Bài
5
Bàn
về hoàn thiện kinh tế thị trường
(Bài
viết về đại hội XII sắp tới của ĐCSVN)
Nguyễn Trung
nguyentrung-vt.blogspot.com
Hà Nội, 02-09-2014
I.
Đánh giá khái quát con đường 40 năm
Góp phần tổng kết
kinh tế mà đại hội XII nhất thiết phải làm, tôi xin nêu lên một số nhận xét
chính dưới đây, trước khi bàn đến chủ đề hoàn thiện kinh tế thị trường ở nước
ta.
Trong bài 2 và bài
3, tôi cho rằng 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên là một thời kỳ phát triển thất
bại, hoặc dễ nghe hơn: cơ bản là thất bại (song “dễ nghe hơn” như thế chẳng ích
lợi gì thêm cho đất nước).
Nói là thất bại, bởi
lẽ:
Không đạt được các mục tiêu chiến lược, thành tựu hay kết quả thu được không xứng
với thời gian, công sức, của cải đã bỏ ra và những cơ hội có được. Bao chùm lên
tất cả là đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội thất bại, đến 1986 phải xoá bỏ nền
kinh tế bao cấp để tiến hành đổi mới, đề ra cái gọi là xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về thực chất suốt 29 năm đổi mới vẫn là
kiên trì chủ nghĩa xã hội mà chính tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thừa nhận
chưa rõ nó sẽ là cái gì. Đường lối sai, sửa lại rồi mà cũng không rõ được, như
thế làm sao có thể thành công được? Cho nên thất bại là tất yếu. Dưới đây xin
điểm lại cho rõ.
Trong 40 năm này, nước ta mất trên dưới 10 năm
vào 2 cuộc chiến tranh tiếp theo kháng chiến chống Mỹ (chiến tranh Campuchia,
chiến tranh Trung quốc xâm lược biên giới), lại thêm những thất bại trong đường
lối kinh tế bao cấp (xin dùng tạm tên gọi này) kéo dài cho đến khi tiến hành
đổi mới 1986. Thời kỳ 10 năm này (1975 - 1986, về những mặt nào đó phải tính
đến 1989) đảng đã vấp phải những sai lầm rất nghiêm trọng cả về đối nội (bao
gồm cả kinh tế) và đối ngoại, với nhiều hậu quả lâu dài. Nguyên
nhân chủ yếu là chủ quan, duy ý chí, không hiểu thế giới và không hiểu chính
bản thân nước ta: Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội! Từ nay không có kẻ thù nào dám động đến ta! – Đương
nhiên, những nguyên nhân khách quan cũng rất quan trọng, có những mặt bất khả
kháng, song dù sao vẫn phải nói những nguyên nhân chủ quan của
lãnh đạo và của hệ thống chính trị là những tác nhân trực tiếp mang tính chất
quyết định của những sai lầm thời hậu chiến.
Trong những nguyên nhân chủ quan, cái nguyên nhân không hiểu thế
giới, không hiểu chính bản thân nước ta cho đến hôm nay vẫn đang là một cái
u-bướu chết người trong não bộ tư duy của lãnh đạo ĐCSVN.
Kinh tế nước ta thực sự phát triển kể từ khi tiến hành đổi mới
1986, ngày nay đạt mức “nước đang phát triển có thu nhập trung bình (thấp)”[1]. Nếu so sánh nước ta hôm nay với nước ta 1986, kinh tế
nước ta đã đi được một chặng đường dài: từ nước chậm phát triển lên nước đang
phát triển, giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng được thế
giới ghi nhận, GDP p.c. 2014 cao gấp khoảng 10 lần khi tiến hành đổi mới năm
1986 (2000 USD / 200 USD). Đã có lúc kinh tế nước ta giành được sự phát triển
ngoạn mục (nhất là thời kỳ 1986 – 1995…), dấy lên nhiều hy vọng khiến trên thế
giới người ta đã bắt đầu nói tới “con hổ Việt Nam”, nhưng con hổ này chưa kịp
cất lên tiếng gầm nào thì đã biến mất tăm.
Song
nếu so nước ta với các nước chung quanh, khoảng cách tụt hậu của ta ngày càng
rộng thêm. Ví dụ: năm 1986 GDP p.c. (GDP tính theo đầu người) của Trung Quốc
gấp đôi của nước ta (400 USD / 200 USD, năm nay cao gấp trên 3 lần; khoảng cách
lúc ấy (1986) GDP p.c.Trung Quốc cao hơn nước ta ước chừng <+200 USD, nhưng
khoảng cách này hiện nay là <+5000 USD; so với các nước đi trước ta trong
ASEAN cũng cho thấy mối tương quan như vậy. Nghĩa là 3 thập kỷ vừa qua, càng
chạy đua ta càng tụt hậu. Năm 1990, với tư cách đại sứ tại Thái Lan, tôi tìm
hiểu mọi vấn đề và báo cáo về nước: Việt Nam tụt hậu khoảng 20 năm so với Thái
Lan. Năm nay (2014), nghĩa là sau ¼ thế kỷ, khoảng cách này không hề thu hẹp,
mặc dù Thái Lan từ vài thập kỷ nay không thể ra khỏi cái bẫy các nước có thu
nhập trung bình. Lý do: đến nay Thái Lan vẫn chưa thiết lập được cho mình một
thể chế chính trị của một nước công nghiệp, mặc dù đã hội nhập quốc tế từ đầu
những năm 1930s. Đây là bài học nhãn tiền cho Việt Nam.
Điều đặc biệt đáng lo ngại là sau 3 thập kỷ phát triển (kể từ
1986), kinh tế nước ta đã tận dụng hết (đến mức cạn kiệt) mọi yếu tố nội/ngoại
có được cho phát triển theo chiều rộng (chủ yếu dựa
trên lao động giản đơn, khai thác tài nguyên và đất đai, tăng trưởng chủ yếu
nhờ vào đầu tư mới…) song vẫn chưa tạo ra được nền tảng kinh tế vững chắc để đi
vào thời kỳ phát triển theo chiều sâu (chủ yếu dựa trên
khoa học & công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao, thể chế quản trị quốc
gia hiện đại). Cho đến ngày hôm nay, nước ta mới chỉ tạo ra được một nền
kinh tế gia công. Nói nôm na, đấy là một nền kinh tế chỉ bán đi
được những thứ ta tự có: lao động rẻ, tài nguyên, đất đai,
môi trường, vị trí địa lý, cơ hội… Cho đến hôm nay vẫn chưa đi vào được thời kỳ
phát triển một nền kinh tế bán các sản phẩm ta tự
làm ra – với nghĩa có hàm lượng cao về trí tuệ và công nghệ của
một nền kinh tế dựa vào chất lượng cao của nguồn nhân lực và năng lực quản trị
của nhà nước; bởi vì còn thiếu nghiêm trọng những điều kiện tiên quyết cho thời
kỳ phát triển mới này trên mọi phương diện (chất lượng nguồn nhân lực, chất
lượng giáo dục, thể chế chính trị quốc gia, thể chế kinh tế thị trường thực
thụ, lực lượng doanh nghiệp, kết cấu hạ tầng vất chất kỹ thuật…) Kinh tế đã đi
hết đoạn đường phát triển theo chiều rộng, nhưng hôm nay đang lâm vào khủng
hoảng cơ cấu trầm trọng, nên vừa bế tắc (cái bẫy “nước có thu nhập trung bình
– thấp”), vừa chưa chuẩn bị được những điều kiện phải có cho việc
chuyển nền kinh tế đi tiếp vào thời kỳ phát triển theo chiều sâu.
Còn 6 năm nữa, năm 2020, nước ta phải trở thành nước công nghiệp,
hoặc là “cơ bản là nước công nghiệp theo hướng hiện đại” (một khái niệm rất
“cao-su”, tùy tiện, và rất thiếu trách nhiệm với đất nước) – như đã ghi trong
nhiều nghị quyết của đảng, song mục tiêu này không thể hoàn thành được, vì
trình độ phát triển nền kinh tế còn ở mức quá thấp nhìn theo bất kỳ tiêu chí
nào (tỷ trọng các khu vực kinh tế - economic sectors, tỷ trọng phân bổ các loại
lao động, tỷ trọng kinh tế nông thôn và kinh tế thành thị…, các chỉ số phát
triển tính theo đầu người về kết cấu hạ tầng vật chất & kỹ thuật, vân
vân..; riêng chỉ số bằng thạc sỹ, tiến sỹ tính theo đầu người và trong bộ máy
quyền lực, nước ta vượt xa Hàn Quốc, Nhật Bản và nhiều nước phát triển khác;
hiện nay cả nước có khoảng 50 triệu lao động ở độ tuổi 15 trở lên, trong đó có
tới 11 triệu người ăn lương hoặc hưởng các thứ có tính chất lương từ tiền dân
đóng thuế…). Đặc biệt nghiêm trọng là nước ta không có một thể chế
chính trị quốc gia phù hợp cho một nước công nghiệp hoá, chính điều này trước
sau đang chặn đứng khả năng nước ta sẽ trở thành một nước công nghiệp. Đó là
một chế chính trị quản trị và cai trị đầy bất cập và tham nhũng.
Điều
cần lưu ý ở đây, sau 3 thập kỷ tiến hành công nghiệp hoá (chỉ tính từ 1986),
nước ta huy động được một nguồn lực nội và ngoại ước tính nhiều gấp hơn 2 lần
của Hàn quốc đã làm được cho 3 thập kỷ công nghiệp hoá của họ. Song sau 3 thập
kỷ này, Hàn Quốc hoàn thành được nhiệm vụ công nghiệp hoá (khoảng cuối thập kỷ
1980s). Nhưng nước ta không hoàn thành được nhiệm vụ này, lại rơi quá sớm vào
quá trình giải công nghiệp hoá do tác động của quá trình toàn
cầu hóa (rõ nét nhất là nhiều sản phẩm công nghiệp đã quá dư thừa trên thị
trường thế giới và trở nên lỗi thời, hoặc phải nhường chỗ cho những sản phẩm
công nghiệp mới hightech; các quốc gia phải tiến hành nhiều thay đổi trong quy
mô và phương thức sản xuất công nghiệp, thay đổi trong vận dụng phân công lao
động quốc tế để khai thác lợi thế so sánh hoàn toàn khác với cách đây vài thập
kỷ - ví dụ từ outsourcing lại chuyển về khai thác thị trường nội địa, vân vân)…
Đáng lo ngại nhất là nền kinh tế gia công của nước ta đang bế tắc vì khủng
hoảng cơ cấu trầm trọng; nông nghiệp của đất nước cũng đang bị thách thức
nghiêm trọng và có nhiều sản phẩm thua ngay trên sân nhà; khu vực dịch vụ phát
triển khả quan hơn song về cơ bản vẫn nằm trong phạm vi của một nước đang phát
triển có mức thu nhập trung bình thấp.
Nói khái quát, nước ta đang có một nền kinh tế “đắt”, nhìn
theo tính hiệu quả kinh tế (economic efectiveness) hoặc
theo cách đánh giá yếu tố năng suất tổng
hợp (total productivity factor) trên mọi phương diện: chỉ số ICOR cao nhất
trong khu vực (nhất là trong 10 năm qua liên tiếp chỉ số ICOR thường là =6 hoặc
<6; trong khi đó vào thời kỳ ban đầu này ở Hàn Quốc, Đài Loan ICOR thường
chỉ là = >3), tỷ suất lợi nhuận rất thấp, mức độ tiêu thụ năng lượng và
nguyên liệu trên một sản phẩm hiện nay của ta thuộc loại cao nhất ĐNÁ và năng
suất lao động thuộc loại thấp nhất, năng lực sản xuất từng ngành hoặc bất cập
so với đòi hỏi của thị trường hoặc bỏ phí rất lớn (nhất là trong công nghiệp
sản xuất sản phẩm phụ trợ, công nghiệp cơ khí, công nghiệp chế tạo.., với hệ
quả nhiều ngành chỉ sử dụng được khoảng 30 – 40% công suất thực có), chi phí
trung gian rất tốn kém củ yếu do quan liêu và tham nhũng, tác động môi trường
nặng nề với nhiều hậu quả lâu dài... Ngoại trừ một số ít ngành đặc thù trong
lắp ráp và gia công, nhìn chung công nghệ trong công nghiệp nước ta chủ yếu
thuộc thế hệ 3 hoặc 4 (nhất là phần lớn những công trình công nghiệp quan trọng
mới xây dựng trong hơn một thập kỷ nay, được thực hiện dưới dạng EPC do Trung
Quốc trúng thầu). Tham nhũng rất trầm trọng, song lãng phí còn trầm trọng hơn
nhiều – nhất là lãng phí do những quyết định kinh tế sai lầm, những dự án treo,
những quy hoạch phá sản ở khắp cả nước…
Tóm lại, trong 40 năm qua nước ta đã theo đuổi một chiến lược phát
triển sai lầm, trong một thể chế chính trị bất cập. Nổi cộm là các vấn đề:
(1)Công nghiệp rất chắp vá và chưa định hình được nước ta sẽ là
một nước công nghiệp gì nếu thu hẹp dần công nghiệp gia công hiện nay. Có lẽ
phải nói công nghiệp nước ta phát triển theo cách tranh thủ được gì làm nấy
(nổi bật là cái gọi là “nền kinh tế GDP
tỉnh”), chứ không phải là được dẫn dắt theo một tư duy chiến lược tổng thể
của quốc gia, do đó manh mún, FDI chi phối thế nào như thế nào thì phát triển
như thế nấy… Bản thân sự phát triển này
lại thay đổi theo từng khoá đại hội đảng (tư duy nhiệm kỳ, tân
quan tân chính sách). Hiện tại đất nước chỉ có một nền kinh tế gia công;
khai thác và bán các tài nguyên, môi trường và đất đai… Đó là một nền kinh tế
đang trở thành bãi thải công nghiệp cho nước ngoài là chủ yếu, rõ nét nhất
là chất lượng FDI nói chung rất thấp: chủ yếu thuộc lĩnh vực gia công, sản
xuất nguyên vật liệu trung gian rất ô nhiễm môi trường, khai thác tài nguyên
khoáng và đất đai, một số công trình đặt ra nhiều vấn đề an ninh chính trị và
quốc phòng rất đáng lo ngại… Nói đất nước ta trở thành đất nước cho thuê, chủ
của đất nước trở thành người đi làm thuê… trước hết là vì những lẽ này.
Công nghiệp hóa như 3 thập kỷ vừa qua là sản phẩm tất yếu của chế
độ chính trị. Đơn giản vì thể chế chính trị hiện tại không có khả năng huy động
trí tuệ cả nước vạch ra các chiến lược quốc gia đúng đắn, càng không có khả
năng thực thi chúng.
Suy cho cùng, thể chế chính trị hiện tại có quá nhiều các yếu tố
tự mang trong nó (built – in) những
lợi ích đối nghịch hay đối kháng với những lợi ích theo đuổi một chiến lược
công nghiệp hóa hiện đại của quốc gia. Trên thực tế (1)tính “phe nhóm lợi ích”,
(2)“tư tưởng nhiệm kỳ”, (3)tính cát cứ của nền kinh tế “GDP tỉnh” như là một
đặc tính của thể chế chính trị này, (4)trí tuệ hầu như không có chỗ đứng phải
có trong thượng tầng kiến trúc của quốc gia – đấy chính là 4 yếu tố khiến cho
thể chế chính trị này chỉ có thể đề ra những chiến lược què quặt, với tầm nhìn
lợi ích nhiệm kỳ… Thể chế chính trị này tự nó xé nát mọi chiến lược có tầm vóc
quốc gia – kể cả chiến lược công nghiệp hóa; kinh tế cả nước vừa chắp vá, vừa
có quá nhiều chùng lặp, quy hoạch lổn nhổn, môi trường nham nhở... (Trong nhiều
lần đi khảo sát các địa phương, tôi không sao tránh khỏi cảm giác đau lòng: Đất nước đang bị nền kinh tế này băm vụn. Đã
đến lúc phải xắp xếp lại gian san đất nước!..)
3 thập kỷ công nghiệp hóa vừa qua ở nước ta kể từ Đổi mới 1986 cho
thấy chế độ toàn trị hiện tại chỉ thích hợp cho việc công nghiệp hóa theo lối
thi nhau khai thác cạn kiệt các yếu tố phát triển theo chiều rộng (dựa trên lao
động cơ bắp, bóc lột tài nguyên và môi trường, và đầu tư mới…) để hình thành
một nền công nghiệp lạc hậu, hiện nay đứng trước nhiều ách tắc khó vượt qua để
chuyển vào một thời kỳ phát triển mới (phát triển theo chiều sâu). Đến đây có
thể kết luận: Thể chế chính trị toàn trị của nước ta như hiện nay không có khả
năng đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, dù là
kéo dài bao nhiêu năm nữa cũng thế thôi – như chúng ta đang thấy ở các quốc gia
rơi vào cái bẫy của nước có thu nhập trung bình, tại Thái Lan và nhiều nước
đang phát triển khác.
Trong những thập kỷ tới, ngay trước mắt là trong 5 năm tới, nếu
tiếp tục công nghiệp hóa như phương thức đang diễn ra với thể chế chính trị
hiện tại, bãi thải công nghiệp có tên gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
sẽ ngày càng lớn, với mọi hệ lụy sẽ dìm sâu hơn nữa đất nước vào lạc hậu và tụt
hậu.
(2)Nông nghiệp là vấn đề rất nhậy cảm ở nước ta trên nhiều
phương diện, nhưng cũng đang bế tắc nghiêm trọng về mọi phương diện. Chủ yếu do
sai lầm về chính sách đất đai, do thất bại trong quá trình công nghiệp hoá / đô
thị hoá, và do thất bại trong nhiệm vụ công nghiệp hoá – hiện đại hóa nông
nghiệp giữa lúc kinh tế cả nước đã hội nhập vào quá trình toàn cầu hoá như ngày
nay… Mặc dù có vị thế nhất định trong một số sản phẩm trên thị trường
nông phẩm thế giới, nông nghiệp nước ta còn đứng rất xa yêu cầu là một nền nông
nghiệp tiến dần lên hiện đại của một quốc gia đang trong quá trình công nghiệp
hoá. Không ít sản phẩm nông nghiệp của nước đang bị sản phẩm ngọai đẩy lùi ngay
trên thị trường nước ta, nhất là từ Trung Quốc.
Trong khi đó với trình độ phát triển hiện có (nghĩa là vẫn còn rất
lạc hậu, lao động chân tay là chủ yếu, sự tham gia của tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ còn rất thấp…), một lao động nông nghiệp nước ta hiện nay
tối thiểu phải cần tới 3 ha ruộng đất canh tác để có thể tận dụng dụng hết ngày
công của mình trong năm; cả nước vẫn còn tới khoảng gần 70% số dân sống ở nông
thôn; sản xuất nông nghiệp vẫn là nền sản xuất tiểu nông manh mún với rất nhiều
rủi ro nguy hiểm cho nông dân từ đầu vào cho đến đầu ra của toàn bộ quy trình
kinh tế nông nghiệp; tất cả các khâu giống, phân bón, thức ăn gia súc, năng lực
chế biến, tiêu thụ sản phẩm còn phụ thuộc nghiêm trọng vào bên ngoài; khả năng
đi lên sản xuất quy mô lớn theo hướng hiện đại của nông nghiệp nước ta đang bị
những ràng buộc của vấn đề sở hữu đất đai, của đường lối phát triển kinh tế
hiện tại và của thể chế chính trị cản trở nghiêm trọng, vân vân…
Thậm chí còn phải nói, một nền nông nghiệp như hiện tại tự nó cũng
sẽ chặn đứng khả năng nước ta trở thành nước công nghiệp: Cả nước còn trên 50%
lao động làm việc trong nông nghiệp với diện tích đất đai bình quân khoảng 3
lao động / 1 ha ruộng đất, công nghệ canh tác và chế biến rất lạc hậu. Nếu so
sánh năm 1988 trở về trước nước ta còn là nước thiếu ăn, ngày nay có nhiều sản
phẩm nông nghiệp xuất khẩu có khối lượng cao vào loại nhất nhì thế giới, hoàn
toàn có thể ru ngủ nhau trong niềm tự hào còn nguy hiểm hơn thuốc độc. Song nếu
nhìn sự phát triển nông nghiệp của nước ta trong bối cảnh của một nước đang
tiến hành công nghiệp hóa, có lẽ nên nhìn đấy là một thảm bại: nông dân vẫn là
tầng lớp nghèo khổ và chịu nhiều thiệt thòi nhất; đồng thời quá trình công
nghiệp hóa đang bị sự lạc hậu của phát triển nông nghiệp kìm hãm.
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình nông nghiệp nói trên có thể là
toàn bộ đường lối và chính sách nông nghiệp của nước ta 40 năm qua xoay đi xoay
lại chủ yếu vẫn chỉ là các chính sách làm nông nghiệp, kể cả cái
“tam nông” học mót. 40 năm qua chưa bao giờ vấn đề nông nghiệp nước ta được đặt
lên thành một vấn đề của chiến lược phát triển quốc gia và của một thể chế
chính trị quốc gia trong quá trình công nghiệp hóa. Đây là vấn đề
rất nên suy nghĩ.
Xin lưu ý, Hàn Quốc, Đài Loan trong vòng 2 thập kỷ đầu tiên của
thời kỳ công nghiệp hoá đã thực hiện được đòi hỏi phát triển nông nghiệp phải
đồng hành với quá trình công nghiệp hoá.
(3)Khu vực dịch vụ phát triển khả quan hơn (trong đó nổi bật là du
lịch, viễn thông, hàng không…), song cũng đã hết đà phát triển theo chiều rộng;
đất nước ta chưa có được nguồn nhân lực có chất lượng, thể chế nhà nước thích
hợp và kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật tương ứng để đi vào thời kỳ phát triển
theo chiều sâu. Khu vực dịch vụ chủ yếu mới chỉ phát triển trong một số ngành,
trong khi đó hầu như chưa đi vào được rất nhiều ngành nghề quan trọng khác của
dịch vụ mà điều kiện địa lý tự nhiên và địa lý kinh tế/chính trị của nước ta
cho phép (ví dụ, có thể phân tích khu vực dịch vụ của nền kinh tế Singapore làm
ra những sản phẩm gì để thấy rõ những ngành kinh tế nào của dịch vụ nước ta
chưa đụng chạm tới). Nhân đây xin nói ngay: Cần loại bỏ mong muốn bệnh hoạn của
một số người nào đó muốn phát triền casinos ở nước ta, bởi lẽ tình trạng tha
hoá hiện tại trong xã hội nước ta đã vượt quá xa mức có thể kiểm soát được.
(4)Nền tài chính quốc gia và hệ thống ngân hàng của đất nước rất
mong manh, nợ nần nhiều – trong đó tỷ lệ nợ xấu rất cao, tính công khai minh
bạch và năng lực quản trị rất thấp. Sự can thiệp của chính trị (bao gồm cả nhóm
lợi ích) vào lĩnh vực tài chính ở mức rất nguy hiểm. Những đối phó cục bộ (như
lãi suất, thuế suất, giá vàng, trái phiếu, đáo nợ…) tuy có lúc đem lại kết quả
tạm thời (chữa cháy), song chung cuộc đang tích tụ những nguy cơ đổ vỡ nguy
hiểm lớn hơn. Vấn đề đặc biệt nghiêm trọng là nền tài chính quốc gia và
hệ thống ngân hàng của đất nước tự nó đã khơi ngòi và góp phần quan trọng vào
những cuộc khủng hoảng kinh tế lớn của đất nước vừa qua, không hoàn thành được
nhiệm vụ chính trị số một của nó là huy động và phân bổ tối ưu mọi nguồn lực
cho sự phát triển năng động và bền vững của đất nước.
(5)Thất bại lớn nhất của 40 năm qua là đã không xây dựng nên được
một thể chế chính trị của nhà nước pháp quyền dân chủ mang lại độc lập tự do và
hạnh phúc cho nhân dân như đã ghi trong tiêu chí quốc gia[3] và
giải phóng tiềm năng phát triển của đất nước. Nhiều quyền cơ bản của công dân
và quyền con người bị ngăn cấm hoặc xâm phạm nghiêm trọng. Trong thất bại này
cần đặc biệt nêu lên thảm bại nghiêm trọng của nền giáo dục nước nhà đang để
lại những hậu quả rất lâu dài cho đất nước. Chúng ta đang có một nhà nước quản
trị để cai trị theo phương châm cái gì không quản được thì cấm, cần
thì can thiệp tùy tiện, hoàn toàn không phải là một nhà nước
kiến tạo phát triển. Sau 40 năm xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đất nước ta
lâm vào một cuộc khủng hoảng toàn diện (kinh tế - chính trị - văn hoá – xã
hội), bị lệ thuộc nguy hiểm vào Trung Quốc, độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia đang bi uy hiếp hơn bao giờ hết kể từ sau 30-04-1975. Nghiêm trọng hơn nữa: Sau 4 thập
kỷ độc lập thống nhất, phải chăng đất nước chúng ta hiện đang lâm vào tình
trạng mất phương hướng phát triển - giữa lúc tình hình khu vực và thế giới đang
có nhiều thách thức nặng nề, và thậm chí trở nên nguy hiểm hơn trước?
II. Những
khuyết tật lớn trong kinh tế thị trường nước ta
Trước hết về quan niệm, quan sát sự phát triển của các nước tiên
tiến trên thế giới, tôi xin rút ra những điều dưới đây về kinh tế thị trường.
Tinh thần cốt lõi của kinh tế thị trường là hình thành một quá
trình phát triển kinh tế theo sự dẫn dắt của những lực đẩy được tạo ra từ mối
quan hệ qua lại bình thường giữa cầu và cung trên thị trường.
Cầu và cung ở đây cần được hiểu là những đòi hỏi của trao đổi tự
do trong đời sống kinh tế hướng tới một sự phát triển mới – thực hiện việc trao
đổi thị trường của nền kinh tế “laissez faire”. Cần đặt vấn đề như vậy để luôn
luôn chủ động tránh những khuynh hướng phát triển hoang dã hoặc thiên lệch nguy
hiểm.
Đối với cả cầu và cung, thị trường luôn luôn có thể làm được chức
năng điều tiết ở mức độ nhất định, được đặt cho cái tên là “bàn tay vô hình”
(Adam Smith), bởi vì nó làm những việc khó thấy được liên quan đến điều tiết
nền kinh tế. (yếu tố 1)
Song vì khả năng của “bàn tay vô hình” là hữu hạn, mà cuộc sống là
nhiều chiều và vô hạn, do đó kinh tế thị trường còn phải cần đến “bàn tay bà
đỡ” – thường là và trước hết là thuộc về chức năng của nhà nước. Xã hội càng
phát triển, ngày càng có thêm nhiều yếu tố khác tham gia tích cực vào chức năng
của “bàn tay bà đỡ”. (yếu tố 2)
Điều thiết yếu là bàn tay vô hình và bàn
tay bà đỡ đều phải làm đúng việc của mình với hiệu quả cao nhất.
Vì lẽ này cả hai đều phải được một bộ não mẫn tiệp điều hành, có thể xem đây
là điều kiện quyết định nhất. Bộ não ấy chính là một thể
chế chính trị đáp ứng được đòi hỏi phát triển của quốc gia, phát
huy được vai trò tích cực của giới doanh nhân (bao gồm các doanh nghiệp), phát
triển được một xã hội dân sự năng động, luôn luôn cổ vũ và luôn luôn hướng quốc
gia giành lấy những bước phát triển mới, nhà nước kiến tạo phát triển là công
cụ đặc biệt quan trọng của thể chế chính trị này. (yếu tố 3)
Nêu lên những điều vừa trình bầy trên, nhằm mục đích nhấn mạnh
ngay từ đầu: Nền kinh tế thị trường với đúng nghĩa nhất thiết phải bao
gồm đầy đủ cả 3 yếu tố (1)bàn tay vô hình, (2)bàn tay bà đỡ, (3)thể
chế chính trị. Tất cả phải hoạt động ở trạng thái tối ưu cho phép – trong
đó thể chế chính trị là điều kiện tiên quyết số một. Đây cũng là 3
tiêu chí có thể dựa vào để đánh giá thực trạng kinh tế thị trường nước ta hiện
nay. Bàn về hoàn thiện kinh tế thị trường ở nước ta cũng có nghĩa phải bàn về
phát triển đồng bộ cả 3 yếu tố cấu thành này của kinh tế thị trường. Thông
thường, về một nền kinh tế phát triển, người ta chỉ nhấn mạnh tới vai trò của
“bay bàn tay vô hình” (thị trường) và của “bàn tay bà đỡ” (nhà nước) là đủ.
Điều này đúng. Song lại nghĩ, cái gì điều khiển hay chi phối cả 2 bàn tay này
của một cơ thể quốc gia, nhất là nhìn vào thực trạng nước ta? Tôi đồng tình với
quan điểm phải nhấn mạnh vai trò quyết định của thể chế chính trị. (Xin tham
khảo cuốn “Tại sao các quốc gia thất bại”, của D Acemoglu và
J A Robinson”).
Dưới đây xin nêu lên một số vấn đề nóng nhất.
II.1. Sự lũng đoạn của quyền lực và nhóm lợi ich
Bài 4A “Bàn về cải cách thể chế chính trị” đã cố
gắng trình bầy sự lũng đoạn của quyền lực đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc nói chung, trong đó vấn đề nghiêm trọng số 1 là tình trạng “đảng
hoá” toàn bộ đời sống đất nước. Tại đây xin nêu thêm một số khía cạnh
liên quan đến kinh tế thị trường.
Thể chế chính trị ở nước ta với đặc trưng đảng giữ vai trò lãnh
đạo toàn diện và tuyệt đối như đang diễn ra, về bản chất mâu thuẫn như nước với
lửa đối với kinh tế thị trường. Chính đây là nguyên nhân gốc khiến cho kinh tế
thị trường ở nước ta biến dạng nghiêm trọng, bị điều hành và lũng đoạn bởi
(a)quyền lực đảng, (b)chủ nghĩa tư bản thân quen và chủ nghĩa tư bản hoang dã,
(c)sự chi phối của lobby từ bên ngoài – đặc biệt là quyền lực mềm Trung Quốc.
Thực hiện kinh tế thị trường là đòi hỏi bất khả kháng đối với nước
ta kể từ bắt đầu đổi mới 1986, đến nay là 3 thập kỷ. Nước ta đã tham gia đầy đủ
các thể chế kinh tế quốc tế và khu vực (WTO, WB, IMF, ADB, các FTAs song phương
và đa phương, vân vân…), nhờ đó kinh tế thị trường ở nước ta đã đạt được những
bước phát triển rất quan trọng, GDP p. c. từ 200 USD nay đạt 1350 USD (2013)...
Tuy nhiên, nguyên nhân thể chế chính trị (nguyên nhân gốc) nêu trên đã một mặt
làm cho không ít những tiến bộ đạt được này đều ở trong tình trạng dang dở, mặt
khác chỉ làm biến tướng để tăng thêm độ nguy hiểm chứ không khắc phục được sự
lũng đoạn nêu trên (của 3 nhóm a, b, c). Có lẽ chính thực tế này giải thích
hiện tượng: Tại sao kinh tế nước ta càng phát triển, càng bị xé lẻ thành các
“tiểu vương quốc” theo lợi ích (các nền kinh tế GDP tỉnh, các nền kinh tế tập
đoàn nhà nước, kinh tế đảng, kinh tế quân đội, kinh tế công an…[1]) càng phát sinh nhiều ách
tắc trong kinh tế và nhiều bất công trong xã hội, môi trường càng bị huỷ hoại
nghiêm trọng, hầu hết các chiến lược kinh tế đã đề ra đến nay đều thất bại. Đặc
biệt nghiêm trọng là có một số đại gia hay nhóm lợi ích giầu lên rất nhanh với
những ảnh hưởng kinh tế và chính trị ngày càng lớn, trong khi đó toàn bộ nền
kinh tế quốc gia tiếp tục đổ vỡ và vị thế mọi mặt của đất nước ngày càng yếu
đi. Các vụ án đã xử cho thấy tội ác kinh tế ngày càng nguy hiểm về quy mô và về
thủ đoạn thực hiện, sự dính líu bệnh hoạn giữa kinh tế và hệ thống quyền lực…
Sự phát triển như vậy hầu như phá hủy sức phát triển năng động của đất nước,
hậu quả là những gánh nặng cướp mất cơ hội phát triển của tương lai. Hiện nay
kinh tế đất nước đang ở trạng thái nguy hiểm chưa có lối ra.
Làm sao nói được là nước ta có một nền kinh tế hài hoà thống nhất
với đúng nghĩa, vì bên trong chứa đựng quá nhiều nét cát cứ, các “tiểu vương
quốc”, sự chùng lặp của các nền kinh tế GDP tỉnh… Có thể viết nhiều
quyển sách mổ xẻ thực trạng này, nhưng hiện nay việc mổ xẻ đến gốc như thế đang
bị kiêng cấm. Song trước sau sẽ là việc phải làm, nếu muốn chữa bệnh. Nói khái
quát: đảng hoá đời sống đất nước, nền kinh tế GDP tỉnh, tập đoàn
kinh tế nhà nước, và tư tưởng nhiệm kỳ, đấy là 4 yếu tố trực tiếp
làm nát bét nền kinh tế đất nước, tạo ra môi trường màu mỡ cho sự can thiệp của
quyền lực mềm Trung Quốc.
Chức năng khách quan của thị trường là phản ánh mối quan hệ cung -
cầu tạo điều kiện góp phần quan trọng cho sự phát triển hài hoà. Vi
phạm điều mang tính quy luật này của thị trường, sẽ chỉ tạo ra đầu cơ và thị
trường của đầu cơ, chung cuộc sẽ chỉ có được một nền kinh tế của những hành vi
đầu cơ, với sự phá hoại không thể hình dung nổi.
Ví dụ, thời bao cấp trước 1986, vì phá quy luật kinh tế thị
trường, nên đã xảy ra hiện tượng một cái xe đạp peugeot có thể đổi lấy một căn
nhà, một điều phi lý không thể phi lý hơn trên thế gian này.
Còn hiện tại: Xâm phạm quy luật của kinh tế thị trường đã dẫn đến
hệ quả cả một đất nước năng động rừng vàng biển bạc… nhưng hôm nay rơi thỏm vào
nền kinh tế của những người đi làm thuê và đất nước trở thành đất nước cho
thuê.
Dưới đây là một số nét minh hoạ.
- Sáp nhập Hà Tây vào thủ đô Hà
Nội là một ví dụ điển hình của kinh tế đầu cơ, là một trong những nguyên nhân
trực tiếp tạo ra bong bóng kinh hoàng của thị trường bất động sản, mặc dù quyết
định này bị cả nước bác bỏ quyết liệt (trong đó có Võ Nguyên Giáp, Võ Văn
Kiệt…), nhưng lợi ích của 3 nhóm “a, b ,c” đã thắng. Cả nước có nhiều cái bong
bóng như thế và đã dẫn tới giá nhà đất của Việt Nam cao nhất thế giới, cản trở
sự phát triển của đất nước. Song cũng chính những quyết định theo lợi ích
của 3 nhóm a, b, c như thế đã và đang trực tiếp làm nổ các bong bóng của thị
trường địa ốc, khiến kinh tế cả nước rơi sâu thêm nữa vào khủng hoảng cơ cấu
với những thiệt hại không thể lường hết được.
- Kinh tế bauxite Tây Nguyên,
kinh tế KCN Vũng Áng, nạn cho thuê rừng… là những ví dụ điển hình của kinh tế
lobby, của kinh tế bán rẻ lợi ích quốc gia, của kinh tế đất nước cho thuê, đẩy
đất nước đi sâu vào cơ cấu kinh tế lạc hậu và nguy cơ trở thành bãi thải công
nghiệp cho những nước khác, xâm phạm nghiêm trọng lợi ích và an ninh quốc gia.
- Phớt lờ những tín hiệu của
thị trường, kinh tế tập đoàn nhà nước TKV (than và khoáng sản Việt Nam) lẽ ra
phải biết mình hết lý do tồn tại từ lâu rồi nhưng vẫn cố đấm ăn xôi; hậu quả là
mỏ hết và đã phải nhập khẩu than ngược trở lại rồi, hầu như toàn bộ vốn thiết
bị của tập đoàn và hàng vạn lao động của nó rơi vào thất nghiệp, tập đoàn lấy
duy trì kinh doanh/liên doanh trái nghề để tồn tại. Nhưng vì TKV chỉ có đặc
quyền nhà nước bao cấp (vốn, quyền kinh doanh, ảnh hưởng chính trị…) và không
có nghề, do đó tất yếu gây hậu quả nghiêm trọng cho toàn xã hội: Chết mà không
chôn được, nên kinh lắm! Cả nước có không ít tập đoàn nhà nước, nông trường
quốc doanh, xí nghiệp quốc doanh… chết rồi mà không chôn được.
- Quản lý nhà nước bất cập và
chính sách đất đai hiện hành dẫn tới hệ quả giá thành xây dựng 1km đường cao
tốc ở Việt Nam đắt khoảng 5 – 10 lần so với Thái Lan, so với các nước phát
triển khác.., thời gian thi công cũng dài hơn nhiều lần như thế, chất lượng
cũng thấp hơn nhiều lần như thế…
- Nền kinh tế có quá nhiều hành
vi đầu cơ, lũng đoạn.., nên ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng FDI thu hút
được. Vì thế khối lượng FDI thu hút được tuy không nhỏ, nhưng không đẩy nhanh
được việc chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng hiện đại. Thu hút
FDI như hiện nay có nguy cơ kéo dài sự tụt hậu của đất nước và đánh mất thị
trường nội địa… Đúng là thị trường Việt Nam vẫn đang rất hấp dẫn đối với FDI,
vì là quốc gia có nhiều tiềm năng lớn và giữ vị thế quan trọng trong khu vực
trên cả hai phương diện kinh tế và chính trị. Tuy nhiên thể chế chính trị
và thể chế kinh tế của đất nước hiện nay là rào cản lớn trong việc thu hút FDI
có chất lượng. Đã đến lúc phải chấm dứt xu thế tranh thủ FDI với bất kỳ giá nào
(bất chấp cả lợi ich quốc gia) như đã diễn ra trong 3 thập kỷ vừa qua.
- Vân vân…
II.2. Bàn tay bà đỡ còn nhiều yếu kém
Nhìn chung nhà nước làm không tốt vai trò “bà đỡ”; cụ thể là vừa
không làm đúng chức năng của mình, vừa can thiệp quá sâu vào kinh tế,
khiến cho đòi hỏi cải cách thể chế kinh tế ngày càng nóng bỏng, mà cốt lõi và
quyết định lại là cải cách chế độ chính trị.
Những năm gần đây nhiều công trình nghiên cứu đã đi tới kết luận:
(a)môi trường kinh doanh bị nạn quan liêu và tham nhũng lũng đoạn
nghiêm trọng, trong đó nổi bật là: quyền kinh doanh và quyền sở hữu bị xâm
phạm, luật thường bị lách hoặc thay thế bằng “làm luật” và lobby, hiện tượng
“bộ chủ quản” và nhiều hình thức “chủ quản” khác đang hồi sinh khiến thị trường
bị các hoạt động theo chi phối “lãnh địa” của các nhóm lợi ích;
(b)thiếu vai trò trung gian hữu hiệu của các tổ chức kinh tế và
dân sự phục vụ các doanh nghiệp trên các phương diện tài chính, luật pháp và kỹ
thuật.., do đó chi phí trung gian lớn, tăng thêm giá thành và nguy cơ rủi ro
trong sản xuất và kinh doanh – nhất là đối với các xí nghiệp nhỏ và vừa;
(c)yếu kém của thể chế chính trị và thể chế kinh tế dẫn tới làm
suy giảm nghiêm trọng khả năng hoạt động và tính hiệu quả của các công cụ hướng
dẫn hay điều tiết thị trường, ví dụ như lãi suất, tỷ giá, các khuyến khích, các
sắc thuế, các chính sách điều tiết khác, vân vân..;
(d)cùng với những yếu kém của thị trường, hệ thống thống kê và
thông tin kinh tế không chuẩn xác (hoặc cố ý che giấu hay tô hồng), làm cho
những tín hiệu của thị trường giảm hoặc mất độ tin cậy, gây nguy hiểm cho hoạt
động sản xuất kinh doanh và hệ điều hành, gia tăng các yếu tố đầu cơ;
(e)do những yếu kém nhiều mặt của kinh tế thị trường, ước lượng
Việt Nam chỉ tận dụng được khoảng 30% những điều khoản ưu đãi trong các hiệp
định khung song phương, đa phương và quốc tế đã ký kết, nên không cải thiện được
bao nhiêu năng lực cạnh tranh, chưa tham gia sâu được vào các chuỗi sản phẩm
mặc dù nền kinh tế nước ta có tỷ trọng xuất khẩu rất cao, thậm chí có nhiều
thua thiệt ngay cả trên thị trường nội địa vì không tân dụng được những điều đã
ký kết, vân vân… Mặt khác, hội nhập sâu rộng mà không nâng cao được năng lực
cạnh tranh đã khiến nước ta rơi vào thế lệ thuộc ngày càng nặng nề vào bên
ngoài về vốn (ODA, FDI, các khoản vay khác, thị trường…), nguồn cung đầu vào –
đặc biệt từ Trung Quốc (tổng thầu các dự án, các sản phẩm trung gian), và một
số lĩnh vực khác (FDI chi phối 65% xuất khẩu và gần 50% công nghiệp).
(f)khu vực kinh tế quốc doanh, trước hết là các tập đoàn nhà nước,
chiếm tới trên 60% vốn của toàn xã hội, hiệu quả kinh tế thấp, nợ nần lớn, sau
nhiều năm cải cách đi cải cách lại khu vực kinh tế quốc doanh hiện nay chiếm
vai trò chủ đạo trong nợ của quốc gia và là nơi có nhiều ung nhọt nguy hiểm cho
cả nền kinh tế; đặc biệt nghiêm trọng là hiện tượng kinh doanh/liên doanh trái
nghề và hiện tượng sở hữu chéo của các tập đoàn nhà nước một mặt vô hiệu hoá
đáng kể khả năng quản lý của nhà nước và hệ thống luật pháp, mặt khác chèn ép
nguy hiểm các doanh nghiệp nhỏ và vừa của khu vực tư nhân, làm méo mó yếu tố
thị trường;
(g)chưa tạo ra được một thị trường phục vụ tốt nông nghiệp trên cả
2 phương diện đầu vào và đầu ra, khiến cho nông dân bị thiệt thòi nghiêm trọng
và chịu đựng nhiều bất công, đồng thời hạn chế khả năng cải tiến hay hiện đại
hoá nông nghiệp; sau gần hai thập kỷ tham gia WTO và nhiều hiệp định khung khác
nước ta vẫn lạc hậu và phải chịu nhiều thua thiệt lớn trong xuất khẩu một số
sản phẩm nông nghiệp chủ lực như gạo, cà-phê, cao su, thuỷ sản, tiêu…
(i)còn thiếu nhiều chính sách và biện pháp thiết thực tạo môi
trường kinh doanh bình đẳng, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng và vai trò của giới doanh nhân đối với sự
nghiệp phát triển kinh tế đất nước, nhất là trên các phương diện: nâng cao năng
lực kinh doanh, phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cải tiến các mô hình
doanh nghiêp, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đỡ đầu các sản phẩm mới, tham gia xây
dựng các chính sách vỹ mô và vi mô, thể chế, chiến lược phát triển… Còn thiếu
những quyết sách làm cho doanh nhân và các nhà công nghệ trở thành những người
trực tiếp thúc đẩy và mở mang kinh tế, hoạch định chính sách… (Xin lưu ý: doanh
nhân và các nhà công nghệ mới là người trực tiếp tạo ra công ăn việc làm và làm
giầu cho đất nước).
(j)trước sau không thể duy trì vai trò ngân hàng nhà nước với tính
cách như là một công cụ của quyền lực như hiện nay (nguyên nhân gốc của lạm
phát, nợ xấu và của tình hình chi tiêu cũng như phân bổ nguồn lực không thể
kiểm soát được). Dứt khoát phải sớm tính đến vai trò độc lập của ngân hàng nhà
nước như một công cụ của nhà nước pháp quyền, phải hoạt động theo hiến pháp,
chỉ chịu sự giám sát duy nhất của hiến pháp và pháp luật (quốc hội) để qua đó
trở thành công cụ tiền tệ của quốc gia, không thuộc bất kỳ đảng phái hay quyền
lực chính trị nào. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết không thể thiếu
của nhà nước pháp quyền cũng như nền kinh tế thị trường. Cùng với vai trò độc
lập này của ngân hàng nhà nước là vai trò độc lập của hệ thống thống kê nhất
thiết phải được tôn trọng, cũng với một lý do như của ngân hàng nhà nước. Đại
thể như công việc làm ăn của một gia đình: có tính được nguồn thu và sức phát
triển nền kinh tế thì mới được tính đến chuyện tiền nong, muốn thế việc đầu
tiên của ngân hàng nhà nước là phải nắm chặt chìa khóa trong việc phát hành
tiền và mọi công cụ tiền tệ điều phối dòng tiền. Tiếp đó là ngân sách nhà nước
phải thu và chi đúng luật của một nền tài chính quốc gia. Tất cả phải theo
luật, minh bạch và giảm thiểu hết mức sự can thiệp của chính trị - một việc 40
năm nay chưa hề làm được. Không thể xan xẻ mọi gánh nặng và tội lỗi trong lĩnh vực
tiền tệ và tài chính bằng cách trút lạm phát lên đầu dân.
(…)
Tựu trung
có thể nhận xét, vai trò “bà đỡ” của nhà nước còn đứng khá xa đòi hỏi mang lại
cho đất nước có một nền kinh tế thị trường được thúc đẩy bằng sự vận động của
quy luật cung – cầu và sự dẫn dắt của một thể chế chính trị khuyến khích sự
phát triển đất nước bằng những chính sách vỹ mô đúng đắn. Những điều trình bầy
trong phần II này cho thấy đòi hỏi bức xúc phải tiến hành cải cách thể chế
chính trị là trọng tâm số một, song rõ ràng phải luôn luôn gắn với cải cách thể
chế kinh tế để duy trì được tình hình: Cải cách thể chế chính trị phải gắn liền
với những phát triển đạt được trong kinh tế, lấy thành quả này thúc đẩy cải
cách thể chế chính trị. Kinh nghiệm Myanmar khác hẳn với thực tiễn cải cách ở
Liên Xô cuối những năm 1980 ở chỗ từng bước tiến bộ trong cải cách chính
trị ở Myanmar đều được hậu thuẫn bằng những tiến bộ cụ thể trong cải cách kinh
tế và ngược lại, mặc dù nội tình Myamar khó khăn hơn Liên Xô hồi đó rất nhiều.
III. Một
số gợi ý
Sự thật kinh tế đất nước đang ở trong một giai đoạn có nhiều khó
khăn nghiêm trọng của khủng hoảng cơ cấu kinh tế còn kéo dài, mặc dù hai năm
gần đây bắt đầu có dấu hiệu phục hồi. Có 4 vấn đề lớn nóng bỏng trong những năm
tới nhất thiết phải giải quyết xong một cách cơ bản vào khoảng năm 2020:
- Cơ cấu lại nền kinh tế với
mục tiêu giảm bớt lệ thuộc vào bên ngoài, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh
tranh của các khu vực kinh tế trong nước – đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân,
và phát triển sản phẩm mới, chuyển đổi sang thời kỳ phát triển theo chiều sâu;
- cơ cấu lại thị trường tài
chính và thị trường tiền tệ để nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực và kiểm soát
được vấn đề nợ;
- cơ cấu lại khu vực kinh tế
quốc doanh, trước hết là các tập đoàn nhà nước để trực tiếp góp phần vào đổi
mới cơ cấu kinh tế theo phương châm tập trung vào các lĩnh vực khu vực kinh tế
tư nhân không làm được, khu vực kinh tế tư nhân được kinh doanh mọi lĩnh vực
luật pháp không cấm;
- từng bước xử lý vấn đề nợ xấu
đang trở nên nguy hiểm.
Cả 4 vấn đề nêu trên đều mang tính cơ cấu nên khó, vừa đòi hỏi
nhiều nguồn lực, vừa đòi hỏi nhiều thời gian, không thể đồng loạt giải quyết.
Thiết kế các giải pháp từng bước cho từng vấn đề lớn này, và thực thi hài hoà
với việc giải quyết từng bước cả 4 vấn đề lớn này như thế nào… là những bài
toán khó. Càng không thể tạo ra tăng trưởng cao trong những năm tới này. Tăng
trưởng như hiện nay không có chất lượng mong muốn và không tạo ra phát triển
mới sẽ chỉ có nghĩa từng lúc tạo ra ổn định nhất thời với cái giá phải trả rất
đắt, để sau đó sẽ gây ra khủng hoảng sâu sắc hơn. Chưa nói đến sắp tới nếu
thiếu những biện pháp thắt lưng buộc bụng gắt gao và có hiệu quả sẽ khó
tránh đổ vỡ tiếp – trước hết vì nợ nần và vì những mất cân đối lớn. Chưa nói
đến những diễn biến đột xuất từ các vấn đề an ninh quốc phòng (ví dụ: Biển
Đông)[4], các vấn đề từ thiên tai, dịch bệnh nếu xảy ra...
Đây là sự thật nghiêm khắc, cần nói rõ cho cả nước biết, Cả nước – trước
hết là ĐCSVN – phải thẳng thắn đối mặt.
Cái khó là cả 4 vấn đề nêu trên đều rất nóng, luôn luôn đẻ ra
nhưng hệ quả khó trong quá trình xử lý. Ví dụ cơ cấu lại nền kinh tế, chắc chắn
phải loại bỏ một số sản phẩm (cũng có nghĩa là phải đóng cửa một số loại doanh
nghiệp nào đó, giữa lúc từ vài năm gần đây đã có tới trên 200.000 doanh nghiệp
nhỏ và vừa phải đóng cửa); trong khi đó vô cùng thiếu mọi loại nguồn lực cho
phát triển các sản phẩm công nghiệp phụ trợ mà nền công nghiệp hiện có đòi
hỏi.
Việc cải cách các doanh nghiệp quốc doanh – trước hết là các tập
đoàn kinh tế nhà nước – cũng đặt ra những khó khăn như vậy: thất nghiệp tăng,
doanh số giảm, nhà nước mất thuế... Sẽ là ngoan cố đến mức tự sát nếu còn coi
kinh tế quốc doanh là chủ đạo. Trên thực tế qan điển này chỉ còn là những cái
khiên, cái mộc che chắn những lợi ích nhóm tệ hại, ăn hiếp tính năng động và
sáng tạo của khu vực kinh tế tư nhân mà đất nước đang rất cần.
Nông nghiệp đang đặt ra nhiều bài toán rất khó và nhạy cảm, với
khoảng trên 50% lao động cả nước làm nông nghiệp, với bình quân ruộng đất canh
tác 0,3 ha/1 lao động, luật đất đai và thể chế chính trị hiện tại hoàn toàn bất
cập cho việc đi lên một nền nông nghiệp của một quốc gia công nghiệp...
Cải cách thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng cũng luôn luôn
đặt ra nhiều vấn đề rất nhạy cảm. Lấy tiền ở đâu tăng cường tiềm lực quốc phòng
đang vô cùng bức thiết lúc này?
Đời sống những người làm công ăn lương, của các bộ phận dân cư
nghèo ở nông thôn và thành thị, ở các vùng sâu vùng xa… đang vô cùng nhức nhối…
Công ăn việc làm của những người đến tuổi lao động? Hàng chục vạn lao động đang
đi làm thuê ở nước ngoài, hàng vạn phụ nữ phải đi lấy chồng nước ngoài vì nghèo
đói!..
Có thể nói, đất nước có gì có thể bán được hầu như đã bán hết rồi,
từ tài nguyên, đến môi trường, đất đai, lao động rẻ, vị trí địa lý… Song
nghèo hèn và bế tắc vẫn hoàn nghèo hèn và bế tắc… Hình như từ lâu đã bắt
đầu bán cả linh hồn nữa, vì đang cam chịu số phận bị đè nén, èo uột, leo dây và
lệ thuộc… 40 năm độc lập rồi vẫn chưa cai sữa được ODA
và các thứ đi xin khác! Không biết niềm tự hào dân tộc còn lại là bao!?.. …
Chưa nói đến thực tế đất nước đang có nhiều vấn đề nóng, rất nóng khác, trong
hầu hết mọi lĩnh vực của cuộc sống: giáo dục, y tế, giao thông vận tải, năng
lượng, môi trường, tệ nạn tham nhũng, chênh lệch giầu nghèo và bất công lớn
quá, sự tha hoá trong xã hội từ những nguyên nhân tha hóa của kinh tế và chính
trị / xã hội… Mỗi sản phẩm mới ra đời trong quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế
cũng đòi hỏi phải có một khoảng thời gian và những cái giá phải trả nhất định
mới định hình được… Một ngành kinh tế mới càng khó hơn, trong khi nguồn
nhân lực và thể chế chính trị gần như bất cập và bất lực … Như thế làm
thế nào để có thể chuyển toàn bộ nền kinh tế đất nước đi vào một thời kỳ phát
triển mới? Còn làm tiếp như hiện nay là đi tiếp vào ngõ cụt!.. Và sự thật là bộ
não lãnh đạo của đảng với cái “think tank” rất đồ sộ là hệ thống nghiên cứu lý
luận và đội ngũ dư luận viên đang có trong tay lúc này vẫn không sao mách bảo
được cho đất nước nên làm sản phẩm gì, làm như thế nào, rồi chuyển đổi cả nền
kinh tế đất nước sang thời kỳ phát triển mới ra sao… Cái định hướng xã
hội chủ nghĩa không giúp được gì cho những việc cam go này… Vân vân…
Thực tế của bức tranh kinh tế đầy thách thức này là sản phẩm kết tụ lại của cả
một quá trình chế độ chính trị do ĐCSVN nắm quyền điều hành toàn diện và tuyệt
đối, dẫn dắt đất nước theo con đường “độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội”
từ 40 năm nay. Thực tế của bức tranh kinh tế này không phải là một sản phẩm
nhất thời hoặc của riêng một người hay một nhóm người nào, cũng không phải là
sản phẩm của một vài khoá nhiệm kỳ đại hội nào, mà là sản phẩm của ĐCSVN nắm
quyền cai trị đất nước trong 40 năm đầu tiên độc lập thống nhất. Xin nhắc lại ở
đây để không bao giờ quên trong khi so sánh và đánh giá chính đất nước mình 40
năm qua: Chiến tranh Triều Tiên kết thúc 1953, Hàn Quốc bắt đầu sự nghiệp công
nghiệp hoá vào khoảng năm 1960, với GDP p. c. lúc ấy là 81 USD; năm 1990 trở
thành NIC (nước mới công nghiệp hoá).
Từ minh hoạ đôi điều nói trên để đi đến kết luận dứt khoát: Nguy
cơ bất cập của hệ thống chính trị nói chung và của thể chế kinh tế hiện hành
nói riêng trước những vấn đề kinh tế phải giải quyết trong những năm của khoá
đại hội XII tới rất lớn. Mọi thứ kinh tế bánh vẽ để trấn an, hoặc sự kiên định
duy ý chí định hướng xã hội chủ nghĩa để bảo vệ hệ thống chính trị toàn trị như
đang tồn tại sẽ chỉ đem thêm thảm hoạ mới cho nhân dân và giúp Trung Quốc bá
quyền siết chặt hơn nữa cái tròng lệ thuộc trên cổ đất nước ta mà thôi. Tất cả
càng nói lên tính quyết liệt của một thời kỳ cải cách đang đặt ra phía trước
cho đất nước, có lẽ quyết liệt hơn và phức tạp hơn rất nhiều và cũng nhạy cảm
hơn rất nhiều so với lúc phải tiến hành đổi mới thời kỳ 1986, vì tình hình khu
vực và quốc tế ngày nay hoàn toàn khác, sự lệ thuộc của đất nước đã trở nên quá
nguy hiểm…
Thấy và nghĩ gì nói vậy, còn phiến diện lắm, cho nên ngoài
việc nêu lên những nhận xét trên của cá nhân, tôi xin phép không bàn về các
giải pháp, xin để cho các chuyên gia kinh tế làm việc này tốt hơn. Trong bài
này, tôi xin gửi gắm nỗi mong mỏi của mình là ĐCSVN – trước hết là Bộ Chính trị
và Tổng bí thư – phải có ý chí tiến hành tổng kết trung thực tình hình kinh tế
đất nước. Tổng kết được rồi thì phải nói thực với toàn đảng và cả nước, để chắt
lọc mọi trí tuệ, mọi nỗ lực, đưa kinh tế nước ta ra khỏi thời kỳ khủng hoảng cơ
cấu trầm trọng hiện nay. Thiết nghĩ đất nước đang cần có một chiến
lược thoát khỏi nền kinh tế gia công hiện nay, tạo ra một xu thế phát triển
kinh tế của dân chủ, tiến bộ khoa học kỹ thuật và trí tuệ, sao
cho đến năm 2020 khắc phục xong khủng hoảng cơ cấu kinh tế hiện nay, phát triển
được những điều kiện kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật cần thiết cho bước phát
triển mới, xây dựng được nguồn nhân lực có chất lượng, thiết lập được thể chế
kinh tế và chính trị đáp ứng được đòi hỏi của phát triển trong giai đoạn mới.
Trong những năm tới này đất nước cũng phải tích luỹ được lực mới, để từ năm
2020 có thể bắt tay vào xây dựng một nền kinh tế hiện đại hoá đúng với
nghĩa phát triển là động lực bền vững của tăng trưởng kinh tế. Đặt
vấn đề như vậy chất lượng, chứ không phải số lượng của tăng trưởng kinh tế mới
là mục tiêu quyết định – phục vụ nhiệm vụ trung tâm là phát huy yếu tố con người
làm nên sức mạnh quốc gia. Nếu thế cũng phải cất đi cái khẩu hiệu bánh
vẽ “đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2020”, càng không thể trút hết mọi tội lỗi lên cái lá diêu bông như trong
văn kiện của đảng: Nguyên nhân của mọi
nguyên nhân của tình trạng kinh tế đất nước hiện nay là thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa không theo kịp công cuộc đổi mới… - mà
lẽ ra là phải vứt bỏ dứt khoát cái lá diêu bông!
Chỉ có một lối ra khỏi tình hình nguy hiểm hiện nay là: Trí tuệ,
dân chủ và ý chí cứu nước phải là những động lực chính trị của sự nghiệp phát
triển kinh tế trong những năm tới, bắt đầu từ việc đại hội XII quyết định tổ
chức lại ĐCSVN để phấn đấu trở thành đảng của dân tộc, dấy lên sự tham gia của
toàn dân tộc chuyển đất nước đi vào thời kỳ phát triển mới năng động và bền
vững.
- Những yếu kém và sai lầm tích tụ lại của 4
thập kỷ đầu tiên xây dựng đất nước để lại nhiều hậu quả rất bức xúc, đòi hỏi
phải dọn dẹp (với cả nghĩa đen) và khắc phục, đến mức gần như phải xắp xếp lại
giang san đất nước (vấn đề 1);
- kinh
tế đất nước hiện nay đi vào một thời kỳ phát triển hoàn toàn khác sau 30 năm
đổi mới, đặt ra những đòi hỏi mới phải đáp ứng (vấn đề 2);
- những
biến cố truyền thống và phi truyền thống trong cục diện của trật tự quốc tế đa
cực đang đặt ra cho mọi quốc gia những thách thức mới khôn lường; thậm chí đã
xuất hiện trở lại chiến tranh lạnh cục bộ ở châu Âu, ở Biển Đông, chiến tranh
nóng ở Ukraine và của IS…(vấn đề 3).
Cả 3 vấn đề có ý nghĩa chiến lược vừa nêu trên đòi
hỏi phải đồng thời giải quyết.
Vì vậy hệ thống chính trị của đất nước nhất thiết
phải được cải cách triệt để, ngõ hầu có thể phát huy mọi khả năng và trí tuệ đã
tích lũy được 40 năm qua, giải phóng mọi tiềm năng và nội lực hiện có của đất
nước để giành thắng lợi.
Tất cả phải nhằm vào xây dựng một Việt Nam hướng
theo các tiêu chuẩn quốc tế để phát triển chính mình về mọi mặt, và để hội nhập
quốc tế toàn diện. Phải lấy các kết quả mang thương hiệu “made in Vietnam” để
từng bước giành được cho mọi sản phẩm của mình tại thị trường trong nước và
quốc tế làm thước đo tiến bộ mình đạt được trên con đường gian khổ này, và cứ
thế phấn đấu tiếp. Muốn như thế, phải suy nghĩ lại tất cả, phải học lại tất cả.
Không có một tiêu chuẩn quốc tế nào là ngoại lệ, là mong được chiếu cố, hay có
thể bỏ qua, hay là kiêng cấm đối với Việt Nam, mà phải chấp nhận tất cả. Để cọ
sát, để phấn đấu, phấn đấu đến cùng mà đạt lấy!..
Rồi đây Việt Nam có thể sẽ là vườn rau sạch, vườn
hoa, nhà cung cấp thực phẩm sạch và cao cấp của thế giới. Là các trung tâm y
tế, điều dưỡng, giáo dục, giao dịch tài chính và các dịch vụ khác của khu vực
và thế giới. Sản phẩm công nghiệp “made in Vietnam” sẽ trở thành những khâu gắn
kết hữu cơ trong những chuỗi sản phẩm công nghiệp của kinh tế thế giới. Việt
Nam sẽ còn phải phấn đấu trở thành trung tâm của sự chia sẻ mọi vấn đề, mọi
kinh nghiệm, mọi ý tưởng của phát triển.., đóng góp vào các lực thúc đẩy hợp
tác và phát triển của khu vực và toàn cầu… Việt Nam sẽ còn phải phấn đấu trở
thành nơi hội tụ của các nước đang phát triển, để cùng nhau tìm ra những giải
pháp cho những vấn đề của các nước đang phát triển, là nơi cùng nhau cất tiếng
nói của các nước đang phát triển trước thế giới… Tất cả phải tạo ra cho dân tộc
và đất nước ta khả năng và phẩm chất dấn thân đi cùng với cả cộng đồng quốc tế
trong mọi vấn đề quốc tế. Vì lợi ích của cộng đồng quốc tế, đồng thời nhằm
giành lấy hợp tác và hậu thuẫn của cả cộng động quốc tế cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc của chính mình!
Là nước đi sau, nước ta nhất thiết phải đứng vững
trên mặt đất này, không viển vông, mà phải ra sức khai thác mọi kinh nghiệm của
cả thế giới và của chính mình, học hỏi thế giới và những thành / bại của chính
mình 40 năm qua, phải bám vào tiêu chuẩn quốc tế để phát triển chính mình. Cũng
không một kiêng cấm hay giáo điều nào được phép trói buộc đất nước. Thế hệ này
nối tiếp thế hệ khác, tất cả vì một Việt Nam của hòa giải dân tộc, cường thịnh
và hạnh phúc. Đứng bên cạnh “giấc mộng Trung Hoa”, nước ta nhất thiết phải sống
như thế. Là nước đi sau, muốn thoát khỏi tụt hậu để vươn lên hàng ngũ văn minh
của nhân loại, nước ta càng phải sống như thế. Sát nách ta là nước thành phố
Singapore bé tí, đã dám lấy cả thế giới làm đối tượng lao động của mình, rồi
khởi nghiệp từ lựa chọn bước đi thấp nhất mà khu vực làng chài hồi ấy có thể
thực hiện được, để từng bước làm nên Singapore hôm nay. Thế còn nước Việt Nam
lớn hơn gấp nhiều lần?
Nước ta phải có con người nào, thể chế nào và trí
tuệ nào để làm được những việc nói trên? Nghĩa là dám chấp nhận cả thế giới là
đối tượng lao động của mình? Rồi hoạch định và thực hiện được các bước đi thích
hợp…
Làm gì? và làm thế nào để lựa chọn được và quyết đi
trên con đường phát triển nói trên, nếu không phải là cả nước đồng lòng, bắt
đầu từ tiến hành một cuộc cải cách chính trị đổi đời chính mỗi bản thân chúng
ta và đổi đời cả đất nước? Để trở thành
một đất nước tự do của một dân tộc tự do!
Đại hội XII của ĐCSVN đang đứng trước bước ngoặt
lịch sử: Thúc đẩy sự nghiệp cải cách này ra đời? Hay là làm con đê chặn đứng
dòng chảy tất yếu này của đất nước? Vạn sự khởi đầu nan, có dân chủ và hòa giải
dân tộc Việt Nam ta sẽ có tất cả. Có dân chủ và hòa giải dân tộc, trước sau
ĐCSVN sẽ vứt bỏ được các thói hư tật xấu của mình, sẽ bị tước đoạt hết mọi đặc
quyền của chế độ toàn trị, nhưng lột xác được để trở thành đảng của dân tộc,
đời đời đi với dân tộc. Mong rằng đại hội XII bàn kỹ điều này./.
Hết
Hà Nội, tháng 9 - 2014
[1] Các nước được xếp loại “nước đang phát triển có thu nhập
trung binh” có GDP p.c. trong khung 7000 – 12000 USD, nước ta hiện nay mới đạt
khoảng 1350 USD (năm 2013). Để lọt được vào khung này, nước ta cần khoảng 1 – 2
thập kỷ nữa.
[2] Thật ra rất khó nói nước ta có chiến lược phát triển kinh tế
với đúng nghĩa, nó mang quá nhiều nét dang dở của tự phát và bị cắt vụn bởi
nhiệm kỳ và vùng miền, bộ, tỉnh…; bởi vì chiến lược được hiểu theo những gì đã
được viết ra trong nghị quyết dù là có nhiều khiếm khuyết song thường không bao
giờ được thực hiện nghiêm túc, hay thay đổi theo nhiệm kỳ đại hội, bị xé lẻ
theo tỉnh hay theo ngành; mỗi tỉnh lại là một nền kinh tế riêng hoàn chỉnh,
được quy hoạch, tính toán riêng cho tỉnh… (cái gọi là “nền kinh tế GDP tỉnh”).
Chiến lược công nghiệp hoá là một chiến lược tổng thể, song cũng được thay đổi tuỳ
tiện qua các khoá đại hội. Chiến lược kinh tế vùng hầu như chỉ nằm trên giấy,
trong khi đó cuộc sống tự nó tạo ra các liên kết giữa các ngành và các địa
phương theo nhu cầu của cuộc sống, không nằm trong nhị quyết nào cả. Hầu như
đến nay chưa có một quy hoạch phát triển kinh tế nào đứng vững – nhất là quy
hoạch phát triển vùng, quy hoạch đô thị, quy hoach sản phẩm nông nghiệp, khoáng
sản… Vân vân…
[3] Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
[4] Riêng đối phó với sự kiện giàn khoan HD 981 kinh tế đất nước
mất khoảng 1% GDP.
Hà Nội, tháng 9 - 2014
[1]
Xin lưu ý, trong 10 năm đầu tiên của đổi mới, chính phủ đã ra sức xóa bỏ cơ chế
“chủ quản” của các Bộ và tỉnh, xóa bỏ kinh tế đảng, xóa bỏ việc các lực lượng
vũ trang làm kinh tế. Ngày nay bệnh “chủ
quản” hầu như tái phát nghiêm trọng với những biến tướng khác nhau. Kinh tế của
quân đội và công an đang phát triển.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét