trách nhiệm với đất nước) – như đã ghi trong nhiều nghị quyết của đảng, song mục tiêu này không thể hoàn thành được, vì trình độ phát triển nền kinh tế còn ở mức quá thấp nhìn theo bất kỳ tiêu chí nào (tỷ trọng các khu vực kinh tế - economic sectors, tỷ trọng phân bổ các loại lao động, tỷ trọng kinh tế nông thôn và kinh tế thành thị…, các chỉ số phát triển tính theo đầu người về kết cấu hạ tầng vật chất & kỹ thuật, vân vân..; riêng chỉ số bằng thạc sỹ, tiến sỹ tính theo đầu người và trong bộ máy quyền lực, nước ta vượt xa Hàn Quốc, Nhật Bản và nhiều nước phát triển khác). Đặc biệt nghiêm trọng là nước ta không có một thể chế chính trị quốc gia phù hợp cho một nước công nghiệp hoá, chính điều này trước sau đang chặn đứng khả năng nước ta sẽ trở thành một nước công nghiệp. Đó là một chế chính trị quản trị và cai trị đầy bất cập và tham nhũng. Điều cần lưu ý ở đây, sau 3 thập kỷ tiến hành công nghiệp hoá (chỉ tính từ 1986), nước ta huy động được một nguồn lực nội và ngoại ước tính nhiều gấp hơn 2 lần của Hàn quốc cho 3 thập kỷ công nghiệp hoá của họ. Song sau 3 thập kỷ này, Hàn Quốc hoàn thành được nhiệm vụ công nghiệp hoá; nhưng nước ta không hoàn thành được nhiệm vụ này, lại rơi quá sớm vào quá trình giải công nghiệp hoá do tác động của quá trình toàn cầu hóa (rõ nét nhất là nhiều sản phẩm công nghiệp đã quá dư thừa trên thị trường thế giới và trở nên lỗi thời, hoặc phải nhường chỗ cho những sản phẩm công nghiệp hightech; có nhiều thay đổi trong quy mô và phương thức sản xuất công nghiệp, vận dụng phân công lao động quốc tế để khai thác lợi thế so sánh hoàn toàn khác với cách đây vài thập kỷ, vân vân…), và hôm nay vẫn là một nền kinh tế gia công đang bế tắc vì khủng hoảng cơ cấu trầm trọng, nền nông nghiệp của đất nước cũng đang bị thách thức nghiêm trọng, khu vực dịch vụ phát triển khả quan hơn song về cơ bản vẫn nằm trong phạm vi quốc gia đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp.

Nói khái quát, nước ta đang có một nền kinh tế “đắt”, nhìn theo tính hiệu quả kinh tế  (economic efectiveness) trên mọi phương diện: chỉ số ICOR cao nhất trong khu vực (nhất là trong 10 năm qua liên tiếp chỉ số ICOR thường là =6 hoặc <6, trong khi đó thời gian này ở Hàn Quốc, Đài Loan thường là >3), tỷ suất lợi nhuận rất thấp, mức độ tiêu thụ năng lượng và nguyên liệu trên một sản phẩm thuộc loại cao nhất ĐNÁ và năng suất lao động thuộc loại thấp nhất, năng lực sản xuất từng ngành hoặc bất cập so với đòi hỏi của thị trường hoặc bỏ phí rất lớn (nhất là trong công nghiệp sản xuất sản phẩm phụ trợ, công nghiệp cơ khí, công nghiệp chế biến.., với hệ quả nhiều ngành chỉ sử dụng được khoảng 30 – 40% công suất thực có), chi phí trung gian rất tốn kém củ yếu do quan liêu và tham nhũng, tác động môi trường nặng nề với nhiều hậu quả lâu dài... Ngoại trừ một số ít ngành đặc thù trong lắp ráp và gia công, nhìn chung công nghệ trong công nghiệp nước ta chủ yếu thuộc thế hệ 3 hoặc 4 (nhất là phần lớn những công trình công nghiệp quan trọng mới xây dựng trong hơn một thập kỷ nay đều được thực hiện dưới dạng EPC do Trung Quốc trúng thầu). Tham nhũng rất trầm trọng, song lãng phí còn trầm trọng hơn nhiều – nhất là lãng phí do những quyết định kinh tế sai lầm, những dự án treo, những quy hoạch phá sản ở khắp cả nước…

Tựu trung là do đã theo đuổi một chiến lược phát triển sai lầm[2] trong một thể chế chính trị bất cập. Nổi cộm là các vấn đề:

(1)Công nghiệp rất chắp vá và chưa định hình được nước ta sẽ là một nước công nghiệp gì nếu thu hẹp dần công nghiệp gia công hiện nay. Có lẽ phải nói sự phát triển công nghiệp nước ta nhằm vào lợi ích của doanh nghiệp là chủ yếu, chứ không phải là lợi ích tổng thể của quốc gia, do đó manh mún, mạnh ai nấy làm và dựa vào tranh thủ được FDI như thế nào thì phát triển như thế nấy – nghĩa là rất tự phát, duy ý chí và do bên ngoài chi phối là chính, rất bị động, khó mà nói phát triển theo một chiến lược rõ nét hay nhất quán nào của ta. Bản thân sự phát triển này lại thay đổi theo từng khoá đại hội đảng (tư duy nhiệm kỳ, tân quan tân chính sách). Hiện tại đất nước chỉ có một nền kinh tế gia công; khai thác và bán các tài nguyên, môi trường và đất đai… Đó là một nền kinh tế đang trở thành bãi thải công nghiệp cho nước ngoài là chủ yếu (rõ nét nhất là chất lượng FDI nói chung rất thấp: chủ yếu thuộc lĩnh vực gia công, sản xuất nguyên vật liệu trung gian rất ô nhiễm môi trường, công nghiệp khai khoáng và tài nguyên đất đai, một số công trình đặt ra nhiều vấn đề an ninh chính trị và quốc phòng rất đáng lo ngại… Nói đất nước ta trở thành đất nước cho thuê, chủ của đất nước trở thành người đi làm thuê… trước hết là vì những lẽ này).

Công nghiệp hóa như 3 thập kỷ vừa qua là sản phẩm tất yếu của chế độ. Đơn giản vì thể chế chính trị hiện tại không có khả năng huy động trí tuệ cả nước vạch ra các chiến lược quốc gia đúng đắn, càng không có khả năng thực thi chúng. (Suy cho cùng, thể chế chính trị hiện tại có quá nhiều các yếu tố mang trong nó những lợi ích đối nghịch hay đối kháng với những lợi ích theo đuổi một chiến lược công nghiệp hóa hiện đại của quốc gia). Trên thực tế (1)tính “phe nhóm lợi ích”, (2)“tư tưởng nhiệm kỳ”, (3)tính cát cứ của nền kinh tế “GDP tỉnh” như là một đặc tính của thể chế chính trị này, (4)cùng với hiện tượng trí tuệ không có chỗ đứng phải có trong thượng tầng kiến trúc của quốc gia là 4 yếu tố chính kể trên khiến cho thể chế chính trị này chỉ có thể đề ra những chiến lược què quặt, đã và đang xé nát mọi chiến lược quốc gia đã hoạch định – kể cả chiến lược công nghiệp hóa.

3 thập kỷ công nghiệp hóa vừa qua ở nước ta kể từ Đổi mới 1986 cho thấy chế độ toàn trị hiện tại chỉ thích hợp cho việc công nghiệp hóa theo lối khai thác cạn kiệt các yếu tố phát triển theo chiều rộng dựa trên lao động cơ bắp, bóc lột tài nguyên và môi trường, và đầu tư để hình thành một nền công nghiệp lạc hậu, hiện nay đứng trước nhiều ách tắc khó vượt qua để chuyển vào một thời kỳ phát triển mới (phát triển theo chiều sâu). Đến đây có thể kết luận: Thể chế chính trị toàn trị của nước ta như hiện nay không có khả năng đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, dù là kéo dài bao nhiêu năm nữa cũng thế thôi – như chúng ta đang thấy ở các quốc gia rơi vào cái bẫy của nước có thu nhập trung bình như Thái Lan và nhiều nước đang phát triển khác.

Trong những thập kỷ tới, ngay trước mắt là trong 5 năm tới, nếu tiếp tục công nghiệp hóa như phương thức đang diễn ra với thể chế chính trị hiện tại, bãi thải công nghiệp có tên gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam sẽ ngày càng lớn, với mọi hệ lụy sẽ dìm sâu hơn nữa đất nước vào lạc hậu và tụt hậu.

 (2)Nông nghiệp là vấn đề rất nhậy cảm ở nước ta trên nhiều phương diện, nhưng cũng đang bế tắc nghiêm trọng về mọi phương diện. Chủ yếu do sai lầm về chính sách đất đai, do thất bại trong quá trình công nghiệp hoá / đô thị hoá, và do thất bại trong nhiệm vụ công nghiệp hoá – hiện đại hóa nông nghiệp giữa lúc kinh tế cả nước đã hội nhập vào quá trình toàn cầu hoá như ngày nay…  Mặc dù có vị thế nhất định trong một số sản phẩm trên thị trường nông phẩm thế giới, nông nghiệp nước ta còn đứng rất xa yêu cầu là một nền nông nghiệp tiến dần lên hiện đại của một quốc gia đang trong quá trình công nghiệp hoá. Không ít sản phẩm nông nghiệp của nước đang bị sản phẩm ngọai đẩy lùi ngay trên thị trường nước ta, nhất là từ Trung Quốc.

Thậm chí còn phải nói, một nền nông nghiệp như hiện tại tự nó cũng sẽ chặn đứng khả năng nước ta trở thành nước công nghiệp: Cả nước còn trên 50% lao động làm việc trong nông nghiệp với diện tích đất đai bình quân khoảng 3 lao động / 1 ha ruộng đất, công nghệ canh tác và chế biến rất lạc hậu.

Trong khi đó với trình độ phát triển hiện có (nghĩa là vẫn còn rất lạc hậu, lao động chân tay là chủ yếu, sự tham gia của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ còn rất thấp…), một lao động nông nghiệp nước ta hiện nay tối thiểu phải cần tới 3 ha ruộng đất canh tác để có thể tận dụng dụng hết ngày công của mình trong năm; cả nước vẫn còn tới khoảng gần 70% số dân sống ở nông thôn; sản xuất nông nghiệp vẫn là nền sản xuất tiểu nông manh mún với rất nhiều rủi ro nguy hiểm cho nông dân từ đầu vào cho đến đầu ra của toàn bộ quy trình kinh tế nông nghiệp; tất cả các khâu giống, phân bón, thức ăn gia súc, năng lực chế biến, tiêu thụ sản phẩm còn phụ thuộc nghiêm trọng vào bên ngoài; khả năng đi lên sản xuất quy mô lớn theo hướng hiện đại của nông nghiệp nước ta đang bị những ràng buộc của vấn đề sở hữu đất đai, của đường lối phát triển kinh tế hiện tại và của thể chế chính trị cản trở nghiêm trọng, vân vân…

Xin lưu ý, Hàn Quốc, Đài Loan trong vòng 2 thập kỷ đầu tiên của thời kỳ công nghiệp hoá đã thực hiện được đòi hỏi phát triển nông nghiệp phải đồng hành với quá trình công nghiệp hoá.

(3)Khu vực dịch vụ phát triển khả quan hơn (trong đó nổi bật là du lịch, viễn thông, hàng không…), song cũng đã hết đà phát triển theo chiều rộng; đất nước ta chưa có được nguồn nhân lực có chất lượng, thể chế nhà nước thích hợp và kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật tương ứng để đi vào thời kỳ phát triển theo chiều sâu. Khu vực dịch vụ chủ yếu mới chỉ phát triển trong một số ngành, trong khi đó hầu như chưa đi vào được rất nhiều ngành nghề quan trọng khác của dịch vụ mà điều kiện địa lý tự nhiên và địa lý kinh tế/chính trị của nước ta cho phép (ví dụ, có thể phân tích khu vực dịch vụ của nền kinh tế Singapore để thấy rõ những ngành kinh tế nào của dịch vụ nước ta chưa đụng chạm tới). [Nhân đây xin nói ngay: Cần loại bỏ mong muốn bệnh hoạn của một số người nào đó muốn phát triền casinos ở nước ta, bởi lẽ tình trạng tha hoá hiện tại trong xã hội nước ta đã vượt quá xa mức có thể kiểm soát được.]

(4)Nền tài chính quốc gia và hệ thống ngân hàng của đất nước rất mong manh, nợ nần nhiều – trong đó tỷ lệ nợ xấu rất cao, tính công khai minh bạch và năng lực quản trị rất thấp. Sự can thiệp của chính trị (bao gồm cả nhóm lợi ích) vào lĩnh vực tài chính ở mức rất nguy hiểm. Những đối phó cục bộ (như lãi suất, thuế suất, giá vàng, trái phiếu, đáo nợ…) tuy có lúc đem lại kết quả tạm thời (chữa cháy), song chung cuộc đang tích tụ những nguy cơ đổ vỡ nguy hiểm lớn hơn. Vấn đề đặc biệt nghiêm trọng là nền tài chính quốc gia và hệ thống ngân hàng của đất nước tự nó đã khơi ngòi và góp phần quan trọng vào những cuộc khủng hoảng kinh tế lớn của đất nước vừa qua, không hoàn thành được nhiệm vụ chính trị số một của nó là huy động và phân bổ tối ưu mọi nguồn lực cho sự phát triển năng động và bền vững của đất nước.

(5)Thất bại lớn nhất của 40 năm qua là đã không xây dựng nên được một thể chế chính trị của nhà nước pháp quyền dân chủ mang lại độc lập tự do và hạnh phúc cho nhân dân như đã ghi trong tiêu chí quốc gia[3] và giải phóng tiềm năng phát triển của đất nước. Nhiều quyền cơ bản của công dân và quyền con người bị ngăn cấm hoặc xâm phạm nghiêm trọng. Trong thất bại này cần đặc biệt nêu lên thảm bại nghiêm trọng của nền giáo dục nước nhà đang để lại những hậu quả rất lâu dài cho đất nước. Chúng ta đang có một nhà nước quản trị để cai trị theo phương châm cái gì không quản được thì cấm, cần thì can thiệp tùy tiện, hoàn toàn không phải là một nhà nước kiến tạo phát triển. Sau 40 năm xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đất nước ta lâm vào một cuộc khủng hoảng toàn diện (kinh tế - chính trị - văn hoá – xã hội), bị lệ thuộc nguy hiểm vào Trung Quốc, độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia đang bi uy hiếp hơn bao giờ hết kể từ sau 30-04-1975. Nghiêm trọng hơn nữa: Sau 4 thập kỷ độc lập thống nhất, phải chăng đất nước chúng ta hiện đang lâm vào tình trạng mất phương hướng phát triển giữa lúc tình hình khu vực và thế giới đang có nhiều thách thức nặng nề, và thậm chí trở nên nguy hiểm hơn trước?


II.         Những khuyết tật lớn trong kinh tế thị trường nước ta


Trước hết về quan niệm, quan sát sự phát triển của các nước tiên tiến trên thế giới, tôi xin rút ra những điều dưới đây về kinh tế thị trường.

Tinh thần cốt lõi của kinh tế thị trường là hình thành một quá trình phát triển kinh tế theo sự dẫn dắt của những lực đẩy được tạo ra từ mối quan hệ qua lại bình thường giữa cầu và cung trên thị trường.

Cầu và cung ở đây cần được hiểu là những đòi hỏi của trao đổi tự do trong đời sống kinh tế hướng tới một sự phát triển mới – thực hiện việc trao đổi thị trường của nền kinh tế “laissez faire”. Cần đặt vấn đề như vậy để luôn luôn chủ động tránh những khuynh hướng phát triển hoang dã hoặc thiên lệch nguy hiểm.

Đối với cả cầu và cung, thị trường luôn luôn có thể làm được chức năng điều tiết ở mức độ nhất định, được đặt cho cái tên là “bàn tay vô hình” (Adam Smith), bởi vì nó làm những việc khó thấy được liên quan đến điều tiết nền kinh tế. (yếu tố 1)

Song vì khả năng của “bàn tay vô hình” là hữu hạn, mà cuộc sống là nhiều chiều và vô hạn, do đó kinh tế thị trường còn phải cần đến “bàn tay bà đỡ” – thường là và trước hết là thuộc về chức năng của nhà nước. Xã hội càng phát triển, ngày càng có thêm nhiều yếu tố khác tham gia tích cực vào chức năng của “bàn tay bà đỡ”. (yếu tố 2)

Điều thiết yếu là bàn tay vô hìnhbàn tay bà đỡ đều phải làm đúng việc của mình với hiệu quả cao nhất. Vì lẽ này cả hai đều phải được một bộ não mẫn tiệp điều hành, có thể xem đây là điều kiện quyết định nhất. Bộ não ấy chính là một thể chế chính trị đáp ứng được đòi hỏi phát triển của quốc gia, phát huy được vai trò tích cực của giới doanh nhân (bao gồm các doanh nghiệp), phát triển được một xã hội dân sự năng động, luôn luôn cổ vũ và luôn luôn hướng quốc gia giành lấy những bước phát triển mới, nhà nước kiến tạo phát triển là công cụ đặc biệt quan trọng của thể chế chính trị này. (yếu tố 3)

Nêu lên những điều vừa trình bầy trên, nhằm mục đích nhấn mạnh ngay từ đầu: Nền kinh tế thị trường với đúng nghĩa nhất thiết phải bao gồm đầy đủ cả 3 yếu tố (1)bàn tay vô hình, (2)bàn tay bà đỡ, (3)thể chế chính trị; tất cả phải hoạt động ở trạng thái tối ưu cho phép – trong đó thể chế chính trị là điều kiện tiên quyết số một. Đây cũng là 3 tiêu chí có thể dựa vào để đánh giá thực trạng kinh tế thị trường nước ta hiện nay. Bàn về hoàn thiện kinh tế thị trường ở nước ta cũng có nghĩa phải bàn về phát triển đồng bộ cả 3 yếu tố cấu thành này của kinh tế thị trường. [Thông thường, về một nền kinh tế phát triển, người ta chỉ nhấn mạnh tới vai trò của “bay bàn tay vô hình” (thị trường) và của “bàn tay bà đỡ” (nhà nước) là đủ. Điều này đúng. Song lại nghĩ, cái gì điều khiển hay chi phối cả 2 bàn tay này của một cơ thể quốc gia, nhất là nhìn vào thực trạng nước ta, tôi đồng tình với quan điểm phải nhấn mạnh vai trò quyết định của thể chế chính trị. Xin tham khảo cuốn “Tại sao các quốc gia thất bại”, của D Acemoglu và J A Robinson”.]

Dưới đây xin nêu lên một số vấn đề nóng nhất.


II.1. Sự lũng đoạn của quyền lực và nhóm lợi ich

Bài 4A “Bàn về cải cách thể chế chính trị” đã cố gắng trình bầy sự lũng đoạn của quyền lực đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc nói chung, trong đó vấn đề nghiêm trọng số 1 là tình trạng “đảng hoá”  toàn bộ đời sống đất nước. Tại đây xin nêu thêm một số khía cạnh liên quan đến kinh tế thị trường.

Thể chế chính trị ở nước ta với đặc trưng đảng giữ vai trò lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối như đang diễn ra, về bản chất mâu thuẫn như nước với lửa đối với kinh tế thị trường. Chính đây là nguyên nhân gốc khiến cho kinh tế thị trường ở nước ta biến dạng nghiêm trọng, bị điều hành và lũng đoạn bởi (a)quyền lực đảng, (b)chủ nghĩa tư bản thân quen và chủ nghĩa tư bản hoang dã, (c)sự chi phối của lobby từ bên ngoài – đặc biệt là quyền lực mềm Trung Quốc.

Thực hiện kinh tế thị trường là đòi hỏi bất khả kháng đối với nước ta kể từ bắt đầu đổi mới 1986, đến nay là 3 thập kỷ. Nước ta đã tham gia đầy đủ các thể chế kinh tế quốc tế và khu vực (WTO, WB, IMF, ADB, các FTAs song phương và đa phương, vân vân…), nhờ đó kinh tế thị trường ở nước ta đã đạt được những bước phát triển rất quan trọng, GDP p. c. từ 200 USD nay đạt 1350 USD... Tuy nhiên, nguyên nhân thể chế chính trị (nguyên nhân gốc) nêu trên đã một mặt làm cho không ít những tiến bộ đạt được này đều ở trong tình trạng dang dở, mặt khác chỉ làm biến tướng để tăng thêm độ nguy hiểm chứ không khắc phục được sự lũng đoạn nêu trên (của 3 nhóm a, b, c). Có lẽ chính thực tế này giải thích hiện tượng: Tại sao kinh tế nước ta càng phát triển, càng bị xé lẻ thành các “tiểu vương quốc” theo lợi ích (các nền kinh tế GDP tỉnh, các nền kinh tế tập đoàn nhà nước, kinh tế đảng, kinh tế quân đội, kinh tế công an…) càng phát sinh nhiều ách tắc trong kinh tế và nhiều bất công trong xã hội, môi trường càng bị huỷ hoại nghiêm trọng, hầu hết các chiến lược kinh tế đã đề ra đến nay đều thất bại. Đặc biệt nghiêm trọng là có một số đại gia hay nhóm lợi ích giầu lên rất nhanh với những ảnh hưởng kinh tế và chính trị ngày càng lớn, trong khi đó toàn bộ nền kinh tế quốc gia tiếp tục đổ vỡ và vị thế mọi mặt của đất nước ngày càng yếu đi. Các vụ án đã xử cho thấy tội ác kinh tế ngày càng nguy hiểm về quy mô và về thủ đoạn thực hiện, sự dính líu bệnh hoạn giữa kinh tế và hệ thống quyền lực… Sự phát triển như vậy hầu như phá hủy sức phát triển năng động của đất nướ, hậu quả là những gánh nặng cướp mất cơ hội phát triển của tương lai. Hiện nay kinh tế đất nước đang ở trạng thái nguy hiểm chưa có lối ra.

Làm sao nói được là nước ta có một nền kinh tế hài hoà thống nhất với đúng nghĩa, vì bên trong chứa đựng quá nhiều nét cát cứ, các “tiểu vương quốc”, sự chùng lặp của các nền kinh tế GDP tỉnh… Có thể viết nhiều quyển sách mổ xẻ thực trạng này, nhưng hiện nay việc mổ xẻ đến gốc như thế đang bị kiêng cấm. Song trước sau sẽ là việc phải làm, nếu muốn chữa bệnh. Nói khái quát: đảng hoá đời sống đất nước, nền kinh tế GDP tỉnh, tập đoàn kinh tế nhà nước, và tư tưởng nhiệm kỳ, đấy là 4 yếu tố trực tiếp làm nát bét nền kinh tế đất nước, tạo ra môi trường màu mỡ cho sự can thiệp của quyền lực mềm Trung Quốc.  

Chức năng khách quan của thị trường là phản ánh mối quan hệ cung - cầu tạo điều kiện góp phần quan trọng cho sự phát triển hài hoà. Nhưng vi phạm điều mang tính quy luật này của thị trường, sẽ chỉ tạo ra đầu cơ và thị trường của đầu cơ, chung cuộc sẽ chỉ có được một nền kinh tế của những hành vi đầu cơ, với sự phá hoại không thể hình dung nổi.

Ví dụ, thời bao cấp trước 1986, vì phá quy luật kinh tế thị trường, nên đã xảy ra hiện tượng một cái xe đạp peugeot có thể đổi lấy một căn nhà, một điều phi lý không thể phi lý hơn trên thế gian này.

Còn hiện tại: Xâm phạm quy luật của kinh tế thị trường đã dẫn đến hệ quả cả một đất nước năng động rừng vàng biển bạc… nhưng hôm nay rơi thỏm vào nền kinh tế của những người đi làm thuê và đất nước trở thành đất nước cho thuê.

Dưới đây là một số nét minh hoạ.

-      Sáp nhập Hà Tây vào thủ đô Hà Nội là một ví dụ điển hình của kinh tế đầu cơ, là một trong những nguyên nhân trực tiếp tạo ra bong bóng kinh hoàng của thị trường bất động sản, mặc dù quyết định này bị cả nước bác bỏ quyết liệt (trong đó có Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt…), nhưng lợi ích của 3 nhóm “a, b ,c” đã thắng. Cả nước có nhiều cái bong bóng như thế và đã dẫn tới giá nhà đất của Việt Nam cao nhất thế giới, cản trở sự phát triển của đất nước. Song cũng chính  những quyết định theo lợi ích của 3 nhóm a, b, c như thế đã và đang trực tiếp làm nổ các bong bóng của thị trường địa ốc, khiến kinh tế cả nước rơi sâu thêm nữa vào khủng hoảng cơ cấu với những thiệt hại không thể lường hết được.
-      Kinh tế bauxite Tây Nguyên, kinh tế KCN Vũng Áng, nạn cho thuê rừng… là những ví dụ điển hình của kinh tế lobby, của kinh tế bán rẻ lợi ích quốc gia, của kinh tế đất nước cho thuê, đẩy đất nước đi sâu vào cơ cấu kinh tế lạc hậu và nguy cơ trở thành bãi thải công nghiệp cho những nước khác, xâm phạm nghiêm trọng lợi ích và an ninh quốc gia.
-      Phớt lờ những tín hiệu của thị trường, kinh tế tập đoàn nhà nước TKV (than và khoáng sản Việt Nam) lẽ ra phải biết mình hết lý do tồn tại từ lâu rồi nhưng vẫn cố đấm ăn xôi; hậu quả là mỏ hết và đã phải nhập khẩu than ngược trở lại rồi, hầu như toàn bộ vốn thiết bị của tập đoàn và hàng vạn lao động của nó rơi vào thất nghiệp, tập đoàn lấy duy trì kinh doanh/liên doanh trái nghề để tồn tại. Nhưng vì TKV chỉ có đặc quyền nhà nước bao cấp (vốn, quyền kinh doanh, ảnh hưởng chính trị…) và không có nghề, do đó tất yếu gây hậu quả nghiêm trọng cho toàn xã hội: Chết mà không chôn được, nên kinh lắm! Cả nước có không ít tập đoàn nhà nước, nông trường quốc doanh, xí nghiệp quốc doanh… chết rồi mà không chôn được.
-      Quản lý nhà nước bất cập và chính sách đất đai hiện hành dẫn tới hệ quả giá thành xây dựng 1km đường cao tốc ở Việt Nam đắt khoảng 5 – 10 lần so với Thái Lan, so với các nước phát triển khác.., thời gian thi công cũng dài hơn nhiều lần như thế, chất lượng cũng thấp hơn nhiều lần như thế…
-      Nền kinh tế có quá nhiều hành vi đầu cơ, lũng đoạn.., nên ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng FDI thu hút được. Vì thế khối lượng FDI thu hút được tuy không nhỏ, nhưng không đẩy nhanh được việc chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng hiện đại. Thu hút FDI như hiện nay có nguy cơ kéo dài sự tụt hậu của đất nước… Đúng là thị trường Việt Nam vẫn đang rất hấp dẫn đối với FDI, vì là quốc gia có nhiều tiềm năng lớn và giữ vị thế quan trọng trong khu  vực trên cả  hai phương diện kinh tế và chính trị. Tuy nhiên thể chế chính trị và thể chế kinh tế của đất nước hiện nay là rào cản lớn trong việc thu hút FDI có chất lượng. Đã đến lúc phải chấm dứt xu thế tranh thủ FDI với bất kỳ giá nào (bất chấp cả lợi ich quốc gia)  như đã diễn ra trong 3 thập kỷ vừa qua.
-      Vân vân…



II.2. Bàn tay bà đỡ còn nhiều yếu kém

         
Nhìn chung nhà nước làm không tốt vai trò “bà đỡ”; cụ thể là vừa không làm đúng chức năng của mình, vừa can thiệp quá sâu vào kinh tế,  khiến cho đòi hỏi cải thể chế kinh tế ngày càng nóng bỏng.

Những năm gần đây nhiều công trình nghiên cứu đã đi tới kết luận:

(a)môi trường kinh doanh bị nạn quan liêu và tham nhũng lũng đoạn nghiêm trọng, trong đó nổi bật là: quyền kinh doanh và quyền sở hữu bị xâm phạm, luật thường bị lách hoặc thay thế bằng “làm luật” và lobby, hiện tượng “bộ chủ quản” và nhiều hình thức “chủ quản” khác đang hồi sinh khiến thị trường bị các hoạt động theo chi phối “lãnh địa” của các nhóm lợi ích;
(b)thiếu vai trò trung gian hữu hiệu của các tổ chức kinh tế và dân sự phục vụ các doanh nghiệp trên các phương diện tài chính, luật pháp và kỹ thuật.., do đó tăng thêm giá thành và nguy cơ rủi ro trong sản xuất và kinh doanh – nhất là của các xí nghiệp nhỏ và vừa;
(c)yếu kém của thể chế chính trị và thể chế kinh tế dẫn tới làm suy giảm nghiêm trọng khả năng hoạt động và tính hiệu quả của các công cụ hướng dẫn hay điều tiết thị trường, ví dụ như lãi suất, tỷ giá, các khuyến khích, các sắc thuế, các chính sách điều tiết khác, vân vân..;
(d)cùng với những yếu kém của thị trường, hệ thống thống kê và thông tin kinh tế không chuẩn xác (hoặc cố ý che giấu hay tô hồng), làm cho những tín hiệu của thị trường giảm hoặc mất độ tin cậy, gây nguy hiểm cho hoạt động sản xuất kinh doanh và hệ điều hành, gia tăng các yếu tố đầu cơ;
(e)do những yếu kém nhiều mặt của kinh tế thị trường, ước lượng Việt Nam chỉ tận dụng được khoảng 30% các hiệp định khung song phương, đa phương và quốc tế đã ký kết, nên không cải thiện được bao nhiêu năng lực cạnh tranh, chưa tham gia sâu được vào các chuỗi sản phẩm mặc dù nền kinh tế nước ta có tỷ trọng xuất khẩu rất cao, thậm chí có nhiều thua thiệt ngay cả trên thị trường nội địa vì không tân dụng được những điều đã ký kết, vân vân… Mặt khác, hội nhập sâu rộng mà không nâng cao được năng lực cạnh tranh đã khiến nước ta rơi vào thế lệ thuộc ngày càng nặng nề vào bên ngoài về vốn (ODA, FDI, các khoản vay khác, thị trường…), nguồn cung đầu vào – đặc biệt từ Trung Quốc (tổng thầu các dự án, các sản phẩm trung gian), và một số lĩnh vực khác (FDI chi phối 65% xuất khẩu và gần 50% công nghiệp).
(f)khu vực kinh tế quốc doanh, trước hết là các tập đoàn nhà nước, chiếm tới trên 60% vốn của toàn xã hội, hiệu quả kinh tế thấp, nợ nần lớn, sau nhiều năm cải cách đi cải cách lại khu vực kinh tế quốc doanh hiện nay chiếm vai trò chủ đạo trong nợ của quốc gia và là nơi có nhiều ung nhọt nguy hiểm cho cả nền kinh tế; đặc biệt nghiêm trọng là hiện tượng kinh doanh/liên doanh trái nghề và hiện tượng sở hữu chéo của các tập đoàn nhà nước một mặt vô hiệu hoá đáng kể khả năng quản lý của nhà nước và hệ thống luật pháp, mặt khác chèn ép nguy hiểm các doanh nghiệp nhỏ và vừa, làm méo mó yếu tố thị trường;
(g)chưa tạo ra được một thị trường phục vụ tốt nông nghiệp trên cả 2 phương diện đầu vào và đầu ra, khiến cho nông dân bị thiệt thòi nghiêm trọng và chịu đựng nhiều bất công, đồng thời hạn chế khả năng cải tiến hay hiện đại hoá nông nghiệp; sau gần hai thập kỷ tham gia WTO và nhiều hiệp định khung khác nước ta vẫn lạc hậu và phải chịu nhiều thua thiệt lớn trong xuất khẩu một số sản phẩm nông nghiệp chủ lực như gạo, cà-phê, cao su, thuỷ sản, tiêu…
(i)còn thiếu nhiều chính sách và biện pháp thiết thực tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng và vai trò của giới doanh nhân đối với sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, nhất là trên các phương diện: nâng cao năng lực kinh doanh, phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cải tiến các mô hình doanh nghiêp, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đỡ đầu các sản phẩm mới, tham gia xây dựng các chính sách vỹ mô và vi mô, thể chế, chiến lược phát triển… (còn thiếu những quyết sách làm cho doanh nhân và các nhà công nghệ trở thành những người trực tiếp thúc đẩy và mở mang kinh tế; xin lưu ý: doanh nhân và các nhà công nghệ mới là người trực tiếp tạo ra công ăn việc làm và làm giầu cho đất nước);
(j)trước sau không thể duy trì vai trò ngân hàng nhà nước với tính cách như là một công cụ của quyền lực như hiện nay (nguyên nhân gốc của lạm phát và của tình hình chi tiêu cũng như phân bổ nguồn lực không thể kiểm soát được). Dứt khoát phải sớm tính đến vai trò độc lập của ngân hàng nhà nước như một công cụ của nhà nước pháp quyền, phải hoạt động theo hiến pháp, chỉ chịu sự giám sát duy nhất của hiến pháp và quốc hội, qua đó trở thành công cụ tài chính quốc gia duy nhất, không thuộc bất kỳ đảng phái hay quyền lực chính trị nào, nhằm đạt hiệu quả tốt nhất đối với toàn bộ nền kinh tế - đây là một trong những điều kiện tiên quyết không thể thiếu của nhà nước pháp quyền cũng như nền kinh tế thị trường. Cùng với vai trò độc lập này của ngân hàng nhà nước là vai trò độc lập của hệ thống thống kê nhất thiết phải tôn trọng, cùng với cùng một lý do như ngân hàng nhà nước;
(…)

          Tựu trung có thể nhận xét, vai trò “bà đỡ” của nhà nước còn đứng khá xa đòi hỏi mang lại cho đất nước có một nền kinh tế thị trường được thúc đẩy bằng sự vận động của quy luật cung – cầu và sự dẫn dắt của một thể chế chính trị khuyến khích sự phát triển đất nước bằng những chính sách vỹ mô đúng đắn. Những điều trình bầy trong phần II này cho thấy đòi hỏi bức xúc phải tiến hành cải cách thể chế chính trị là trọng tâm số một, song rõ ràng phải luôn luôn gắn với cải cách thể chế kinh tế để duy trì được tình hình: Cải cách thể chế chính trị phải gắn liền với những phát triển đạt được trong kinh tế, lấy thành quả này thúc đẩy cải cách thể chế chính trị. Kinh nghiệm Myanmar khác hẳn với thực tiễn cải cách ở Liên Xô  cuối những năm 1980 ở chỗ từng bước tiến bộ trong cải cách chính trị ở Myanmar đều được hậu thuẫn bằng những tiến bộ cụ thể trong cải cách kinh tế và ngược lại, mặc dù nội tình Myamar khó khăn hơn Liên Xô hồi đó nhiều.



III.        Một số gợi ý

Sự thật kinh tế đất nước đang ở trong một giai đoạn có nhiều khó khăn nghiêm trọng của khủng hoảng cơ cấu kinh tế còn kéo dài, mặc dù hai năm gần đây bắt đầu có dấu hiệu phục hồi. Có 4 vấn đề lớn nóng bỏng trong những năm tới nhất thiết phải giải quyết xong một cách cơ bản vào khoảng năm 2020:
-      Cơ cấu lại nền kinh tế với mục tiêu giảm bớt lệ thuộc vào bên ngoài, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các khu vực kinh tế trong nước, và phát triển sản phẩm mới, chuyển đổi sang thời kỳ phát triển theo chiều sâu;
-      cơ cấu lại thị trường tài chính tiền tệ để nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực và kiểm soát được vấn đề nợ;
-      cơ cấu lại khu vực kinh tế quốc doanh, trước hết là các tập đoàn nhà nước để trực tiếp góp phần vào đổi mới cơ cấu kinh tế;
-      từng bước xử lý vấn đề nợ xấu đang trở nên nguy hiểm.

Cả 4 vấn đề nêu trên đều mang tính cơ cấu nên khó, vừa đòi hỏi nhiều nguồn lực, vừa đòi hỏi nhiều thời gian, không thể đồng loạt giải quyết. Thiết kế các giải pháp từng bước cho từng vấn đề lớn này, và thực thi hài hoà với việc giải quyết từng bước cả 4 vấn đề lớn này như thế nào… là những bài toán khó. Càng không thể tạo ra tăng trưởng cao trong những năm tới này. Tăng trưởng như hiện nay không có chất lượng mong muốn và không tạo ra phát triển mới sẽ chỉ có nghĩa từng lúc tạo ra ổn định nhất thời với cái giá phải trả rất đắt, để sau đó sẽ gây ra khủng hoảng sâu sắc hơn. Chưa nói đến sắp tới nếu thiếu những  biện pháp thắt lưng buộc bụng gắt gao và có hiệu quả sẽ khó tránh đổ vỡ tiếp – trước hết vì nợ nần và vì những mất cân đối lớn. Chưa nói đến những diễn biến đột xuất từ các vấn đề an ninh quốc phòng (ví dụ: Biển Đông)[4], các vấn đề từ thiên tai, dịch bệnh nếu xảy ra... Đây là sự thật nghiêm khắc,  cần nói rõ cho cả nước biết, và cả nước – trước hết là ĐCSVN – phải thẳng thắn đối mặt.

Cái khó là cả 4 vấn đề nêu trên đều rất nóng, luôn luôn đẻ ra nhưng hệ quả khó trong quá trình xử lý. Ví dụ cơ cấu lại nền kinh tế, chắc chắn phải loại bỏ một số sản phẩm (cũng có nghĩa là phải đóng cửa một số loại doanh nghiệp nào đó, giữa lúc từ vài năm gần đây đã có tới trên 200.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa phải đóng cửa); trong khi đó vô cùng thiếu mọi loại nguồn lực cho phát triển các sản phẩm công nghiệp phụ trợ mà nền công nghiệp hiện có đòi hỏi.  Việc cải cách các doanh nghiệp quốc doanh – trước hết là các tập đoàn kinh tế nhà nước – cũng đặt ra những khó khăn như vậy: thất nghiệp tăng, doanh số giảm, nhà nước mất thuế... Nông nghiệp đang đặt ra nhiều bài toán rất khó và nhạy cảm, với khoảng trên 50% lao động cả nước làm nông nghiệp, với bình quân ruộng đất canh tác 0,3 ha/1 lao động, luật đất đai và thể chế chính trị hiện tại hoàn toàn bất cập cho việc đi lên một nền nông nghiệp của một quốc gia công nghiệp... Cải cách thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng cũng luôn luôn đặt ra nhiều vấn đề rất nhạy cảm. Lấy tiền ở đâu tăng cường tiềm lực quốc phòng đang vô cùng bức thiết lúc này? Đời sống những người làm công ăn lương, của các bộ phận dân cư nghèo ở nông thôn và thành thị, ở các vùng sâu vùng xa… đang vô cùng nhức nhối… Công ăn việc làm của những người đến tuổi lao động? Hàng chục vạn lao động đang đi làm thuê ở nước ngoài, hàng vạn phụ nữ phải đi lấy chồng nước ngoài vì nghèo đói!.. Có thể nói, đất nước có gì có thể bán được hầu như đã bán hết rồi, từ tài nguyên, đến môi trường, đất đai, lao động rẻ, vị trí địa lý…  Song nghèo hèn và bế tắc vẫn hoàn nghèo hèn và bế tắc…  Hình như từ lâu đã bắt đầu bán cả linh hồn nữa, vì đang cam chịu số phận bị đè nén, èo uột, leo dây và lệ thuộc… 40 năm độc lập rồi vẫn chưa cai sữa được ODA và các thứ đi xin khác! Không biết niềm tự hào dân tộc còn lại là bao!?.. … Chưa nói đến thực tế đất nước đang có nhiều vấn đề nóng, rất nóng khác, trong hầu hết mọi lĩnh vực của cuộc sống: giáo dục, y tế, giao thông vận tải, năng lượng, môi trường, tệ nạn tham nhũng, chênh lệch giầu nghèo và bất công lớn quá, sự tha hoá trong xã hội từ những nguyên nhân kinh tế… Mỗi sản phẩm mới ra đời trong quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế cũng đòi hỏi phải có một khoảng thời gian và những cái giá phải trả nhất định mới định hình được… Một ngành kinh tế mới càng khó hơn, trong khi nguồn nhân  lực và thể chế chính trị gần như bất cập… Như thế làm thế nào để có thể chuyển toàn bộ nền kinh tế đất nước đi vào một thời kỳ phát triển mới? Còn làm tiếp như hiện nay là đi tiếp vào ngõ cụt!.. Và sự thật là bộ não lãnh đạo của đảng với cái “think tank” rất đồ sộ đang có trong tay lúc này vẫn không sao mách bảo được cho đất nước nên làm sản phẩm gì, làm như thế nào, rồi chuyển đổi cả nền kinh tế đất nước sang thời kỳ phát triển mới ra sao… Cái định hướng xã hội chủ nghĩa không giúp được gì cho những việc cam go này… Vân vân… Thực tế của bức tranh kinh tế đầy thách thức này là sản phẩm kết tụ lại của cả một quá trình chế độ chính trị do ĐCSVN nắm quyền điều hành toàn diện và tuyệt đối dẫn dắt đất nước theo con đường “độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội” từ 40 năm nay. Thực tế của bức tranh kinh tế này không phải là một sản phẩm nhất thời hoặc của riêng một người hay một nhóm người nào, cũng không phải là sản phẩm của một vài khoá nhiệm kỳ đại hội nào, mà là sản phẩm của ĐCSVN nắm quyền cai trị đất nước trong 40 năm đầu tiên độc lập thống nhất. Xin nhắc lại ở đây để không bao giờ quên trong khi so sánh và đánh giá chính đất nước mình 40 năm qua: Chiến tranh Triều Tiên kết thúc 1953, Hàn Quốc bắt đầu sự nghiệp công nghiệp hoá vào khoảng năm 1960, với GDP p. c. lúc ấy là 81 USD; năm 1990 trở thành NIC (nước mới công nghiệp hoá).

Từ minh hoạ đôi điều nói trên để đi đến kết luận dứt khoát: Nguy cơ bất cập của hệ thống chính trị nói chung và của thể chế kinh tế hiện hành nói triêng trước những vấn đề kinh tế phải giải quyết trong những năm của khoá đại hội XII tới rất lớn. Mọi thứ kinh tế bánh vẽ để trấn an, hoặc sự kiên định duy ý chí định hướng xã hội chủ nghĩa  để bảo vệ hệ thống chính trị toàn trị như đang tồn tại sẽ chỉ đem thêm thảm hoạ mới cho nhân dân và giúp Trung Quốc bá quyền xiết chặt hơn nữa cái tròng lệ thuộc trên cổ đất nước ta mà thôi. Tất cả càng nói lên tính quyết liệt của một thời kỳ cải cách đang đặt ra phía trước cho đất nước, có lẽ quyết liệt hơn và phức tạp hơn rất nhiều và cũng nhạy cảm hơn rất nhiều so với lúc phải tiến hành đổi mới thời kỳ 1986, vì tình hình khu vực và quốc tế ngày nay hoàn toàn khác, sự lệ thuộc của đất nước đã trở nên quá nguy hiểm…

 Thấy và nghĩ gì nói vậy, còn phiến diện lắm, cho nên ngoài việc nêu lên những nhận xét trên của cá nhân, tôi xin phép không bàn về các giải pháp, xin để cho các chuyên gia kinh tế làm việc này tốt hơn. Trong bài này, tôi xin gửi gắm nỗi mong mỏi của mình là đảng – trước hết là Bộ Chính trị và Tổng bí thư – phải có ý chí tiến hành tổng kết trung thực tình hình kinh tế đất nước; tổng kết được rồi thì phải nói thực với toàn đảng và với cả nước, để chắt lọc mọi trí tuệ, mọi nỗ lực, đưa kinh tế nước ta ra khỏi thời kỳ khủng hoảng cơ cấu trầm trọng hiện nay. Thiết nghĩ đất nước đang cần có một chiến lược thoát khỏi nền kinh tế gia công hiện nay, tạo ra một xu thế phát triển kinh tế của tiến bộ khoa học kỹ thuật và trí tuệ, sao cho đến năm 2020 khắc phục xong khủng hoảng cơ cấu kinh tế hiện nay, phát triển được những điều kiện kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật cần thiết cho bước phát triển mới, xây dựng được nguồn nhân lực có chất lượng, thiết lập được thể chế kinh tế và chính trị đáp ứng được đòi hỏi của phát triển trong giai đoạn mới. Trong những năm tới này đất nước cũng phải tích luỹ được lực mới, để từ năm 2020 có thể bắt tay vào xây dựng một nền kinh tế hiện đại hoá đúng với nghĩa phát triển là động lực bền vững của tăng trưởng kinh tế. Đặt vấn đề như vậy chất lượng, chứ không phải số lượng của tăng trưởng kinh tế mới là mục tiêu quyết định – phục vụ nhiệm vụ trung tâm là phát huy yếu tố con người làm nên sức mạnh quốc gia. Nếu thế cũng phải cất đi cái khẩu hiệu bánh vẽ “đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”, càng không thể trút hết mọi tội lỗi lên cái lá diêu bông: Nguyên nhân của mọi nguyên nhân của tình trạng kinh tế đất nước hiện nay là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không theo kịp công cuộc đổi mới… - mà lẽ ra là phải vứt bỏ dứt khoát cái lá diêu bông!

Chỉ có một lối ra khỏi tình hình nguy hiểm hiện nay là: Trí tuệ, dân chủ và ý chí cứu nước phải là những động lực chính trị của sự nghiệp phát triển kinh tế trong những năm tới, bắt đầu từ việc đại hội XII quyết định tổ chức lại ĐCSVN để phấn đấu trở thành đảng của dân tộc, dấy lên sự tham gia của toàn dân tộc chuyển đất nước đi vào thời kỳ phát triển mới năng động và bền vững.

-      Những yếu kém và sai lầm tích tụ lại của 4 thập kỷ đầu tiên xây dựng đất nước để lại nhiều hậu quả rất bức xúc, đòi hỏi phải dọn dẹp và khắc phục, đến mức gần như phải xắp xếp lại giang san đất nước(1);
-      kinh tế đất nước hiện nay đi vào một thời kỳ phát triển hoàn toàn khác sau 30 năm đổi mới, đặt ra những đòi hỏi mới phải đáp ứng(2);
-      những biến cố truyền thống và phi truyền thống trong cục diện của trật tự quốc tế đa cực đang đặt ra cho mọi quốc gia những thách thức mới khôn lường; thậm chí đã xuất hiện trở lại chiến tranh lạnh cục bộ ở châu Âu, ở Biển Đông, chiến tranh nóng ở Ukraine và của IS…(3).

Cả 3 vấn đề có ý nghĩa chiến lược vừa nêu trên đòi hỏi phải đồng thời giải quyết.

Vì vậy hệ thống chính trị của đất nước nhất thiết phải được cải cách triệt để, ngõ hầu có thể phát huy mọi khả năng và trí tuệ đã tích lũy được 40 năm qua, giải phóng mọi tiềm năng và nội lực hiện có của đất nước để giành thắng lợi.

Tất cả phải nhằm vào xây dựng một Việt Nam hướng theo các tiêu chuẩn quốc tế để phát triển chính mình về mọi mặt, và để hội nhập quốc tế toàn diện. Phải lấy các kết quả thương hiệu “made in Vietnam” từng bước giành được cho mọi sản phẩm của mình tại thị trường trong nước và quốc tế làm thước đo từng tiến bộ của mình trên con đường gian khổ này, và cứ thế phấn đấu tiếp. Muốn như thế, phải suy nghĩ lại tất cả, phải học lại tất cả. Không có một tiêu chuẩn quốc tế nào là ngoại lệ, là mong được chiếu cố, hay có thể bỏ qua, hay là kiêng cấm đối với Việt Nam, mà phải chấp nhận tất cả. Để cọ sát, để phấn đấu, phấn đấu đến cùng mà đạt lấy!..

Rồi đây Việt Nam có thể sẽ là vườn rau sạch, vườn hoa, nhà cung cấp thực phẩm sạch và cao cấp của thế giới. Là các trung tâm y tế, điều dưỡng, giáo dục, giao dịch tài chính và các dịch vụ khác của khu vực và thế giới. Sản phẩm công nghiệp “made in Vietnam” sẽ trở thành những khâu gắn kết hữu cơ trong những chuỗi sản phẩm công nghiệp của kinh tế thế giới. Việt Nam sẽ còn phải phấn đấu trở thành trung tâm của sự chia sẻ mọi vấn đề, mọi kinh nghiệm, mọi ý tưởng.., đóng góp vào các lực thúc đẩy hợp tác và phát triển của khu vực và toàn cầu… Việt Nam sẽ còn phải phấn đấu trở thành nơi hội tụ của các nước đang phát triển, để cùng nhau tìm ra những giải pháp cho những vấn đề của các nước đang phát triển, cùng nhau cất tiếng nói của các nước đang phát triển trước thế giới… Tất cả phải tạo ra cho dân tộc và đất nước ta khả năng và phẩm chất dấn thân đi cùng với cả cộng đồng quốc tế trong mọi vấn đề quốc tế. Vì lợi ích của cộng đồng quốc tế, đồng thời nhằm giành lấy hợp tác và hậu thuẫn của cả cộng động quốc tế cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của chính mình!

Là nước đi sau, nước ta nhất thiết phải đứng vững trên mặt đất này, không viển vông, mà phải ra sức khai thác mọi kinh nghiệm của cả thế giới và của chính mình, học hỏi thế giới và những thành bại của chính mình 40 năm qua, phải bám vào tiêu chuẩn quốc tế để phát triển chính mình. Cũng không một kiêng cấm hay giáo điều nào được phép trói buộc đất nước. Thế hệ này nối tiếp thế hệ khác, tất cả vì một Việt Nam của hòa giải dân tộc, cường thịnh và hạnh phúc. Đứng bên cạnh “giấc mộng Trung Hoa”, nước ta nhất thiết phải sống như thế. Là nước đi sau, muốn thoát khỏi tụt hậu để vươn lên hàng ngũ văn minh của nhân loại, nước ta phải sống như thế.

Nước ta phải có con người nào, thể chế nào và trí tuệ nào để làm được những việc nói trên?

Làm gì? và làm thế nào để lựa chọn được và quyết đi trên con đường phát triển nói trên, nếu không phải là cả nước đồng lòng tiến hành một cuộc cải cách chính trị đổi đời chính mỗi bản thân chúng ta và đổi đời cả đất nước?

Đại hội XII của ĐCSVN đang đứng trước bước ngoặt lịch sử: Thúc đẩy sự nghiệp cải cách này ra đời? Hay là làm con đê chặn đứng dòng chảy tất yếu của đất nước? Vạn sự khởi đầu nan, có dân chủ và hòa giải dân tộc Việt Nam ta sẽ có tất cả. Mong rằng đại hội XII bàn kỹ điều này./.

Hết
 Hà Nội, tháng 9 - 2014




[1] Các nước được xếp loại “nước đang phát triển có thu nhập trung binh” có GDP p.c. trong khung 7000 – 12000 USD, nước ta hiện nay mới đạt khoảng 1350 USD. Để lọt được vào khung này, nước ta cần khoảng 1 – 2 thập kỷ nữa.
[2] Thật ra rất khó nói nước ta có chiến lược phát triển kinh tế với đúng nghĩa, nó mang quá nhiều nét dang dở của tự phát và bị cắt vụn bởi nhiệm kỳ và vùng miền, bộ, tỉnh…; bởi vì chiến lược được hiểu theo những gì đã được viết ra trong nghị quyết dù là có nhiều khiếm khuyết song thường không bao giờ được thực hiện nghiêm túc, hay thay đổi theo nhiệm kỳ đại hội, bị xé lẻ theo tỉnh hay theo ngành; mỗi tỉnh lại là một nền kinh tế riêng hoàn chỉnh, được quy hoạch, tính toán riêng cho tỉnh… (cái gọi là “nền kinh tế GDP tỉnh”). Chiến lược công nghiệp hoá là một chiến lược tổng thể, song cũng được thay đổi tuỳ tiện qua các khoá đại hội. Chiến lược kinh tế vùng hầu như chỉ nằm trên giấy, trong khi đó cuộc sống tự nó tạo ra các liên kết giữa các ngành và các địa phương theo nhu cầu của cuộc sống, không nằm trong nhị quyết nào cả. Hầu như đến nay chưa có một quy hoạch phát triển kinh tế nào đứng vững – nhất là quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch đô thị, quy hoach sản phẩm nông nghiệp, khoáng sản… Vân vân…
[3] Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
[4] Riêng đối phó với sự kiện giàn khoan HD 981 kinh tế đất nước mất khoảng 1% GDP. 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét