Hà
Nội, 20-01-2013
Hiến pháp -
và những bất cập của
Dự thảo sửa đổi
Nguyễn Trung
Đọc dự thảo Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp 1992
(sau đây gọi
là Dự thảo)
do Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 chính thức
công bố, cảm nghĩ của tôi là Dự thảo tuy có bổ sung một số sửa đổi mới, song về
tổng thể vẫn giữ nguyên trạng Hiến pháp 1992, không đáp ứng được chính những
đòi hỏi dẫn đến yêu cầu phải sửa đổi Hiến pháp lần này.
Trong
bài này, với sự hiểu biết hạn hẹp của mình, tôi mạnh dạn nêu ra một số vấn đề chính mà tôi cho rằng
Dự thảo bất cập hoặc bỏ qua. Việc phân tích chi tiết từng điều & khoản trong Dự thảo không
nằm trong phạm vi bài viết này.
Vấn đề 1: Lời
nói đầu của Hiến pháp
Theo tôi, Lời
nói đầu trong Dự thảo còn cố bám lấy quá khứ, tránh né hẳn những đòi hỏi
mới của đất nước, và hầu như không đếm xỉa đến những thách thức từ thế giới bên
ngoài đất nước ta đang phải trực tiếp đối mặt. Vì vậy không phù hợp.
Tôi chưa biết
nên viết thành câu chữ như thế nào, nhưng riêng tôi ước ao Lời nói đầu lần này phải có
nội dung mang tải những ý chính sau đây:
(a) Như một lời thề
của toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam ta trước tổ tiên đã gây dừng nên đất nước
này cho chúng ta, trước tất cả vong linh những người mọi thế hệ của toàn thể cộng
đồng dân tộc Việt Nam ta đã ngã xuống trên suốt chặng đường gần hai thế kỷ qua
kể từ khi mất nước để đi tới độc lập thống nhất đất nước hôm nay. Lời thề đó
là: Cả nước một ý chí học lại tất cả những thành – bại đã trải qua trong lịch sử
cận đại, học tất cả những gì có thể học được của thiên hạ, để không bao giờ cho
phép xảy ra chia rẽ dân tộc, chia cắt đất nước và lập lại những sai lầm cũ khác,
học để hiểu thế giới và từ đó hiểu chính mình để không bao giờ lạc lõng nữa
trong thế giới này, nhất là để từ nay không ai trên thế giới đánh lừa được mình…
Học như thế để từ nay toàn thể dân tộc đoàn kết một lòng, không tiếc sức mình
phấn đấu mở ra một thời kỳ phát triển mới cho đất nước. Học như thế, để dân tộc
Việt Nam ta dứt khoát phải thành công trên chặng đường mới của đất nước.
(b) Là Lời cam kết của
Việt Nam với cộng đồng các quốc gia trên thế giới bằng việc xây dựng một Việt
Nam dân chủ, hạnh phúc, phồn vinh, để có khả năng góp phần xứng đáng của mình
vào nỗ lực chung cả thế giới tiến bộ phấn đấu cho hòa bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển vì lợi ích của con người, vì quyền con người. (Là một con người
cũng không bao giờ được sống ỷ lại và trốn tránh trách nhiệm của mình đối với cộng
đồng, huống chi đây là một quốc gia!)
(c) Biểu thị lập trường
sắt đá Việt Nam không chống bất kỳ quốc gia nào, không theo bất kỳ ai chống lại
hoặc làm hại ai, không để cho ai lợi dụng lôi cuốn nước ta vào chống lại hay
làm phương hại lợi ích quốc gia bên thứ ba nào. Khi độc lập, chủ quyền, sự toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia bị xâm phạm, hoặc khi đất nước bị xâm lược, toàn thể nhân
dân Việt Nam quyết mang tất cả ý chí, tính mệnh và tài sản bảo vệ tổ quốc, đồng
thời quyết tranh thủ sự hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ.
(d) Là lời cam kết của
toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam ta đối với chính mình: sẽ làm tất cả gìn giữ
và phát huy những giá trị và nhân phẩm của người dân một nước độc lập
– tự do – hạnh phúc. Vì mục đích này, toàn thể nhân dân ta không phân
biệt chính kiến, đảng phái, tôn giáo, giầu nghèo.., quyết tâm cùng nhau xây dựng và bảo vệ bằng được
nhà nước của dân, do dân, vì dân – tất cả vì Tổ quốc, và vì quyền tự do cá nhân
con người của mỗi thành viên trong cộng đồng dân tộc Việt Nam chúng ta.
(e) Lời nói đầu còn phải mang ý
nghĩa như một tuyên ngôn của Việt Nam đối với chính mình và trước thế giới về ý
chí thực hiện những vấn đề a, b, c, d nêu trên; là kim chỉ nam
cho: việc xây dựng nội dung Hiến pháp, thiết kế hệ thống nhà nước, hệ thống
kinh tế, hệ thống xã hội theo tinh thần của Hiến pháp..; là lời hiệu triệu và
hướng dẫn tinh thần hành động của mỗi người Việt Nam chúng ta.
Lời nói đầu như thế có thể
viết ngắn hơn, nhưng hoàn toàn không cần dài hơn Lời nói đầu như trong Dự thảo.
Vấn đề 2: Tinh
thần Hiến pháp là tối thượng
Dự thảo
không làm rõ được tinh thần này, có không ít Điều trái với tinh thần này. Dưới
đây xin nêu những ý chính về tinh thần Hiến pháp là tối thượng, cần được
xem xét khi sửa đổi/soạn thảo hiến pháp mới:
(a) Trong một quốc
gia độc lập do nhân dân làm chủ, tinh thần Hiến pháp là tối thượng xuất phát từ
khẳng định quyền làm chủ đất nước của nhân dân.
Hiến
pháp là do nhân dân định ra, để làm cơ sở cho việc hình thành nhà nước
pháp quyền, những định chế và bộ máy hoạt động.., nhằm phục vụ những lợi ích của
nhân dân, lợi ích quốc gia.
Nói
thô thiển, điều cốt lõi ở đây là: Trong nhà nước pháp quyền được hình thành ra như
thế, chỉ có mối quan hệ giữa một bên là nhân dân là người đi thuê (người giao
việc) và bên kia là nhà nước với tính cách là người được nhân dân thuê (người
nhận việc) làm những việc đã được quy định trong Hiến pháp.
Nói
cho thủng cái lỗ tai: Hiến pháp là hợp đồng của “chủ” đi thuê “tớ”[1];
mối quan hệ giữa nhân dân và nhà nước là mối quan hệ “chủ - tớ”, nghĩa là nhà
nước chỉ được làm những việc nhân dân thuê làm, việc gì dân không thuê thì cấm
nhà nước làm. Đấy cũng chính là tinh thần cốt lõi của một nhà nước của dân, do dân,
vì dân.
(b) Tinh thần Hiến
pháp là tối thượng nêu trong điểm (a) bên trên tất yếu dẫn đến xác định:
-
Trong
một nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân như thế chỉ có đảng
cầm quyền (sẽ nói kỹ ở dưới) như là một người (một thực thể) được nhân
dân “thuê” (thông qua bầu cử) vào làm việc trong hệ thống nhà nước pháp quyền.
Đảng cầm quyền với tính cách như thế cũng chỉ là một loại “tớ”, và mọi hoạt động
của nó trong hệ thống nhà nước pháp quyền không được phép vượt ra ngoài chức năng
“tớ”.
-
Trong
hệ thống nhà nước pháp quyền như thế, không thể có “đảng lãnh đạo” như một tổ
chức chính trị với tính cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống quyền lực nhà
nước. Vì vậy quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất với
hàm nghĩa bao gồm và nhào trộn làm một (hiện tượng “đảng hóa”) cả quyền lực của
đảng và quyền lực của nhà nước là trái với bản chất của nhà nước pháp quyền.
Nói rốt ráo, sự “thống nhất” như thế của quyền lực nhà nước, đã thế quyền lực đảng
là quyết định trong sự thống nhất này, thực ra là sự phủ định trực tiếp trên thực
tế nhà nước pháp quyền.
-
Bất
kể đảng phái chính trị nào trong quốc gia có nhà nước pháp quyền do nhân dân
làm chủ, nhất thiết phải phấn đấu trong môi trường xã hội dân sự, trước hết là (1)để
giành lấy sự tín nhiệm được tin theo của nhân dân, sau đó là (2)để được nhân
dân thông qua bầu cử (thật) lựa chọn (thuê) làm đảng cầm quyền.
-
Với
tinh thần trên, đảng cầm quyền cũng chỉ là người được “thuê”, là một
trong nhiều loại “tớ” trong hệ thống nhà nước pháp quyền. Ngoài đảng cầm quyền
ra, trong hệ thống nhà nước pháp quyền do dân làm chủ còn có nhiều loại “tớ”
khác. Nhân dân “thuê” ai hay không “thuê” ai là quyền của dân. Chỉ riêng đặc điểm này cũng
đủ cho thấy nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân với đúng nghĩa không thừa
nhận bất kỳ thứ chủ nghĩa nào ngoài ý chí của nhân dân thể hiện qua Hiến pháp,
các quốc sách…
Trong phạm trù “nhà nước pháp quyền” đúng
với tinh thần “nhà nước của dân, do dân, vì dân” không có chỗ đứng cho khái niệm
“đảng lãnh đạo”, mà chỉ có khái niệm “đảng cầm quyền”.
Một đảng phái chính trị thực hiện chức
năng “1” là phấn đấu nhằm đạt được sự thừa nhận có tầm ảnh hưởng lãnh đạo trong
xã hội dân sự, đồng thời vừa phấn đấu thực hiện chức năng “2” là trở thành lực
lượng tiên tiến của đất nước để nhờ đó được nhân dân “thuê”(bầu cử) làm đảng
cầm quyền. Đấy chính là con đường của một đảng phái chính trị qua ganh đua
giành lấy vai trò lãnh đạo của nó đối với đất nước trong một quốc gia độc lập
có nhà nước pháp quyền và nhân dân giữ vai trò là chủ đất nước. Điều vừa trình
bầy có nghĩa: (a)“vai trò lãnh đạo” và “đảng lãnh đạo” là hai khái niệm khác
nhau; (b)”đảng lãnh đạo” chỉ thuộc phạm trù xã hội dân sự, không thể nằm trong
phạm trù “nhà nước pháp quyền”.
Đối với một đảng phái chính trị, thực hiện
hai chức năng như thế (1-gây dừng uy tín, 2-ganh đua để trở thành cầm quyền), đấy
chính là phương thức giành lấy vai trò lãnh đạo đất nước của đảng phái
chính trị với tính cách là lực lương tinh hoa của đất nước trong một quốc gia có
nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Phương thức này khác hẳn so với
phương thức lãnh đạo của đảng phái chính trị thời kỳ kháng chiến cứu nước.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của
bất kỳ quốc gia độc lập có chủ quyền nào do nhân dân làm chủ cũng cần phải
có sự lãnh đạo của lực lượng tinh hoa của quốc gia ấy – chứ không phải là sự
lãnh đạo của một thứ quyền lực chính trị nào đó, càng không phải là sự lãnh đạo
của quyền lực chính trị đứng trên dân, đứng trên đất nước; đơn giản vì quyền lực
chính trị bao giờ cũng chỉ vì lợi ích của chính nó, do đó không thể có khả năng
lãnh đạo đất nước.
Trong một quốc gia với hệ thống nhà
nước pháp quyền như nói trong bài này, không có vai trò lãnh đạo đất nước nào
là vĩnh viễn và mặc nhiên dành cho bất kể một đảng phái chính trị nào – dù với
những nguyên nhân lịch sử gì - ngoại trừ sự thoán quyền và gian lận; mà lúc nào
cũng chỉ có vai trò lãnh đạo dành cho đảng phái chính trị nào phấn đấu thành
công để được nhân dân thừa nhận là lực lượng tinh hoa của quốc gia ấy. Khác đi,
sẽ không thể có nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Một đảng phái chính trị với tính cách được
nhân dân thừa nhận là lực lượng tinh hoa như thế của nhân dân, của đất nước – đấy
chính là đảng của dân tộc. Đảng như thế cũng
phải tuyên thệ trung thành với nhân dân và tổ quốc, và chỉ có nhân dân
và tổ quốc đối với nó là trên hết!
Nhân đây xin
lưu ý: chăm sóc lực lượng tinh hoa của đất nước là nhiệm vụ của cả nước, song
phải bắt đầu từ thể chế chính trị dân chủ, để có một nhà nước thôi thúc được
toàn thể dân tộc dốc sức cho nhiệm vụ rất quan trọng này.
Tất cả những đòi
hỏi trên đều không hàm chứa trong toàn bộ Dự thảo.
(c) Sự nghiệp giành
độc lập thống nhất đã hoàn thành. Vì tự do hạnh phúc của nhân dân và vì sự phát
triển bền vững của đất nước, quyền làm chủ đất nước của nhân dân chẳng những
đứng trên tất cả, mà còn là lẽ sống gắn
bó nhân dân với tổ quốc và là guồn gốc lâu bền gìn giữ đất nước.
Với
tinh thần nêu trên, Hiến pháp là tối thượng có nghĩa mọi công cụ chuyên chính của nhà nước như
quân đội, công an, những công cụ chuyên chính khác chỉ là để bảo vệ nhân dân, bảo
vệ tổ quốc, bảo vệ nhà nước pháp quyền được xây dựng lên qua sự ủy thác của
nhân dân dưới hình thức Hiến pháp.
Với
tinh thần như vậy, mọi lực lượng chuyên chính của nhà nước pháp quyền không phải
là công cụ của bất kỳ ai hoặc bất kỳ đảng phái chính trị nào ngoài nhà nước
pháp quyền và nhân dân. Tất cả những công cụ chuyên chính này chỉ để bảo vệ tổ
quốc, bảo vệ nhân dân và nhà nước pháp quyền, chống lại mọi thù địch với tổ quốc,
với nhân dân, với nhà nước pháp quyền.
Với
tinh thần như thế, mọi công cụ chuyên chính của nhà nước pháp quyền chỉ có
nghĩa vụ trung thành tuyệt đối với tổ quốc và nhân dân, ngoài ra không với một
ai khác.
Không một cá nhân hay đảng phái, tổ chức chính trị nào… có quyền thao túng hay
sử dụng những công cụ chuyên chính này chống lại lợi ích quốc gia, chống lại
nhân dân và chống lại nhà nước pháp quyền do nhân dân xây dựng nên.
Dự
thảo giữ nguyên Hiến pháp cũ về những vấn đề này, và do đó ngược hẳn tinh thần Hiến
pháp là tối thượng nói trên.
(d) Tinh thần và nội
dung Hiến
pháp là tối thượng cần được coi là ý tưởng dẫn dắt cho việc hình thành
Hiến pháp, xây dựng hệ thống nhà nước pháp quyền, hệ thống kinh tế quốc dân của
nền kinh tế thị trường, hệ thống xã hội dân sự. Hơn thế nữa, tinh thần và nội
dung Hiến
háp là tối thượng phải trở thành một giá trị, một đức tính, và cao nhất
là phải trở thành một văn hóa sống của cộng đồng dân tộc chúng ta.
(e) Hiến pháp là tối
thượng,
tinh thần và nội dung này xác định rõ ràng và dứt khoát: Mọi chủ nghĩa, tôn
giáo, đảng phái chính trị, mặt trận, hiệp hội, đoàn thể quần chúng… tất cả phải
đứng ngoài hệ thống nhà nước, hệ thống luật pháp và mọi quốc sách (kể cả trong
giáo dục[2])
cũng mọi như hoạt động của nhà nước. Đặt vấn đề như thế, có nghĩa:
-
Chỉ
có Hiến pháp, hệ thống luật pháp, và các quốc sách của toàn bộ hệ thống nhà nước
pháp quyền được phép quyết định và chi phối mọi hoạt động của quốc gia nói
chung và của hệ thống nhà nước nói riêng.
-
Mọi
ý tưởng dù là tốt đẹp bất kể từ thế giới quan hay từ tư duy, từ tôn giáo, “chủ
nghĩa” nào.., từ các đảng phái chính trị, kể cả từ đảng cầm quyền.., nó chỉ được
phép đưa vào vận dụng trong hệ thống nhà nước cũng như trong mọi quốc sách – kể
cả trong giáo dục (một trong những quốc sách hàng đầu của quốc gia) – một khi
đã được nhân dân chấp thuận theo con đường luật hóa thành các chủ trương chính
sách của hệ thống nhà nước pháp quyền và trở thành việc của nhà nước pháp quyền,
từ đấy nhất thiết chỉ còn là việc của nhà nước pháp quyền không được ai khác
xía vô!.. Nói một cách khác, toàn bộ hoạt động đảng phái chính trị, đoàn thể, tôn giáo, tư duy… đều thuộc phạm
vi xã hội dân sự và nhất thiết phải nằm ngoài phạm trù hệ thống và sự vận động
của nhà nước pháp quyền.
(f)
Nhìn
nhận Quyền
lực Hiến pháp là tối thượng như thế, sửa đổi/soạn
thảo Hiến pháp lần này phải thiết lập Tòa án Hiến pháp với tính cách là cơ
quan phán quyết tối cao độc lập của nhánh tư pháp trong hệ thống nhà nước pháp
quyền. Đây sẽ là một việc khó, nhất là đối với văn hóa, hoàn cảnh, trình độ
phát triển của nước ta. Song thiết nghĩ chỉ vì sợ khó mà không dám quyết định
như vậy, thì ở nước ta bất cứ cái gì
đúng phải làm và định làm thì chỉ nên làm nửa vời hay sao, để rồi đến lúc nào
đó lại ngựa quen đường cũ?… Quan điểm
của tôi là đã là hệ thống và cỗ máy thì phải hoàn chỉnh, còn vận hành khó thì
phải học.
Hy vọng sẽ có dịp
bàn kỹ thêm vấn đề đảng trong hệ thống nhà nước pháp quyền[3].
Song ngay trong quá trình sửa đổi/soạn thảo Hiến pháp nên quan tâm đến các khía
cạnh khác nhau của tinh thần Hiến pháp là tối thượng như sơ bộ điểm
ra bên trên, để tranh thủ ý kiến của nhân dân xem xét.
Vấn đề 3: Sự phân chia quyền lực và kiểm soát lẫn nhau
trong hệ thống nhà nước pháp quyền.
Thường gọi là nguyên
tắc tam quyền phân lập, có lẽ đấy là cách nói dịch từ tiếng Trung Quốc, chỉ để
cho dễ sử dụng, nhưng không chuẩn xác lắm và chưa đầy đủ. Dự thảo tránh hẳn vấn
đề này.
Sự phân tách quyền
lực nhà nước thành 3 nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp để phân
nhiệm và việc thiết lập mối quan hệ ràng buộc và kiểm soát lẫn nhau giữa 3
nhánh là phương thức cho đến nay chất xám của loài người tạo ra được để thực
hiện và quản lý quyền lực nhà nước với tính cách là quyền lực được nhân
dân ủy thác.
Từ thế kỷ thứ 6
trước công nguyên (Cộng Hòa La-mã), đặc biệt từ thế kỷ thứ 17[4]
cho đến nay trí tuệ và khoa học của văn minh nhân loại về quản lý quyền lực nhà
nước kết luận:
(a) Quyền lực nhà nước
để được thực thi và quản lý có hiệu quả cần phân chia rạch ròi thành 3 nhánh lập
pháp, hành pháp, tư pháp.
(b) Nhất thiết phải
có sự phân nhiệm rõ ràng và có tính ràng buộc với trách nhiệm cho từng nhánh lập
pháp, hành pháp, tư pháp.
(c) Phải thực hiện
kiểm soát ràng buộc theo chiều dọc (bên trong mỗi nhánh lập pháp, hành pháp, tư
pháp) và theo chiều ngang (giữa các nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp với
nhau).
(d) Trong nhà nước của
dân, do dân, vì dân, việc phân chia quyền lực nhà nước thành 3 nhánh có sự ràng
buộc nhau và thực hiện sự kiểm soát lẫn nhau (dọc – ngang) của các nhánh quyền
lực nhà nước như thế là phương thức thực hiện và quản lý tốt nhất toàn bộ
quyền lực nhà nước.
(e) Toàn bộ quyền lực
nhà nước như mô tả trong các điểm a, b, c, d nêu trên lại phải được kiểm
soát bằng xã hội dân sự - (sẽ được nêu trong phần dưới).
Chất lượng và
trình độ thực hiện việc quản lý quyền lực nhả nước hiện nay ở các nước – dù là thuộc
loại nước phát triển hay nước đang phát triển – rất khác nhau, song mô hình quản
lý quyền lực nhà nước theo hướng phân chia, ràng buộc và kiểm soát lẫn nhau như
đã nêu sơ lược bên trên được áp dụng ở hàng trăm quốc gia trên thế giới ngày
nay.
Có thể nói dứt
khoát:
-
Mức
độ phát triển và sự tiến bộ của mỗi quốc gia có thể đo được bằng chất lượng của
nhà nước pháp quyền có hệ thống quyền lực nhà nước được tổ chức và vận hành như
vừa trình bầy trên.
-
Mức
độ phát triển trì trệ, nhiều bất công xã hội, tham nhũng, thiếu tự do dân chủ
và quyền con người… của mỗi quốc gia tương ứng với mức độ độc quyền, độc tài, của
hệ thống nhà nước của chính quốc gia ấy, kể cả ở những nước coi quyền lực nhà
nước là thống nhất.
Ở nước ta, không
thể cứ chụp mũ cho việc phân chia, ràng buộc và kiểm soát quyền lực nhà nước
như thế là mô hình của nhà nước tư sản, mặt khác lại nhân danh chủ nghĩa xã hội
& định hướng xã hội chủ nghĩa tạo cớ duy trì việc bám giữ nguyên tắc quyền
lực nhà nước là thống nhất để lạm quyền và độc quyền mà nhân dân không
thể kiểm soát được như đang diễn ra.
Thực tiễn của Việt
Nam cho thấy, thực hiện quyền lực nhà nước là thống nhất và chịu sự
lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng tất yếu dẫn đến “đảng hóa”
theo hướng cuối cùng trên thực tế không còn tồn tại nhà nước pháp quyền, pháp
luật bị vô hiệu hóa nghiêm trọng như đã phân tích trong bài trước (“Đảng
– Nhà nước và Hiến pháp” - bài 1). Thực tế này không thể cứu vãn được bằng
cách Đảng kêu gọi mọi người phải sống và làm việc theo pháp luật,
giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa…
Vấn đề 4: Tìm
cách bảo đảm thực hiên mọi quyền của dân đã ghi trong Hiến pháp
Bài 1 đã nêu Hiến
pháp 1992 có như gần đủ các Điều liên
quan đến các quyền của công dân, song hầu như không được thực hiện – trên thực
tế hầu như chỉ còn lại ý nghĩa viết để cho đủ
mâm đủ bát... Những bổ sung trong Dự thảo không thay đổi được thực trạng
này. Bài 1 đã nêu ra 3 nguyên nhân. Ở đây xin nói một số vấn đề quan trọng có
liên quan.
(a) Sự công khai
minh bạch
là đòi hỏi sống còn đối với đời sống của quốc gia có nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân, như con người cần không khí để thở vậy. Thiếu “không khí”
này, không có nhà nước của dân, do dân, vì dân nào có thể sống được, hoặc nếu
có thì đấy chỉ là hàng giả. Ít nhất sẽ có 2 loại vấn đề cần quan tâm khi xử lý
đòi hỏi này, đó là:
(1)Ngay
trong Hiến pháp cần phải thiết kế được các nội dung tạo ra trách nhiệm ràng buộc
tối đa cho việc thực hiện công khai minh bạch trong toàn bộ hệ thống nhà nước
và những viên chức của nó; sự vận động của toàn bộ hệ thống phải theo tiêu
chí “công khai minh bạch + nguyên tắc
chịu trách nhiệm giải trình” ;
(2)Hiến
pháp cần có những điều khoản rõ ràng, không thể mập mờ hoặc bị chế ngự, bị
vô hiệu hóa bởi những điều khoản khác về khuyến khích sự tham gia, quyết định,
giám sát, kiểm soát của công dân đối với mọi
vấn đề của đời sống đất nước, đặc biệt phải bảo đảm quyền quyền con người,
quyền sở hữu, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền hội họp, biểu
tình, lập hội để chính người dân chủ động thực hiện những quyền của mình với sự
giác ngộ cao nhất... Và đây là con đường
quan trọng nhất tạo ra sự công khai minh bạch trong mọi mặt của cuộc sống đất
nước.
(b)Hệ
thống nhà nước pháp quyền và đảng cầm quyền cần làm tất cả mọi việc để xây dựng
nên một dạng quyền lực của xã hội[5] -
được hình thành từ ý chí, trí tuệ, sự đồng tâm hiệp lực của mọi tầng lớp trong
nhân dân như một trong những yếu tố định hướng, huy động và thúc đẩy những xu hướng
tốt, qua đó thúc đẩy sự phát triển của đất nước, nuôi dưỡng sức mạnh tinh thần quốc
gia. Thực hiện đòi hỏi tạo nên một dạng quyền lực của xã hội như thế tất yếu
phải quan tâm xây dựng và phát triển xã hội dân sự.
Xã hội dân sự với tính cách là tổng thể các hình thái
giao lưu, tập hợp, hay diễn đàn của mọi cá nhân, mọi tổ chức dân sự… trên cơ sở
tự nguyện và tự vận hành, để chia sẻ với nhau mọi ý kiến, quan niệm, sở thích…
về mọi vấn đề, về những giá trị hay những vấn đề chung đang được quan tâm.., từ
đó hình thành những dư luận, hành động chung, những phong trào, xu thế, nếp văn
hóa, chí hướng, những đòi hỏi… Xã hội dân sự được phát triển nhờ các yếu tố lành mạnh, sẽ
hình thành trong nó một sức mạnh xã hội có ý nghĩa tích cực.
Sức mạnh có ý nghĩa tích cực như thế hình thành từ xã hội
dân sự là một dạng quyền lực của xã hội, rất cần thiết cho sức sống tinh
thần của một quốc gia…
Nếu để xã hội dân sự bị chi phối hay lũng đoạn bởi những
yếu tố tiêu cực, tất nhiên sẽ dẫn đến những lụn bại khó lường trong đời sống mọi
mặt của đất nước.
Vì nhân dân ta bị kìm hãm tự do và bị trói
buộc về tư duy quá lâu, do đó đất nước chẳng những lạc hậu, mà còn bị lạc lõng
nghiêm trọng trong thế giới ngày nay. Vì vậy xây dựng xã hội dân sự trong hoàn
cảnh hiện tại của nước ta lại càng phải coi như một trong những quốc sách quyết
định, một trong những phần việc quan trọng của quá trình nâng cao quyền năng của
công dân thực hiện những quyền tự do, dân chủ của mình trong cuộc sống mọi mặt
để thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Có thể nói, hầu
hết các việc phải làm để canh tân đất nước đều đòi hỏi phải phát triển xã hội
dân sự.
Với tính cách
như vậy, xã hội dân sự được phát triển lành mạnh sẽ là:
-
nơi nhân dân bằng tiếng nói và ảnh hưởng của mình trực tiếp thực thi quyền làm chủ
của mình, bao gồm những quyền dân chủ trực tiếp,
- là
nơi nhân dân tự giải quyết với nhau những việc của mình trong cộng đồng xã hội
mà nhân dân không cần tới sự hỗ trợ nào khác, hoặc bộ máy hành chính và luật pháp
của hệ thống nhà nước không với tới được, hoặc không cần thiết với tới, hoặc
không được phép đụng tới;
- là
trường học của nhân dân, nơi nhân dân tự mình và giúp nhau nâng cao hiểu biết,
trí tuệ và quyền năng của mình, đặc biệt là nâng cao chất lượng thực hiện các
quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân,
-
là nơi nhân dân thông qua quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí của mình thực
thi tốt nhất quyền lực của mình đối với nhà nước trong việc kiểm soát, giám sát
nhà nước, trong việc thúc đẩy hình thành những quốc sách, chủ trương chính sách,
những quyết định mới, trong việc đòi hỏi nhà nước loại bỏ những cái đã lỗi thời..,
-
tổng hợp các chức năng nêu trên, xã hội dân sự là đối trọng không thể thiếu của
một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Nói riêng về đảng
phái chính trị: Xã hội dân sự là môi trường không thể thiếu cho việc ra đời,
phát triển, sống và rèn luyện của mọi đảng phái chính trị. Một đảng phái chính
trị chân chính, lấy mục tiêu vì dân vì nước là lý tưởng chiến đấu của mình, nhất
là một khi đã trở thành đảng cầm quyền, nhất thiết đảng ấy phải tranh thủ mọi
điều kiện nuôi dưỡng, phát huy xã hội dân sự làm môi trường rèn luyện của mình,
là nơi hun đúc tinh thần và sức mạnh dân tộc.
Có thể dễ dàng nhận
thấy ở nhiều nơi trên thế giới: Các nước có xã hội dân sự mạnh hầu như không có
chỗ đứng cho đảng phái chính trị yếu kém với tính cách là đảng cầm quyền trong
hệ thống quyền lực của nhà nước pháp quyền. Một đảng phái chính trị chân chính
được nhân dân thừa nhận vai trò của mình trong xã hội dân sự, đấy chính là sự
thừa nhận trong lòng dân, đảng ấy là vô địch và bất khả chiến bại. (Đảng Cộng Sản
Việt Nam trong những giai đoạn khốc liệt của 2 cuộc kháng chiến đã từng có rất
nhiều kinh nghiệm Đảng là gì khi sống
trong lòng dân, được nhân dân bảo vệ, che chở, bao bọc…)
Tại không hiếm
các nước trên thế giới cho thấy: Không ít đảng phái chính trị lớn thường là những
nhóm quyền lực lớn, khi trở thành đảng cầm quyền nhưng sau đó tha hóa, thường bị
đào thải. Sự đào thải này thường bắt đầu từ xã hội dân sự.
Cũng không hiếm
trường hợp đảng phái chính trị với tính cách là đảng cầm quyền, đem quyền lực của
mình lũng đoạn xã hội dân sự để mở rộng và củng cố ảnh hưởng. Song kể cả sau
khi làm được như vậy, cuối cùng vẫn không tránh khỏi sụp đổ vì sự tha hóa của
chính nó như đã xảy ra ở các nước Liên Xô – Đông Âu cũ, gần đây ngày càng nhiều
ví dụ như thế.
Không có xã hội
dân sự với đúng nghĩa, không thể có đảng phái giữ vai trò lãnh đạo với đúng
nghĩa. Không quan tâm xây dựng xã hội dân sự, sẽ chỉ khuyến khích ra đời các đảng
phái chính trị của các nhóm quyền lực có xu hướng thâu tóm quyền lực nhà nước để
độc quyền, độc tài.
Nhân đây xin lưu
ý, xã hội dân sự cho đến nay vẫn là húy kỵ đối với chế độ chính trị hiện hành ở
nước ta, và trên thực tế là không được thừa nhận. Đơn giản vì xã hội dân sự là nơi quan trọng nhất để
nhân dân thực hiện có hiệu quả nhất quyền làm chủ đất nước của mình. Trong đời
sống thực của đất nước, không có tam quyền phân lập, đã thế quyền
lực nhà nước được thiết kế theo cách thống nhất Đảng và Nhà nước làm một,
lại thêm hiện tượng “đảng hóa” toàn bộ đời sống mọi mặt, nhân dân không có xã hội
dân sự để thực thi quyền làm chủ của mình. Do đó nói Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ thực ra chỉ là khẩu hiệu, không có cách gì thực thi được.
Trong mọi nhà
trường, kể cả trường Đảng, nhất nhất không đặt vấn đề giáo dục tinh thần phát
triển xã hội dân sự. Vấn đề xã hội dân sự không có trong giáo trình, nhiều nơi
không có ngay cả trong chương trình nghiên cứu. Trong khi đó có không ít các
bài giảng hay ý kiến bác bỏ xã hội dân sự, coi đấy là mô hình xã hội tư sản, là
âm mưu diễn biến hòa bình để chống chế độ… Thậm chí vì bí quá, đã có học giả của
Đảng đã đưa ra khái niệm “xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa” để thay thế,
nhưng thất bại…
Kìm hãm sự phát
triển xã hội dân sự, thực chất là một dạng làm thui chột sức sống của quốc gia,
nô dịch nhân dân, mặt khác là sự khuyến khích vô ý thức hay có ý thức mọi tiêu
cực trong xã hội. Thậm chí đã đến lúc phải nhìn nhận: Kìm hãm sự phát triển
lành mạnh của xã hội dân sự trên thực tế đã và đang là nguyên nhân trực tiếp
góp phần làm lụn bại và băng hoại đất nước về nhiều mặt. Song bất chấp thực trạng
bị phủ nhận hay vùi dập, xã hội dân sự ở nước ta vẫn đang tự nó vận động, mà lẽ
ra nó phải được khuyến khích phát triển như một yếu tố quan trọng nuôi dưỡng và
phát huy sức mạnh của nhân dân.
Ở bất kỳ quốc
gia nào trên thế giới này, nếu không có xã hội dân sự phát triển, không thể nào
thực thi được các quyền của dân đã ghi được trong Hiến pháp, quyền giao cho nhà
nước và quan chức đều bị lạm dụng trở thành tất yếu.
Trong hệ thống
nhà nước pháp quyền thiếu xã hội dân sự, kinh tế thị trường sẽ trở thành kinh tế
hoang dã, nhà nước pháp quyền sẽ trở thành độc quyền, rồi đến lượt nó xã hội
dân sự chỉ còn là mảnh đất mầu mỡ cho xã hội đen. Có thể nói tới mức, không có xã hội
dân sự lành mạnh, Hiến pháp chỉ còn lại trên giấy.
Sửa đổi/soạn thảo
Hiến pháp lần này nhất thiết phải coi trọng vấn đề phát triển xã hội dân sự,
coi đấy là con đường không thể thiếu cho việc thực hiện và phát huy các quyền của
dân đã ghi trong Hiến pháp.
Lời kết
Còn nhiều vấn đề
lớn sẽ phải bàn tiếp. Song những gì đã viết ra trong bài này tiếp tục cho thấy
không thể sửa đổi Hiến pháp sơ sơ như đang làm. Soạn thảo Hiến pháp mới như là
một trong những nhiệm vụ trọng đại và cấp thiết của cải cách thể chế chính trị
đang là một đòi hỏi sống còn của đất nước, không thể tránh né.
Rất đáng hình
thành với tất cả tinh thần hòa giải dân tộc các cuộc thảo luận công khai, xây dựng,
cởi mở, rộng rãi trong cả nước cho mục đích xây dựng Hiến pháp mới, cải cách hệ
thống chính trị của đất nước, tạo ra sự thay đổi hòa bình đất nước xuất phát từ
ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Xin mọi người Việt
Nam ta trong cả nước hoặc đang sống ở nước ngoài, hãy từ thấu đáo nỗi đau của đất
nước và ý thức sâu sắc về những việc đất nước lúc này nhất thiết phải làm, góp
tiếng nói xây dựng của mình vào cuộc thảo luận vỹ đại này. Mọi lời lẽ chỉ với mục
đích đi tìm “tiêu điểm” để “nhằm bắn”, chắc chắn sẽ chỉ khoét sâu thêm nỗi đau
của đất nước, níu kéo quá khứ vào thực tại, duy trì nguyên vẹn mọi trở lực đang
kìm hãm đất nước[6].
Hơn bao giờ hết, lúc này đất nước đang cần những kiến giải, đến từ trái tim của
mỗi chúng ta./.
Hết
Hà Nội – Võng Thị,
ngày 20-01-2013
[1]
Tìm xem: J. J. Rousseau “Khế ước xã hội”.
[2] Ví dụ:
Trong nhà trường có thể giảng các chủ nghĩa, các tôn giáo, các tư duy… để học sinh biết, để nghiên cứu những thứ đó
như là đối tượng của khoa học.., nhưng không được dạy như một “giá
trị bắt buộc” để người học phải tuân thủ.
[3] Trong
bài viết ngày 24-03-2012 “Vài ý
về sửa đổi Hiến pháp năm 1992” tôi đã nêu sự khác nhau giữa các khái niệm
“đảng
cầm quyền”, đảng giữ “vai trò lãnh đạo”, “đảng
lãnh đạo”, sự cần thiết phải có Hiến pháp mới và ĐCSVN phải dựa trên Hiến
pháp mới để xây dựng lại để phấn đấu trở thành đảng cầm quyền. Tìm xem:
[4]
Những đỉnh cao thời kỳ này là Montesquieu, J. J. Rousseau.
[5]
Tham khảo các bài: Nguyễn Trung
-
“Suy nghĩ về sự
nghiệp duy tân đất nước” 20-10-2011
-
“Lũ” – tiểu thuyết, Tập II, chương 23 và chương
27
[6]
Tham khảo thêm các thư trao đổi gần đây giữa Lữ Phương, Tống Văn Công, Nguyễn
Trung trên trang
viet-studies.info của Trần Hữu Dũng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét