Bàn về Cải cách thể chế chính trị
Bài 4 – viết về đại hội XII sắp tới của ĐCSVN[1]
Nguyễn Trung
nguyentrung-vt.blogspot.com
Hà Nội. 02-09-2014
Nội dung:
I.Thực chất của cái gọi là “định hướng
xã hội chủ nghĩa”
Bàn về hậu quả của vấn đề “đảng hoá” hệ thống
chính trị và đời sống đất nước. Cốt lõi của cải cách thể chế chính trị là tách
bạch ra đảng là đảng, nhà nước là nhà nước,
khắc phục chế độ đảng trị để xây dựng nhà nước pháp quyền.
II. Vấn đề rừng luật và luật rừng
Cải cách phải quan tâm xoá bỏ luật rừng và
những di sản nặng nề của quá khứ.
III. Nội lực lớn nhất của đất nước chưa được
phát huy đúng mức: Con người - Cải cách phải nhằm xoá bỏ chế độ
"xã hội được chăn dắt" đang tồn tại; cần phải xây dựng xã hội dân sự
trở thành một trong 3 trụ cột của quốc gia là "kinh tế thị trường -
nhà nước pháp quyền - xã hội dân sự", từ đó tạo ra nền móng bền vững
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
IV.Kết luận – Sự thiếu hụt của ý chí chính
trị: Lợi ich quốc gia không phải là trên hết
*
I. Thực chất của cái
gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa”
Xem xét khái quát về
mặt hình thức, hệ thống chính trị hiện hành của nước ta, có thể nói là một hệ
thống tương đối hoàn chỉnh, nghĩa là đầy đủ đầu mình chân tay như mọi quốc gia
bình thường thuộc loại các nước đang phát triển.
Song ở nước ta khác
biệt quan trọng là chỉ có ĐCSVN là đảng duy nhất và nắm trọn quyền lực đất nước.
Hệ thống nhà nước ở ta có thể nói là hoàn chỉnh, nhưng được đảng hoá cao độ, và
là bộ máy thực thi quyền lực của đảng trên thực tế. Ngoài ra còn có Mặt Trận Tổ
Quốc Việt Nam với tính cách là một hệ thống tổ chức các đoàn thể, làm chức năng
nối dài cánh tay của đảng thâu tóm toàn xã hội.
Như vậy, nội dung cốt
lõi của định hướng xã hội chủ nghĩa là: Toàn bộ đời sống mọi mặt của đất nước,
bao gồm cả đời sống tinh thần, được bao quát dưới cái vòm trời ý thức hệ “độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”, trong một hệ thống chính trị đảng
kiểm soát tất cả. Còn lại những gì trong đời sống mọi mặt của đất
nước mà vòm trời này không kiểm soát được, đều được phân loại thành (a)đối tượng
trấn áp của chuyên chính, (b)đối tượng tiềm tàng của chuyên chính.
Trong toàn bộ cuộc sống
đất nước, mọi chuẩn mực tinh thần và các thang giá trị đều phải được xác lập
theo thế giới quan (ý thức hệ) của ĐCSVN “độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã
hội”; ngược lại với giáo lý này, đều bị coi là “ngoại đạo”, “tà đạo”... – thường
được vạch mặt chỉ tên là những hiện tượng “thoái hoá biến chất”, “suy thoái đạo
đức chính trị, tư tưởng…”, “diễn biến hoà bình”... – gần đây thể hiện rõ nét và
trực diện nhất qua những lời phê phán các ý kiến trái chiều xung quanh việc sửa
đổi hiến pháp năm 2013. Trong nhiều trường hợp, phản ứng quyết liệt hơn nữa của
hệ thống chính trị là quy mọi hiện tượng trái chiều này là “các thế lực thù địch”
để xác định cách đối xử, thuận tiện cho hù dọa và trấn áp. Cũng phải nói ngay,
những chuẩn mực tinh thần và giá trị của định hướng xã hội chủ nghĩa thực ra chỉ
để phục vụ gìn giữ chế độ và vai trò của đảng, nghĩa áp dụng cho dân là chủ yếu,
chứ không phải là để cho người cầm quyền và các nhóm lợi ich tuân thủ.
Hơn nữa, mặc dù khẳng
định như đinh đóng cột con đường phát triển của Việt Nam phải là xây dựng chủ
nghĩa xã hội, song chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng phải thừa nhận cho đến
cuối thế kỷ 21 không biết có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở nước ta hay không.
Còn trạng thái định hướng xã hội chủ
nghĩa như đã đạt được sau 30 năm đổi mới là: Mọi bất cập và sai lầm đã vấp
phải đã dẫn tới hệ quả những thành tựu đạt được không tương xứng với cái giá phải
trả, với kết cục là từ khoảng một thập kỷ nay đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng
toàn diện. Đất nước đang đứng trước nhiều thách thức đối nội và đối ngoại chưa
có lời giải, đang ở thời kỳ bị uy hiếp nghiêm trọng nhất trong một trật tự quốc
tê mới đày biến động và những thách thức mới.
Nghịch lý lớn nhất
là nền kinh tế đất nước đang ngày càng đi thẳng vào con đường của kinh tế thị
trường không thể cưỡng lại được. Song hệ thống chính trị lại đang ngày càng lâm
vào nhiều bế tắc và bất cập mới, do đó xu hướng phát triển theo chủ nghĩa tư bản hoang dã và chủ nghĩa tư bản thân quen là hệ quả tất
yếu và trở thành nguồn gốc quan trọng nhất của tệ nạn tham nhũng và tiêu cực. Nỗi lo mất chế độ đã chống cự lại dứt khoát và
xóa bỏ ngay từ trong trứng nước mọi ý tưởng manh nha muốn thông qua cải cách
chính trị để ra khỏi tình trạng bế tắc này (các vụ Trần Độ, Trần Xuân Bách, v…
v…). Những năm tháng đổ vỡ rối ren ở Liên Xô sau perestroika và glasnost càng
được coi là những lý do “sống” biện minh cho thái độ cự tuyệt quyết liệt cải
cách chính trị.
Hội nghị toàn quốc của
đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII (01-1994) nhấn mạnh 4 nguy cơ (1)tụt hậu kinh tế; (2)chệch
hướng xã hội chủ nghĩa; (3)tham nhũng tiêu cực; (4)diễn biến hòa bình[2].
Hội nghị này dứt khoát gác lại nhiệm vụ cải cách thể chế, nhưng lại đặt vấn đề
“chống diễn biến hoà bình” là nhiệm vụ chính trị trung tâm. Từ đây, kinh tế đất
nước đi một đường, hệ thống chính trị của đất nước đi một nẻo, gây ra nghịch
lý: Kinh tế càng phát triển, càng nảy sinh nhiều bất cập và mâu thuẫn mới. Thực
tế chính trị này kích thích sự bùng nổ xu thế làm ăn “chụp giựt”, “cát cứ”, xé
lẻ, mạnh ai nấy làm, chùng lặp… của các nhóm lợi ích khác nhau - từ trung ương
tới địa phương, phá vỡ mọi chiến lược, kế hoạch phát triển, luật pháp và chính
sách… Thực tế này giải thích vì sao từ Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII, sau một thập kỷ khởi sắc nhờ đổi mới 1986, kinh tế ngày càng lún sâu vào
xu thế phát triển theo chiều rộng không thể cưỡng lại được. Tham nhũng tiêu cực
và lợi ích nhóm ngày càng hoành hành. Đến khoảng giữa thập kỷ đầu tiên của thế
kỷ này, những yếu tố tiêu cực của tình trạng bất cập và các mâu thuẫn phát sinh
đã tích tụ thành cuộc khủng hoảng toàn diện hiện nay đất nước đang lâm vào[3].
Chủ trương bảo vệ chế
độ đến cùng đã buộc lý luận của đảng phải sáng tác ra khái niệm “định hướng xã
hội chủ nghĩa” như một cái “đuôi” thêm vào những việc bắt buộc phải làm – ví dụ
như xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa… Vân vân… Đơn giản vì thời
bình không thể thiếu một nhà nước pháp quyền, nhưng nó phải có tính định hướng
xã hội chủ nghĩa, đối với kinh tế thị trường sau đổi mới cũng vậy… (Gần đây lý
luận của đảng có lúc đã đề xuất “xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa”,
nhưng đề xuất này chết yểu ngay tức khắc…). Gọi cái đuôi “định hướng xã hội chủ
nghĩa” là một sản phẩm sáng tác là vì
nó không có nội dung dính líu gì với kinh điển của học thuyết Marx và học thuyết
Lenin, cũng trái ngược nghiêm trọng với chủ nghĩa Mác – Lênin[4]
được du nhập vào nước ta.
Ngoài những thay đổi
hay cải tiến nhỏ giọt và hình thức (ví dụ: lập các “ban cán sự đảng” trong các
bộ máy của hệ thống chính trị quốc gia, lập các “đảng đoàn”, “đảng uỷ”, hoặc “đảng uỷ khối”… trong hệ thống bộ máy
nhà nước hoặc trong mọi tổ chức kinh tế và chính trị - xã hội khác khắp đất nước,
v.., v…), đảng đã bỏ không ít công sức thổi hồn sống cho cái “đuôi” được gắn
thêm vào này nhưng không thành. Ví dụ: Dù đã thực hiện nhiều nỗ lực cải tiến,
bao gồm cả những biện pháp mở rộng dân chủ cơ sở, mở rộng dân chủ trực tiếp..,
song không gặt hái được gì có thực chất. Thất bại tiêu biểu nhất của những nỗ lực
này là hiện tượng đảng viên vẫn chiếm tỷ lệ khoảng <80% số đại biểu trong quốc
hội, trên thực tế quốc hội vẫn là cơ quan thừa hành của quyền lực đảng. Trong
ngôn ngữ công khai không ít lần được nói thẳng ra trong các kỳ họp quốc hội: Bộ Chính trị là cấp trên của quốc hội..,
…Cái này Bộ Chính trị đã cho ý kiến… Cái này chờ có ý kiến Bộ Chính trị rồi sẽ triển
khai tiếp... Phải chăng đấy là nội dung đích thực của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa?.. … Vân vân…
Cái tiến thoái lưỡng
nan (dilemma) là xây dựng đúng nhà nước pháp quyền thì mất đảng trị, giữ đảng
trị trong nhà nước thì không thể có nhà nước pháp quyền. Cái gốc của vấn đề là
đảng muốn “nắm” chặt trong tay mọi thứ và bằng mọi giá, chứ không muốn chỉ giữ
vai trò sống thanh khiết làm “linh hồn hay ý tưởng lãnh đạo” đất nước. Trong
kinh tế và trong mọi lĩnh vực khác đảng cũng đều rơi vào hoàn cảnh éo le như vậy:
nắm, chứ không phải lãnh đạo. Có bộ trưởng đã phải kêu lên “làm gì có cái gì là mô hình định hướng xã hội
chủ nghĩa như thế mà cất công tìm tòi và xây dựng!”. Sự thật là tha hoá của quyền lực ngay từ sau
30-04-1975 đã từng bước cướp đi khả năng và phẩm chất là đảng lãnh đạo của đảng,
và cuối cùng làm cho ĐCSVN hôm nay chỉ còn lại vỏn vẹn là lực lượng chính trị mạnh
nhất nắm quyền cai trị đất nước.
Công tác lý luận của
đảng cũng nỗ lực đề cao các khái niệm “dân giầu nước mạnh, xã hội dân chủ công
bằng văn minh”, xây dựng “nhà nước của dân, do dân, vì dân”, tiêu chí quốc gia
được ghi rõ là “độc lập – tự do – hạnh phúc”…
Tuy nhiên, vì thiếu vắng một thể chế pháp quyền thực thi, nên tất cả những
giá trị này cũng như hầu hết các quyền công dân đã được ghi trong hiến pháp
cũng chỉ là trên giấy.
Song trớ trêu là ở
chỗ trong cuộc sống thực, cái “đuôi” được gắn thêm vào này mới là cái yếu tố cuối
cùng quyết định toàn bộ sự vận động của cái thực thể mang nó trên lưng mình: đảng
quyết định tất cả. Diễn tả nôm na, đấy là hiện tượng cái đuôi con chó làm cái
chức năng điều hành toàn bộ sự vận động của con chó. Nghịch lý này đã hủy hoại
nhiều giá trị cơ bản vốn là nền tảng quốc gia và đạo đức con người, biến tướng
nghiêm trọng mọi thứ trên đời, tạo ra không biết bao nhiêu hiện tượng giả,
diễn, hão trong đời sống mọi mặt của đất nước... Ví dụ: bầu cử là để thực
hiện “đảng cử dân bầu” ở các cấp, nền pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa thực
thi pháp luật bằng cách xử án theo kiểu đã có sẵn án bỏ túi của quyền lực đảng,
nhiệm vụ thanh tra/kiểm tra được thiết kế theo kiểu vừa đá bóng vừa thổi còi,
văn học thì phải là nền văn học định hướng xã hội chủ nghĩa, báo chí thì phải
là “lề phải”, vân vân…
Hệ thống nhà nước đảng
trị trong vận hành như vậy của toàn bộ đời sống kinh tế - chính trị - văn hoá -
xã hội của đất nước biến thành chế độ toàn trị, với đặc trưng nổi bật
là “độc quyền chân lý, áp đặt tư duy, quy
kết tuỳ tiện”, và quyền lực đảng luôn luôn là yếu tố chi phối cuối cùng tất
cả, bất chấp mọi mâu thuẫn và những điều phi lý… Vì vậy, nội dung đích thực của việc sáng tác
ra cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” chỉ nhằm duy trì ảnh hưởng quyết định
của ĐCSVN trong nhà nước, trong kinh tế, trong tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống,
nghĩa là thiết lập trên đất nước một chế độ toàn trị[5]…
Hệ quả là:
-
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ngày càng đặm nét kinh tế của chủ nghĩa tư bản thân quen (crony
capitalism) hoặc chủ nghĩa tư bản hoang dã (do quyền lực đảng và các nhóm lợi
ích đủ mọi mầu sắc chi phối).
-
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trở
thành nhà nước đảng hoá, trên thực tế chỉ là công cụ thực thi quyền lực của đảng.
Điều 4 của Hiến pháp chỉ mang một nội dung đạo lý (nghĩa là không ràng buộc và
không quy định trách nhiệm giải trình) nhưng khẳng định rất rõ vị thế đảng đứng
ngoài và đứng trên hệ thống nhà nước, trên thực tế Bộ Chính trị (BCT) là cơ
quan quyền lực tối cao điều hành đất nước do đảng tự giành lấy cho mình, không
phải do nhân dân bầu ra, nhưng không chịu trách nhiệm giải trình trước bất kỳ
cái gì...
-
Toàn thể các lực lượng chuyên chính vũ trang
và bán vũ trang (quân đội, công an, tự vệ, dân phòng…) do quyền lực đảng nắm giữ,
và trở thành công cụ chuyên chính trực tiếp của quyền lực đảng.
-
…
…
-
…
…
Tình hình trên tất yếu dẫn tới:
(a) Đảng vứt bỏ vai trò
lãnh đạo, để trở thành trên thực tế là người trực tiếp nắm quyền với tất cả mọi
thẩm quyền và trở thành đảng cai trị. Song ngoài quyền lực ra, năng lực của đảng
quản lý quốc gia rất thấp hoặc gần như không có. (Trần Xuân Bách gọi đấy là hiện
tượng đảng lấy quyền lực thay cho năng lực).
(b) Nhà nước thật ra phải
là người điều hành toàn bộ công việc quốc gia nhưng lại bị “đảng hoá” về mặt tổ
chức và chịu sự chỉ đạo về mặt điều hành trực tiếp của đảng, nên năng lực quản
trị quốc gia vừa thấp vừa bị giới hạn, trên thực tế chỉ còn là người thực thi
vô cảm mọi mệnh lệnh của đảng.
Toàn bộ kết cấu tổ
chức và sự vận động như vậy của bộ máy cầm quyền của quốc gia (đảng, chính quyền,
mặt trận) phản ánh sinh động lỗi của hệ thống, cắt nghĩa vì sao mọi “sửa chữa”
lặt vặt hay thay đổi cục bộ cho đến nay không thể đem lại kết quả, thể chế
chính trị ngày càng bế tắc trầm trọng và đang trực tiếp kìm hãm đất nước.
Đến đây có thể đưa
ra một bức tranh tổng hợp: Định hướng XHCN thực chất là những nỗ lực thực hiện
“đảng hoá”, để hình thành một hệ thống chính trị do đảng điều hành, bao gồm đảng
- nhà nước – mặt trận quyện vào nhau để cai quản quốc gia. Trong hệ thống
này đội ngũ tham gia do sự phân bổ của quyền lực quyết định, chứ không hình
thành qua quá trình rèn luyện và sàng lọc của đời sống đất nước, nên (a)hầu
như không ai có đủ năng lực làm đúng việc mình được giao; (b)người phải làm
đúng việc của mình vừa kém cỏi vừa luôn luôn có khuynh hướng chủ động hay bị động
bước sang việc của người khác trong khi không làm tròn phận sự mình được giao;
(c)không ai bị ràng buộc phải có trách nhiệm giải trình; (d)vì đảng lấy quyền lực
thay cho năng lực cho nên sau mỗi khoá nhiệm kỳ năng lực và phẩm chất của đội
ngũ tham gia đều tụt sâu thêm một nấc; (e)toàn bộ cuộc sống đất nước bị giam
hãm trong vòm trời ý thức hệ của đảng và trong ranh giới của chế độ toàn trị,
hoàn toàn thiếu vắng sự công khai minh bạch, tri thức được thay thế bằng áp dụng
ngu dân (f)người tài đức không có chỗ đứng trong một hệ thống chính trị như vậy,
thậm chí nhiều người trở thành đối tượng của chuyên chính chỉ vì trung thực với
sự thật, hoặc bỏ nước ra đi khi có điều kiện…
Cuộc khủng hoảng
toàn diện nước ta lâm vào từ năm 2007 đến nay chưa có lối ra là kết cục tất yếu
của quá trình “đảng hoá” này, và diễn tiến này nói lên tất cả.
Vì vậy có thể nói, ở
nước ta hiện nay, cải cách thể chế chính trị trước hết là việc tách bạch giữa
người chủ đất nước là nhân dân, đảng và nhà nước, để ai làm đúng việc nấy với
trách nhiệm ràng buộc, theo tinh thần:
(1) Nhà nước pháp quyền
là hình thái quyền lực quốc gia duy nhất và tối thượng, thể hiện quyền làm chủ
đất nước của nhân dân.
(2) Đảng chỉ được phép
thực hiện vai trò của mình là đảng cầm quyền, với nghĩa thông qua
việc đề ra những chủ trương chính sách và chiến lược thực hiện cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc được nhân dân chấp nhận thông qua quá trình
tranh cử và bầu cử thật; các đảng viên của đảng được bầu chọn vào làm
việc trong hệ thống nhà nước theo quy định của hiến pháp. Nói nôm na là đảng cầm
quyền được dân thuê dưới dạng được bầu là đại biểu quốc hội, hội đủ những điều
kiện theo quy định của hiến pháp để thực hiện nhiệm vụ lập nội các… “Thuê”
phải được hiểu là dân có quyền lựa chọn bất kỳ ai có đủ năng lực và phẩm chất
thực hiện việc dân giao phó, đồng thời dân cũng có quyền sa thải kẻ làm thuê yếu kém. Vì những lẽ này, hệ
thống đa nguyên chính trị và chế độ đa đảng trở thành lẽ tất yếu[6].
Nghĩa là: không ai có thể đứng trên nhà nước; trong nhà nước không có đảng như
một thực thể chính trị độc lập, càng không thể đứng trên hiến pháp và pháp luật.
Trong hệ thống nhà nước chỉ có đảng cầm quyền, tồn tại với
tính chất là kẻ được nhân dân thuê do đảng thắng cử ở mức hội đủ số đại biểu
trúng cử trong quốc hội, được phép đứng ra lập nội các theo quy định của hiến
pháp. Điều này có nghĩa trong hệ thống nhà nước pháp quyền không thể có đảng
như là một thực thể chính trị độc lập, đứng ngoài và đứng trên hiến pháp. Với
tính chất như vậy, đảng cầm quyền có trách nhiệm ràng buộc và trách nhiệm giải
trình trong việc thực hiện những cam kết của đảng đã đưa ra lúc vận động bầu cử
và đã được nhân dân chấp thuận thông qua lá phiếu của mình. Điều này cũng có
nghĩa những cam kết của đảng phải được luật hóa để thực hiện; những thay đổi
phát sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cầm quyền cũng phải được luật hóa
trong hệ thống nhà nước mới được phép thực thi. Một khi đảng không làm đúng những
cam kết của mình, nhân dân dùng lá phiếu quyết định việc thôi không thuê kẻ cầm
quyền nữa: phế truất. Nói rốt ráo: Trong phạm trù nhà nước cũng không
thể tồn tại khái niệm “đảng lãnh đạo” đối với nhà nước pháp quyền, mà chi có “đảng
cầm quyền” theo quy định của hiến pháp do thắng cử.
(3) Với nội dung như đã
trình bầy trong điểm (2) nêu trên, về pháp lý đảng cũng chỉ được xem xét như là
một bộ phận tập hợp dân cư trong xã hội mà hiến pháp cho phép (quyền lập hội,
các tổ chức hiệp hội, các đảng phái chính trị…), bình đẳng như mọi tập hợp dân
cư khác trong cộng đồng xã hội, chịu sự chi phối tuyệt đối và bình đẳng của hiến
pháp và pháp luật. Khái niệm vai trò lãnh đạo của đảng do đó chỉ
có thể tồn tại trong phạm trù xã hội dân sự: Đấy là kết quả phấn đấu của đảng
giành được thông qua những hoạt động vận động nhân dân trong phạm vi xã hội dân
sự. Nghĩa là, một khi thông qua phấn đấu trong xã hội dân sự, đảng giành được
uy tín và ảnh hưởng đối với nhân dân, qua đó nhận được sự đồng tình của nhân
dân đối với những điều đảng theo đuổi, dựa vào thành quả phấn đấu này tham gia
tranh cử để qua đó giành thắng cử để trở thành đảng cầm quyền như nêu trong điểm
(2) bên trên. Đạt được như thế chính là thực hiện vai trò lãnh đạo. Một quốc
gia bao giờ cũng cần được sự lãnh đạo, dẫn dắt của các lực lượng tinh hoa của
nó.
Cũng có thể nói, cải
cách thể chế chính trị toàn trị hiện nay để chuyển sang thể chế pháp quyền dân
chủ có nghĩa trước hết và chủ yếu là làm cái việc tách bạch trong toàn bộ đời sống
kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước: dân là chủ của đất nước, nhà nước với
tính cách là người thực thi phần quyền lực nhân dân trao phó, và đảng với tính
cách là một tổ chức chính trị trong xã hội dân sự. Trên cơ sở này xây dựng nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Đảng phải trở về sống trong xã hội
dân sự, xây dựng và tích luỹ cho mình ảnh hưởng tại đó, thông qua ảnh hưởng
giành được ấy để phấn đấu trở thành đảng cầm quyền nhờ thắng cử. Nhà nước pháp
quyền phải là tam qyền phân lập, hiến pháp là tối thượng. Tuyên Ngôn Độc Lập
02-09-1945 và Hiến pháp 1946 là những tiền đề lịch sử quan trọng để xây dựng
một nhà nước pháp quyền như thế.
Viết đến đây, tôi vô
cùng chua sót việc sửa đổi hiến pháp năm 2013 rốt cuộc là một màn kịch rất tốn
kém lừa dối đất nước, chỉ vì đòi hỏi “hiến pháp phải thể hiện cương lĩnh của đảng”,
do chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trực tiếp chỉ thị như vậy cho đảng và cả
hệ thống chính trị phải thực hiện. Trong bối cảnh đất nước đang đứng trước những
uy hiếp hiểm nghèo, giả thử hôm nay đất đước ta có được một hiến pháp đúng đắn
như biết bao nhiêu trí tuệ tâm huyết đã góp ý làm nền tảng cho phát huy sức mạnh
dân tộc, chắc chắn đất nước hôm nay đã có một bước khởi đầu đúng đắn cho cuộc cải
cách thể chế chính trị đã chín muồi, nhất là sau sự kiện giàn khoan HD 981.
Trách nhiệm đối với sai lầm này hoàn toàn thuộc về đảng, trước hết là Tổng bí
thư.
II. Vấn
đề rừng luật và luật rừng
Không
biết thế nào là đủ, song phải nói nước ta có một hệ thống luật pháp rất phong
phú, nhiều luật đúng và tốt, dù rằng vẫn còn nhiều luật quan trọng chất lượng
chưa đạt yêu cầu, các luật chồng chéo nhau cũng không ít. Nói một cách khác, chỉ
riêng việc thực thi tốt hệ thống luật pháp hiện hành, tình hình đất nước sẽ có
thể khả quan hơn rất nhiều.
Như vậy vấn đề nóng
bỏng là: Vì sao có nhiều cái tốt trong luật nhưng không thực thi được; có cả một
rừng luật, mà tại sao luật rừng vẫn ngang nhiên hoành hành?
Những nguyên nhân
chung nhất thuộc về tình trang phát triển của đất nước hiện nay về nhiều mặt
còn ở trình độ thấp. Tình trạng phát triển ở trình độ thấp này là vấn đề của thời
gian, nên không bàn đến ở đây. Chỉ xin tập trung bàn những nguyên nhân do sự yếu
kém của thể chế chính trị và của chủ quan con người hiện tại.
Phần I.
bên trên đã trình bày những yếu kém của thể chế chính trị. Chỉ xin nêu thêm nhận
xét là: Thể chế chính trị chồng chéo và quyện vào nhau như nước ta hiện có hoàn
toàn đối nghịch với bản chất một hệ thống quyền lực của nhà nước pháp quyền. Do
đó khách quan tự thân thể chế này đã cản trở việc thực thi luật pháp do chính
nó đề ra. Lại thêm tình trạng vừa thiếu vắng và vừa không thể thực hiện được
(cho dù nếu muốn) trách nhiệm giải trình của
bộ máy trong hệ thống quyền lực cũng như của mỗi cá nhân hay những người nắm
vai trò điều hành, nên tình trạng luật pháp không nghiêm minh là tất yếu. Ngày
xưa Louis XIV nói "L'État, c'est moi"
(“Nhà nước là ta!”), bây giờ ở nước ta cũng có thể nói “luật là đảng”. Cái biến
tấu qua thời gian hoạ chăng ngày xưa “vua” bao giờ cũng chỉ một, bây giờ có
“vua tập thể” (Nguyễn Văn An), song trước sau vẫn chỉ có một nghĩa: Người làm
luật là “vua”, luật không phải là để áp dụng cho “vua”, áp dụng luật như thế
nào là tuỳ ý “vua”, “vua tập thể” thì càng rối rắm. Đây là nội dung cốt lõi nhất
của chế độ đảng trị. Vì vậy công việc sửa đổi luật pháp hiện đang tiến hành sẽ
là vô nghĩa, nếu bỏ qua việc cải cách thể chế chính trị.
Về con người trong bộ máy quyền lực quốc
gia, cần đặc biệt nhấn mạnh một đặc điểm nổi bật là đông về biên chế, nhưng phẩm
chất chính trị và năng lực chuyên môn nhìn chung thấp (Ở nước ta tính theo tỷ lệ
100.000 dân, số cán bộ viên chức trong biên chế của bộ máy nhà nước, số binh sỹ
trong lực lượng vũ trang các loại và công an ăn lương nhà nước.., nhìn chung
cao gấp 4 – 7 lần so với nhiều nước đang phát triển và nước công nghiệp trên thế
giới, kể so với cả Mỹ![7]). Nguyên
nhân chủ yếu của hiện tượng này là:
(a)
Các bộ máy của chế độ toàn trị rất cồng
kềnh và kém hiệu quả theo tinh thần lấy quyền lực thay cho năng lực (Trần Xuân
Bách), vì thế rất đông, chất lượng thấp.
(b)
Những người trong biên chế của bộ máy
nhìn chung là sản phẩm của một nền giáo dục đầy khuyết tật, đặc biệt là quốc gia
chưa có một hệ thống giáo dục đào tạo có chất lượng các cán bộ kỹ trị cho công
việc quản lý quốc gia, hệ thống trường hành chính quốc gia và hệ thống trường đảng
hiện có không đáp ứng được yêu cầu này.
(c)
Thể chế chính trị hiện hành không có
chỗ đứng cho các giá trị đúng đắn và sự trung thực, người tài và thẳng thắn thường
phải bật ra khỏi hệ thống, các chuẩn mực tuyển chọn vừa không đủ tầm vừa phải
chịu tác động của các “chính sách”, các “quan hệ”, các tệ nạn tiêu cực khác (chạy
chức chạy quyền, bằng giả, mua ghế, lựa chọn con đường tiến thân qua con đường
đảng, v… v…), hầu như không có một thể chế sàng lọc và đào thải hoạt động hữu
hiệu.
(d)
Thiếu vắng hẳn hoặc không thể thực
thi được chế độ trách nhiệm cá nhân rành mạch vì bản chất của thể chế chính trị
hiện hành đề kháng với đòi hỏi này. Mãi gần đây mới thực hiện thí điểm “lấy phiếu
tín nhiệm” nhưng chỉ là công việc “phủi bụi” mà cũng chưa thành, không thể đụng
chạm được vào thực chất của nhiệm vụ sàng lọc và đào thải, quá trình thực hiện
biến tướng thành đấu đá. Không hiếm trường hợp kỷ luật cán bộ bằng cách “đá
lên” hoặc “đá ngang”…
(e)
Đường lối và chính sách tổ chức cán bộ
của đảng có nhiều yếu kém nghiêm trọng, nổi bật là những hiện tượng “sống lâu
lên lão làng”, “tuần tự vị tiến và hầu như chỉ tiến không lùi”, “cát cứ theo địa phương và cát cứ theo ngành”, hoặc
ngược lại là hễ có chức vụ đảng thì bố trí làm chức vụ chuyên môn tương đương bất
cứ ngành nghề gì cũng được, lấy sự trung thành với chế độ chính trị hay với đảng
làm chuẩn mực tuyển chọn và xắp xếp cao nhất, song vẫn không sao thoát khỏi hiện
tượng chia chác quyền lực thành phe nhóm ngay trong đảng.
(f)
vân vân…
Nhân
bàn về yếu tố con người trong hệ thống quyền lực, có lẽ phải đi tới nhận định: Mục đích tối thượng và chi phối tất cả
trong đường lối chính sách tổ chức cán bộ hiện hành của đảng là nhằm bảo vệ chế
độ toàn trị của đảng. Vì lý do này, trí tuệ và dân chủ không thể có chỗ đứng ở
đây. Đường lối chính sách tổ chức cán bộ hiện hành của đảng là một
trong những nguyên nhân sâu xa và quan trọng nhất trực tiếp làm tha hoá đảng và
toàn bộ hệ thống chính trị của quốc gia, mang nhiều đặc tính phong kiến hủ bại
đồng thời tăng cường tính ngoan cố của chế độ toàn trị hiện hành. Đảng vẫn nói
trong hệ thống chính trị này con người là quyết định, và đúng là theo dòng thời
gian đường lối chính sách tổ chức cán bộ hiện hành của đảng đã xây dựng nên các
thế hệ con người ngoan cố nhưng ngày càng thiếu trí tuệ và phẩm chất chính
trị gìn giữ cái chế độ toàn trị mà hệ thống này muốn bảo vệ; vì thế chế độ
cứ ngày càng tha hoá. Qua đó có thể nói: Đường lối chính sách tổ chức cán bộ hiện
hành còn là một trong những yếu tố nghiêm trọng trực tiếp kìm hãm, huỷ hoại sự
phát triển của đất nước.
Nói
khái quát: Bia Văn Miếu ghi “Hiền tài là
nguyên khí quốc gia” (Thân Nhân Trung), song đường lối chính sách tổ chức
cán bộ của đảng 4 thập kỷ đất nước độc lập thống nhất là đố kỵ với hiền tài, là
làm khuynh bại nguyên khí quốc gia! Đảng có và chỉ theo các chuẩn mực của đảng
trị để giữ cái chế độ toàn trị.
Về hiện tượng luật rừng trong rừng luật
còn phải bàn đến những tác động “kinh tế của chủ nghĩa tư bản thân quen”, “kinh
tế của chủ nghĩa tư bản hoang dã” đang là những hiện tượng đặm nét trong nền
kinh tế nước ta, xuất phát từ đặc thù là trưởng thành và tích tụ sự giàu có chủ
yếu nhờ những cơ hội “chụp giựt”. Hoạt động nổi bật của 2 thứ chủ nghĩa tư bản
này là chạy cơ hội, chạy dự án và chạy tội. Những hiện tượng này là
sát thủ lạnh lùng của kỷ cương và luật pháp, mang lại cho đất nước những hệ quả
không thể tưởng tượng nổi trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội. Không ít những hiện tượng này mở đường cho sự thâm nhập của Trung Quốc và
làm trầm trọng sự lệ thuộc mọi mặt của đất nước vào Trung Quốc, tác động nghiêm
trọng đến an ninh quốc gia, lũng đoạn sâu sắc tình hình nội trị đất nước, huỷ
hoại môi trường tự nhiên. Tổn thất về kinh tế đất nước phải chịu đựng là không
lường nổi, song mọi hệ luy khác của luật rừng còn nguy hiểm hơn nhiều, nhất là
luật rừng không có tổ quốc.
Khai thác bauxite trên Tây Nguyên, khu công
nghiệp Vũng Áng, hàng chục công trình công nhiệp then chốt do Trung Quốc trúng
thầu (EPC) đã đi vào hoạt động đang phát sinh vấn đề, việc cho thuê đất thuê rừng,
70 – 80% đầu vào cho công nghiệp may và công nghiệp giầy da phải nhập từ Trung
Quốc, tình trạng biên mậu và hàng nhập lậu hầu như không thể kiểm soát được, những
thủ đoạn lũng đoạn vô hình khác, vân vân… Đấy là những vấn đề nhức nhối hàng
ngày, gây nhiều tổn thất lớn cho đất nước, phản ánh rõ nét hệ quả của luật rừng.
Song đáng lo ngại hơn thế nhiều là sự hoành hành của luật rừng trở thành phương
thức vận động chủ yếu của kinh tế của chủ nghĩa tư bản thân quen và của chủ
nghĩa tư bản hoang dã, lại trong môi trường của chế độ toàn trị và cùng với sự
can thiệp của quyền lực mềm Trung Quốc đang gây ra cho đất nước những ách tắc
và hệ quả tệ hại.
Những
hiện tượng nêu trên hầu như chặn đứng con đường phát triển của đất nước, trước
tiếp giam đất nước vào “cái bẫy của nước có thu nhập trung bình” (thật ra nước
ta hiện nay đang là nước có thu nhập trung bình thấp). Tổ quốc lâm vào tình cảnh
đất nước có nhiều mặt đồi truỵ giữa lúc bị bành trướng Trung Quốc lũng đoạn và
uy hiếp nặng nề, trong khi đó tình hình thế giới đang đặt ra cho đất nước ngày
càng nhiều thách thức quyết liệt về mọi mặt.
Vì vậy
vấn đề luật rừng trong bối cảnh đối nội và đối ngoại hiện nay của đất nước
không đơn thuần chỉ là một vấn đề của trạng thái phát triển quốc gia còn nhiều
yếu kém, mà đây đang là một trong những nguyên nhân gốc phát sinh từ bản chất của
chế độ toàn trị. Thực tế này tự nó tăng thêm tính thúc bách phải tiến hành cải
cách thể chế chính trị.
Liên
quan trực tiếp đến vấn đề “luật rừng” trong tầm nhìn dài hạn, còn phải đặt ra
nhiệm vụ triệt để cải cách nền giáo dục nước nhà và thực hiện một tiến trình
canh tân đất nước. Cần nhận thức đầy đủ nhiệm vụ này với sự giác ngộ sâu sắc một
sự thật đau lòng: Ý thức hệ cộng sản và con đường gian truân phức tạp đất nước
đã trải qua từ Cách mạng Tháng Tám đến nay đã gây ra nhiều hệ quả tiêu cực có
tác động sâu xa vào đời sống kinh tế - chính trị - văn hoá – xã hội của đất nước.
Nghĩa là, ngoài sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh kéo dài mấy thế hệ, đã xảy
ra trên đất nước ta một quá trình tàn phá tinh thần và đạo đức, để lại quá nhiều
vết hằn và những “hội chứng chiến tranh”, “hội chứng cách mạng”… rất khó xoá.
Những hậu suốt 85 năm qua để lại đang ngày đêm làm trầm trọng thêm tình trạng lạc
hậu và tụt hậu của đất nước[8]. Hệ
quả nặng nề tới mức thực sự đất nước chúng ta bây giờ có nhiều việc phải làm lại
từ đầu, phục hồi lại từ đầu, nhất là trong những việc: xác lập lại tinh thần
đoàn kết hoà giải dân tộc và ý chí dân tộc, nâng cao các thang giá trị và đạo đức
xã hội, gìn giữ những truyền thống tốt đẹp để giữ lấy chính mình, thay đổi nếp
nghĩ nếp sống, khắc phục dối trá, dốt nát và ươn hèn, đấu tranh chống lại tội
ác và tham nhũng… Có rất nhiều việc khó và gian khổ phải làm, để dân tộc ta trở
thành một dân tộc được dẫn dắt bởi trí tuệ và các thang giá trị chung của nhân
loại! Bốn thập kỷ quốc gia có độc lập mà dân tộc ta vẫn chưa bước vào được thời
kỳ này. Điều này đáng khao khát hơn nhiều lần so với ước mong công nghiệp hoá
như đang diễn ra!.. Cái gọi là độc lập gắn với chủ nghĩa xã hội mà quyền lực đảng
đang kiên trì thực hiện bốn thập kỷ vừa qua, cuối cùng hôm nay trên thực tế đã
mang lại cho đất nước ta một nền kinh tế của những người đi làm thuê, đất nước
đang trở thành đất nước cho thuê, người dân chưa phải là chủ của đất nước.
Thú thực, nhiều lúc tôi miên
man không sao dứt ra được, liều lĩnh đặt câu hỏi: Có lẽ đã đến lúc dân tộc Việt
Nam ta phải thức tỉnh để tìm lại chính mình?! Phải như thế để không tiếp tục bị
cướp mất chính mình nữa!.. Dân tộc ta càng phải làm quyết liệt như thế, nếu
không muốn chính tự tay mình cũng đang đánh mất chính mình!.. Hiện nay hình như
cả nước đang chai lỳ với mọi cái nhục và hèn kém, quen sống mãi với cái tâm thế
cam chịu?.. Có phải thế không?..
Quá khứ bẩy thập kỷ vừa qua, của
gần hai thế kỷ qua thật tai ác quá! Đã nhấn chìm đất nước chúng ta trong quá
nhiều đau thương của chiến tranh, trong không ít lầm lẫn và tội ác… Những hệ quả
của tình trạng này đến hôm nay vẫn chưa buông tha dân tộc ta. Vâng 40 năm đất
nước có độc lập, mà vẫn chưa được buông tha! Vì thế vẫn chưa tự đứng lên được!
Chẳng lẽ cuộc đấu tranh của dân tộc ta để tự giải phóng chính mình bây giờ mới
bắt đầu?!.. – nghĩ thế thật không khỏi rùng mình.
Có thể gửi gắm những suy nghĩ
ray rứt này vào sự nghiệp cải cách thể chế toàn trị hiện hành này sang thể chế
pháp quyền dân chủ được không?
Con đường tự giải phóng này có
lẽ chỉ có thể là con đường của cải cách, có phải như thế không?
Làm sao ngồi lại được với nhau
để cùng nhau bóc tách hết mọi chuyện, để cuối cùng chỉ còn lại một cái nhìn
chung về phía trước?
Tôi khát khao điều này cho đất
nước mình… Vì tôi tin rẳng cải cách về bản
chất là thuộc về dân chủ và phát triển.
Đã đến lúc nước ta phải tự làm
mới lại chính mình.
Hay là tôi sai?..
…
Vì những lẽ trình bầy
trên, cải cách thể chế chính trị hiện hành còn phải gắn liền với việc lựa chọn
cho đất nước một con đường phát triển hoàn toàn mới, tạo ra cho đất nước khả
năng thực hiện nó. Cải cách là để đưa đất nước đi vào con đường phát triển của
dân tộc và dân chủ, gắn với sự nghiệp canh tân đất nước.
III. Nội lực lớn nhất chưa được phát huy đúng mức:
Con người
Việt
Nam là nước đang phát triển có thu nhập trung bình (thấp), có trình độ giáo dục
phổ cập ở mức tương đối cao so với các nước cùng mức thu nhập, có nguồn nhân lực
lớn, lại ở vào khu vực đang có sự phát triển năng động. Tuy nhiên trong 3 thập
kỷ vừa qua (kể từ sau khi bắt đầu đổi mới 1986) Việt Nam chưa đat được sự phát
triển tương xứng với mọi điều kiện và cơ hội cho phép, một trong những nguyên
nhân quan trọng là chưa phát huy đúng mức được nội lực – trước hết nội lực từ
con người, nguồn lực quan trọng nhất của quốc gia. Bản chất chế độ toàn trị của
đất nước trực tiếp cản trở nhiệm vụ phát huy nội lực lớn nhất của đất nước là
con người!
Cốt
lõi của vấn đề phát huy nguồn lực con người là giải phóng con người, một vấn đề
vừa là khát vọng dân tộc, đồng thời vừa là con đường phát triển đất nước. Tại bất
kỳ quốc gia nào, nhất là trong thế giới ngày nay, con người được giải phóng đến
đâu, quốc gia ấy phát triển được tới đấy. Giải phóng con người là nội dung quyết
định nhất của một thể chế chính trị tiến bộ và là nguồn lực sâu xa nhất làm nên
sức mạnh quốc gia. Vì thế, khi nói đến phát huy nguồn lực con người, thực chất
là bàn về thực hiện các quyền tự do dân chủ của con người, nhằm tạo ra sự phát
triển mang lại đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng cao, với mục
đích cuối cùng và cao nhất là phục vụ sự phát huy chính bản thân con người – vì
lợi ích của chính nó và vì lợi ích của cộng đồng dân tộc. Nói cách khác, bàn về
phát huy nguồn lực con người cuối cùng là phải bàn về bản chất tiến bộ/phản động
hoặc là bản chất tốt/xấu của chế độ chính trị trong mỗi quốc gia. Nghĩa là phải
mổ xẻ cho rành rọt: chế độ chính trị này vì con người, hay chà đạp con người? Kết
luận phải rút ra?..
Trong
tình hình cụ thể của nước ta hiện nay, mục đích sâu xa nhất của nhiệm vụ cải cách
chế độ toàn trị để chuyển sang chế độ pháp quyền dân chủ phải là nhằm tạo ra được
một thể chế chính trị phục vụ tốt hơn yêu cầu phát huy con người với tinh thần
và nội dung: Giải phóng con người để làm nên sức mạnh quốc gia, nội dung quyết định
nhất của vấn đề quyền con người. Chính đòi hỏi này xác định những nhiệm
vụ cụ thể cuộc cải cách chính trị này phải thực hiện.
Song
vấn đề nổi cộm nhất đối với chế độ chính trị hiện hành của nước ta là những quyền
tự do dân chủ cơ bản của công dân và những quyền con người đã được ghi trong Hiến
pháp từ nhiều thập kỷ nay chỉ nằm trên giấy. Nhiệm vụ của chế độ chính trị là
mang lại cho con người một nền giáo dục và một môi trường kinh tế - xã hội để
con người thực thi được những quyền của mình và để phát huy được chính mình
càng không được chú trọng thực hiện.
Thực ra phải nói bản thân Hiến pháp qua việc
thiết kế nên hệ thống quyền lực do đảng độc quyền lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối
đã tự nó bác bỏ khả năng thực thi chính Hiến pháp. Câu chữ của hiến pháp mới sửa
đổi (2013) về những quyền thuộc về con người được sửa sang chút ít, nặng về thẩm
mỹ, nhưng mọi chuyện trong đời sống thực chẳng có gì thay đổi. Mới đây nhất là
việc báo chí “lề phải” tiếp tục mạt sát (nghĩa là dùng lời lẽ nặng nề mang tính
trấn áp và không có lý lẽ) các ý kiến trái chiều, vụ bắt nhà báo Nguyễn Hữu
Vinh (Ba Sàm), vụ kết án nhóm những người bất đồng chính kiến Bùi Thị Minh Hằng
bất chấp sự bác bỏ đầy lý lẽ của luật sư về cáo tội của toà… nói lên tất cả.
Nêu lên thực trạng này để dứt khoát nhận định: Giữ chế độ chính trị như hiện hành, không thể có phép tiên nào phát
huy được huy nội lực mà lẽ ra đất nước ta phải làm bằng được để ra khỏi tình
hình nguy hiểm hiện nay và để mở ra cho đất nước một thời kỳ phát triển mới.
Hơn
thế nữa, “nước được
độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lí gì!” Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh được coi là một cuộc vận động chính trị trọng đại từ nhiều năm nay mà lại
bỏ qua điều cốt lõi này, hành xử trước sau hoàn toàn trái ngược với điều cốt
lõi này, thử hỏi còn lời nói nào của đảng và của chế độ chính trị hiện hành có
thể được nhân dân tin?
Trên đây
là nói về phát huy nội lực liên quan đến đòi hỏi việc thực thi các quyền của
dân đã ghi trong hiến pháp. Phát huy nội lực còn một vế nữa quan trọng không
kém, đó là phát huy sự giác ngộ của bản thân con người về quyền và trách nhiệm
của mình – đối với chính bản thân và đối với quốc gia. Có 2 vấn đề có liên quan dưới đây phải bàn tiếp.
(1)Đường lối chính sách vận động chính trị tư tưởng
Đất nước
độc lập thống nhất đã 4 thập kỷ, song có thể nhận xét khái
quát: Sống giữa thời đại thông tin, nhưng về cơ bản nước ta vẫn đang ở trong
tình trạng có dân trí thấp, cản trở nghiêm trọng sự tiến bộ của quốc gia.
Nguyên nhân cơ bản không phải tội lỗi của dân, mà tại việc duy trì những hiện
tượng tiêu cực trong đời sống tinh thần như là một biện pháp bảo vệ sự ổn định
của chế độ chính trị. Khẩu hiệu “phát huy quyền làm chủ của nhân dân” luôn luôn
được nhấn mạnh, song người dân làm chủ như thế nào nếu không được dùng đến cái
tai, cái mắt, cái mồm của chính mình để tiếp cận với sự thật và nói sự thật?
Trong
những hiện tượng tiêu cực như vậy của đời sống tinh thần, đặc biệt nghiêm trọng
là những hiện tượng:
- sự áp
đặt “tư duy lề phải” và bài trừ những tư duy trái chiều,
- sự
ngăn cấm không được đụng đến những vấn đề cho là huý kỵ,
- chính
sách thông tin có định hướng, bưng bít và nói sai sự thật, nói sự thật một nửa..,
- tình
trạng thiếu công khai minh bạch,
- sự trấn
áp bằng bạo lực để khủng bố tinh thần (Ghi chú: trong khi tôi đang
ngồi đọc lại những trang này, tin đến: Giáo sư Hồng Lê Thọ và nhà văn Nguyễn
Quang Lập đã bị bắt; “tội” của họ là do nặng lòng với đất nước nên dù
đã ở tuổi nghĩ hưu và đầy bệnh tật trong người, nhưng vẫn phải dấn
thân làm blogers chuyển tải những thông tin của sự thật phơi bầy cái sai
trái của quyền lực cai trị… Ai là người không biết Hồng Lê Thọ và
Nguyễn Quang Lập đã từng hết mình làm những việc cống hiến trực
tiếp cho chính chế độ này!?. Những người chủ trương trấn áp không
hiểu rằng các hành động khủng bố như vậy của họ chẳng những đang
chà đạp lên những hy sinh gian khổ của cả nước để có hôm nay, mà còn
làm cho cái ngày con giun xéo mãi
cũng quằn đến gần? Lợi ích quốc gia đứng ở đâu khi họ nghĩ và
hành động như vậy?.. Thú thực, nghĩ đến đây, ruột gan tôi tím bầm!..)
- sự
nuôi dưỡng cái giả dối...
- vân
vân...
Mọi
thứ trái với cái gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa” đều bị
coi là phản động, là thù địch để đối xử! Kết quả chủ yếu của chính sách này là
chỉ tạo ra được một sự vận động thụ động nào đó (chứ không phải là sức mạnh với
đúng nghĩa) của một cộng đồng dân cư được chăn dắt và hành động theo sự chăn dắt
– trong khung khổ của vòm trời ý thức hệ và trong ranh giới của chế độ toàn trị.
Tất cả nhân danh thực hiện sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của đảng. Tên gọi
đúng nhất của chính sách chính trị tư tưởng này là chính sách ngu dân,
nghe rất “sốc”. Song rất tiếc, bản chất của sự vật là như thế[9].
Đường
lối chính sách công tác vận động chính trị tư tưởng như vậy tạm đặt cho cái tên
là “chính
sách chăn dắt”. Đấy không phải là chính sách thông qua tuyên truyền vận
động của giáo dục trí tuệ nhằm tạo ra sức mạnh của một cộng đồng dân cư hành động
trên cơ sở tự giác ngộ được khả năng và quyền năng của mình, cho cuộc sống của
chính mình và cho quốc gia; tạm gọi là “chính sách khai phóng”.
Sự thật là “chính sách chăn dắt” và
“chính sách khai phóng” chẳng phải là phát kiến mới mẻ gì, mà đấy chỉ là 2 sự lựa
chọn khác nhau xuất hiện trên thế giới từ nhiều thế kỷ nay cho các chế độ chính
trị khác nhau ở các quốc gia mà thôi.
Hiển
nhiên, chế độ toàn trị chỉ có thể dung nạp được “chính sách chăn dắt” và coi đấy
là nguyên tắc sống của nó. Bắt buộc phải như vậy, vì không áp dụng chính sách
ngu dân thì làm sao mà “chăn dắt” được. Kết quả đạt được là chúng ta có một đất
nước đang trong trạng thái èo uột như hôm nay, năng lực sáng tạo và ý chí quật
cường của nhân dân bị kìm hãm. Một dân tộc 40 năm đất nước độc lập thống nhất rồi
mà vẫn phải “chăn dắt” như thế làm sao
có thể sống yên thân bên cạnh Trung Quốc bá quyền? Rồi còn phải đối xử với cả
cái thế giới đang tranh giành nhau ngày càng quyết liệt này?.. Trong bối cảnh
như vậy, phải nói: giải phóng tư duy để phát huy sức mạnh dân tộc là đòi hỏi sống
còn của quốc gia. Vì lẽ này, cướp quyền tự do tư duy của dân tộc phải được coi là một tội
ác nghiêm trọng đối với quốc gia. Không phải ai khác, chính Lý Quang Diệu
đã không dưới một lần cho rằng vai trò đứng đầu Đông Nam Á ngày nay lẽ ra phải
là Việt Nam, vì đất nước này có đầy đủ mọi điều kiện và cơ hội để giữ vai trò
đó sau khi ra khỏi chiến tranh!.. Còn hôm nay đất nước chúng ta đang đứng ở
đâu? ĐCSVN là người phải chịu trách nhiệm về thực trạng này của đất nước.
(2)Vấn
đề xã hội dân sự
Cuộc
sống luôn luôn là con ngựa bất kham đối với bất kể sự chăn dắt nào, đó là quy
luật muôn đời.
Thời
bao cấp trước đổi mới, có một hiện tượng nổi bật làm nên lịch sử, đó là vấn đề
“phá
rào” để mà sống và phải sống. Phá rào hồi ấy chính là sự phản ứng, là một
loại hình hành động tự quyết để tự cứu mình của xã hội dân sự: Dân
tự đứng lên hiệp đồng với nhau, tự quyết làm mọi việc phải làm để tự cứu lấy
nhau trong đời sống kinh tế bức bách hồi ấy, bất chấp những nỗ lực này bị cấm
đoán và trù dập khốn khổ, bất chấp phải lên bờ xuống ruộng ê chề nhiều năm
ròng, phải chuốc lấy không ít oan khiên!... Khỏi phải nói, nhờ “phá rào” mới có
Đại hội VI của đổi mới, kinh tế đất nước mới có con đường đi tới hôm nay.
Dựa
vào hiện tượng này của dân, xin đưa ra nhận xét: “phá rào” chính là một hiện tượng
xã hội đối nghịch lại với hiện tượng xã hội
được chăn dắt! “Phá rào” hồi ấy chính là một biểu hiện độc đáo của xã hội dân
sự.
Xã hội
dân sự là như thế, sao lại cấm?
Nếu
như có trí tuệ cần thiết và không bị dị ứng ý thức hệ, nhìn nhận được hiện tượng
“phá rào” này là thuộc phạm trù xã hội dân sự, có lẽ đất nước ta hôm nay không
đến nỗi èo uột và lệ thuộc như thế này.
Ngày hôm nay, dù không được phép tồn tại trong
ngôn ngữ chính thống của hệ thống chính trị cũng như trong nhà trường, dù vẫn bị
coi như một hiện tượng huý kỵ... – xã hội dân sự tiếp tục tự nó cứ lừng lững (Nguyên Ngọc) đi vào cuộc sống.
Đơn giản vì mọi người đều phải sống và vì chẳng có bạo lực nào diệt nổi cuộc sống
– cho dù quyền lực đang trấn áp xã hội
dân sự như thế nào, cho dù xã hội dân sự ở nước ta còn yếu về ảnh hưởng đối với
đất nước và chưa phát triển so với những điều kiện cho phép…
Thế
nhưng hôm nay, đối với một bộ phận nào đó trong quyền lực đảng – bao gồm cả một
số trí thức của đảng – cụm từ “xã hội dân sự” vẫn như là cụm mấy từ của tiếng
nước ngoài, tối nghĩa, và… không có tiếng
Việt để dịch (?!) – nghĩa là không tồn tại trong ý thức vì không tồn tại
trong ngôn ngữ của quyền lực (nói theo Trần Đức Thảo!)... Thậm chí không hiếm
trường hợp cụm từ xã hội dân sự còn
được dùng làm tên gọi dành riêng cho các
thế lực thù địch! Mặc dù điều 3 của Hiến pháp hiện hành và toàn bộ 25 điều
khác nêu trong Chương II của Hiến pháp đã nêu tương đối đầy đủ các quyền của
công dân mà thực chất đấy cũng là phần lớn các quyền của xã hội dân sự. Những
gì thuộc quyền của xã hội dân sự nhưng không thể nêu lên hết được trong Hiến
pháp đều được làm rõ trong nguyên tắc hiến định phải có của nhà nước pháp quyền:
Nhà nước chỉ được làm những gì hiến pháp
cho phép, người dân được phép làm tất cả những việc hiến pháp không cấm.
Mặc
dù hôm nay xã hội dân sự vẫn bị cấm đoán trực tiếp hoặc gián tiếp, chính quyền
có không ít những hành động trấn áp thô bạo bằng bạo lực, song những gì các hoạt
động của xã hội dân sự đã làm được và vai trò của các tổ chức phi chính phủ mọi
loại hình (dù được pháp luật thừa nhận hoặc không được luật pháp thừa nhận)
đang đóng góp ngày càng nhiều cho cuộc sống đất nước – kể cả trong sự nghiệp đấu
tranh bảo vệ chủ quyền của đất nước, ngày càng trở thành một lực lượng chính trị
làm khó dễ cho quyền lực chăn dắt xã
hội. Song chuyên chính của chính quyền vẫn đang khẳng định xã hội dân sự là
nguy cơ lật đổ chế độ.
Cũng
như mọi hiện tượng xã hội khác, đều có cái tốt và cái xấu. Tại các nước phát
triển, ngoài luật pháp, xã hội dân sự được hướng dẫn và nuôi dưỡng chủ yếu bằng
nâng cao dân trí, bằng phát huy các giá trị và đạo đức xã hội, bằng phát huy
các truyền thống văn hoá tốt đẹp, bằng những nỗ lực xây dựng một xã hội mở, qua
đó loại bỏ những hiện tượng xấu… Vì những lẽ này xã hội dân sự trở thành môi
trường nhân dân thông qua đó trực tiếp tự giáo dục mình, thực hiện quyền lực của
mình với tư cách là người chủ của đất nước. Vì vậy, xã hội dân sự là trường học
không thể thiếu để nhân dân tự nâng cao khả năng và quyền năng của mình - vì cuộc
sống của chính mình và của đất nước. Vì những lẽ này, xã hội dân sự trở thành yếu
tố không thể thiếu đối với nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường. Nghĩa là
thiếu xã hội dân sự, nhà nước pháp quyền trở thành nhà nước mafia, kinh tế thị
trường trở thành kinh tế thị trường hoang dã – đây đang là hiện trạng đầy nguy
khốn của nước nhà.
Xin đừng
bao giờ quên: Hệ thống trụ cột chân kiềng cho sự tồn tại và phát triển bền vững
của một quốc gia nhất thiết phải là “bộ ba” kinh tế thị trường – nhà nước
pháp quyền – xã hội dân sự, thành quả bất hủ của văn minh nhân loại kể
từ khi hình thành xã hội loài người.
Song
cho đến hôm nay, quyền lực chăn dắt của nước ta lẽ ra phải thông qua con đường
đối thoại tạo ra sự đồng thuận với xã hội dân sự, lại chỉ một chiều nhất quán lựa
chọn con đường bác bỏ và đối kháng với xã hội dân sự - bằng chuyên chính và bạo
lực. Vì bản chất của chế độ toàn trị là như vậy. Cách tiếp cận này đã biến
không ít lực lượng tốt trong nhân dân thành thù địch, đồng thời tạo ra không ít
không gian hoạt động cho các thế lực thực sự thù địch với lợi ích quốc gia của
Việt nam, trong đó đặc biệt là sự can thiệp của quyền lực mềm Trung Quốc.
Lẽ
đương nhiên lợi ích quốc gia đòi hỏi: Cải cách thể chế chính trị nhất thiết phải
xoá bỏ mọi hành xử "chăn dắt" con dân.
Song
còn hơn thế, thiết nghĩ cải cách thể chế chính trị lần này phải hướng vào mục
tiêu trong đại: Đẩy mạnh phát triển xã hội dân sự ở nước ta, để hoàn thiện và củng
cố cái trụ cột đang yếu nhất trong hệ thống kiềng ba chân “kinh tế thị trường –
nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự”, để tạo dựng được nền móng căn bản của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Rất nên bỏ tâm trí và công sức xây dựng xã hội
dân sự như một hướng mới, một phong trào vận động mới để nhân dân tự đứng lên
thực hiện các quyền tự do dân chủ của mình, xoá bỏ bằng được “chế độ chăn dắt”.
Đất nước phải được xây dựng và bảo vệ bằng những người con tự giác ngộ được
chính mình, chứ không phải bằng một bầy cừu ngoan (dựa theo cách nói của Ngô Bảo
Châu).
Có
thể kết luận, trung tâm của cải cách thể chế chính trị hiện nay là nhằm phát
huy nguồn lực quan trọng hàng đầu của quốc gia: Con người.
Vì
lẽ ấy, cái đích của cải cách thể chế chính trị phải nhằm vào là xây dựng một xã
hội khai phóng, mở đầu một thời kỳ phát triển mới của đất nước. Hơn thế nữa, giải
phóng con người là con đường khắc phục sự tụt hậu của đất nước. Quan điểm này
phải được thể hiện trong một chiến lược kinh tế phù hợp có khả năng xử lý hài
hoà mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển, thậm chí cần lấy phát
triển làm động lực bền vững của tăng trưởng.
*
IV. Thay cho phần kết
Sự thiếu hụt của ý
chí chính trị: Lợi ích quốc gia không phải là trên hết
IV.1. Điểm xuyết lại
vấn đề cải cách trên thế giới
-
Các cuộc nổi dậy ở các nước Bắc Phi
(được ban cho cái tên gọi của các mùa hoa) thực chất là một dạng thức của các
cuộc cách mạng, với nghĩa nổi dậy phá vỡ cái trật tự hiện hữu, chứ không phải
là những cuộc cải cách. Bởi lẽ những lực lượng tham gia sự vận động này quá đa
dạng và có những lợi ích quá khác biệt nhau – đặc biệt trên hai phương diện
(1)sắc tộc, và (2)giáo phái – do đó họ không có hoặc không thể có những ý đồ
chiến lược thống nhất cho sự phát triển đất nước tiếp theo sau khi đã lật đổ được
chính quyền đương thời. Vì không thể có chiến lược cải cách tiếp nối sau khi
tiến hành cách mạng, những nước này rơi ngay vào những rối loạn mới là lẽ tất
yếu[10].
-
Các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũ
cuối thập kỷ 1980s trải qua một quá trình sụp đổ trong hoà bình, chứ không
phải là quá trình cải cách, mặc dù phong trào cải cách ở những nước này
phát triển rất sớm, liên tiếp bị trấn áp, và do đó không thay đổi được chế
độ. Nguyên nhân chính có thể là những nước này không hề có các cuộc cách mạng
XHCN; các chính quyền XHCN ở đấy hình thành và tồn tại được chủ yếu nhờ được
Liên Xô giải phóng và hậu thuẫn, sự khống chế của Liên Xô đủ sức đè bẹp mọi cuộc
nổi dậy của cải cách ở những nước Đông Âu này... Song vì những mâu thuẫn nội
tại, khủng khoảng ở những nước này xảy ra liên tiếp, bước vào thập kỷ 1980s trở
nên ngày càng nghiêm trọng. Nhưng phải đợi cho đến khi Liên xô không đủ lực bao
cấp và khống chế nữa (đặc biệt trên phương diện quân sự), và cũng là lúc
Liên Xô phải đồng thời từ bỏ chính sách đối ngoại thời chiến tranh lạnh do lực
bất tòng tâm, khối “hiệp ước Varsovie” không còn sức kham nổi vai trò nó tự
đặt ra cho mình, Liên Xô buông xuôi, các nước XHCN Đông Âu tất yếu sụp đổ,
song may mắn là trong hoà bình.
-
Liên Xô thực sự tiến hành cải cách
triệt để (cả kinh tế và chính trị) khi Gorbachov làm tổng bí thư, vì tình hình
đất nước quá quẫn bách mọi mặt và đã kéo quá dài (kể từ khi Brejnev lên cầm quyền
1964 - 1982). Cuộc cải cách này thất bại, vì cả về lý thuyết và thực tiễn tiến
hành đều có quá nhiều cái sai. Nói cải cách này thất bại, vì mọi mục tiêu người
cải cách đề xướng đều không thực hiện được (cải cách nhưng vẫn muốn giữ nguyên
chế độ xô-viết và ĐCSLX). Kết quả đạt được là chế độ xô-viết sụp đổ, ĐCSLX bị đặt
ra ngoài vòng pháp luật và tan rã. Trên bình diện quốc gia, cuộc cải cách này
cho dù thất bại, song đấy vẫn là sự chuyển đổi hoà bình và không tự giác,
xoá bỏ được chế độ xô-viết trong tình thế không còn các lý do và điều kiện để
tiếp tục tồn tại, để ngỏ cho tương lai mọi khả năng khác nhau của phát triển. Nước
Nga của chế độ mới ngày nay ra đời trong hoàn cảnh này.
-
Sự chuyển đổi ở các XHCN LXĐÂ cũ từ
thể chế chính trị cộng sản sang thể chế chính trị dân chủ là sự chuyển đổi triệt
để (radical), dù diễn ra dưới hình thức nào song về cơ bản đấy vẫn là sự
chuyển đổi hoà bình, nhờ vậy sau khoảng 2 thập kỷ các nước này hồi phục
và bắt đầu lấy lại sức phát triển của mình. Thực tế này chỉ rõ: Cho dù có những
đặc thù nào đối với từng quốc gia riêng lẻ, song vẫn nói lên 2 điều: (a)trong
những điều kiện nhất định, có thể chuyển đổi triệt để trong hoà bình chế độ
toàn trị sang chế độ dân chủ, (b)chuyển đổi hoà bình như thế hiển nhiên là con
đường ngắn nhất và tiết kiệm xương máu nhất cho sự phục hồi và phát triển sau
đó. Vì vậy tìm kiếm con đường chuyển đổi hoà bình luôn luôn là một khả
năng có thể, và phải được coi là giải pháp ưu tiên một khi chế độ hiện hành
không còn lý do tồn tại. (Riêng ở Hungari, bánh xe tiến hóa quốc gia hình
như lại quay ngược trở lại, do sự xuất hiện trở lại của độc tài. Do di sản quá
khứ XHCN quá nặng nề, một vài nước Đông Âu khác vẫn đang rất chật vật trên con đường của dân chủ.)
-
(Tuy nhiên, riêng đối với nước Nga
còn phải nêu thêm một số nhận xét khác nữa: (a)kể từ khi LX sụp đổ, nước Nga
sau ¼ thế kỷ chuyển đổi đã không đi hẳn vào con đường dân chủ, mà lại ngoặt
sang con đường phục hưng đế chế Nga, bắt đầu tư sự kiện sáp nhập Krym; (b)bước
ngoặt này có tính tất yếu, bởi vì lực lượng chính trị (chung quanh Putin)
chi phối vận mệnh nước Nga chủ trương khôi phục vị thế cường quốc mà thời
Sa hoàng đã từng có vai trò đế chế; có phải như vậy không? (c)nếu sự trở lại (hoặc đang tìm đường
trở lại) vị thế đế chế Nga là tất yếu như đang diễn ra, sự xuất hiện Liên Xô
(1917 – 1991) phải chăng là một “chặng đường vòng tốn kém”, hệ quả là, với
sự kiện Krym, đế chế Nga của hôm nay đang cố mon men tới vạch xuất
phát mà nó đã đứng cách đây đúng một thế kỷ (1917), với một triển
vọng không mấy sáng sủa thời Putin! (e)phải chăng con “đường vòng” như
thế nếu xảy ra luôn luôn có nghĩa là một bi kịch quốc gia? – nghĩa là:
một quốc gia – dù là cường quốc – nếu không đi cùng được với xu thế vận động
của thế giới, tất yếu nó sẽ rơi vào con đường vòng luẩn quẩn và
phải trả giá rất đắt; – câu chuyện này có lẽ nước nào cũng phải quan
tâm. Lịch sử thế giới cận đại ghi nhận đến nay chỉ có 2 cường quốc
là Đức và Nhật thoát khỏi được con đường vòng đã từng đẫm máu cả
nhân loại, để hôm nay cùng đi với cả nhân loại, đứng trong hàng ngũ
tiên tiến của nhân loại). Còn nước ta?
-
Thể chế quân phiệt ở Myanmar đang tìm
đường cải cách để hoà bình chuyển sang thể chế dân chủ, bắt đầu tiến hành từ thời
tổng thống Thein Sein (2011), trong những điều kiện rất nghiệt ngã, trong đó có
sự can thiệp rất trầm trọng của Trung Quốc vào nội tình Myanmar.Đây là cuộc cải
cách đang
được tiến hành từng bước, bắt đầu từ cấp cao nhất của quyền lực xuống và từ
trong hệ thống quyền lực ra ngoài xã hội. Đã gặt hái được những kết quả
đầu tiên rất khích lệ, tuy rằng con đường dài và rất gian truân của dân chủ
và phát triển vẫn còn nguyên vẹn ở phía trước. Nguyên nhân thành công chủ
yếu của những bước đi vừa qua là: Cấp cao nhất của quyền lực Myanmar
(a)đã giác ngộ được nguy cơ mất còn của quốc gia, (b)quyết tâm đặt lợi ích quốc
gia lên trên hết, và (c) thừa nhận vai trò phái đối lập, biết phát huy sự đóng
góp của giới trí thức và phong trào dân chủ để tiến hành cải cách cứu nước.
Điều này rất đáng để Việt Nam suy nghĩ. Đây chính là điều duy nhất cấp
cao nhất của quyền lực ở nước ta đang thiếu và không hiểu được.
IV.2. Sự thiếu hụt của
ý chí chính trị: Lợi ích quốc gia không phải là trên hết
Đến đây có thể rút ra những kết luận
như sau:
1. Tình
hình trong nước và trên thế giới cũng như những bài học của các nước đi trước
cho thấy Việt Nam hoàn toàn có thể tiến hành thành công một cuộc cải cách thể
chế chính trị không thể thoái thác bằng con đường hoà bình.
2. Vấn đề
cải cách thể chế chính trị ở Việt Nam đã thực sự chín muồi - với nghĩa chế độ
hiện hành đã tích tụ quá nhiều thối nát, càng chậm trễ càng nguy hiểm cho đất
nước về mọi phương diện, thậm chí với những hệ quả đẫm máu. Bối cảnh quốc tế về
cơ bản cũng thuận lợi cho một cuộc cải cách triệt để thể chế chính trị như thế ở
nước ta - ngoại trừ yếu tố Trung Quốc, song đây là vấn đề nước ta hoàn toàn có
thể xử lý được.
3. Cải
cách thể chế chính trị sẽ mở ra cho đất nước bước ngoặt chiến lược: (a)đưa nước
ta vào một thời kỳ phát triển mới, (b)đồng thời sẽ mang lại cho nước ta sức mạnh
và vị thế quốc tế đoạn tuyệt được với thân phận một quốc gia "leo
dây" èo uột và lệ thuộc, (c)tạo điều kiện vững chắc cho nước ta có thể chủ
động xây dựng quan hệ láng giềng, hữu nghị và hợp tác tốt với Trung Quốc - đây
là con đường khả dĩ và hiệu quả nhất chống lại chính sách bành trướng bá quyền
của siêu cường đang lên Trung Quốc. Nói đến nơi đến chốn:
Chỉ có thông qua một cuộc cải cách thể chế chính trị triệt để như thế, nước ta
mới có thể trở thành một quốc gia có khả năng chủ động mở ra một thời kỳ mới của
quan hệ Việt - Trung trên cơ sở hoà bình, hữu nghị, bình đẳng, hợp tác cùng có
lợi; chỉ có như thế Việt Nam mới có thể bảo vệ được vững chắc độc lập chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia của mình. Dứt khoát phải chủ động như thế,
vì không bao giờ và mãi mãi không bao giờ có thể van xin được Trung Quốc điều
này.
4. Mọi
điều kiện kinh tế, chính tri, văn hoá, xã hội của nước ta hiện nay, cũng như mọi
tri thức đã hình thành được trong nước và trên thế giới có thể vận đụng được,
hoàn toàn cho phép vạch ra một chiến lược và thiết kế được các bước đi cụ thể
cho sự nghiệp cải cách đưa đất nước ta vào một thời kỳ phát triển mới, kế thừa
được những bước phát triển đã tạo ra trong 70 năm qua, đồng thời tạo ra cho đất
nước khả năng thích nghi tốt nhất đối với mọi đòi hỏi mới của tình hình mới
trong khu vực và trên thế giới.
5. Điều cực kỳ quan trọng
là khát vọng của nhân dân cả nước về một cuộc cải cách đổi đời đất nước như thế
giờ đây không kém gì khát vọng về độc lập tự do như thời Cách mạng Tháng Tám. Đấy
là sự thức tỉnh ngày càng ray rứt trong nhân dân sau 40 năm xây dựng mà đất nước
đang ngày càng nhiều bất công và không có độc lập tự do. Giập tắt khát vọng đổi
đời này, có thể đốt cháy đất nước và thiêu luôn kẻ giập tắt nó. Khơi dạy khát vọng
này, đất nước sẽ đứng lên bất khả kháng để xây dựng bằng được dân giầu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh. Khát vọng cải cách này để đổi đời cho mình và cho
đất nước chính là sức mạnh tinh thần bất khả kháng quốc gia đang rất cần lúc
này. Đây là điều ĐCSVN, trước hết là những người nắm quyền lực cao nhất trong đảng,
cần nhận thức rõ và rút ra những kết luận cho mình, dám chấp nhận dấn thân khơi
dậy khát vọng này. Nhận thức được như thế, ĐCSVN sẽ biết được phải làm gì
và làm được, qua đó sẽ thay đổi được chính mình để trở thành đảng của dân tộc. Đây chính là
nhiệm vụ tối thượng đặt ra cho đại hội XII.
6. Cải cách thể chế chính trị với ý chí cách mạng
và nội dung như thế chỉ tuân thủ duy nhất yêu cầu giải quyết mọi đòi hỏi và
thách thức mà quốc gia đang phải đối mặt. Cải cách với ý chí như thế, không thể
khuôn vào bất kỳ hạn chế nào của cương lĩnh đảng và hiến pháp hiện hành. ĐCSVN
nên từ cuộc sống đất nước được mở ra trong quá trình cải cách này soạn thảo
cương lĩnh mới và vận động nhân dân xây dựng hiến pháp mới.
Tuy nhiên, với tất cả
nhận thức của tôi về tình hình và về đòi hỏi cải cách thể chế chính trị như đã
trình bầy, cho đến giờ phút này tôi vẫn phải đánh giá: Tất cả những gì đang diễn
ra trong quá trình chuẩn bị đại hội XII cho thấy khát vọng cải cách thể chế
chính trị đến 99% là không hiện thực. Nguyên nhân chủ yếu và duy nhất là
sự thiếu hụt ý chí chính trị của ĐCSVN - trước hết là đội ngũ lãnh đạo của nó:
Không dám đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Tôi cầu mong tôi sai, để
cho đất nước mình khỏi khổ, nhưng hình như tôi nhận định như thế không sai. Vì
thế, dù chỉ còn 1% cũng vẫn phải nói đến cùng, nếu không thủng được vào cái tai
của đảng, thì lọt vào tai của nhân dân vậy, vào tai các đảng viên yêu nước.
Nguyên
nhân hàng đầu của sự thiếu hụt ý chí chính trị này trong đảng trước sau vẫn chỉ
là tha hoá và tham nhũng trong đảng! Điều vô cùng đơn giản rất dễ thấy này và
cũng hết sức tầm thường này lại là sự thật chết người, và hiện nay gần như vô
phương cứu chữa. Điều này thật cay đắng làm sao! Cả một cái đảng có truyền thống
cách mạng bao nhiêu thế hệ, cuối cùng gục ngã trước một cái điều đơn giản, quá
tầm thường, và dễ thấy này: Sự sa đọa của chính mình! Cả một đất nước có lịch
sử hào hùng đang trở thành nô lệ của cái điều vô cùng ẩm ương và vô cùng phi lý
này!
Có ý
kiến nói nguyên nhân cơ bản của sự thiếu hụt này là ý thức hệ. Tôi thấy nghĩ thế
không sai, song có lẽ chưa đủ. Bởi vì ý thức hệ được rêu rao thực chất bây giờ
chỉ còn là cái cớ để trói buộc người khác, là cái lá nho phô ra để che giấu những
điều xấu xa trước dân chúng, bản thân những người giao giảng ý thức hệ XHCN đâu
có tin và càng không theo (tôi đã lấy việc học tập tư tưởng và đạo đức Hồ Chí
Minh dẫn chứng).
Tha
hoá trầm trọng nhất trong đảng hiện nay là tha hoá về chính trị, điểm tột cùng
của tha hoá đạo đức.
Tham
nhũng tồi tệ nhất trong đảng hiện nay là tham nhũng quyền lực, cha đẻ của mọi
tham nhũng vật chất, của cải và các giá trị tinh thần khác, kể cả tham nhũng lịch
sử và sự cướp đoạt tự do tư duy...
Cái
vô cùng khó là tha hoá và tham nhũng như thế đã trở thành một nếp nghĩ, nếp sống
ngay càng lan rộng và lan sâu trong mọi cộng đồng dân cư từ nông thôn đến thành
thị, trong mọi lĩnh vực ngành nghề dù thuộc dân sự, quân sự, võ trang, khoa học
kỹ thuật, nghệ thuật hay kinh tế, đoàn thể xã hội, từ trung ương xuống cơ sở...
Tha hoá và tham nhũng cấp dưới công kênh cấp trên và cứ thế công kênh nhau, bỏ
phiếu cho nhau và cố kết thành bè thành mảng; trị một nơi hay một vụ việc lập tức
bị trị lại; đổ một nơi lập tức có nguy cơ “domino” kéo đổ cả một dây nên cố níu
kéo nhau dứt khoát không cho nơi nào đổ… Cần thì trấn áp bằng bạo lực bất kể sự
phản kháng nào từ dân, để giữ cho cái đổ không xẩy ra… Cái gì không che giấu
được thì xuyên tạc. Phản kháng đụng chạm đến chế độ chính trị, trấn áp sẽ càng
quyết liệt hơn, bất chấp đạo lý và luật pháp. Tình trạng này khiến cho đối mặt
với tha hoá và tham nhũng hầu như chỉ có mỗi cái sợ. Đất nước bao chùm các nỗi
sợ có tên và không tên. Kẻ thấp cổ bé miệng sợ bị quyền lực trù giập, bị khủng
bố, hoặc không giữ được niêu cơm, cam chịu vẫn là sự lựa chọn dễ thở hơn… Kẻ có
chức có quyền sợ mất phe cánh, bổng lộc của mình có thể bị teo tóp, hoa lợi của
con cháu bị ảnh hưởng, nên không ai bảo ai cứ nhũn như con chi chi và mũ ni che
tai trước mọi tội ác, đồng loã với tội ác… Phần đông những vụ tội ác lớn vỡ lở
là do đánh nhau là chủ yếu, chứ không phải do kết quả thực thi pháp luật. Hủ tục,
sự dốt nát và các tàn dư phong kiến cũ là đồng minh chí cốt của tha hoá và tham
nhũng… Dù hô hào đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, hô hào học tập như thế nào
đi nữa, tha hoá và tham nhũng vẫn cứ ngang nhiên hoành hành và bất trị, cứ như
ung thư tàn phá không thương tiếc cơ thể đất nước. Tình trạng tồi tệ đến mức ngôn ngữ không mang
tải nổi, thần kinh con người khó trụ lại được khi phải tiếp xúc những điều bỉ ổi
lộ ra…
Sự kiện
xẩy ra bạo loạn đập phá khoảng 800 xí nghiệp trong hai ngày 13 và 14-05-2014 là
một trong những ví dụ điển hình, cho thấy tha hoá và tham nhũng vô hình trung
đã tiếp tay cho quyền lực mềm Trung Quốc đánh bại đất nước như thế nào trong trận
đánh cụ thể này: biểu tình chống sự việc giàn khoan HD 981 bị bàn tay quyền lực
mềm Trung Quốc biến tướng thành bạo loạn đập phá, hệ thống an ninh của ta hoàn
toàn bị bất ngờ, phía ta tốn kém phải bồi thường thiệt hại đập phá và còn phải
xin lỗi nữa, sự việc gây chia rẽ nội bộ đất nước...
Song
cũng phải nói ngay Myanmar dưới thời quân phiệt những chuyện tha hoá và tham
nhũng hoành hành như thế không thiếu và không ít tắm máu…
Lại
câu hỏi, thế nhưng tại sao cấp cao nhất ở Myanmar vẫn dám tiến hành cải cách,
nhưng ở ta lại không dám?
Lại
câu trả lời: Cấp cao ở nước ta thiếu cái cấp cao Myanmar dám: đặt lợi ích quốc
gia lên trên hết và phát huy được vai trò của trí thức và phong trào dân chủ.
Có thể còn một nguyên nhân nữa là xã hội phật giáo Myanmar còn giữ được nhiều
giá trị đạo đức và tinh thần quan trọng, trong khi đó ở nước ta những giá trị
này 40 năm nay bị huỷ hoại nặng nề.
Sự thật
là Myanmar đã và đang tiến hành cải cách, bắt đầu từ những việc dễ làm nhất, rõ
ràng, với từng bước đi nhỏ nhất trong một chiến lược cải cách tổng thể. Ngay cả
bước nhỏ nhất cũng được chia ra làm nhiều phần để làm dần: Ví dụ việc thả tù
chính trị là bước đi đầu tiên, được chia thành nhiều bước nhỏ, thực hiện kéo
dài khoảng 2 năm, cứ ổn định đến đâu thả tiếp đến đấy, tổng cộng có tới khoảng
2000 người được thả. Quyền tự do báo chí, quyền biểu tình cũng làm theo phương
thức chia ra từng bước như vậy. Quyền tự do bầu cử cũng được chuẩn bị rất kỹ lưỡng
sau khi đã giàn xếp xong với phe dân chủ. Nhưng trước mắt cũng mới chỉ là bầu cử
bổ xung 44 ghế còn khuyết trong quốc hội, được tiến hành trung thực, công khai
và dân chủ, trước sự chứng kiến của quốc tế. Trong khi đó hiến pháp hiện hành vẫn
giữ nguyên cho quân đội có đặc quyền giữ 25% số ghế trong quốc hội… Và như một
phép mầu khó tưởng tượng, những biện pháp cải cách chính trị như thế giúp cho
việc tháo gỡ những ách tắc nghiêm trọng trong kinh tế nhẹ nhõm hẳn và dễ thông
xuốt; đơn giản vì trí thức có những tham vấn có chất lượng, luật rõ ràng, được
nhân dân tin và hưởng ứng. Ví dụ: Việc thực hiện tỷ giá tự do đồng nội tệ Kyat
(trước cải cách cao gấp 100 lần tỷ giá chính thức của ngân hàng quốc gia)
Myanmar đã hoàn thành trong vòng không đầy một năm kể cả khâu chuẩn bị; trong
khi đó ở nước ta việc này phải làm đi làm lại trầy trật mãi, kéo dài gần một thập
kỷ mới xong. Quyền tự do kinh doanh ở Myanmar cũng đang được mở rộng từng bước,
nhưng vẫn phải theo hiến pháp hiện hành… Bản thân tổng thống Theinsein và lãnh
tụ phong trào dân chủ Aung San Suu Kyi nhiều lần trực tiếp tham gia đối thoại
công khai trước cả nước với các bên khác nhau trong những nỗ lực cùng tìm kiếm
đồng thuận xã hội cho đẩy mạnh cải cách… Bản thân tổng thống Thein Sein có
không ít những quyết định khó khan khi xử lý những vấn đề rất nhạy cảm trong
quan hệ với Trung Quốc, như hạn chế sự can thiệp của Trung Quốc vào những vấn đề
sắc tộc ở Myanmar, huỷ hợp đồng thuỷ điện Myitsone 1,6 tỷ USD, huỷ hợp đồng đường
sắt xuyên Myanmar từ Trung Quốc xuống thẳng vịnh Bengale 20 tỷ USD, các hợp đồng
kinh tế khác, giải quyết bao nhiêu áp lực chính trị/kinh tế khác trong và ngoài…
Bí
quyết của những thành công ban đầu này tại Myanmar ngoài sự hậu thuẫn rất quan
trọng của trí thức (trong đó có nhiều nhà kinh tế, các nhà kỹ trị, các luật
gia... sống lưu vong dưới chính quyền quân phiệt nay quay về giúp nước), xây dựng
được chương trình cải cách đúng đắn với những bước đi có tính toán hợp lý, điều
có ý nghĩa quyết định là (1)chính quyền trung ương và quân đội giữ được trật tự
trong quá trình tiến hành cải cách, không để xảy ra việc dùng quân đội đàn áp
biểu tình, rõ nét nhất là thời gian vận động và tiến hành cuộc bầu cử bổ sung, (2)tạo
ra được những cải thiện hay tiến bộ rõ rệt trong kinh tế. Chính sự ổn định
chính trị và sự cải thiện kinh tế từng bước đạt được này đã hỗ trợ tích cực trở
lại các bước cải cách tiếp theo. Cải cách áp dụng nguyên tắc không hồi tố.
Hòn
đá tảng đầy thách thức cam go trước mặt đối với Myanmar là xây dựng hiến pháp mới,
trong đó có vấn đề xử lý thế nào đặc quyền cho quân đội chiếm 25% ghế trong quốc
hội. Chắc chắn còn nhiều sóng gió phía trước, vấn đề các sắc tộc ở Myanmar vẫn
đang rất nóng bỏng, nguy cơ cải cách bị đảo ngược không phải là ít. Dù sao, sau
3 năm thực hiện, cải cách đã khai mở được những bước đi quyết định đầu tiên
trên con đường phát triển mới của đất nước; trong khi đó Trung Quốc vẫn không
ngừng can thiệp bằng quyền lực mềm.
Nhìn
vào Việt Nam:
Ngoại
trừ cái điều mà cấp cao của quyền lực ở Myanmar dám làm nhưng quyền lực cấp cao
ở nước ta không dám, phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay đi trước Myanmar khoảng
10 – 15 năm, GDP p.c. của nước ta cao gấp đôi của Myanmar, nước ta không có vấn
đề sắc tộc nặng nề như Myanmar… Quả là phi lý không thể chấp nhận được là cải
cách thể chế chính trị ở Myanmar là có thể và đang thu lượm kết quả đầu tiên,
nhưng ở nước ta cho đến giờ phút này cải cách thể chế chính trị tuy rất cấp
bách nhưng vẫn hầu như là không thể.
Các
phần I, II và III của bài viết này đã nêu lên những vấn đề quan trọng cuộc cải
cách thể chế chính trị này ở nước ta phải giải giải quyết (xem kết luận của
mỗi phần). Trong những năm gần đây, đặc biêt là khi bàn về sửa đổi hiến pháp, những
kiến nghị cụ thể của những người yêu nước trong cả nước về thực hiện cuộc cải
cách này rất phong phú. Gần đây nhất là thư ngỏ ngày 28-07-2014 của 61 đảng
viên gửi cho Bộ Chính trị và BCHTƯ yêu cầu lãnh đạo ĐCSVN (1)bạch hoá quan hệ
Việt Trung, (2)chấm dứt việc đàn áp những người yêu nước, (3)huỷ bỏ cương lĩnh
lỗi thời hiện nay của ĐCSVN để xây dựng đảng trở thành đảng của dân tộc, (4)xây
dựng nhà nước pháp quyền dân chủ, (5)đại hội XII phải được tiến hành theo cách
đáp ứng những đòi hỏi vừa nêu trên, (6)phải tổ chức bầu cử trung thực quốc hội
khoá tới để mở đầu cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ.
Phần
giới thiệu tóm tắt về diễn tiễn quá trình cải cách ở Mynamar cũng đưa ra những
gợi ý các bước đi cụ thể đầu tiên cho vệc tiến hành cải cách ở nước ta, dù rằng
mỗi quốc gia đều có đặc thù riêng…
Trong
khi bắt tay vào cải cách thể chế chính trị, cần đặc biệt quan tâm hỗ trợ và
thúc đẩy các biện pháp cải cách thể chế kinh tế chính phủ đang nỗ lực triển
khai. Kinh nghiệm Myanmar cho thấy điều này vô cùng quan trọng, bởi vì vừa
phòng ngừa được đổ vỡ gây tổn thất, vừa mang lại những khích lệ thiết thực tạo
không khí hợp tác và đối thoại cho xúc tiến cải cách.
Tóm lại
đất nước hội đủ mọi điều kiện căn bản cho phép tiến hành thành công nhiệm vụ cải
cách trọng đại này. Không phải tìm kiếm đâu trên trời dưới đất xa xôi, nếu
ĐCSVN hôm nay trung thành với chính lý tưởng đã khai sinh ra mình: Hãy quay trở
lại phấn đấu thực hiện nghiêm túc Tuyên Ngôn Độc Lập 02-09-1945 và xây dựng nhà
nước pháp quyền dân chủ theo tinh thần Hiến pháp 1946!
Trở
ngại duy nhất là vẫn đang thiếu quyết tâm chính trị trong cấp cao nhất của quyền
lực đảng: Đặt lợi ích quốc gia lên trên hết!
Đại hội
XII tới sẽ đặt ĐCSVN trước giờ phút của sự thật:
Đảng
lựa chọn đất nước để tiến hành cải cách thể chính trị, đại hội XII sẽ đánh dấu
một bước ngoặt lịch sử đổi đời đất nước và cả bản thân đảng. Đảng trì hoãn hoặc
thậm chí đối kháng cuộc cải cách đã chín muồi này, đại hội XII sẽ đẩy đất nước
vào một thời kỳ đen tối mới, như hội nghị Thành Đô đã một lần đánh dấu thời kỳ
lệ thuộc của đất nước./.
Hết
Hà
Nội, 02-09-2014
[1]
Bài 1: Còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thuỷ
Bài 2: Hiểm hoạ
đen
Bài 3: Chúng
ta lựa chọn gì cho tổ quốc?
(tìm xem
trong: nguyentrung-vt.blogspot.com)
[2]
Có thể nói “nguy cơ diễn biến hoà bình” được nhập khẩu nguyên đai nguyên kiện từ
Trung Quốc, tác giả của nó là tướng Dương Thượng Côn.
[3]
Tham khảo: Nguyễn Trung, “Ngã ba 2007”,
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_NgaBa2007.htm
[4]
Chủ nghĩa Mác – Lênin có những điểm nổi bật: Thực hiện chuyên chính vô sản –
nghĩa là không thừa nhận nhà nước pháp quyền, xóa bỏ tư hữu, thực hiện công hữu
lực lượng sản xuất…
[5]
Theo Hannah
Arendt, chế độ toàn trị có những đặc điểm:
(1)một chính đảng duy nhất, (2)một xã hội đám đông, (3)một ý thức hệ thống lĩnh
mọi phương diện của đời sống xã hội và đời sống cá nhân, (4)khủng bố và
(5)tuyên truyền áp đặt tư duy và xuyên tạc sự thật.
[6]
Không có quốc gia nào trên thế giới có nhà nước pháp quyền trong hệ thống chính
một đảng, Việt Nam cũng không thể là một ngoại lệ. Song từ chế độ toàn trị hiện
nay, Việt Nam chuyển như thế nào sang chế độ chính trị đa nguyên lại là một vấn
đề hoàn toàn khác và rất hệ trọng, sẽ được bàn tới sau.
[7]
Suốt thời chiến, Quân đội nhân dân Việt Nam cho đến ngày 30-04-1975 chỉ có 36
tướng, hiện nay là 489 tướng, dôi ra 74 tướng so với quy định hiện hành đã được
Quốc hội phê duyệt; trong khi đó quân đội Trung Quốc có quân số lớn nhất thế giới
nhưng hiện nay chỉ có gần 200 tướng.
[8]
Cho đến nay chưa hề có một công trình nghiên cứu nghiêm túc nào về những hậu quả
hậu cách mạng và những hậu quả chiến tranh mà đất nước phải xử lý trong thời
bình. Cuộc sống hàng ngày hôm nay đầy rãy những hiện tượng công thần, chia rẽ
dân tộc, sự trỗi dậy của những hủ tục không được phép tồn tại trong xã hội hiện
đại, sự băng hoại của các giá trị đạo đức và giáo dục… Trong khi đó lại xuất hiện
thêm sự tàn phá của chế độ toàn trị, của chủ nghĩa tư bản thân quen, chủ nghĩa
tư bản hoang dã…
[9] Xin đừng
quên: Một trong những tội ác nghiêm trọng của thực dân Pháp mà Cách mạng Tháng
Tám đã lên án là "chính sách ngu dân". Các cơ quan làm công tác nghiên cứu của đảng
rất nên làm công việc khảo sát để so sánh với hôm nay.
[10]
Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, bài 3 “Chúng ta lựa chọn gì cho tổ quốc?”, phần
nói về “Kịch bản 3” – nguyentrung-vt.blogspot.com, nhãn: Đại hội XII
ĐCSVN,
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_LuaChonGiChoToQuoc.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét