Hà
Nội, Tháng Tám 2013
Suy ngẫm về thời cuộc
Nguyễn Trung[1]
Nội dung
Dẫn đề…………………………………………………………………………………………………………
tr. 1
I – Vài nét về thế giới hôm nay……………………………………………… tr. 3
II – Đôi lời về Mỹ ……………………………………………………………. tr. 4
III – Đôi điều lưu ý về Mỹ…………………….. .………………………… tr. 11
IV - Trung Quốc trở
thành vấn đề của cả thế giới……………………….
tr. 28
V - Siêu cường đang
lên Trung Quốc có thể với tới đâu………………..
tr. 43
VI – Siêu cường Trung Quốc không thể lãnh đạo thế giới……………… tr. 52
VII – Nhìn lại chặng đường 38 năm……………………………………… tr.
63
VIII - Thách thức, cơ hội và sự lựa chọn của Việt Nam ………………..
tr. 96
Tài
liệu tham khảo…………………………………………………………. tr. 123
*
Dẫn đề
Ngày
12-07-2013, một ngày như mọi ngày. Song đây là ngày tôi bắt đầu sưu tầm các tài
liệu cho việc ghi lại những suy ngẫm của mình về thời cuộc. Lên mạng, thấy các
kênh truyền thông trong nước đưa tin:
-
Phát huy kết quả chuyến thăm chính thức
Trung Quốc của Chủ tịch Trương Tấn Sang;
-
Phó tổng thống Mỹ Joe Biden và Phó thủ
tướng Trung Quốc Uông Dương khai mạc vòng đối thoại song phương (hàng năm, lần
thứ 5) về Chiến lược và Kinh tế;
-
Tin Tổng thống Obama sẽ đón tiếp Chủ tịch
Trương Tân Sang vào ngày 25-07-2013;
-
2 tầu cá của ngư dân Quảng Ngãi bị hải
quân Trung Quốc tấn công, chặt cờ, cướp săng dầu và thiết bị, hành hung ngư
dân… trong vùng biển Hoàng Sa; cựu
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, ông Lương Lê Phương, lên tiếng: “…phải hỗ trợ ngư dân khi đánh bắt
trên biển. Phải thành lập lực lượng kiểm ngư mạnh, đủ tầm để bảo vệ ngư dân khi
đánh bắt xa bờ…"
-
Thương lái Trung Quốc hoành hành khắp
các vùng từ Bắc chí Nam trong cả nước ta, thực hiện nhiều hoạt động lũng đoạn
như: thu gom mua vải thiều, dìm giá nhãn đang vào mùa, thu mua các hàng độc như
móng trâu, rễ quế, đỉa, râu ngô, lá điều, mua vơ vét dừa khiến nhiều nhà máy chế
biến dừa của ta chỉ còn hoạt động được khoảng 1/3 công suất…
-
Trung Quốc phản ứng dữ dội bác bỏ Sách
trắng Quốc phòng 2013 của Nhật…
-
Hải quân 2 nước Nga và Trung Quốc lần đầu
tiên cùng nhau tập trận lớn…
-
Vụ Edward J. Snowden rầm rĩ báo chí mọi
phương trời và gây rắc rối cho một số nước …
-
Liên hiệp quốc tiếp tục bó tay trong vấn
đề nội chiến Syri đã kéo dài hơn 30 tháng không làm sao có được giải pháp, vì
Nga và Trung Quốc đi với chính quyền Asad và sử quyền veto ngăn cản mọi quyết định
của Hội đồng Bảo an LHQ; Mỹ và phương Tây không chấp nhận chính quyền tàn sát
phong trào nổi dậy…
-
IMF dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới
2013 giảm –0,2% so với 2012 vì những khó khăn của những nền kinh tế lớn và các
châu lục còn nguyên vẹn…
Vân vân…
Trong
một ngày như mọi ngày, những mẩu tin như vậy có vẻ như rời rạc, chẳng ăn nhằm
gì với nhau, nhưng lại phản ánh đầy đủ nhất tình hình địa chính trị toàn cầu đầy
xáo động đang diễn ra và những tác động vào Việt Nam. Đời sống quốc tế hiện tại
là sự tổng hợp những ngày đầy ắp những sự kiện nóng bỏng như thế.
Tìm
hiểu những chuyển biến đang diễn ra trên bàn cờ quốc tế hôm nay và nhận định xu
thế của chúng với những phân tích khách quan, để rút ra những đánh giá, nhận định
cần thiết, đấy là mong muốn của chuyên đề này.
*
I - Vài nét về thế giới
hôm nay
(1)Việc
Mỹ dưới thời Obama (nhiệm kỳ I bắt đầu từ ngày
20-01-2009) tìm cách mau chóng rút ra khỏi chiến trường Iraq và Afghanistan để tập
trung sự quan tâm của mình vào chính sách “trục xoay hướng về châu Á – Thái
Bình Dương” (ngoại trưởng Hillary Clinton công bố ngày 14-10-2011); (2)việc
Trung Quốc với tính cách là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới (sau Mỹ)
đã thôi náu mình trong cái vỏ “trỗi dậy hòa bình” để công khai tham lam hơn trên
thị trường thế giới và hiếu chiến hơn trên Biển Đông, qua đó đang trở thành mối
lo của cả thế giới; và (3)tình
hình khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay tiếp tục kéo dài, thậm chí
đang ngày càng đặm nét của một cuộc đại suy thoái toàn cầu lần thứ hai (lần thứ
nhất là cuộc đại suy thoái toàn cầu 1929 – 1933), có lẽ đấy là 3 yếu tố nổi bật
nhất chi phối tình hình địa chính trị và địa kinh tế toàn cầu hiện nay. Chưa
nói đến những vấn đề toàn cầu chung đặt ra cho cả thế giới ngày càng gay gắt.
Hệ
quả là tất cả các quốc gia trên thế giới, dù lớn dù nhỏ, dù tọa độ tại châu lục
hay vùng nào, đều phải đối mặt với nhiều vấn đề kinh tế, nhiều vấn đề chính trị (đối nội cũng như đối ngoại) mà trước đây họ
chưa bao giờ gặp phải:
-
Trong quá trình toàn cầu hóa ở giai đoạn
hiện tại, sự vận động của kinh tế thế giới đặt ra cho mọi quốc gia những đòi hỏi
mới về cải cách và cấu trúc mới nền kinh tế nước mình, nhằm phát huy tốt hơn động
lực của nội địa và tạo ra năng lực cạnh tranh mới. Những đòi hỏi và thách thức
mới này sâu xa đến mức kinh tế của mỗi nước gần như phải làm mới mình về cấu
trúc và hệ điều hành, để thích nghi và phát triển được trong bối cảnh quốc tế
hôm nay.
-
Thể chế chính trị và chính sách đối ngoại
của mỗi quốc gia bắt buộc phải đáp ứng được những đòi hỏi mới của phát triển
kinh tế trong nước cũng như những vấn đề mới trong trật tự quốc tế “một siêu đa cường” đã hình thành; những
thách thức truyền thống và phi truyền thống trong quan hệ quốc tế tiếp tục đan
xen nhau rất phức tạp; xung đột lợi ích và tập hợp lực lượng trong các mối quan
hệ song phương, đa phương, khu vực, toàn cầu ngày càng đa dạng và đầy biến động.
Ở nấc thang mới hiện nay của quá trình toàn cầu hóa, hơn bao giờ hết thể chế
chính trị của một quốc gia một mặt phải đáp ứng tốt nhất những chuẩn mực quốc tế
chung, mặt khác nó còn phải có khả năng phát huy tối đa nội lực của mình trong xử
lý mọi vấn đề quốc gia ấy phải đối mặt.
-
Trong những biến động mới của một trật tự
một
siêu đa cường đã hình thành, những đòi hỏi truyền thống của nhân loại
(1)về hòa bình, (2)về phát triển, (3)về dân chủ và quyền con người, (4)và về
gìn giữ môi trường… là những giá trị toàn cầu phổ cập,
đang ngày càng được chú trọng hơn trong các chuẩn mực chi phối các mối quan hệ và
trật tự quốc tế. Trật tự quốc tế mới một mặt làm xuất hiện những tập hợp lực lượng
mới, song đồng thời cũng ngày càng chịu sự chi phối của những giá trị toàn cầu
này.
II
– Đôi lời về Mỹ
Trong giới nghiên cứu không ít ý kiến cho rằng Mỹ là một
siêu cường đang đi xuống. Cách đánh giá này dựa vào nhận định chung cho rằng ảnh
hưởng của siêu cường Mỹ đang “nhỏ” đi (a)so với thời cao điểm sau khi kết thúc
chiến tranh lạnh (các nước Liên Xô – Đông Âu sụp đổ 1989-1991), (b)so với kết
quả đạt được trong những vấn đề nó phải giải quyết, (c)so với những thách thức
mới nó phải đương đầu, và (d) so với sự lớn mạnh của các cường quốc khu vực và
một số quốc gia đối tác / đối thủ. Nói một cách khác: Nước Mỹ đang ngày càng chậm
hơn so với những diễn tiến trên thế giới liên quan đến nó, ảnh hưởng của
nó ngày càng nhỏ đi so với vị thế siêu cường duy nhất của nó[2].
Có nhiều số liệu và dữ kiện làm căn cứ cho nhận định nói
trên.
-
Về
kinh tế Mỹ, cuộc khủng hoảng bắt đầu từ năm 2008 mang tính khủng
hoảng cơ cấu và thể chế, do một thời gian dài chịu nhiều tác động sâu sắc của
những quan điểm của chủ nghĩa tân tự do bắt đầu từ thời R. Reagan; mặt khác quá
trình toàn cầu hóa kinh tế - nhất là vấn đề “outsourcing” tạo ra những mất cân
đối mới về cấu trúc. Có thể nói đây chính là một cuộc khủng hoảng mới của chủ
nghĩa tư bản Mỹ (F. Fukuyama, P. Krugman…). Cuộc khủng hoảng này tuy đã qua thời kỳ chạm
đáy, song hiện nay về cơ bản vẫn là “đi ngang” hay đang bước vào thời kỳ phục hồi
chậm chạp.
Từ
nhiều năm nay, nợ công của Mỹ đã vượt 100% GDP, thâm hụt cán cân thương mại và
dịch vụ bắt đầu giảm nhưng vẫn còn cao (540 tỷ USD năm 2012 so với 559 tỷ USD
năm 2011…), trong đó riêng thâm hụt cán cân thương mại và dịch vụ với Trung Quốc
giảm nhiều song vẫn còn rất cao (năm 2012 là
-315 tỷ USD, những năm cao nhất trước đó ước khoảng từ -400 đến
-450 tỷ USD/năm), tỷ lệ thất nghiệp tiếp
tục giảm nhưng vẫn ở mức cao (năm 2009 là 11%, năm 2012 là 8,2%), tỷ lệ lạm phát bắt đầu giảm (năm 2012 là 1,8%,
vài năm trước đó là <2%) … Nói một
cách tổng quát, những tổn thất mọi mặt kinh tế Mỹ đang phải gánh chịu trong cuộc
khủng hoảng hiện nay gần tương đương với những tổn thất của kinh tế Mỹ trong
đại suy thoái kinh tế thế giới lần thứ nhất (1929 -1933), những vấn đề
nước Mỹ hôm nay phải giải quyết có nhiều mặt trầm trọng không kém, hoặc thậm
chí có những vấn đề phức tap hơn[3].
Nhiều
dự báo cho rằng phải sau năm 2017 kinh tế Mỹ mới có thể lấy lại sức tăng trưởng
như trước khi lâm vào khủng hoảng. Tuy nhiên điều kiện phải có cho triển vọng
này là Mỹ phải thành công trong thay đổi tư duy kinh tế vỹ mô và trong kiến
trúc lại thể chế điều hành – trước hết là hệ thống tài chính -ngân hàng (Lawrence Summers[4]). Nói
đơn giản: Mỹ phải cấu trúc lại nền kinh tế và thể chế điều hành với tư duy mới
– chỉ làm như vậy mới có thể đối mặt với quá
trình siêu cường Mỹ đang đi nhanh vào
dĩ vãng (John Kao). Không ít ý kiến cho rằng thể chế dân chủ của các nước
phương Tây nói chung đang gặp nhiều bất cập mới trong tiến trình toàn cầu hóa
hiện nay[5]
-
Có
hay không trong quá trình suy yếu này Mỹ đã phạm phải sai lầm chiến lược (hay
những sai lầm chiến lược) trong địa chính trị toàn cầu?
Câu hỏi này không dễ trả lời, nhưng phải đặt ra để phân tích. Người viết bài
này đứng về phía: “Có!”[6].
2
cuộc chiến tranh Iraq và Afghanistan dù được tiến hành với bất kể lý do gì, kết
quả Mỹ đã đạt được rất hạn chế so với mục tiêu đề ra; cái giá Mỹ phải trả là thế
và lực của Mỹ bị tác động đáng kể. Mỹ đã mất 6640 binh sỹ (nếu tính cả đồng
minh trong NATO là trên 8000), bị thương khoảng trên 40.000 (chưa kể đồng minh
NATO), và phải chi trên 2000 tỷ USD. Kết cục, Mỹ đạt được một thế chiến lược yếu
hơn so với khi Liên Xô sụp đổ và so với khi bước vào chiến tranh[7].
Thậm chí có thể nói, trong 2 cuộc chiến tranh này Mỹ không đạt được một số mục
tiêu chiến lược hàng đầu về địa chính trị và địa kinh tế.
Song
thất bại lớn nhất của Mỹ trong 2 cuộc chiến này có lẽ nằm bên ngoài chiến trường:
Trung
Quốc chớp được thời cơ vươn lên vị trí nền kinh tế có quy mô GDP lớn thứ 2 trên
thế giới, với nhiều tác động có tính toàn cầu và không ít hệ lụy cho một
số nước hữu quan, nhất là các nước láng giềng. Tình hình phức tạp đến mức
(a)kinh tế Mỹ và Tây Âu ngày nay rất khó được cải thiện nếu không cải thiện được
các mối quan hệ nhiều mặt của họ với Trung Quốc – kể cả trên phương diện kinh tế;
sự phụ thuộc lẫn nhau trong kinh tế ngày càng lớn; (b)đặc biệt là từ một thập kỷ
nay Trung Quốc đẩy mạnh uy hiếp công khai bằng vũ lực trên biển, uy hiếp ngày càng
trực tiếp các nước láng giềng – trong đó có các đồng minh quan trọng của Mỹ như
Nhật, Hàn Quốc, có địa bàn chiến lược của Mỹ là Đông Nam Á..; hòa bình ở Biển
Đông bị de dọa nghiêm trọng, quyền lực mềm Trung Quốc luồn sâu vào sân sau của
Mỹ ở châu Mỹ Latinh..; (c)ngoài ra, chính sách thực dụng của Trung Quốc trong một
số vấn đề nóng bỏng ở châu Phi, trong những vấn đề có liên quan đến những đối
tượng/đối tác rất nhạy cảm của Mỹ (Pakistan, Afghanistan, Iran, Syri, thế giới
hồi giáo và vấn đề chống khủng bố…) luôn gây ra cho Mỹ những diễn biến phức tạp
mới.
Nhìn
theo tư duy “zero sum game” của địa chính trị toàn cầu, có thể nói một cách
hình ảnh: Sa lầy vào chiến tranh tại Iraq và Afghanistan, siêu cường Mỹ dưới
thời Bush đã đánh mất thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 vào tay Trung Quốc[8].
-
Chưa
thấy các lý lẽ thuyết phục để cho rằng 2 cuộc chiến tranh Iraq &
Afghanistan là nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng kinh tế hiện nay ở Mỹ
(bắt đầu từ năm 2008), mặc dù 2 cuộc chiến tranh này và những hệ lụy kèm theo
đã gây ra gánh nặng rất lớn cho nền kinh tế Mỹ.
Bản
tổng kết của Mỹ trong thập kỷ vừa qua là: (1)kết cục không như mong muốn đã xảy
ra của 2 cuộc chiến tranh Iraq và Afghanistan, (2)khủng hoảng kinh tế của Mỹ diễn
ra đồng thời, lại trong bối cảnh cùng một lúc toàn bộ các nền kinh tế của
phương Tây (trước hết là EU và Nhật) đều rơi vào khủng hoảng lớn, giữa lúc toàn bộ khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang
trở thành khu vực kinh tế phát triển năng động nhất của thế giới, (3)rồi đến sự
lớn mạnh của các cường quốc khu vực là Trung Quốc, Nga, Ấn Độ đang đặt ra nhiều
vấn đề mới cho chính sách đối ngoại của Mỹ, (4)những vấn đề phức tạp có liên
quan đến thế giới Hồi giáo, đặc biệt là những thách thức đặt ra trực tiếp đối với
Mỹ (trong đó có nguy cơ Iran sẽ có thể sản xuất vũ khí A, nguy cơ khủng bố lại
bùng phát…) hầu như còn nguyên vẹn…
Toàn
bộ tình hình như thế trên cả 2 bình diện địa chính trị và địa kinh tế đã tạo ra
sức ép mới, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược có tính mở đầu một giai đoạn mới:
trọng tâm chính của mọi nỗ lực mới của Mỹ sẽ chuyển vào châu Á – Thái Bình
Dương.
Trên
bình diện địa chính trị, sự thay đổi chiến lược của Mỹ là chủ trương thực hiện
“trục
xoay hướng vào châu Á – Thái Bình Dương” (the pivot to Asia & Pacific).
Trên
bình diện địa kinh tế, đấy là đẩy mạnh xúc tiến Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (Trans Pacific Partnership Agreement - TPP).
Đồng
thời Mỹ đẩy mạnh tập hợp lực lượng dưới ngọn cờ hòa bình – phát triển –
dân chủ & quyền con người – bảo vệ
môi trường. Đối tượng chủ yếu của Mỹ trong chiến lược trục xoay này và trong TPP
là Trung Quốc.
Như
vậy hoàn toàn có thể nói: Trật tự quốc tế một siêu đa cường đã chấm hết thời kỳ
hậu chiến tranh lạnh. Trong cục diện quốc tế mới này xuất hiện những “cuộc
chơi” mới (các games) song phương và đa phương, trong đó các “cuộc chơi” Mỹ - Trung có xu hướng ngày càng nổi bật, có tác động
sâu sắc mang ý nghĩa chi phối nhất định
đối với địa chính trị và địa kinh tế toàn cầu – thậm chí là chi phối quyết định
trong một số vấn đề cụ thể (ví dụ: quan hệ Mỹ - Trung trong khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương, vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên…).
Dù
là dưới hình thức tranh giành nhau hay đối phó nhau, dù là dưới hình thức hợp
tác hay đối đầu.., không loại trừ trong tình hình nhất định các cuộc chơi Mỹ -
Trung có thể gây ra những căng thẳng mới, thậm chí có khi là đụng độ quân sự dưới
hình thức và với quy mô nào đấy, địa bàn chính là khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương. Thực tế này đẻ ra nhiều hệ lụy mới cho các nước trong khu vực – đặc
biệt là cho các láng giềng của Trung Quốc từ Nhật trở xuống tới hết vùng Đông
Nam Á.
Những
nỗ lực của Mỹ dồn vào chuyển hướng chiến lược mới này là toàn diện và rất lớn:
Những biện pháp vực dậy nền kinh tế, đổi mới hệ thống tài chính tiền tệ, cải
cách giáo dục – đặc biệt là hệ đại học..; khắc phục tình trạng sa lầy ở Iraq và
Afghanistan (bao gồm cả chủ trương tiến hành đàm phán trực tiếp với phe
Taliban), xắp xếp lại quân đội theo hướng đẩy mạnh hiện đại hóa và tối ưu hóa
hơn nữa; giảm ngân sách quốc phòng (tổng mức phải giảm từ nay cho đến trong
vòng 10 năm tới là 500 tỷ USD) nhưng vẫn phải ưu tiên nâng cao vị thế và sự có
mặt về quân sự của Mỹ ở khu vực CA-TBD (nhất là tại Nhật, Philippines, Đài Loan,
Úc…); bố trí lại hải quân đáp ứng những ưu tiên mới này trên khu vực CA-TBD;
tăng cường hợp tác và sự có mặt quân sự của Mỹ tại Úc; gia tăng các mối quan hệ
với Ấn Độ, Myanmar; cổ vũ sự hợp tác của ASEAN…
Đồng
thời Mỹ tiến hành nhiều hoạt động kinh tế và chính trị khác tăng cường các mối
quan hệ đồng minh và liên minh của mình với mọi đối tác truyền thống ở các châu
lục; tìm cách cải thiện quan hệ với một số nước châu Mỹ Latinh bất hòa (chủ yếu
ở Nam Mỹ); giảm bớt những căng thẳng với thế giới đạo Hồi... Có nhiều dấu hiệu
cho thấy Mỹ tích cực thúc đẩy hòa đàm Israel – Palestine, thậm chí đang tính đến
những bước đi mới với Iran… Cùng với các đồng minh và liên minh của mình và
thông qua tăng cường mọi hình thức hợp tác, Mỹ đang ra sức nâng cao vai trò của
các thể chế khu vực và quốc tế mọi dạng – từ các diễn đàn như G7, G20.., đến
các thể chế như UNO, WTO, IMF, WB, các diễn đàn với ASEAN, đẩy mạnh các vấn đề
chung như môi trường, vấn đề chống các thách thức truyền thống và phi truyền thống
(trong đó có những vấn đề hệ trọng như Không phổ biến vũ khí A, vấn đề chống khủng
bố)…
Không
phải ngẫu nhiên đã có không ít tiếng nói của Trung Quốc – đặc biệt là nhóm “diều
hâu” trong quân đội… - cho rằng: Mỹ đang thực thi chiến lược bao vây Trung Quốc!
Mỹ
có theo đuổi một chiến lược bao vây Trung Quốc không?
Câu
hỏi này cũng được đề cập đến trong giới nghiên cứu – kể cả ở Mỹ. Đương nhiên
chính giới Mỹ chính thức bác bỏ sự nghi ngờ này (!). Trong đối thoại kinh tế & chiến lược
Mỹ - Trung lần thứ 5 (Obama – Tập Cẩm Bình ngày 07 & 08-06-2013), Obama nhấn
mạnh xây
xựng mối quan hệ nước lớn dựa trên sự tin cậy chiến lược (strategic trust).
Giới
nghiên cứu Mỹ cũng có không ít ý kiến cho rằng không có khả năng ngăn chặn hay
bao vây Trung Quốc; hợp lý và khả thi hơn là phải hướng Trung Quốc vào thực hiện
trách nhiệm nước lớn của mình đối với thế giới (K. Rudd, J. Cassidy. R.
Klapan…).
Song
dù thừa nhận hay không thừa nhận, “pivot to Asia & Pacific” và “TPP”
trước hết hay sâu xa là nhằm kiềm chế Trung Quốc.
III
- Đôi điều lưu ý về Mỹ:
(a)
Với tính cách là siêu cường, Mỹ vốn có những lợi ích riêng, những đòi hỏi riêng
và những thách thức riêng do vị thế siêu cường và do việc duy trì vị thế này đặt
ra; không nhất thiết các đồng minh / liên minh của Mỹ (kể cả một số đồng minh
chí cốt) có thể cùng chia sẻ. Chưa nói đến lúc này lúc khác còn xảy ra những
mâu thuẫn nhất định với nhau. Điều này là lẽ tự nhiên.
(b)
Bên cạnh sử dụng sức mạnh và ảnh hưởng theo khả năng cho phép, siêu cường Mỹ
luôn luôn phải giương cao ngọn cờ chính trị để xác lập tính
chính đáng cho vai trò quốc tế của mình trong tập hợp lực lượng. Đây chính là
nguồn gốc chủ yếu của cái gọi là tính hai mặt, tiêu chuẩn kép (doppel
standard) trong không ít vấn đề đối ngoại của Mỹ. Tiêu chuẩn kép như vậy đương
nhiên không thể thiếu trong những vấn đề dân chủ - nhân quyền cũng như trong
xúc tiến Hiệp định TPP hiện nay...
Thật
ra thời nào cũng thế, đã là siêu cường, là cường quốc, thì từng bước đi của nó
trước hết đều do lợi ích của nó quyết định – chứ không phải do các chuẩn mực phổ
cập của đạo đức (ethic).
Nói
một cách trắng / đen: Trong chiến lược đối ngoại quốc gia nói chung, không gian
dành cho sự thống nhất giữa bạo lực và đạo đức (theo nghĩa các chuẩn mực phổ cập)
thường rất hẹp hoặc thậm chí có khi không có. Phạm trù đạo đức trong chiến lược
đối ngoại quốc gia thường có những tiêu chuẩn khác... Mỹ là nước đã từng ném
bom nguyên tử xuống Hirosima và Nagasaki, rải chất độc da cam lên miền Nam Việt
Nam, chủ động tiến hành chiến tranh Iraq… Song hiển nhiên hiện nay Mỹ còn là một
trong những nhân tố quyết định trong tập hợp lực lượng thế giới đấu tranh cho các
giá trị toàn cầu. (Xin lỗi phải dài dòng về điểm này, vì muốn lọai
bỏ những lướng vướng theo kiểu tư duy máy móc và tư duy ý thức hệ đang tồn đọng).
Ngọn
cờ chính trị này của siêu cường Mỹ trong thời kỳ chiến
tranh lạnh là chống cộng nhân danh tự do.
Trong
thế giới của thời hậu chiến tranh lạnh ngày nay, ngọn cờ này của siêu cường Mỹ
là dân
chủ và nhân quyền.
Không
phải ngẫu nhiên trong hội đàm Obama – Trương Tấn Sang trong chuyến thăm Mỹ
chính thức của Chủ tịch nước Việt Nam (25-07-13), vấn đề Mỹ quan tâm số một là dân
chủ và nhân quyền, mặc dù Biển Đông và vị thế của Việt Nam đặt ra nhiều
vấn đề chiến lược khác rất hệ trọng và nóng bỏng hơn nhiều (sẽ bàn tiếp trong
phần sau)[9].
Sẽ
là mù quáng chết người nếu phủ nhận: Sự phát triển của văn minh nhân loại ở nấc
thang hiện tại của quá trình toàn cầu hóa đang làm cho các giá trị toàn cầu
như hòa
bình, phát triển, tự do dân chủ, quyền con người, bảo vệ môi trường… ngày
càng trở thành khát vọng chung của toàn nhân loại. Xu thế này ngày càng phổ cập,
trở thành một sức mạnh lớn, và trong bối cảnh nhất định là một quyền lực. Xu thế
này, chứ không phải là ngọn cờ của chủ nghĩa xã hội, đang tác động, đang hấp dẫn,
hướng dẫn sự vận động của văn minh nhân
loại[10].
Ngọn
cờ dân
chủ - nhân quyền siêu cường Mỹ đang giương cao – dù là tính hai mặt và
thực dụng lúc này lúc khác đặm nhạt thế nào (vấn đề “tiêu chuẩn kép”) – tự nó khách
quan có những điểm phù hợp với khát vọng chung của thời đại trên những phương
diện và trong những vấn đề nhất định, có tác dụng hậu thuẫn tới mức nào đó khát vọng chung của
thời đại.
Những nỗ lực của các nước đấu tranh cho những
giá trị toàn cầu là cần thiết cho sự phát triển của chính các quốc gia đó, song
đồng thời khách quan thuận lợi cho sự phát triển của mọi quốc gia khác – trong
đó kể cả siêu cường Mỹ. Đấy chính là một nét mới trong xu thế quốc tế của thế kỷ
21: Chúng
ta đang sống trong một thế giới ngày càng hướng về những giá trị chung của nhân
loại - những giá trị toàn cầu. Thời
kỳ chiến tranh lạnh không thể là như vậy.
Giương
cao ngọn cờ dân chủ và nhân quyền như vậy không hề có nghĩa là nước Mỹ là toàn
vẹn hay chiếm đỉnh cao của nhân loại trên phương diện này. Chưa nói đến giương
cao ngọn cờ là một chuyện, hành xử để bảo vệ hay thực hiện lợi ích của siêu cường
lại là chuyện hoàn toàn khác.
(c)
Mỹ và các đồng mình / liên minh đã hình thành một tập hợp lực lượng có ảnh hưởng
ngày càng sâu rộng trên thế giới chung quanh các giá trị phổ cập của nhân loại.
Bất
luận còn xảy ra nhiều điều trái ngược, còn những cái gọi là “tiêu chuẩn kép”..,
trên thực tế và về nhiều phương diện, các
nước phát triển ở mọi châu lục, hiện nay đang trở thành lực lượng dẫn dắt
trào lưu tiến bộ của thế giới. Nguyên nhân chính là (1)trình
độ phát triển cao của các nước này đòi hỏi phải phát huy những giá trị toàn cầu
cho sự tồn tại của chính họ; (2)họ hướng về lấy các giá trị toàn cầu làm các
thành tố quan trọng xây dựng các chuẩn mực chi phối quan hệ quốc tế mọi mặt; và
(3)trật tự quốc tế ngày nay vừa đòi hỏi vừa cho phép thúc đảy xu thế vận động
này. (Đã đến lúc trong nghiên cứu và giảng dậy phải rỡ bỏ mọi kiêng cấm
ý thức hệ đang cố trối bỏ thực tế này).
(d) Những thay đổi đang diễn ra trong so sánh lực
lượng nhiều mặt (kinh tế, quân sự, chính trị, công nghệ và khoa học kỹ thuật,
các nguồn lực khác…) giữa siêu cường Mỹ và toàn thế giới còn lại cho thấy Mỹ
ngày càng “nhỏ hơn” so với những đòi hỏi hay thách thức nó phải đối mặt. Nhưng
mặt khác, là chủ lực quan trọng số 1 (không
phải là chủ lực duy nhất) của đội ngũ đồng minh / liên minh trong tập hợp lực
lượng mới chung quanh các giá trị toàn cầu, Mỹ đã và đang tìm được môi trường
mới, đang hình thành một chiến lược mới cho việc duy trì và tiếp tục bảo tồn
hay phát huy vị thế của chính mình trong thế giới ngày nay. Đây cũng là sự
thay đổi ngày càng rõ nét của siêu cường Mỹ trong một thế giới đang thay đổi
quyết liệt. Thực tế này bù lại đáng kể những thiếu hụt trong quá trình vị thế
“đang
nhỏ dần đi” của siêu cường Mỹ trên bàn cờ quốc tế.
Cần
hiểu rõ thực tế vừa nêu trên để thấy: Bên cạnh củng cố thực lực, Mỹ coi thực hiện
chủ trương phát huy tập hợp lực lượng chung quanh những giá trị toàn cầu là một
đòi hỏi sống còn cho sự tồn tại và phát triển của chính nước Mỹ, là một mũi tiến
công quan trọng cho việc bảo tồn vị thế hiện nay của Mỹ. Yêu cầu này của Mỹ
khách quan tạo ra không gian mới nhất định cho các mối quan hệ có tính xây dựng
giữa các nước với Mỹ.
(e)
Sẽ là sai lầm nếu như coi siêu cường Mỹ là anh hùng cứu nhân độ thế cho tự do
dân chủ, quyền con người, cho các giá trị toàn cầu khác... Nhưng cũng sẽ là ngu
ngốc không kém và sớm muộn sẽ phải trả giá, nếu một quốc gia không lựa chọn cho
mình con đường đi cùng xu thế tiến bộ của nhân loại, thậm chí muốn đi ngược lại, hay không biết nương
theo trào lưu này của thời đại.
Nhìn
từ góc độ các nước đang phát triển, có thể và cần rút ra kết luận: Thời
đại ngày nay cho phép, một quốc gia nếu xác định được con đường đi cùng với trào
lưu của các giá trị toàn cầu - để phát triển và để khẳng định chính mình, sẽ có
thể tìm được lối ra và tranh thủ được sự thừa nhận và hậu thuẫn rộng rãi của cộng
đồng quốc tế, vô luận đấy là nước lớn hay nhỏ, rơi vào hoàn cảnh nào, và nằm ở
bất kỳ đâu trên trái đất này. Thay đổi ở Myanmar có thể được xem như một
ví dụ gần đây nhất, có tính thời sự nóng hổi nhất đang nói lên khả năng này. Phải
chăng đây cũng là một kết quả, một nét mới trong thay đổi mọi tương quan trên
bàn cờ quốc tế ngày nay?
Nói
rõ hơn nữa:
-
Cần
có cách nhìn vấn đề như vừa trình bầy trên, để không xem những vấn đề hay đòi hỏi
của Mỹ đặt ra cho các đối tác của mình chung quanh tự do dân chủ, quyền con người…
đơn thuần chỉ là “vũ khí can thiệp vào công việc nội bộ nước khác” – mặc
dù điều này là không tránh khỏi.
-
Muốn trở thành đối tác được tôn trọng của Mỹ, cũng không phải là chỉ cần chấp
nhận “dựa” vào Mỹ hay tuân thủ các đòi hỏi của Mỹ là xong. Mà trước hết quốc
gia đó phải là một thành viên năng động trong trào lưu tiến bộ của thời đại ngày
nay – một thành viên chủ động và có bản lĩnh trong cộng đồng quốc tế.
(f) Chiến tranh thế giới II đã diễn ra giữa các
nước lớn. Song kể từ đó đến nay điều này không xảy ra nữa, vì các lẽ: (1)ngày
nay khả năng hủy diệt lẫn nhau rất lớn, (2)không thể vượt qua được sự phụ thuộc
lẫn nhau toàn cầu, (3)quá trình toàn cầu hóa toàn diện – nhất là về kinh tế - tạo
ra những ràng buộc khó phá vỡ, vân vân…
Đánh
giá tình hình mọi mặt trên bàn cờ thế giới hiện nay cũng có thể nhận định: Hiện
nay và trong một tương lai có thể xác định được – ví dụ từ nay đến giữa thế kỷ
21 hay xa hơn nữa, khả năng xảy ra chiến tranh trực tiếp giữa Mỹ và Trung Quốc
có thể gần như bằng không (zero), vì nhiều lẽ, trong đó có một thực tế là: cho
dù mâu thuẫn hay xung đột lợi ích giữa Mỹ và Trung Quốc quyết liệt như thế nào,
và tính đến mọi mất/được nếu phải tiến hành chiến tranh, tất cả hình như đều
không đủ bức thiết đến mức phải lựa chọn phương án này[11].
Kịch bản hiện thực hơn có lẽ là: Đụng độ Mỹ - Trung (xin tạm dùng
khái niệm này) nếu xảy ra vì bất kỳ lý do gì, có lẽ sẽ được giải quyết trên địa
bàn hay trên trận địa nước thứ ba, hoặc là thông qua những
vấn đề của nước, các nước bên thứ ba.
Trong
dự báo nói trên (không thể, khó có thể xảy ra chiến tranh Mỹ - Trung), có lẽ cần
chú ý một ngoại lệ tuy rất khó xảy ra nhưng không phải là không tiềm tàng: Đó
là tính huống một khi xảy ra sự lầm lỡ như là một tai nạn của con người, giả thử
dẫn đến trạng thái không thể kiểm soát được tình hình. Thể giới đôi lúc đã mấp
mé ở trạng thái này khi Bắc Triều Tiên làm nhiều việc nguy hiểm và đồng thời
ngày 30-03-2013 tuyên bố chiến tranh với Hàn Quốc, bác bỏ Hiệp định đình chiến
1953[12]..,
tình hình nhạy cảm không kém khi các tầu chiến và máy bay Trung Quốc trực tiếp
xâm phạm vùng đảo Senkaku / Điếu Ngư, vân vân…
Thật
ra, lấy nước bên thứ ba (hoặc các vấn đề của nước bên thứ ba) làm sân
chơi để các nước lớn giải quyết “nỗi buồn” của họ với nhau là một thực
tiễn khá phổ biến, đã xảy ra liên tiếp trên bàn cờ quốc tế kể từ sau chiến
tranh thế giới II cho đến ngày nay. Đây chính là điều các nước thứ ba ngày nay đừng
quên và phải luôn luôn cảnh giác.
Những
thay đổi của Mỹ trong chiến lược toàn cầu
ngày nay đặc biệt quan tâm đối phó với (a)sự bành trướng ảnh hưởng quá
nhanh của Trung Quốc, và (b)những thách thức toàn diện ngày càng khó kiểm soát
của nước 1,3 tỷ dân này[13].
Mỹ
đã công bố thẳng thắn: Những thay đổi chiến lược của Mỹ nhằm thực hiện tái
cân bằng chiến lược toàn cầu, tập trung vào khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương (Obama, H. Clinton,
Kery); trong đó ASEAN được Mỹ coi là một trọng tâm của chiến lược này. Yêu
cầu tái cân bằng chiến lược như vậy đã trở thành một trong những yếu tố quyết định
khiến cho “cuộc chơi” Mỹ - Trung có vị trí nổi bật nhất và chi phối những “cuộc
chơi” khác trên bàn cờ quốc tế.
Các
nước hữu quan trong khu vực với tính cách là
nước bên thứ ba - trong đó có Việt
Nam, đứng trước câu hỏi trực tiếp: Ngay từ
bây giờ, phải ứng xử như thế nào và với bản lĩnh nào, một khi “cuộc chơi” Mỹ -
Trung này đã bắt đầu và đang diễn ra ngay trên đầu mình, trên đất mình, hay là
ngay trước cửa ngõ nhà mình?
Như
đã nói trên, sẽ không có chuyện Mỹ là anh hùng cứu nhân độ thế cho tự do dân chủ
và nhân quyền. Tại đây xin bổ sung: Cũng sẽ không có chuyện siêu cường Mỹ là
lính đánh thuê giữ nhà cho bất kỳ ai. Và như mọi cường quốc khác, Mỹ đã mắc cũng
không ít sai lầm.
(g)
Chuyển hướng vào chiến lược “trục xoay CA – TBD”, không có nghĩa
siêu cường Mỹ đã được rảnh tay trong nhiều vấn đề nan giải khác thuộc chiến lược
toàn cầu của Mỹ. Có thể nói những vấn đề nan giải ấy chưa dịu đi bao nhiêu, thậm
chí không ít vấn đề vẫn còn nguyên vẹn, tiếp tục phát triển… Thực tế này chính
là một trong những nguyên nhân quyết định, dẫn tới chuyển hướng chiến lược của
Mỹ. Phải chăng điều này có nghĩa: Tìm cách ngăn chặn nguy cơ lớn nhất là
Trung Quốc, để giành lại chủ động trong thế bị động? Chuyển hướng của
Mỹ trong tình thế như vậy, càng làm rõ thêm tầm vóc của mối nguy Trung Quốc
đối với Mỹ nói riêng và đối với thế giới còn lại nói chung.
Tuy
nhiên, trong giới nghiên cứu ở Mỹ cũng có những ý kiến lo ngại chiến lược “trục
xoay” có thể tăng mối lo của Trung Quốc, qua đó khiến Trung Quốc có thể
trở nên hiếu chiến hơn. Loại ý kiến này khuyến cáo chính giới Mỹ nên tăng cường
nỗ lực lôi kéo Trung Quốc cùng đi với cả thế giới, Mỹ và cả Trung Quốc không
nên rơi vào cái bẫy Thucydides (Clifford Kiracofe)[14],
cả thế giới cần nỗ lực tìm cách chuyển đổi hệ thống một siêu cường hiện nay
sang một hệ thống thân thiện hơn (J. Cassidy, K. Rudd, M. Jacques, C. Kiracofe…) (?!)[15]…
Loại ý kiến này cần tham khảo, song khó đứng vững trước những gì đã và đang diễn
ra ở Biển Đông, ở biển Hoa Đông trong suốt những năm qua và hiện nay.
Mọi
nỗ lực của chính quyền Obama dành cho chuyển hướng vào chiến lược “trục
xoay” đến nay vẫn kiên định.
Đồng
thời Mỹ cũng đẩy mạnh chính sách chia sẻ trách nhiệm trong
hàng ngũ đồng minh / liên minh để bớt gánh nặng cho Mỹ. Chưa nói đến một thực tế
khác rất quan trọng: CA-TBD, đặc biệt là
các quốc gia phía Tây TBD, là khu vực phát triển kinh tế năng động nhất thế giới
trong thế kỷ này, Mỹ nhất thiết không thể đứng ngoài.
Đối
với đồng minh EU: Là đồng minh chí cốt của Mỹ,
nhưng lại chìm ngập sâu vào khủng hoảng kinh tế - trước hết là khủng hoảng tài
chính và vấn đề nợ công, nguy hiểm đến mức gần như đe dọa làm tan vỡ đồng Euro
– khiến cho thế và lực của Mỹ cũng bị suy yếu. Hơn thế nữa các nước EU – kể cả
những thành viên lớn như Đức, Anh, Pháp.., có quá nhiều mối liên hệ kinh tế với
Trung Quốc, nên khó có thể có sự cứng rắn cần thiết trong đối xử với Trung Quốc.
Đối
với Nhật: Tín hiệu tốt đối với Mỹ là kinh tế Nhật
bắt đầu phục hồi sau 2 thập kỷ trì trệ và thắng lợi bầu cử vang dội ở cả hạ viện
và thượng viện tháng 7-2013 của đảng Dân chủ Tự do (Liberal Democratic Party –
LPD) của thủ tướng Abe. Đấy cũng là tín hiệu của cả nước Nhật về sự trả lời rất
kiên quyết đối với những hành động hiếu chiến của Trung Quốc trong tranh chấp đảo
Senkaku / Điếu Ngư. Trước bầu cử, Nhật đã ban bố sách trắng về quốc phòng,
trong đó biểu thị lập trường dứt khoát của Nhật trong bảo vệ chủ quyền của
mình. Sau bầu cử, LPD đang tiến hành vận động sửa đổi Hiến pháp, dự kiến sửa đổi
nhiều điều quan trọng liên quan đến thể chế chính trị và kinh tế. Một trong những
sửa đổi nổi bật sẽ là đòi hỏi lập lại
chủ quyền đầy đủ về quốc phòng và tăng cường thực lực quân sự (bao hàm cả vấn
đề tự trang bị vũ khí, vấn đề quân đội Nhật được hoạt động ngoài phạm vi lãnh
thổ của mình khi tình hình đòi hỏi…) – nghĩa là xóa bỏ tất cả những ràng buộc hạn
chế Nhật còn sót lại trong quá trình thi hành những quyết định của Hội nghị
Teheran và Hội nghị Yalta đầu năm 1945 về chiến tranh thế giới II.
Mặc
dù trong nội bộ Nhật còn những chia rẽ nhất định chung quanh việc sửa đổi Hiến
pháp, song có thể nhận định: Nhật kiên trì còn nước còn tát trong duy trì hòa
bình với Trung Quốc, nhưng rất quyết liệt thay đổi tất cả để đáp ứng những đòi
hỏi và thách thức mới từ phía Trung Quốc. Bước phát triển mới này của Nhật là cần
thiết, Mỹ hưởng ứng. Đương nhiên sự vươn lên của Nhật về quốc phòng không tránh
khỏi những dị nghị hay lo ngại của 2 láng giềng là Nga và Hàn Quốc – cả 2 nước
này đều có tranh chấp biển đảo với Nhật (vùng quần đảo Kurril do Nga kiểm soát;
đảo Tokdo / Takeshima do Hàn Quốc kiểm soát); Nhật lại là đông minh chiến lược
của Mỹ.
Đối
với Nga: Do nhiều yếu tố khác nhau của lịch sử để
lại – nhất là từ thời chiến tranh lạnh, do những va chạm có tính địa chính trị
toàn cầu không tránh khỏi trong quá trình Nga ngày nay đang theo đuổi khát vọng
lấy lại vị thế một thời đã từng ngang ngửa với Mỹ suốt thời kỳ chiến tranh lạnh…
Trong tổng thể mối quan hệ Nga - Mỹ, bức tranh va chạm hay mâu thuẫn nhau hiện
nay có vẻ đậm nét hơn rất nhiều bức tranh hợp tác.
Trong
các vấn đề do lịch sử để lại có vấn đề rất nhay cảm là nhiều nước XHCN Đông Âu
cũ và một số nước trong Liên Bang Xô Viết cũ nay trở thành thành viên của NATO,
qua đó hình thành trên thực tế một vòng tròn NATO bao quanh Nga. Tất cả những
quốc gia thành viên NATO mới này trong quá khứ có nhiều vấn đề lịch sử rất sâu
sắc với Nga và Liên Xô cũ. Nước Nga bây giờ vẫn đứng trước nguy cơ ly khai của
Checnya và phong trào khủng bố tại đây… Mớ quan hệ rối rắm này bây giờ được bổ
sung thêm những vấn đề nhạy cảm mới như việc NATO bố trí tên lửa giáp nước Nga
(phía Đông Âu, với lý do muốn ngăn chặn khủng bố và những nguy cơ khác đến từ Bắc
Triều Tiên, Trung Quốc…), đàm phán chật vật Mỹ - Nga hiện nay về cắt giảm số
tên lửa chiến lược mang đầu đạn hạt nhân, vấn đề tỵ nạn của Snowden,… Những
thách thức mới từ phía Trung Quốc buộc Mỹ và Nhật phải tăng cường hợp tác để củng
cố sức mạnh chung; nhưng thực tế này lại kích thích sự ngờ vực của Nga, kích
thích sự liên kết Nga – Trung ở mức độ nhất định. Nga và Trung Quốc gặp nhau ở
chỗ cả 2 đều không muốn chính quyền Assad sụp đổ, vì Syri là vị trí duy nhất hiện
nay Nga còn có được trong thế giới Ả-rập, Trung Quốc không muốn Mỹ và phương
Tây tiếp tục mở rộng ảnh hưởng tại đây... Trong khi đó Mỹ và đồng mình không thể
chấp nhận việc Nga cùng với Trung Quốc ngăn cản những nỗ lực của Liên hiệp quốc
cho giải pháp vấn đề Syri và chống lại sự can thiệp của phương Tây.
Nhưng
mối nguy hiểm lớn nhất đối với Mỹ (và phương Tây) có lẽ không nằm trong vấn đề
chính quyền Assad tồn tại hay không tồn tại, mà là hiệp đồng Nga – Trung chống
lại Mỹ trong vấn đề Syri đang manh nha nguy cơ hình thành một kiểu trục
Nga – Trung trong những tình huống nhất định...
Những
hệ quả của sự hiệp đồng Nga - Trung như vậy đang trở thành thách thức trực tiếp
đến vị thế siêu cường hiện nay của Mỹ, kể cả ở Liên hiệp quốc. Tâp trận chung hải quân Nga – Trung Quốc thượng
tuần tháng 04-2013 tại Hoàng Hải cho thấy như vậy. [Nhưng
ngay sau đó tại Quân khu phía Đông (bao gồm vùng Viễn Đông và một phần Syberia),
Nga đã tiến hành tập trận lớn chưa từng có trên bộ (vùng giáp ranh với Trung Quốc),
bao gồm cả việc diễn tập trên biển tại vùng đảo Sakhalin. Cuộc tập trận lớn này
của Nga có lực lượng thủy, lục, không quân với 10 vạn lính tham gia, có sự thị
sát của tổng thống Putin. Giới nghiên cứu cho rằng: Tập trận của Nga trên bộ là
nhằm răn đe Trung Quốc đang muốn dòm ngó vùng Viễn Đông, còn tập trận tại vùng
đảo Sakhalin là nhằm cảnh báo Mỹ và Nhật.]
Một
số người trong giới nghiên cứu Mỹ cân nhắc trên nhiều phương diện và đi tới kết
luận:
Có lẽ Trung Quốc, chứ không phải Mỹ, mới là sự uy hiếp hiện hữu lớn nhất hiện
nay đối với Nga. Họ tính toán xem có cách nào tận dụng thực tế này thúc
đẩy quan hệ Mỹ - Nga được không?
Trong
khi đó cũng ở Mỹ lại có ý kiến ngược hẳn lại: Nhìn vào chính
sách của Nga trong vấn đề Syrie, vào thái độ của Nga rắn lên đối với Mỹ và một
số nước phương Tây trong nhiều vấn đề kinh tế và chính trị, gần đây lại thêm vụ
E. Snowden.., vào các sự việc như đang dấy lên hoài bão làm sống lại sự huy
hoàng của Nga qua các thời Sa hoàng, thời Stalin… phải chăng Nga đang tìm kiếm
một liên minh nào đó với Trung Quốc và thế giới đạo Hồi, với mục tiêu mau chóng
lấy lại vị thế đã từng có dưới thời Liên Xô và chống trả ảnh hưởng của Mỹ -
phương Tây? Chú ý: Một số nhà báo
Nga và phương Tây nhìn nhận Putin như một sa hoàng mới giấu mình.
Đối
với thế giới Ả-rập, vấn đề đạo Hồi, vấn đề chống khủng bố…:
Sau chiến tranh Iraq và Afghanistan, Mỹ dưới thời Obama rất thận trọng trước những
diễn biến ở các nước Bắc Phi, nhất là trong việc đưa quân đội thực hiện can thiệp
trực tiếp. Có nhiều nguyên nhân cho sự thận trọng mới này. Nguyên nhân chủ yếu
có lẽ ở chỗ: Sự nổi dậy của các nước Ả-rập Bắc Phi trước hết vì những lý do bị
bần cùng hóa về kinh tế, chứ không phải khát vọng dân chủ là chủ yếu; đã thế xã
hội các quốc gia Ả-rập này chia rẽ sâu sắc về tôn giáo, sắc tộc và phe nhóm
hình như không một khát vọng dân chủ hay một thể chế dân chủ nào có thể vượt
qua được. Những diễn biến tại các quốc gia này còn cho thấy Mỹ và phương Tây
không thể gửi gắm vào bất kể một lực lượng, phe nhóm hay sắc tộc nào… Iraq và
Afghanistan đã chứng minh là như thế, bây giờ lại có thêm Ai-cập là như thế.
Với
sự dính líu của Trung Quốc vào những quốc gia Ả-rập này, tình hình còn trở nên
phức tạp hơn (đã lộ ra trong những vụ việc có liên quan đến Syri, Pakistan,
Afghanistan...). Không phải ngẫu nhiên cuối cùng Mỹ phải tìm cách xúc tiến đàm
phán trực tiếp với Taliban tại Afghanistan, vì chính quyền Karzai quá tham
nhũng và bất lực, tất nhiên tổng thống Karzai rất phẫn nộ…
Việc
vũ khí hóa học được sử dụng trong nội chiến ở Syri (phương Tây khẳng định thủ
phạm là chính quyền Assad) đặt Mỹ và phương Tây trước sự lựa chọn khó khăn.
Song phức tạp hơn thế là khả năng Nga và Trung Quốc muốn cùng nhau vận động thế
giới đạo Hồi chống lại mọi quyết định của Mỹ và phương Tây và cản trở HĐBA LHQ
có quyết định về vấn đề nhạy cảm này. Trên thực tế, ngoài chuyện vấn đề Syrie
trước hết là của Syrie còn có vấn đề đây là địa bàn tranh chấp một bên là Mỹ và
phương Tây, một bên là Nga-Trung và thế giới đạo Hồi. Nhìn theo góc độ này,
Syrie đang rơi vào số phận nước bên thứ ba. Tình hình chứa đựng
một nguy cơ khủng hoảng lớn có ảnh hưởng lan ra ngoài khu vực.
Vấn
đề hạt nhân của Iran ngày
càng nóng và bế tắc, sự phản ứng rất quyết liệt để tự vệ của Israel trước nguy
cơ này (bao gồm cả tuyên bố sẵn sàng đánh đòn phủ đầu) càng như đổ thêm dầu vào
lửa. Dứt khoát Mỹ không thể bỏ rơi Israel. Nhưng cũng dứt khoát Mỹ không thể chấp
nhận để vấn đề hạt nhân (bao gồm cả khả năng hay nguy cơ sản xuất vũ khí A) của
Iran vượt ra ngoài sự kiểm soát… Hiện nay Mỹ đang thúc đẩy hòa đàm Israel –
Palestin, đồng thời đang tìm kiếm khả năng lôi kéo Iran vào một sự hợp tác hòa
bình nào đó và đang ra sức khai thác việc tổng thống Hassan Rowhani thuộc phe
ôn hòa ở Iran thắng cử...
Vấn
đề chống khủng bố có chiều hướng tích tụ thêm những
hiện tượng phức tạp mới, đặc biệt do nguyên nhân buôn bán lậu vũ khí, mối nguy tán
phát vũ khí A hay công nghệ quân sự cao qua đường buôn lậu, hoặc qua các con đường
chính trị khác rơi vào tay các lực lượng khủng bố… Vừa qua quân khủng bố đã phá
9 nhà tù tại các nước Đông và Bắc Phi, tại Pakistan.., hàng trăm phần tử khủng
bố Al Qeada đã trốn thoát, nguy cơ khủng bố có thể bùng nổ trở lại, Mỹ có lúc đã
buộc phải tạm đóng cửa 19 đại sứ quán trong vùng này…
Vấn
đề Biển Đông: Như đã trình bày trên, Biển Đông là một
trọng tâm của chiến lược “trục xoay”. Lập trường của Mỹ là không chấp nhận đường
lưỡi bò, đòi phải bảo đảm lưu thông hàng hải tự do, phản đối giải pháp
vũ lực, đòi mọi tranh chấp biển đảo phải được giải quyết bằng thương lượng đa
phương theo luật pháp quốc tế. Tuy nhiên Mỹ tuyên bố không can thiệp trực tiếp
vào giải quyết tranh chấp biển đảo giữa các nước trong khu vực, quan điểm này
không cản trở Mỹ giúp các đồng minh của mình theo thỏa thuận hợp tác song
phương về quốc phòng.
Trước
tình hình Trung Quốc chiếm bãi cạn gần Scarborough / Hoàng Nham (2011 – 2012)
và còn lăm le mở rộng lấn chiếm nữa, Philipines và Mỹ tăng cường hợp tác quân sự
với nhau trong khung khổ ký kết hiện có giữa hai nước, đang xúc tiến đàm phán để
Mỹ trở lại căn cứ Subic và Clark dưới dạng nào đó. Mỹ ủng hộ DOC và thúc giục
phải sớm hoàn thành COC.
Vấn
đề Đài Loan: Đây là chiến hạm không bao giờ chìm
của Mỹ trên Thái Bình Dương án ngữ trước mặt Trung Quốc (Douglas MacAuthur). Vì
khác nhau về chế độ chính trị, trong một thời gian nhất định khó có thể xảy ra
khả năng Đài Loan hòa bình thống nhất hay trở về với Trung Quốc đại lục; trong
khi đó Trung Quốc dứt khoát bác bỏ quan điểm 2 Trung Quốc.
Trong
giới nghiên cứu Mỹ hiện nay có mối lo ngại: Mối quan hệ kinh tế Đài Loan -
Trung Quốc ngày càng lớn và mật thiết sẽ có thể gây ra những biến đổi gì? Hiện
nay 2/3 số công ty của Đài Loan đang đầu tư vào Trung Quốc hay kinh doanh với đại
lục, mỗi tuần có 270 chuyến bay giữa hai bờ. Trung Quốc hiện nay là khách hàng
số 1 về xuất khẩu của Đài Loan, khách hàng nhập khẩu số 2 của Đài Loan. Hiện
nay mỗi năm Đài Loan có trên nửa triệu khách du lịch đến từ đại lục, và khoảng
750.000 người Đài Loan vào sống 6 tháng trên đại lục. Nói khái quát, ngày nay
60 – 70% kinh tế Đài Loan là làm ăn với đại lục. Mọi tác động qua lại giữa hai
bờ không hề hấn gì đối với sức mạnh của thể chế chính trị ở đại lục, nhưng cũng
không thể kéo Đài Loan về chung sống dưới một mái nhà Trung Quốc… (Tình hình
quan hệ giữa đại lục và Hongkong, giữa đại lục và Macao cũng tương tự).
Tuy
nhiên, nên xem xét một giả thiết khác: Với những diễn biến nhất định
nào đó (trong đó có sự suy yếu tiếp tục của Mỹ, hoặc giả định là Trung Quốc
thay đổi chiến lược và có sự nhân nhượng nào đó đối với Đài Loan…) dẫn tới một
tình huống cho phép xảy ra kịch bản một “liên bang Trung Quốc”, trong đó Đài
Loan là một bang (giả thử với những quyền tự trị rất cao) và cùng đứng chung với
đại lục dưới ngọn cờ Đại Hán thì sao? Bước đệm cho kịch bản này đã có sẵn rồi –
đấy là quan điểm “một Trung Quốc hai chế độ” đang dành cho việc duy trì thể chế của
Hongkong và Macao.
Trong
một “liên bang” như vậy, cái mà Đài Loan sẽ nhận được là (a)mối nguy bị thôn
tính từ phía đại lục sẽ không còn nữa, và (b)kinh doanh trên đại lục càng béo bở;
cái Đài Loan sẽ mất là (a)bản thân mình không còn là một “chiến hạm không bao
giờ chìm” của Mỹ nữa. Và trong một tình huống như thế, chắc gì Đài Loan muốn
đóng vai trò là chiến hạm không bao giờ chìm của Mỹ? Việc Đài Loan đánh chiếm một
số đảo của Việt Nam ở Hoàng Sa và đứng cùng một chiến tuyến với Trung Quốc trên
Biển Đông trong một số vấn đề quan trọng cho thấy máu Đại Hán cũng tiềm tàng
trong cơ thể Đài loan.
Giả
thiết về một liên bang Trung Quốc như thế có thể còn rất xa vời. Nhưng trong
tham vọng chính trị của cường quốc, có điều gì là không muốn, không dám?..
Xin
lưu ý: Trong tình huống nhất định (ví dụ: xảy
ra khủng hoảng mới ở Trung Đông, trong thế giới đạo Hồi, trong lòng nội địa
Trung Quốc.., hoặc trục Nga – Trung công khai xuất hiện…)., và một khi (1)sự
tha hóa các giá trị của Đài Loan, (2)sức ép + sự quyến rũ (cái roi và củ cà-rốt)
của đại lục, (3)cộng hưởng với sự suy yếu của Mỹ đạt tới một điểm nào đó, việc
xảy ra khả năng đại lục chớp thời cơ tạo lập một “liên bang Trung Quốc” sắc
thái Đại Hán có thể không hẳn là chuyện của khoa học viễn tưởng.
Một
“liên bang Trung Quốc” sắc thái Đại Hán như thế, sẽ hệ lụy ra sao đối với
(a)các nước Đông Nam Á, (b)so sánh lực lượng và mối tương quan giữa các cường
quốc hữu quan: Mỹ, Nhật, Nga, Ấn-độ, sự
tập hợp lực lượng mới… (c)toàn bộ hệ thống liên minh quân sự của Mỹ ở CA-TBD?
Xin
lưu ý: Có không ít ý kiến cho rằng sự khác
nhau về hệ thống chính trị giữa môt bên là Trung Quốc đại lục và một bên là các
thực thể lãnh thổ Trung Quốc như Đài Loan, Macao, Hongkong là rất lớn. Do đó có thể loại trừ khả năng có một Trung Quốc
thống nhất, dù là dưới dạng liên bang.
Liệu suy nghĩ này có thể đứng vững trong tình huống giả thiết nêu trên?
Thực tế những thập niên vừa qua cho thấy sự khác biệt
về chế độ chính trị không ảnh hưởng đến quá trình phát triển tiếp tục các mối
quan hệ giữa đại lục và các thực thể Trung Quốc khác. Thậm chí, với bản chất là
chủ
nghĩa tư bản trong chế độ toàn trị một đảng đặc sắc Trung Quốc, khoảng
không gian của đại lục dành cho các mối quan hệ hợp tác và liên kết với các thực
thể lãnh thổ Trung Quốc này đang ngày càng mở rộng mà không bên nào phải thay đổi
thể chế của mình.
Một
khía cạnh khác: Trong giới chuyên gia quân sự Mỹ
có ý kiến lo ngại từ năm 2020 trở đi khả năng của Mỹ bảo vệ Đài Loan có thể sẽ ngày càng giảm. Không loại trừ tình huống đến
lúc nào đó và trong những điều kiện nhất định, đại lục có thể thống nhất Đài
Loan bằng vũ lực - (theo Kaplan, dựa vào nghiên cứu của RAND[16])…
Điều gì sẽ xảy ra nếu mối lo này thành hiện thực? Rồi phản ứng dây chuyền của sự
đổ vỡ này đối với toàn khu vực Châu Á – Thái bình Dương?.. Đã có ý kiến đề xuất
từ RAND: Đối sách của Mỹ có thể là phải bằng mọi cách kéo dài tình trạng hiện
thời của Đài Loan cho đến khi có một sự phát triển dân chủ hơn xảy ra ở đại lục
Trung Quốc…[17] Lại
thêm một ảo tưởng nữa?
Vấn
đề Đài Loan như vừa trình bầy, tự nó góp phần làm rõ thêm sự bức thiết của chiến
lược “trục xoay” và việc Mỹ quay lại CA – TBD. (Thực tế này tăng thêm
mối nguy Trung Quốc cho Việt Nam).
Tuy
nhiên, Trung Quốc sẽ phát triển như thế nào và có thể hành động gì? – thiết
nghĩ còn rất nhiều ẩn số ở phía trước. Mỹ cũng có danh mục khá dài các biện
pháp đơn phương, đa phương, tổng hợp… để khống chế Trung Quốc khi tình hình đòi
hỏi.
Có
thể rút ra kết luận về Mỹ:
Nhìn
tương quan lực lực lượng toàn cầu và xu thế vận động hiện nay của thế giới, có
thể đánh giá: Chí ít cho đến giữa thế kỷ 21, Mỹ vẫn là siêu cường duy nhất, vị
thế này là không thể thách thức.
1. Quá trình phạm vi ảnh hưởng của siêu cường Mỹ “đang
nhỏ dần đi” là không thể cưỡng lại. Trong khi đó Mỹ vẫn chưa ra khỏi được nhiều vấn đề tồn tại
lâu nay (trong đó có các vấn đề Iraq, Afghanistan, vấn đề các nước Bắc Phi, vấn
đề Israel - Palestin…). Đồng thời nhiều vấn đề gai góc khác tiếp tục nóng lên (vấn
đề nguy cơ vũ khí A của Iran và Băc Triều Tiên, vấn đề khủng bố, quan hệ NATO –
Nga, quan hệ Mỹ - Nga, hiện nay xuất hiện thêm vấn đề Snowden với cả thế giới,
vấn đề vũ khí hóa học đã được sử dụng ở Syri…). Trong bối cảnh đó từ hơn một thập
kỷ nay sự vận động của siêu cường đang lên Trung Quốc tiềm tàng nguy cơ xáo trộn
trật tự quốc tế hiện thời, thách thức trực tiếp nhất vị thế siêu cường của Mỹ,
buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược toàn cầu của mình.
2. Song trong cục diện quốc tế hiện tại một siêu đa cường,
Mỹ và đồng minh / liên minh vẫn giữ vai trò chi phối – trong nhiều trường
hợp là vai trò quyết định – đối với diễn tiến hay giải pháp của hầu hết mọi vấn
đề toàn cầu hay khu vực, của mọi thách thức truyền thống hay phi truyền thống.
Về nhiều mặt đồng minh / liên minh Mỹ -
phương Tây còn là lực lượng dẫn dắt trào lưu và xu thế phát triển của thế giới
(trào lưu của văn minh nhân loại, của tự do dân chủ, sự phát triển của khoa học
và công nghệ…). Trong mối liên kết đồng minh / liên minh này, với phương thức tập
hợp lực lượng thông qua ngọn cờ dân chủ - nhân quyền và những giá trị toàn cầu
khác, Mỹ có vai trò nổi bật. Toàn bộ thực tế này trong tình hình mới khách quan
bù đắp lại đáng kể những hao mòn vị thế xảy ra trong quá trình “đang nhỏ đi” của
siêu cường Mỹ.
3. Thay đổi triệt để nhằm tạo mọi khả năng tiếp tục giữ vị
thế quyết định toàn cầu và đồng thời nắm lấy vai trò đi đầu trào lưu phát triển
của thế giới với phương thức tập hợp lượng mới, đấy chính là con đường phát triển
Mỹ lựa chọn để duy trì và tiếp tục phát huy vị thế siêu cường của mình, qua đó
tác động vào cục diện thế giới.
4. Thách thức lớn nhất đối với Mỹ có lẽ chính là vấn đề:
Thể chế chính trị Mỹ liệu có đủ sức kham nổi những thay đổi không ít đau đớn
trong mọi lĩnh vực kinh tế, nội trị, quốc phòng, đối ngoại.., để cùng với cả thế
giới phương Tây tiếp tục phát huy ảnh hưởng có lợi cho cục diện quốc tế chung
hay không?[18]. Không ít kinh nghiệm lịch sử nước Mỹ cho thấy mỗi
thách thức mới được Mỹ đáp lại bằng những
nỗ lực tạo ra một bước tiến mới.
5.
Bù lại vị thế
siêu cường của mình đang nhỏ dần đi, Mỹ quan tâm đẩy mạnh tập hợp lực lượng
chung quanh những giá trị toàn cầu. Thực tế này khách quan có lợi cho việc mở rộng
quan hệ hợp tác với Mỹ như một đối trọng có ý nghĩa quyết định cho việc xử lý ảnh
hưởng bành trướng của Trung Quốc.
IV
– Trung Quốc trở thành vấn đề của cả thế giới
Trong
vòng hơn một thập kỷ nay, nhất là từ khi vứt bỏ khẩu hiệu “trỗi dạy hòa bình”,
Trung Quốc trong lời nói cũng như hành động, ngày càng biểu lộ công khai khát vọng
siêu cường của mình. Cũng trong khoảng thời gian này, trên thế giới, nhất là ở
Mỹ, ngày càng nhiều công trình nghiên cứu, sách báo… cảnh báo thế giới những vấn
đề siêu cường đang lên Trung Quốc đang đặt ra cho cả thế giới[19].
Về
kinh tế
So
với khi tiến hành cải cách năm 1978, kinh tế Trung Quốc hiện nay tăng khoảng 30
- 35 lần (về quy mô GDP). Hãy hình dung về tốc độ: Năm 1990 kinh tế TQ đạt GDP
tính theo đầu người là 350 USD; năm 2000 là 1000 USD p.c.; năm 2009 là 3000 USD
p.c. (đây là GDP p.c. danh nghĩa, tính theo thời giá, không phải tính theo sức
mua PPP)... Năm 2020 dự kiến GDP p.c. sẽ đạt 8500 USD; năm 2030 dự kiến 20.000
USD p.c. Tập đoàn Goldman Sachs dự báo GDP kinh tế TQ sẽ vượt Mỹ năm 2041. Hiện
nay Trung Quốc có khoảng 1500 tỷ USD dự trữ ngoại tệ và là chủ nợ của hầu hết
các nước Mỹ và Tây Âu (Trung Quốc nắm giữ 1250 tỷ USD trái phiếu Mỹ)…[20]
Theo IMF, GDP p.c. nominal của Trung Quốc
năm 2012 là 6000 USD (trong khi đó của Mỹ là 49.000 USD, của Thái Lan là 5678
USD, của Việt Nam là 1578 USD), vân vân...
Trước
hết xin đánh giá khái quát: Năm 1978 quy mô kinh tế Trung Quốc chỉ bằng Hà-lan
lúc đó. Ngày nay (nghĩa là trong vòng 35 năm) Trung Quốc trở thành cường quốc
kinh tế thứ 2 trên thế giới.
Cụ
thể là: Năm 1980 GDP của Trung Quốc là 200 tỷ USD, xuất khẩu đạt 18 tỷ USD, năm
2012 GDP đạt 7000 tỷ USD và xuất khẩu đạt 1200 tỷ USD (số tròn). Đây là hiện tượng
chưa từng có trên thế giới.
Về
nguyên nhân thành công, nói ngắn gọn là:
(a) thắng lợi của cải cách chuyển sang thể chế
kinh tế thị trường,
(b) tận dụng tối đa lợi thế quy mô kinh tế
(economics of scales) của địa kinh tế và địa chính trị Trung Quốc – trong đó có
lợi thế quy mô dân số, quy mô thị trường…
(c) khai thác triệt để quá trình toàn cầu hóa của
kinh tế thế giới đi vào thời kỳ rất năng động sau khi chiến tranh lạnh kết
thúc,
(d) động lực Đại Hán với khát vọng lấy lai 5 thế
kỷ bị đánh mất được khai thác triệt để gần như đồng nghĩa với khát vọng dân tộc,
giấc mơ Trung Quốc..,
(e) tầm nhìn rộng, sự tài giỏi, ý chí quyết liệt
và nhất quán vươn lên siêu cường của lãnh đạo Trung Quốc.
Nhìn
theo những giá trị và những tiêu chí kinh điển của chủ nghĩa xã hội (như vẫn
được giảng dậy và tuyên truyền về chủ nghĩa Mác – Lênin, nhất là những tiêu
chí liên quan đến công bằng, tự do dân chủ, nhân văn, bảo vệ môi trường, phúc lợi
xã hội…), không thể coi sự phát triển của Trung Quốc là thành tựu của chủ nghĩa
xã hội. Cũng theo nghĩa kinh điển này, không thể coi nền kinh tế Trung Quốc là
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Học giả
Trung Quốc Minxin Pei – được tạp chí “Prospect” của
Anh xếp hạng là một trong 100 trí thức nổi tiếng, đánh giá chế độ chính trị
Trung Quốc: …Đấy là một thể chế trục lợi và phân phối khổng
lồ (a giant institution
of rent seeking and distribution). Các tầng lớp cầm quyền
đã học cách sống cùng nhau không phải bằng sự chia sẻ niềm tin, các giá trị,
hoặc các quy định, nhưng bằng cách chia nhau chiến lợi phẩm của phát triển kinh
tế…[21]
Bên
cạnh những mất cân đối vỹ mô ngày càng gia tăng trong kinh tế (bao gồm cả những
vấn đề liên quan đến dân số), một loạt các vấn đề nóng bỏng trong nội trị Trung
Quốc cũng tăng theo sự phát triển của Trung Quốc: (1)chênh lệch giầu nghèo rất
lớn, bất công xã hội gay gắt[22];
(2)tham nhũng và tội phạm xã hội trầm trọng làm cho xung đột xã hội ngày càng
khó kiểm soát, (3)ô nhiễm môi trường nặng nề, (4)đàn áp các sắc tộc (tại các
vùng Tân Cương, Tây Tạng, Nội Mông…), (5)chế
độ toàn trị tước đoạt gắt gao các quyền tự do dân chủ của dân…
Bản
thân lãnh đạo Trung Quốc đưa ra lý thuyết chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc
để lý giải và biện minh cho sự phát triển không bình thường và gần như bằng
bất kỳ giá nào của Trung Quốc. Nếu phải diễn tả bản chất sự phát triển đang
diễn ra của Trung Quốc dưới một tên gọi, có lẽ đấy là: chủ nghĩa tư bản của chế độ toàn
trị một đảng đặc sắc Trung Quốc.
Từ
hàng chục năm nay trên thế giới có không biết bao nhiêu cảnh báo và dự đoán về
nguy cơ sụp đổ của nền kinh tế quá nóng của Trung Quốc. Những cảnh báo và dự
đoán này đưa ra rất nhiều chứng cứ và số liệu thuyết phục. Nhưng các dự báo đều
chưa xảy ra, vì bản thân Trung Quốc là một thế giới cho chính nó (sẽ bàn tới dưới
đây). Dẫn chứng là một thập kỷ nay, kinh tế thế giới đi vào khủng hoảng sâu sắc
có tính cơ cấu, tác động khốn khổ đến hầu hết mọi nước, Trung Quốc cũng không
được miễn trừ. Tuy nhiên, suốt thập kỷ vừa qua và hiện tại kinh tế Trung Quốc vẫn
có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trong hàng ngũ các cường quốc kinh tế.
Trung Quốc hiện nay vẫn giữ được GDP tăng khoảng 7 – 8% p.a. (trong khi các cường
quốc kinh tế thường là 1 – 2%). Trong một hai thập kỷ tới tăng trưởng GDP của
Trung Quốc được dự báo là 5 hoặc 6% p.a. (vẫn có một số dự báo là từ 7 – 8%),
điều mà các nền kinh tế Mỹ và phương Tây không thể làm được.
Có
3 nguyên nhân chính khiến cho hiện tượng Trung Quốc còn có thể kéo
dài một vài thập kỷ tới, đó là:
(1)dư
địa cho phát triển của lợi thế quy mô kinh tế (economics of scales) của Trung
Quốc còn khá lớn, bản thân Trung Quốc là một thế giới cho chính mình;
(2)Trung Quốc còn có thể tiếp tục khai
thác, tận dụng tốt quá trình toàn cầu
hóa kinh tế thế giới đang diễn ra;
(3)vì
là một thế giới cho chính mình, nên Trung Quốc có khả năng lớn vận dụng phương
thức “hy sinh vấn đề cục bộ để giải quyết vấn đề toàn cục” khi tình
hình đòi hỏi.
Hiện
tượng Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới (dự báo là khoảng
giữa thế kỷ này) là một thực tế khách quan, với mọi hệ lụy thế giới phải đối mặt.
Bàn
thêm về hiện tượng Trung Quốc là một thế giới cho chính nó:
Thông
thường trong phát triển kinh tế, mọi mất cân đối về bất kỳ phương diện nào và
vì bất kỳ lý do gì, đều có thể dẫn tới khủng hoảng và sụp đổ. Quy luật thép này
cũng không lọai trừ Trung Quốc.
Nhưng
nhìn lại chúng ta thấy: Hàng thập kỷ liên tiếp, Trung Quốc đã hy sinh hoàn toàn
sự phát triển của phía Tây – bất chấp phải trả giá như thế nào, để dồn mọi nguồn
lực của cả nước và mọi cơ hội cho phát triển phía Đông, đặc biệt là toàn vùng
duyên hải. Mọi mâu thuẫn xã hội, khi cần thiết thì được giải quyết bằng vũ lực
với mọi giá, điển hình là vụ tàn sát ở Thiên An Môn 1989. Hiện nay các vụ đàn
áp ở Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông vẫn tiếp tục (tại những vùng này nhiều nơi
người người Hán có tỷ lệ cao gấp đôi người các dân tộc địa phương tại chỗ, có
hiện tượng đồng hóa…), chưa kể đến mỗi năm có hàng vạn vụ đàn áp sự phản kháng
của nông dân liên quan đến vấn đề đất đai… (Chú ý: Trước cải cách đã xảy ra thảm
kịch tàn sát trong cách mạng văn hóa khắp Trung Hoa, cướp đi hàng chục triệu
sinh mạng).
Mọi
cảnh báo hiện nay về phát triển kinh tế Trung Quốc được giới nghiên cứu nêu lên
– ví dụ: nợ công các địa phương đã chiếm tới
khoảng 30% GDP cả nước, nguy cơ đổ vỡ của hệ thống ngân hàng, nguy cơ đổ
vỡ của kinh tế bong bóng bất động sản, nguy cơ không thể cứu vãn về ô nhiễm môi
trường, nguy cơ dân số lão hóa nhanh chóng vì chế độ 1 gia đình / 1 con, vân
vân… - nói chung là xác đáng.
Song
(a)vận dụng phương thức “mục tiêu biện minh cho biện pháp”, (b)
vận dụng cách tiếp cận “trả giá bộ phận để thực hiện mục tiêu toàn cục”
trong những điều kiện đặc thù của quy mô
kinh tế Trung Quốc với nghĩa Trung Quốc là một thế giới cho chính nó, rõ ràng
trong những thập kỷ vừa qua Trung Quốc đã chứng minh một cách thuyết phục khả
năng phi thường của nó trong việc “tiêu hóa” các cuộc khủng hoảng.
Ví dụ 1: Nguy cơ đổ vỡ của kinh tế TQ là nợ công, là yếu
kém của ngành ngân hàng… Đấy là những nguy cơ
hoàn toàn xác thực, ở mức độ như đang xảy ra tại Trung Quốc chắc chắn
khó một nước nước phương Tây nào – kể cả Mỹ - có thể chống đỡ nổi. Song Trung
Quốc có thể và đang chống đỡ được, vì nó có 1500 tỷ USD dự trữ, với cách tiếp cận
“muc
tiêu biện minh cho biện pháp”, với quan điểm “trả giá cục bộ để thực hiện mục
tiêu toàn cục”…
Ví
dụ 2: Chế độ chính trị Trung Quốc coi kinh tế
quốc doanh là chủ thể (hay chủ lực, họ không nói “chủ đạo”), chiếm tới 25% GDP.
Nhưng trên thực tế kinh tế quốc doanh của Trung Quốc hiện nay chỉ còn lại các tập
đoàn lớn; quy mô của chúng khá lớn. Không
ít tập đoàn này còn lớn hơn các tập đoàn kinh tế của Nhật hay Mỹ… Những năm gần
đây xuất hiện ngày một nhiều tập đoàn kinh tế quốc doanh của Trung Quốc đứng
trong top 100 của thế giới; tất cả đều kinh doanh theo cơ chế thị trường như tại
các nước công nghiệp phát triển. Các tập đoàn kinh tế quốc doanh Trung Quốc cạnh
tranh với nhau quyết liệt không kém cạnh tranh với nước ngoài, chưa nói đến những
chi phối chính trị khác của nội trị Trung Quốc, tệ nạn tham nhũng lớn nhất cũng
diễn ra trong khu vực này… Có thể nói đấy là các tập đoàn kinh tế tư bản nhà nước
đặc sắc Trung Quốc, vận hành trong khung khổ thể chế kiếm lợi –
phân phối khổng lồ - như Minxin Pei đã phân tích. Thực tế này cũng toát lên nội
dung cơ bản của toàn bộ quá trình cải cách tiếp tục của Trung Quốc đang diễn ra
và sẽ tiếp tục diễn ra trong lĩnh vực kinh tế.
Vân vân…
Khoảng một thập kỷ nay
TQ không còn thời kỳ tăng trưởng 2 con số nữa.
Với mục tiêu “nước
giầu quân mạnh”, Đại hội 18 của ĐCSTQ đã đề ra nhiều cải cách quyết
liệt về cơ cấu kinh tế, trong đó chú trọng phát triển cơ cấu đầu tư theo hướng
tăng sức mua nội địa, cải tiến hệ điều hành - nhất là hệ thống tài chính – tiền
tệ, song vẫn chưa tự do hóa đồng Nhân dân tệ (để bảo đảm khả năng kiểm soát của
nhà nước và giữ lợi thế trong xuất khẩu).
Về đối ngoai, Đại hội 18 nêu ra đòi hỏi thiết lập quan hệ nước lớn kiểu mới – hàm
ý không thừa nhận trật tự quốc tế một siêu đa cường… (Dương Danh Dy).
Trong những quyết định
của Đại hội 18 về đổi mới cơ cấu kinh tế để tăng sức mua nội địa, nổi bật là kế hoạch từ nay
đến năm 2030 đưa 250 triệu dân vào sống trong đô thị (chiến lược đô thị hóa).
Đây là quyết định đầy tham vọng, một trong các khâu chủ chốt trong thực hiện mục
đích duy trì tăng trưởng kinh tế 6 – 7%/năm trở lên. Chủ trương này nhằm thực
hiện 3 mục tiêu lớn: (a)duy trì ổn định ở mức có thể của nội trị Trung Quốc –
bao gồm cả vấn đề kiềm chế thất nghiệp, (b)duy trì tính chính danh vai trò lãnh
đạo của ĐCSTQ, (c)duy trì tiến độ trở thành siêu cường vào khoảng giữa thế kỷ.
Không có một mục tiêu
hay một kế hoạch kinh tế nào Đại hội 18 đề ra là dễ khả thi, không có một vấn
nạn kinh tế nào của Trung Quốc là dễ giải quyết.
Ví dụ 1: Quyết định đẩy mạnh
đô thị hóa với cái đích từ nay đến năm 2030 đưa 250 triệu dân nông thôn vào
thành phố có thể được xem như một nỗ lực quyết liệt “sống hay là chết!?”. Có lẽ đây là gói “kích cầu” vỹ đại nhất trong
lịch sử kinh tế thế giới. Quyết định táo bạo này có thể đúng, với nghĩa công
nghiệp hóa phải gắn liền với đô thị hóa. Quyết định này được đưa ra giữa lúc
nơi này nơi khác bong bóng thị trường bất động sản đã nổ tung, nợ công của
Trung Quốc vượt quá 30 GDP (một số nghiên cứu độc lập cho là khoảng 60 GDP)…
Gần đây Kiểm toán Trung Quốc đã công bố riêng nợ công của các chính quyền địa
phương hiện nay đã vượt 1700 tỷ USD – tương đương với 29% GDP, chủ yếu do đầu
cơ thua lỗ vào thị trường bất động sản... Vậy phải đặt ra câu hỏi: Thực hiện gói
kích cầu vỹ đại này bằng con đường nào? cái giá phải trả?.. Phải chăng với
quyết định đô thị hóa này, Trung Quốc thời Tập Cẩm Bình - Lý Khắc Cường đã lựa
chọn phương châm “phải liều chết tiến lên phía
trước”? Nếu sự thật là như thế, phải nói đây là một quyết định đáng
kính nể và đáng gờm của tầm nhìn Trung Quốc theo tinh thần “mục
tiêu biện minh cho biện pháp”. Chắc bây giờ nhiều người còn nhớ cách
Trung Quốc thời Mao Trạch Đông đã chủ trương làm gang thép vượt thế giới. Nhìn
lại, phải thừa nhận việc thực hiện giấc mơ gang thép hồi ấy là một khát vọng
điên cuồng, và đã thất bại như một trò đùa chính trị cao thủ. Còn kế hoạch đô
thị hóa khổng lồ này? [23].
Ví dụ 2: Vấn nạn ô nhiễm môi
trường không thể khắc phục, cả nước hầu như không còn một con sông nào sạch,
nhiều đô thị lớn không khí như sương mù... Song Đại hội 18 ưu tiên duy trì tốc
độ tăng trưởng cao để giữ ổn định và để không chùn bước trên con đường siêu
cường. ĐCSTQ coi đây mới là điều sống
còn, chứ không phải vấn đề môi trường!
Hai ví dụ vừa nêu trên
một lần nữa cho thấy:
(a)Trung Quốc là một
thế giới cho chính mình, nên có thể có những quyết định mà ở các nước khác là
không thể;
(b) “mục
tiêu biện minh cho biện pháp”, và “trả giá cục bộ để thực hiện mục tiêu toàn
cục” là cách hành xử nhất quán của lãnh đạo Trung Quốc cho mọi nơi, mọi
lúc, và trong mọi vấn đề;
Vân vân…
Tìm hiểu Trung Quốc, có
2 điều không nên bỏ qua là: (1)Trung Quốc trả giá đến đâu và như thế nào cho sự
phát triển với những quyết định kiểu liều chết tiến lên phía trước của nó? (2)Toàn
thế giới còn lại phải trả giá theo đến đâu và như thế nào?
Các nước phải tính
toán như vậy, bởi vì hầu như chắc chắn Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế có
quy mô GDP lớn nhất thế giới vào giữa thế kỷ này, sẽ tác động đến cả thế giới…
Tác động đối với thế
giới về địa kinh tế: Có thể nói sự phát triển có một không hai trên thế giới của
Trung Quốc trong những thập kỷ vừa qua là một trong những hiện tượng quan trọng
nhất tác động vào kinh tế toàn cầu[24].
Trước hết Trung Quốc
trở thành nước nhập khẩu lớn nhất thế giới về mọi nguyên liệu thiết yếu trong
các nhóm kim loại, năng lượng, các vật liệu khác... Hiện tượng này diễn ra
quyết liệt và bằng mọi giá hầu như ở mọi vùng nguyên liệu quan trọng trên thế
giới, được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn tinh vi. Thực tế này khiến cho trong
giới nghiên cứu xuất hiện các thuật ngữ như “chủ nghĩa thực dân mới kiểu Trung
Quốc” (“chinese neo-colonialism”), “chủ nghĩa thực dân mới của quyền
lực mềm” (neo-colonialism of soft power)… Phương thức thực hiện “chủ
nghĩa thực dân mới” này là đầu tư, thương mại, viện trợ, lũng đoạn nước chủ nhà
bằng mọi thủ đoạn tham nhũng… Không ít các chính khách tại một số nước ở châu
Phi, châu Mỹ Latinh công khai ca ngợi: Viện
trợ của Trung Quốc không xét nét chế độ chính trị độc tài hay tham nhũng của
nước chủ nhà, không quan tâm nước chủ nhà có những vấn đề như đàn áp sắc tộc,
phạm tội hủy diệt, tội hủy hoại môi trường, thuộc phe phái nào, vân vân.., không
đòi hỏi những điều kiện kèm theo về dân chủ, nhân quyền, bảo vệ môi trường,
thực hiện công khai minh bạch… như các nước phương Tây thường coi là những tiêu
chí để quyết định viện trợ...
Giới báo chí đã tổng
kết thực tiễn hoạt động của Trung Quốc: cái
gì trong làm ăn thông thường không đạt được thì mua, không mua được thì mua
bằng nhiều tiền hơn nữa… “Chủ nghĩa thực dân mới cực đoan”, “chủ
nghĩa thực dân con rồng” (R. Kaplan, P. Navarro…) không có các chính
quyền thực dân mới của mình tại bất kỳ quốc gia đối tác nào, nhưng có ảnh hưởng
của tiền và quyền lực mềm, có không hiếm các đội quân lao động người Trung Quốc
ở thành làng, thành vùng tại những vùng nguyên liệu có khai trường lớn – trước
hết ở châu Phi, một số nơi ở châu Mỹ Latinh, Trung Á, Đông Nam Á... Sự xuất
hiện những đốm dân cư Trung Quốc như thế gây nhiều hậu quả cho các nước chủ nhà
(nội trị bị xáo trộn, xuất hiện những xung đột xã hội mới, thất nghiệp của nước
chủ nhà gia tăng, những lũng đoạn về chính trị đối ngoại, tại một vài nơi ở
châu Phi đã bắt đầu ngán lao động Trung Quốc…)[25]… Chưa nói đến việc Trung
Quốc hàng năm thải ra khối lượng CO2 lớn nhất thế giới, nhưng đang thoái thác
nghĩa vụ của mình… Ngay tại Nam Mỹ, sân sau của siêu cường Mỹ, ảnh hưởng của
Trung Quốc khiến tâm lý chống Mỹ tăng lên rõ rệt tại những nước “cánh tả”...
Trong những nỗ lực này còn phải kể đến việc Trung Quốc đang ra sức khai thác
diễn đàn BRICS, diễn đàn Bác Ngao, vân vân…[26]
Trung Quốc trở thành
nước xuất khẩu lớn nhất thế giới các mặt hàng xưa nay vốn là các mặt hàng
truyền thống của các nước đang phát triển, bóp chết nhiều ngành công nghiệp của
những nước này. Song hàng xuất khẩu của Trung Quốc cũng xóa sổ không ít thành
thị hay các trung tâm sản xuất nhiều mặt hàng truyền thống khác của hầu hết các
nước phát triển – kể cả ở Mỹ[27].
Từ vài thập kỷ nay, việc các nước phát triển
hàng năm nhập một khối lượng ngày càng lớn hàng công nghiệp tiêu dùng từ Trung
Quốc và việc những nước này đẩy mạnh việc đưa sang Trung Quốc sản xuất nhiều
lọai mặt hàng để tận dụng chi phí sản xuất thấp (hiện tượng “outsourcing” sang Trung Quốc),
tất cả dần dần đã và đang tạo ra cho những nước phát triển này sự mất cân đối
mới trong cơ cấu kinh tế và trong cấu trúc lực lượng lao động… Sự phụ thuộc này
lớn dần lên đến mức nền kinh tế các nước phát triển này không thể sống thiếu
các hàng công nghiệp tiêu dùng giá rẻ nhập từ Trung Quốc; chưa nói đến Trung
Quốc đồng thời là thị trường xuất khẩu không thể thiếu của các nước phát triển.
Giới nghiên cứu thừa nhận, nếu kinh tế Trung Quốc sóng gió, kinh tế nhiều nước
phát triển sẽ lao đao theo. Những năm gần đây tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chậm
lại, trong đó có nguyên nhân xuất khẩu của Trung Quốc sang các nước phát triển
giảm sút. Toàn cầu hóa là như vậy.
Trung Quốc thuộc loại
siêu giỏi trong viêc vận dụng những thực tiễn (practices) của chủ nghĩa con
buôn (mercantilism)[28], vi phạm nhiều tiêu chí
quan trọng của WTO như bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ, các tiêu chuẩn về chất lượng, các tiêu chuẩn về lao động (trong đó
có vấn đề cấm lao động là trẻ em, lao động là tù nhân), những quy định về về
chống bán phá giá, các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường, vân vân… Ngoài ra Trung Quốc còn có những công cụ lợi
hại khác như điều phối các dòng tiền để lũng đoạn, kiểm soát chặt chẽ tỷ giá
ngoại tệ có lợi cho xuất khẩu của Trung Quốc…
Phản ứng chống lại của
Mỹ và các nước phương Tây nhìn chung chưa đạt hiệu quả mong muốn.
Đã thế, những quốc gia
này đang quá bận rộn với nhiều vấn đề của chính mình, như phải cấu trúc lại
kinh tế, xử lý vấn đề nợ công quá nhạy cảm, tình trạng bấp bênh của đồng Euro,
tăng trưởng kinh tế sụt giảm… Trung Quốc
đang ra sức khai thác những khó khăn này để phân hóa nội bộ phương Tây. Gần
đây, trong chuyến thủ tướng Đức Merkel chính thức thăm Trung Quốc 26-05-2013,
phía Trung Quốc nói thẳng: Trung
Quốc - nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, và Đức - nhân tố chính trong nỗ lực giải
quyết khủng hoảng nợ, cần phải phối hợp để đối phó với bão nợ công châu Âu…
Về địa chính trị: Thời kỳ “trỗi dậy hòa bình, giấu mình chờ thời”
đã lùi lại phía sau, từ hơn một thập kỷ nay siêu cường đang lên Trung Quốc tận
dụng mọi lợi thế và ảnh hưởng kinh tế của mình mở rộng ảnh hưởng chính trị tại
các châu lục và trong những vấn đề lớn của thế giới, song khu vực trọng tâm số 1
là Biển Đông.
Hiện tượng bề ngoài
nổi bật và dễ nhận biết nhất là: Bước sang thế kỷ 21, hoạt động quân sự và
chính trị của Trung Quốc có tính uy hiếp và lấn chiếm trên toàn Biển Đông gia
tăng rõ rệt về tần số vụ việc cũng như về mức độ nghiêm trọng của các hoạt động.
Sang thập kỷ thứ hai của thế kỷ này, những hoạt động này lại càng ráo riết hơn,
trước hết nhằm vào Philippines (vùng Scarborough / Hoàng Nham) và Nhật (đảo
Senkaku / Điếu Ngư). Trong hội đàm kinh tế - chiến lược vòng 5, Tập Cẩm Bình
nói thẳng với Obama: Trung Quốc coi Điếu Ngư / Senkaku là “lợi ích cốt lõi” (Kyodo
11-06-2013)[29].
Sự phản đối của Nhật
và Philippines đã lên tới mức cao nhất về mặt chính trị và chính trị đối ngoại,
đồng thời tuyên bố sẵn sàng đáp trả bằng các biện pháp quân sự nếu Trung Quốc
sử dụng vũ lực. Đỉnh điểm cho đến nay trong phản ứng quyết liệt của Nhật là ban
hành Sách
trắng về quốc phòng và đang vận động trong nước cho thay đổi Hiến pháp
để có những bước đi quyết liệt hơn.
Philippines không thể
chấp nhận lập trường bất di bất dịch của Trung Quốc là “thừa nhận chủ quyền thuộc Trung
Quốc, gác tranh chấp, cùng khai thác”. Yêu sách này của Trung Quốc có
nghĩa là: Cái gì Trung Quốc đã chiếm được trên Biển Đông thì là của Trung Quốc;
cái gì Trung Quốc chưa chiếm được trên Biển Đông thì trước hết phải thừa nhận
là thuộc chủ quyền của Trung Quốc, rồi gác tranh chấp và cùng khai thác! Vì
tiềm lực mọi mặt đều yếu, nên Philippines một mặt kiên quyết đưa vấn đề tranh
chấp ra tòa án quốc tế, mặt khác xúc tiến việc để Mỹ có mặt trở lại về quân sự
trên lãnh thổ của mình để tăng cường quốc phòng.
Các hoạt động của
Trung Quốc uy hiếp hay xâm phạm chủ quyền và lãnh hải Việt Nam không hề giảm so
với thập kỷ trước. Tuy cách tiến hành không căng thẳng về mặt quân sự như đã áp
dụng đối với Philippines và Nhật, song tính chất nguy hiểm trong những hoạt
động của Trung Quốc tiếp tục leo thang nghiêm trọng, gắn với
những tính toán và hoạt động chính trị thâm độc hơn nhiều – vì Trung Quốc có
nhiều điều kiện can thiệp vào nội bộ Việt Nam.
Đặc biệt nghiêm trọng
trong những hoạt động bành trướng không cần che giấu là việc lập thành phố Tam
Sa tại Hoàng Sa với tính chất là một đơn vị hành chính hoàn chỉnh của Trung
Quốc (26-06-2012, trong đó có việc cấp chứng minh thư của thành phố Tam Sa cho
cư dân), lập căn cứ quân đồn trú thường trực ở đây, in bản đồ Hoàng Sa và
Trường Sa vào hộ chiếu của Trung Quốc, tiếp tục khẳng định “đường
lưỡi bò”[30],
cản phá quyết liệt hợp tác khai thác dầu khí của Việt Nam với nước ngoài, ngang
nhiên mời thầu nước ngoài các lô dầu khí thuộc chủ quyền lãnh hải của Việt Nam,
v…v… Hàng năm Trung Quốc lặp đi lặp lại việc áp đặt lệnh cấm đánh cá, việc đưa
hàng trăm tầu cá dưới sự yểm trợ của các tầu hải giám và tầu ngư chính xâm phạm
vùng biển nước ta - có lúc vào sâu trong vùng lãnh hải của ta cách bờ biển chỉ
30 - 50 hải lý (06-2012)[31]…
Đầu năm nay Trung Quốc
thành lập xong hạm đội tuần giám đảm nhiệm việc tuần tra thường xuyên toàn bộ
Biển Đông, bao gồm 11 đội tầu chiến với tổng số 16000 hải quân.
Nhìn lại, toàn bộ hoạt
động lấn chiếm của Trung Quốc trên Biển Đông là một quá trình leo thang liên tục,
bắt đầu từ các đợt đánh chiếm các đảo và bãi của Việt Nam ở Hoàng Sa 1956 và
1974, đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi ở Trường Sa của Việt Nam năm 1988, đồng thời
ngày càng ráo riết đòi thực hiện “đường lưỡi bò 9 vạch”; năm 1995
Trung Quốc đánh chiếm đảo Vành Khăn (Mischief Reef), từ 2 năm nay đẩy mạnh thực
hiện các hoạt đông quân sự để kiểm soát bãi ngầm Scarborough / Hoàng Nham và bãi
Cỏ Mây / Second Thomas Shoal. Đồng thời các hoạt
động ngoại giao và quân sự của Trung Quốc nhằm vào Senkaku / Điếu Ngư ở Biển
Hoa Đông ngày càng dồn dập.
Nhìn lại xa hơn nữa, đáng
chú ý là: Tất cả các cuộc chiến tranh đã xảy ra với các nước láng giềng cho
đến nay đều do phía Trung Quốc chủ động gây chiến.
Đó là: “cuộc kháng
chiến chống Mỹ viện Triều” 1950 – 1953, cuộc chiến tranh biên giới Trung - Ấn
1962, cuộc chiến tranh biên giới Trung – Xô 1969, cuộc chiến tranh biên giới Trung
- Việt 02-1979 rất đẫm máu (“Dậy cho tiểu bá Việt Nam bài học!”, tiếp theo là các
hoạt động bắn phá và lấn chiếm biên giới Việt Nam kéo dài liên tục đến 1989 mới
chính thức chấm dứt; trước đó còn phải kể đến việc Trung Quốc là cha đẻ của
chiến tranh Khme đỏ chống Việt Nam), rồi đến các hoạt động quân sự đánh chiếm
tiếp các đảo trên Biển Đông như đã nêu trên… Đương nhiên từ đâu đó có thể sẽ có
lời biện hộ: Có cường quốc nào mà tay không vấy máu để mở rộng quyền lực và
phạm vi ảnh hưởng của mình?
Còn một vấn đề nữa:
Nhìn riêng vào quan hệ Trung – Việt, còn phải lưu ý đến những bước đi đột xuất có tính
chất thay đổi trận tuyến, xẩy ra do những diễn biến trong cục diện
quốc tế.
Hai ví dụ điển hình
là: (1)Khi Trung Quốc thấy cần xoay chuyển quan hệ Trung – Mỹ từ đối đầu sang
hợp tác, ngay lập tức có Thông cáo chung Thượng Hải 1972 – giữa lúc Việt Nam
đang ở thời kỳ quyết liệt nhất trong kháng chiến chống Mỹ; (2)vứt bỏ mọi mối
quan hệ “xã hội chủ nghĩa” và quyết tiến hành cuộc chiến tranh 02-1972 tiến
công biên giới phía Bắc Việt Nam, nhằm tạo ra bước ngoặt trong vấn đề Campuchia
để thay đổi cục diện Đông Nam Á sau thất bại của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam
và nâng cao vị thế cường quốc Trung Quốc…[32]
Phải thừa nhận thế và
lực của Trung Quốc cùng với quan điểm thực dụng “mục tiêu biện minh cho biện pháp”,
“trả
giá cục bộ để thực hiện mục tiêu toàn cục”… đã cho phép Trung Quốc
xoay trở tình thế từ cực nọ sang cực kia mau lẹ như vậy. Trong bàn cờ thế
giới mọi thời đại, lúc nào cũng có những tình huống thuận lợi cho sự trở
cờ như vậy đối với mọi quyền lực, các nước “bên thứ ba” luôn luôn
đứng trước nguy cơ trở thành nạn nhân.
Một câu hỏi phải đặt ra trong nghiên cứu nhưng chưa có câu trả
lời: Sự leo thang những hoạt động gây căng thẳng của Bắc Triều Tiên dưới thời
Kim Chong Il trong quan hệ với Hàn Quốc, Nhật và Mỹ có liên quan gì với những
bước đi vừa qua của Trung Quốc trên Biển Đông hay không?
Nếu nhìn những nỗ lực
quân sự của Trung Quốc nêu trên trong khung khổ những động thái chính trị khác,
- thời sự nhất hiện này là sự hiệp đồng Trung – Nga trong vấn đề Syrie, thái độ
thụ động hoặc thờ ơ của Trung Quốc trong vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên và Iran, những nỗ lực lôi kéo
tạo liên kết Trung – Nga để chống lại Mỹ (nhất là qua các đợt tập trận chung
giữa 2 nước gần đây), những nỗ lực kinh tế và chính trị thâm nhập vào sân sau
của Mỹ ở Nam Mỹ, tăng cường quan hệ với Pakistan (nước có nhiều mối quan hệ thù
địch với Ấn Độ).., ra sức lôi kéo các nước Trung Á (Kazakhstan, Turkmenistan,
Uzbekistan, Afghanistan…) vì mọi lý do kinh tế (để thu hút tài nguyên) và chính
trị (để tác động vào Nga và Mỹ…).., có
thể hình dung:
-
mối quan hệ qua lại với nhau giữa các hoạt động quân sự và các
động thái kinh tế - chính trị của Trung Quốc,
-
vai trò các động thái chính trị của Trung Quốc trong việc chuẩn
bị, dọn đường, tổ chức triển khai… các hoạt động kinh tế, quân sự trong chiến
lược toàn cầu của Trung Quốc,
-
các tiểu sảo để đạt mục tiêu, nước lớn nhưng rất tiểu nhân...
Phản ứng trước mối
nguy Trung Quốc, trong những tháng đầu năm nay Nga lần đầu tiên hiến hành tập
trận trên bộ quy mô lớn chưa từng có ở vùng Viễn Đông - dưới sự thị sát của
tổng thống Putin và huy động 100.000 quân tham gia. Cử chỉ này nhằm răn đe nguy
cơ lấn chiếm của Trung Quốc tại vùng Novosibirsk và Syberia, mặc dù Nga cùng đi
với Trung Quốc trong một số vấn đề địa kinh tế / địa chính trị quan trọng. Cũng
trong những tháng đầu năm nay Ấn-độ điều thêm 50.000 quân tăng cường cho biên
giới của mình tại các bang miền Tây Bangal cho đến tận điểm cao Kashmir; Nhật
tăng cường khả năng hải quân và không quân bảo vệ Senkaku / Điếu Ngư và tuyên
bố dứt khóat sẽ giáng trả nếu bị tấn công. Mỹ đã điều phối thêm lực lượng không
quân trong vùng để hỗ trợ Nhật, song trên tất cả là Mỹ ráo riết triển khai
chiến lược pivot to Asia & Pacific
và TPP…
Xin đặc biệt lưu ý, so sánh lực lượng các mặt giữa Trung Quốc và
thế giới bên ngoài, đồng thời quan sát các hoạt động của Trung Quốc, có thể kết
luận: Hướng chính bành trướng khả thi nhất, hiện thực nhất, và cũng rõ
nhất của siêu cường đang lên Trung Quốc là khu vực Đông Nam Á và Biển Đông.
Bởi hai lẽ: (a)trên các hướng khác đã có các đối thủ lớn của Trung Quốc
án ngữ, (b)Trung Quốc có lợi thế và sức mạnh áp đảo đối với các nước ASEAN.
Ý đồ lâu dài của hướng đi xuống phía Nam này là: Nếu thực hiện
được kiểm soát Biển Đông, Trung Quốc sẽ có thể thao túng nghiêm trọng toàn bộ
các nước ASEAN, tiến thêm những bước quyết định trong việc khuất phục Đài Loan,
đẩy lùi chiến lược “Pivot to Asia & Pacific”. Theo đuổi ý đồ này, Trung Quốc
còn muốn tạo ra cho mình khả năng uy hiếp trực tiếp tuyến hàng hải Malacca lưu
chuyển khoảng 3/5 tổng lượng hàng hóa chuyên chở trên biển của cả thế giới,
chưa kể đến nguồn tài nguyên phong phú của Biển Đông.
Tất cả đang hé lộ tính đối kháng quyết liệt (categorical
antagony) của vấn đề Biển Đông đặt ra cho tất cả các nước hữu quan, trong đó
Việt Nam là điểm rất nhạy cảm.
R. Kaplan và một số
học giả Mỹ thừa nhận: Trên thực tế trong vòng hai thập kỷ nay, Trung Quốc đã
thay đổi đáng kể cán cân quyền lực ở Đông Bán cầu, mở rộng phạm vi ảnh hưởng
của mình rất bất lợi cho Mỹ, không ồn ào trong phương pháp thực hiện như các
nước đế quốc trước đây vẫn làm, nhưng tinh vi và có hiệu quả lớn, phù hợp với
thời đại toàn cầu hóa ngày nay…Con rồng ngày nay đang giương nanh
vuốt của mình…[33]
Hẳn không phải ngẫu
nhiên khi mở đầu bài viết “Yếu tố địa lý của quyền lực Trung Quốc…”[34], R. Kaplan nhắc lại việc Halford
Mackinder trong cuốn “The geographical Pivot of History”
(1904) đã cảnh báo thế giới về mối nguy Trung Quốc[35],
nhắc lại hy vọng của H. Mackinder cho rằng chỉ có lý tưởng của dân chủ mới có
thể mang lại một thế giới tốt đẹp (H. Mackinder – trong cuốn “The
democratic Ideals and Reality” - 1919).
V – Siêu cường đang
lên Trung Quốc có thể với tới đâu?
Xin nhắc lại, trong
giới nghiên cứu ở Mỹ và phương Tây có không ít ý kiến cho rằng không
có khả năng bao vây hay ngăn chặn sự đi lên của Trung Quốc, sự việc Trung Quốc
trở thành nền kinh tế có tổng lượng GDP lớn nhất thế giới vào khoảng giữa thế
kỷ này sẽ là không thể đảo ngược.
Sự thật có thể sẽ như
vậy, bởi vì từ nay đến giữa thế kỷ này hình như cũng khó xảy ra những biến động
nào trong nội trị Trung Quốc đủ sức xoay chuyển được hướng phát triển hiện tại
của Trung Quốc sang bất kỳ hướng nào khác (đổ vỡ? hay cải cách dân chủ?..).
Có 2 vấn đề lớn nên đặt
ra để tìm hiểu:
(1) Kinh tế thế giới, đặc
biệt là các nền kinh tế nhỏ yếu của các nước đang phát triển, sẽ phải đối mặt
với những vấn đề gì, nếu con rồng Trung Quốc tiếp tục mô hình phát triển của nó
như hiện nay trong vòng vài ba thập kỷ tới - với cái đói nguyên liệu không bao
giờ thỏa mãn, với mọi thực tiễn của chủ nghĩa con buôn (mercantilism) và sự tác
quái của quyền lực mềm như đang tiến hành.
(2) Cùng với khát vọng
nhất quán ngoi lên siêu cường, việc ráo riết tăng cường chi tiêu quốc phòng và
phát triển nhanh chóng lực lượng quân sự, nhất là ý đồ phát triển lực lượng hải
quân nước xanh (blue marine – hải quân đại dương) đặt ra những hệ lụy
gì cho cân bằng lực lượng tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và uy hiếp như
thế nào các nước nhỏ bé hơn trong khu vực?
Dưới đây xin bàn từng
vấn đề.
Về vấn đề (1) – vấn đề
kinh tế
Dù có những nỗ lực cải
tiến gì trong quản lý nền kinh tế quốc dân hay trong đổi mới cấu trúc kinh tế,
về cơ bản và còn một thời gian dài kinh tế Trung Quốc tăng trưởng và phát triển
chủ yếu vẫn nhờ vào (a)đầu tư và (b)nhờ lợi thế quy mô kinh tế (economics of
scales)[36]. Hai đặc điểm này (a và
b) cho phép Trung Quốc tiếp tục giành những lợi thế trên thị trường thế giới
đối với nhiều quốc gia – kể cả các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển.
Vì thế, cạnh tranh kinh tế với Trung Quốc, nhất là cạnh tranh với các mặt hàng
Trung Quốc sản xuất và có thế mạnh, vẫn tiếp tục là ác mộng đối với nhiều nước.
Hơn nữa, dù là Trung
Quốc đang có những nỗ lực chiến lược nhằm đẩy mạnh hướng nội – bao gồm tăng sức
mua nội địa, đẩy mạnh đô thị hóa, duy trì bằng mọi giá tốc độ tăng trưởng kinh
tế 5 – 6 hoặc 7 – 8% / năm… tất yếu dẫn
tới đòi hỏi của Trung Quốc về nguyên
liệu, năng lượng và thị trường ngày càng lớn. Xin lưu ý, duy trì tốc độ tăng
trưởng kinh tế thấp hơn đồng nghĩa với suy sụp, trì trệ, thất nghiệp.., vì thế
sẽ là thảm họa cho nội trị Trung Quốc cũng như đối với vai trò nắm quyền của
ĐCSTQ. Nghĩa là, gần như một tất yếu, thực hiện tốc độ tăng trưởng cao là vấn
đề sống còn của chế độ. Điều này cho thấy vì sao Trung Quốc sẽ tiếp tục đẩy
mạnh mọi chính sách hiện hành đối với thế giới bên ngoài để thỏa mãn đòi hỏi
bên trong. Hệ quả không tránh khỏi là sẽ gây ra những can thiệp hay lũng đoạn
mới ở bên ngoài trên nhiều phương diện, những tranh chấp mới…
Những dẫn chứng nổi
bật là: Tháng 7 vừa qua Trung Quốc đã khánh thành đường ống dẫn khí, và hiện
nay đang tiếp tục hoàn thành đường ống dẫn dầu từ Trung Đông qua lãnh
thổ Myanmar (cảng Kyaukpyu) vào
Vân Nam, mặc dù quan hệ Myanmar – Trung Quốc hiện nay không xuôn xẻ gì; Trung
Quốc đang đẩy mạnh hợp tác với Nga, Kazkhstan, Turkmenistan, Azecbaijan… đẩy
nhanh các công trình dẫn dầu và khí từ Trung Đông và Trung Á, để hoặc dẫn dầu vào
Trung Quốc, hoặc để cạnh tranh địa kinh tế và địa chính trị với phương Tây tại
Trung Đông hay tại ngay Trung Á… Vân vân…
Tuy rằng lợi thế về giá lao động rẻ của Trung
Quốc đang giảm dần, các chi phí sản xuất ở Trung Quốc ngày càng cao lên (do mức
thu nhập tăng, chi phí về môi trường ngày càng đắt…), cả thế giới – bao gồm cả bản
thân Trung Quốc – vẫn chưa giải được bài toán khó: Làm thế nào để phát triển kinh tế
Trung Quốc trở thành một trong những động lực thúc đẩy phát triển kinh tế thế
giới?
Trong khi đó tình hình vẫn tiếp diễn là: Kinh
tế Trung Quốc càng phát triển, trên thế giới càng xuất hiện nhiều vấn đề địa kinh tế và địa chính trị mới phức tạp hơn.
Rõ ràng những cam kết hay nỗ lực trong khung khổ
đối
thoại kinh tế & chiến lược Mỹ - Trung, những chế định trong
khung khổ các thể chế hiện hành (WTO, WB, IMF, G2, G20…), quan điểm “win –
win”… cho đến nay chưa giải quyết được bài toán khó này. TPP có lẽ càng
không… Mong đợi một thiện chí của lẽ phải
từ phía Trung Quốc sẽ chỉ là ảo tưởng nguy hiểm. Nguyên nhân hàng đầu có lẽ là bản
chất chế độ chính trị và trình độ phát triển hiện nay của Trung Quốc vẫn đang ở
thời kỳ chỉ dung nạp được sự phát triển như đang diễn ra. Nói cách
khác, Trung Quốc vẫn đang ở giai đoạn phát triển mang cái tên chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc – đó là chủ nghĩa tư bản đặc sắc Trung
Quốc trong chế độ toàn trị một đảng. Mô hình phát triển này còn là bất
khả kháng trong một tương lai nhất định - cho đến khi nào đó Trung Quốc
tự bên trong đủ sức tiến hành một cuộc cải cách sâu rộng thể chế chính trị. Thực
tế này cùng với ảnh hưởng sâu xa của truyền thống văn hóa Đại Hán càng làm sâu
sắc thêm những mâu thuẫn giữa Trung Quốc và thế giới bên ngoài.
Cũng xin lưu ý, ở Trung Quốc kể từ ngày thành lập
nước CHNDTH thường xuyên có những nỗ lực cải cách. Song cho đến nay tất cả những
nỗ lực này chỉ phát huy được trên phương hướng duy nhất: “mèo đen, mèo trắng không thành vấn
đề, miễn là bắt được chuột” và đã góp phần có ý nghĩa quyết định tạo ra
chủ
nghĩa thực dân con rồng hôm nay.
Trong khi đó toàn bộ những nỗ lực cải cách thể
chế chính trị ở Trung Quốc cho đến nay đều bị bóp chết – chỉ kể từ khi tiến
hành cải cách 1978: đó là Hồ Diệu Bang hay Triệu Tử Dương, rất đẫm máu như vụ
Thiên An Môn (1989), hay bớt ồn ào hơn như hàng trăm vụ đàn áp các nhân sỹ trí
thức khác… Trung Quốc hiện nay rất khó tiến hành cải cách thể chế chính trị còn
vì lẽ cả nước có tới hàng trăm nhóm lợi ích thao túng toàn bộ hệ thống chính trị
từ cấp cao nhất đến cơ sở. Quyền lực thật của các nhóm lợi ích trước hết nằm trong tay các đại
gia[37].
Có lẽ không phải ý thức hệ Mác hay Mao là nguyên
nhân gốc làm cho chế độ toàn trị ở Trung Quốc hiện nay vẫn trụ được. Sự thật là
Đại hội 18 của ĐCSTQ đã khéo léo vượt qua vấn đề này rồi; Mác và Mao chỉ còn
vai trò trang trí giữ cho chế độ của ĐCSTQ danh chính ngôn thuận và có mầu sắc
cần có mà thôi[38].
Nguyên nhân sâu xa đối kháng lại cải cách chính trị có lẽ vẫn là chủ nghĩa quốc
gia, chủ nghĩa dân tộc Đại Hán, nền văn minh thiên triều gần như một khát vọng..,
đến mức ngày nay tầng lớp trung lưu ở Trung Quốc nhìn chung cũng chưa thoát ra
được di sản văn hóa này (Willy Lam).
Có thể nói ngay đối với các nước phát triển và
đang phát triển: Làm gì để thích nghi được và để vượt qua được những hệ lụy của một thực
tế Trung Quốc nhãn tiền này? Làm gì để
biến những thách thức mới thành cơ hội?.. Đấy là những câu hỏi không thể
không đặt ra, nếu như muốn sống chung với lũ khi đang ở giữa cơn lũ.
Nhân đây lại xin nhắc lại, để định liệu công việc
của mình, mọi quốc gia hữu quan nhất thiết phải tính toán: Bản thân nước Trung
Quốc phải trả cái giá nào cho sự phát triển này của họ? Thế giới còn lại – trước
hết là các nước láng giềng và trong khu vực – sẽ phải trả giá theo như thế nào
cho sự phát triển này? Những năm gần đây không ít doanh nghiệp hay vùng sản xuất
một sản phẩm nhất định tại nhiều nước phát triển ở Mỹ, ở châu Âu… đã tự đặt ra
cho mình câu hỏi: Làm thế nào để không chết đuối trong biển hàng hóa rẻ của
Trung Quốc[39]?!...
Có lẽ cũng đã đến lúc các nước đang phát triển nên đặt thêm cho mình câu hỏi:
Làm thế nào để thoát được sự kiềm tỏa của quyền lực mềm Trung Quốc.
Vấn đề (2) – vấn đề
quân sự
Trong thời bình, không
có yêu cầu tiến hành một cuộc chiến tranh nào, nhưng lại bị thôi thúc bởi đòi
hỏi chớp lấy cơ hội chấm dứt thời kỳ
giấu mình chờ thời để mau chóng vươn lên siêu cường, tận dụng xu thế siêu cường
Mỹ ngày càng yếu đi và sa lầy vào nhiều vấn đề lớn, tận dụng khoảng thời gian
các cường quốc khác còn đang bận rộn với khủng hoảng kinh tế trầm trọng mang
tính cơ cấu chưa có lối ra.., Trung Quốc từ hai thập kỷ nay ráo riết tăng cường
tiềm lực quân sự của mình - song song
với bành trướng quyền lực kinh tế và quyền lực mềm ở phạm vi toàn cầu.
Ngân sách quốc phòng
của Trung Quốc năm 2000 là 30 tỷ USD, năm 2010 vọt lên 120 tỷ USD, năm 2012 là
160 tỷ USD (nghĩa là liên tục hàng thập kỷ tăng trưởng 2 con số/năm) – đấy là
theo số liệu được chính phủ công bố, người ta cho rằng con số thực còn cao hơn.
Quân số của Giải phóng quân Nhân dân (PLA) hiện nay là 2,3 triệu, đông nhất thế
giới. PLA được hiện đại hóa rất nhanh; trang bị vũ khí, khí tài chỉ đứng sau Mỹ
và Nga. Tuy nhiên giới nghiên cứu hầu như có nhận xét thống nhất: Thời điểm
Trung Quốc có thể thách thức Mỹ và Nga về quân sự còn xa, (có người cho rằng
khoảng cách này giữa Trung Quốc và Mỹ là 20 – 30 năm).
Hiện nay hầu như chưa
có khả năng Trung Quốc có thể thách thức trực tiếp Mỹ hay Nga bằng quân sự ở
bất kỳ nơi nào. Đụng độ tranh chấp biên giới Trung - Ấn vẫn là nguy cơ thường
trực, song ngày nay tiềm lực quốc phòng của Ấn-độ và tương quan lực lượng so
sánh khác trước rất nhiều so với thời kỳ xảy ra chiến tranh biên giới năm 1962,
hơn nữa thế giới ngày nay đã thay đổi. Tranh chấp Trung – Nhật tại Hoa Đông và
đảo Senkaku / Điếu ngư dù căng thẳng thế nào, có lẽ vẫn rất ít khả năng nổ ra
chiến tranh hay đụng độ quân sự trực tiếp Trung – Nhật/Mỹ; bởi vì không thể
đánh giá thấp sức đề kháng của Nhật với sự hậu thuẫn trực tiếp của Mỹ.
Trong khi đó áp lực
quân sự của Trung Quốc đang nhằm vào hướng chính là các nước láng giềng Đông
Nam Á.
So sánh những gì đã
xảy ra ở 2 vùng Hoa Đông và Scarborough / Hoàng Nham, kết hợp với đánh giá so
sánh lực lượng tổng thể toàn khu vực Biển Đông, không loại trừ tình huống: Trung Quốc tuy gây áp lực quyết liệt với
Nhật ở Hoa Đông để uy hiếp, song có thể đòn tấn công chính, hay là từng đòn tấn
công chính của Trung Quốc trước hết vẫn là dành cho phía Nam. Tuy nhiên,
Trung Quốc có dám đánh lớn trên Biển Đông hay không, điều này còn tùy thuộc đáng
kể vào thái độ ứng xử của từng nước hoặc cả nhóm ASEAN. “Mềm nắn, rắn buông”, đấy
thường là tâm lý phổ biến của mọi kẻ xâm lược. Mối nguy tiềm ẩn khó khắc phục
hơn của ASEAN là sự nhất trí rất có giới hạn của nhóm nước này trong đối phó
với Trung Quốc[40].
Hiện nay, đánh giá
tình hình so sánh lực lượng tại chỗ trên Biển Đông, đánh giá những phản ứng dây
chuyền có thể xảy ra ở từng nước bị tiến công, phản ứng dây chuyền có thể xảy
ra ở trong và ở ngoài khu vực, thậm chí trên toàn thế giới… một khi Trung Quốc tiến hành đánh lớn trên
Biển Đông, có thể phán đoán: quyết định đánh lớn như vậy đối với Trung Quốc có
lẽ cũng không dễ dàng gì, chưa hẳn là cần thiết, trong khi đó Trung Quốc đang
có những thủ đoạn khác rẻ hơn, hữu hiệu hơn.
Bởi vì: Xem
xét toàn cục, trận đánh lớn có thể thắng, nhưng làm chủ được những hệ quả tiếp
theo thì không hẳn; bản thân Trung Quốc đã có nhiều kinh nghiệm này[41].
Bối cảnh Đông Nam Á - Biển Đông trong cục diện quốc tế hiện nay cho thấy đánh
lớn rất ít khả năng giải quyết gọn những vấn đề có liên quan. Vì thế nhìn tổng
thể, chung cuộc đánh lớn có thể mang về bại nhiều hơn thắng. Cho đến nay lực
của Trung Quốc hoàn toàn cho phép đánh lớn trên Biển Đông (nhằm vào các nước
láng giềng), song điều này chưa xảy ra, có lẽ chỉ vì những lý do như vậy.
Trong khi đó Trung
Quốc đang có chiến thuật gặm nhấm rất hiệu quả, có cơ hội lại ào lên cắn
trộm (1988, 1995…), rồi lại gặm nhấm tiếp. Mấy thập kỷ nay chiến thuật này
giành kết quả tốt, rủi ro ít, đỡ ồn ào, vẫn đạt mục tiêu và uy hiếp được đối
phương... Càng tác động được quyền lực mềm vào từng nước ASEAN, càng phân hóa
được nhóm ASEAN theo thủ đoạn bẻ từng que đũa của bó đũa (chỉ chấp
nhận đàm phán song phương), càng chia rẽ được ASEAN với thế giới bên ngoài, hiệu
quả của chiến thuật gặm nhấm càng cao. Có lẽ chiến thuật này – cùng với tác
động của những thủ đoạn chính trị lung lạc đi kèm, tiếp đến là các thủ đoạn
“xâm lăng không vũ khí” bằng các đợt cho
hàng trăm tầu cá lấn biển, kết hợp với
các biện pháp kinh tế khác, kết hợp với tác động của thời gian (gây mất ổn định
và kìm hãm sự phát triển của các nước ASEAN…)… mới là những đòn nguy hiểm hơn cả
cho các nước ASEAN – trước hết là cho Việt Nam và Philippines.
Thực tế đã diễn ra là:
Ngoài việc lập thành phố Tam Sa và đặt căn cứ cho quân đồn trú thường trực ở
Hoàng Sa, đến nay Trung Quốc đã xây dựng xong những công trình quân sự cố định
mới trên các đảo, các bãi ngầm và các rặng san hô ở Trường Sa do Trung Quốc đánh chiếm trong các đợt 1988 (gồm 7 đảo và
bãi), đợt 1995 (gồm Đá Vành Khăn và một số bãi) và gần đây. Tại những điểm này
Trung Quốc đã xây xong các căn cứ đóng quân cố định, căn cứ nổi, ụ pháo, đài
quan sát, vạch ra tuyến đường tuần tra cho hạm đội hải giám (11 đội tầu với
16.000 quân)… để hoạt động thường xuyên, qua đó nhằm khẳng định trên thực tế
chủ quyền “đường lưỡi bò”… Không thể nói khác: Một cuộc xâm lược âm ỷ, bền bỉ
năm này qua năm khác, vũ trang xen kết phi vũ trang, để gặm nhấm tiếp, để leo
thang tiếp, hình thành dần dần một hành lang án ngữ trực tiếp trên biển đối với
Việt Nam và Philippines, tiến tới khống chế toàn vùng... Chiến thuật này đang
rất hữu dụng, chưa có các yếu tố nào mới khiến Trung Quốc phải thay đổi. Trong
khi đó phản ứng đơn phương hay đa phương của các nước nạn nhân ở mức như hiện
nay chưa đúng mức phải có, do đó không thể chặn đứng hay đẩy lùi được chiến
thuật gặm nhấm này. Để lâu e rằng sẽ là chuyện đã rồi!
Nhưng trong trường hợp
nhất định, ví dụ một biến cố lớn bất thường xẩy ra
ở bất kỳ đâu trên thế giới, kể cả trong lòng Trung Quốc, hay là ở một nước là
đối tượng xử lý (ví dụ quốc gia này lâm vào tình trạng khủng hoảng bất thường),..
khả năng Trung Quốc đánh lớn trên Biển Đông là không thể không tính đến. Cuộc
chiến tranh 30 ngày năm 1979 của Trung Quốc chống Việt Nam là một ví dụ thuyết
phục.[42]
Hiển nhiên, thế giới ngày nay không hiếm những biến
cố lớn bất thường rất quyến rũ. Hiện tại có thể liệt kê ra cả một
danh sách dài:
- giả định Mỹ tuột tay trong dàn xếp những
mâu thuẫn Israel – Palestin;
- mâu thuẫn Israel – Iran bùng nổ;
- nguy cơ vấn đề sản xuất vũ khí A của
Iran hay Bắc Triều Tiên vượt ra ngoài mọi khả năng kiểm soát của thế giới;
- Al-Qeada có thể bất ngờ tổ chức tấn
công lớn vào Mỹ hoặc các nước phương Tây, khiến cho sự quan tâm của Mỹ bị phân
tán;
- nguy cơ đồng Euro sụp đổ;
- một tính toán sai lầm nào đó của Trung
Quốc hay của bất kỳ ai (ví dụ những động thái rất nguy hiểm trong năm nay của Bắc Triều Tiên…);
- những yếu kém của đối tượng được dự định
tấn công;
- vụ sử dụng vũ khí hóa học ở Syrie có
thể mở ra một bước ngoặt bi thảm;
- vân vân…
Có
thể kết luận: So với Mỹ và đồng
minh phương Tây, lực lượng tiến hành chiến tranh của Trung Quốc không mạnh bằng,
hay chưa mạnh như các phát ngôn của giới diều hâu trong hàng ngũ tướng lĩnh
Trung Quốc phô trương. Tuy nhiên, lực lượng tiến hành chiến tranh của Trung
Quốc mạnh áp đảo so với các nước láng giềng phía Đông và Đông Nam Á, đã có
những hoạt động đủ nguy hiểm, đến mức Mỹ phải nhiều lần chính thức cảnh báo: Trung
Quốc đang đẩy Biển Đông đi vào chiến tranh.
Muốn
hay không, các nước láng giềng của Trung Quốc đang rơi vào một cuộc chạy đua
với thời gian: Hoặc là kịp tạo ra sức mạnh vượt lên những thách thưc mới đặt ra
từ phía Trung Quốc, hoặc bị những thách thức mới của Trung Quốc vượt qua.
Tóm lại, về nhiều phương diện như đã trình bầy trên, bao gồm cả
những hạn chế ban đầu không thể tránh khỏi, siêu cường đang lên Trung Quốc buộc
phải lựa chọn Đông Nam Á là địa bàn chính cho việc bành trướng quyền lực. Mỹ
nhất thiết phải tiến hành chiến lược “pivot to Asia & Pacific” và TPP để
kiểm soát tình hình. Thực tế này sẽ tạo ra những nhân tố căng thẳng mới trong
khu vực. Không phải ngẫu nhiên Mỹ coi Đông Nam Á là trọng tâm trong những nỗ
lực chuyển hướng mới của mình.
Gần đây nhất, nghĩa là chỉ ít lâu sau vòng đối thoại kinh tế & chiến
lược lần thứ 5 (Obama – Tập Cẩm Bình ngày 7 và 8-06-2013), tổng thống
Obama ngày 11-07-2013 đã lên tiếng phê phán những hoạt đông nguy hiểm của Trung
Quốc ở Biển Đông và Hoa Đông, đòi Trung Quốc phải giải quyết những tranh chấp bằng
thương lượng hòa bình và tuân thủ luật pháp quốc tế. Tiếp đến là Thượng viện Mỹ
ngày 03-08-2013 thông qua nghị quyết 167 lên án Trung Quốc cùng nội dung, thúc
giục Trung Quốc phải sớm tham gia COC[43].
Trung Quốc phản pháo rất gay gắt: “Trung Quốc không bao giờ từ bỏ
các quyền và lợi ích chính đáng của mình trên biển, không bao giờ hy sinh lợi
ích quốc gia cốt lõi của mình… Trung Quốc sẵn sàng đối phó với mọi diễn biến
phức tạp, tăng cường khả năng bảo vệ các quyền và lợi ích của mình trên biển, kiên
quyết bảo vệ các quyền và lợi ích của mình trên biển…’’ (Reuters
31-07-2013). Phát biểu của Tập Cẩm Bình
31-07-2013 là nhiệt kế đo điểm nóng nguy hiểm trên Biển Đông.
Xin
đặc biệt lưu ý:
Mỹ chuyển hướng chiến lược vào CA-TBD / ĐNA là nhân tố kiềm chế quan trọng tham
vọng bá quyền Biển Đông của Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ kiên định sự chuyển hướng
này đến đâu, còn phụ thuộc không ít vào ý chí và sự hợp tác giữa các nước
ASEAN với nhau, vào ý chí của nhóm nước này dấn thân cho hòa bình,
cho bảo vệ chủ quyền và các quyền lợi chính đáng của mình trên Biển Đông. Không
có bất cứ cái gì “free lunch” cho các quốc gia Đông Nam Á trong toàn bộ câu
chuyện Biển Đông. Không phải không có lý do, ngay từ đầu Mỹ tuyên bố đòi phải
bảo đảm lưu thông tự do trên Biển Đông, mọi tranh chấp phải giải quyết bằng
thương lượng trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhưng nói rõ Mỹ không can thiệp vào
tranh chấp biển – đảo.
VI - Siêu cường Trung
Quốc không thể lãnh đạo thế giới
Vào khoảng giữa thế kỷ
này hoặc sớm hơn chút ít Trung Quốc có thể trở thành nền kinh tế lớn nhất thế
giới, điều này là hiện thực. Nhưng cũng trong khoảng thời gian dự đoán được như
thế hoặc xa hơn chút nữa, hầu như chắc chắn không thể có một siêu cường Trung
Quốc lãnh đạo thế giới hay sắm vai trò số 1 như Mỹ đang làm.
Sau đây là một số lập
luận chính cho nhận định nói trên.
Một là: Trước hết lịch sử
thế giới chưa từng có một siêu cường nào đủ quyền lực lãnh đạo cả thế giới. Trong
lịch sử thế giới cận đại và trong nấc thang phát triển của thế giới hiện tại
lại càng không! Thế giới dù phải sống trong một trật tự chung nào đấy của quá
trình toàn cầu hóa, song vẫn là phân ra thành các mảng lớn khác nhau. (Cũng có
thể nói theo cách khác: Thế giới ngày nay quá trưởng thành để chấp nhận một sự
lãnh đạo nào đó của một ai, dù đấy là siêu cường Mỹ).
Lịch sử thế giới không
thiếu những khát vọng điên cuồng muốn làm như thế, nhưng đều thất bại. Thời
chúng ta đang sống, có thể tổng thống Bush ít nhiều đã mơ ước cái gì đó to tát na ná như điều này -
vì những lý do dễ hiểu đã xuất hiện trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh và sau
sự kiện 11-09-2001. Song phải chăng chính mơ ước này đã dẫn tổng thống Bush đến
chiến tranh Iraq (2003 – 2010) và chung cuộc chịu thất bại trong chiến tranh
này?
Cho đến nay, nhất là
trong nấc thang văn minh của thời đại ngày nay, chỉ có tư tưởng nhân văn cùng với các giá trị nổi bật
của nó mới có thể có tác động nhất định vào quá trình hình thành xu thế phát
triển, hay là trở thành tinh thần hướng dẫn, hấp dẫn xu thế phát triển của thế
giới – được gọi dưới cái tên chung là các giá trị toàn cầu. Ở nấc thang phát triển của thế giới hôm nay,
chính xu thế này vừa ngày càng trở thành nguồn gốc sức mạnh, vừa trở thành ngọn
cờ tập hợp lực lượng của hầu hết các nước phát triển.
Đối với một quốc gia
cũng như một dân tộc, một con người trong thế giới văn minh ở trình độ phát
triển hôm nay, nhận thức đầy đủ sự thật nêu trên như một chân lý và các giá trị
toàn cầu là điều vô cùng quan trọng cho việc tự định đoạt số phận và tương lai
của chính mình[44].
Hiển nhiên Trung Quốc
hôm nay không thể đề ra được bất kỳ tư tưởng, quan niệm hay giá trị nổi bật nào
có sức hấp dẫn hay là tác động tích cực vào xu thế phát triển của thế giới. Thậm
chí Trung Quốc cũng không đứng trong hàng ngũ các nước đi tiên phong theo đuổi
những giá trị toàn cầu ngày nay. Giá trị mà Trung Quốc muốn là chính
nước Trung Quốc sẽ định hướng những quan niệm và giá trị của thế giới, chứ
không phải ai khác… (“Giấc mơ Trung Quốc” – Lưu Minh Phúc,
Đại học Quốc phòng, Bắc Kinh).
Văn hóa Trung Quốc nói
chung, nền văn minh Trung Hoa rực rỡ một thời nói riêng, có những đóng góp quý
báu vào kho tàng văn minh nhân loại, trong đó có những giá trị phổ cập đóng góp
vào những giá trị chung của chân - thiện - mỹ. Ví dụ, những giá
trị như nhân – nghĩa – lễ - trí – tín
ngày nay vẫn là những giá trị bền vững trong đạo đức học (ethic). Dĩ
nhiên, những giá trị này nằm trong những giá trị nhân bản phổ cập của nhân loại
từ ngàn xưa, được văn hóa Trung Quốc – trước hết là Khổng giáo – quan tâm đúc
kết, và không tránh khỏi thấm nhuộm màu sắc văn hóa Trung Quốc. Nội hàm của các
giá trị bao giờ cũng thường xuyên phát triển trong sự phát triển chung của văn
minh nhân loại qua các thời đại.
Song văn hóa đại
Trung Hoa với khát vọng lấy lại 5 thế kỷ đánh mất, cùng với mọi chuẩn
mực gói ghém trong phạm trù “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”
làm nên cường quốc Trung Quốc hôm nay, hiển nhiên rất khác, rất khó hòa nhập,
hoặc thậm chí hàm chứa không ít mâu thuẫn đối kháng với những gì nằm trong các
giá trị toàn cầu đang thôi thúc sự phát triển của văn minh nhân loại.
Văn hóa đại
Trung Hoa như vậy cùng với những chuẩn mực làm thành nội hàm của chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc có thể đang làm nên “giấc
mơ Trung Quốc” hôm nay của không ít người Trung Quốc. Người ta nói ông
Tập Cẩm Bình đã từng diễn giải ngắn gọn giấc mơ này như sau: Đó là
một Trung Quốc của tầng lớp trung lưu nhỏ và có quân đội mạnh chống lại bất kể
kẻ thù nào… (Willy Lam)[45]… Rõ ràng giấc
mơ Trung Quốc như thế rất khác với “giấc mơ Mỹ” như Obama đã nhiều lần đề cập khi tranh cử, và càng khác
với những quan niệm và các giá trị toàn cầu đang hướng dẫn hay hấp sự phát
triển của văn minh nhân loại ngày nay như đã trình bầy trong các phần trên của
bài viết này.
Thế giới đã chứng kiến
sự thất bại của Pax Americana. Rồi đây giả thử xuất hiện một Pax Sinica tái
sinh (cứ cho là như vậy), nhân loại sẽ đón nhận ra sao đây? Từ những gì đang
diễn ra trên Biển Đông, có thể suy luận nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước
Đông Nam Á khác hầu như chắc chắn không muốn chào đón thứ “Pax Sinica” này.
Tuy nhiên, đừng lúc
nào quên Trung Quốc đang là mối uy hiếp thường trực ngày càng nguy hiểm đối với
tất cả các nước láng giềng phía Đông và Đông Nam Á.
Hai là: Trung Quốc về cơ bản
còn đang ở nấc thang của các nước đang phát triển, thậm chí về phương diện nhất
định là còn đang ở nấc thang nước chậm phát triển – nếu xét về các giá trị phổ
cập như đã nêu trên của văn minh nhân loại ngày nay.
Hiện nay tổng sản phẩm
quốc nội danh nghĩa tính theo đầu người (GDP p.c.) của Trung Quốc là 6000 USD
(lấy con số tròn), đứng hàng thứ 86/182 trên thế giới, chỉ bằng khoảng 1/8 của
Mỹ và bằng ¼ của Hàn Quốc – (nhưng gấp 4 lần Việt Nam: 1500 USD, đứng hàng thứ
137/182 trên thế giới)[46]. Song nếu xem xét về mức
độ chênh lệch giầu nghèo, những bất công trong xã hội, tình trạng ô nhiễm môi
trường.., Trung Quốc không tiến xa được bao nhiêu so với nhiều nước đang phát
triển khác có mức GDP p.c. tương đương hoặc nhỏ hơn.
So với họ (ví dụ: Ấn
Độ), thậm chí Trung Quốc kém hơn rất nhiều trên các phương diện thực hiện các
quyền tự do dân chủ của nhân dân, quyền con người, thực hiện các tiêu chí của
nhà nước pháp quyền – đặc biệt là trong những vấn đề công khai minh bạch, trong
chế độ chịu trách nhiệm giải trình, trong chống tham nhũng…
Có câu hỏi: Xem xét
nhiều mặt, Trung Quốc và Ấn-độ gần như cùng chung một khởi điểm phát triển, thế
nhưng tại sao GDP p.c. của Ấn-độ ngày nay chỉ tương tự như của Việt Nam (nghĩa
là bằng ¼ của Trung Quốc)? Phải chăng sự phát triển vượt bậc của Trung Quốc so
với Ấn-độ nói lên tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc?
Nếu muốn so sánh như
vậy. có lẽ cũng sẽ phải đặt câu hỏi: Tại sao cùng là chế độ xã hội chủ nghĩa
như nhau do một đảng lãnh đạo (gọi đúng tên là chế độ toàn trị), khi tiến hành
cải cách điểm xuất phát của Trung Quốc chỉ cao hơn Việt Nam chút ít (chênh lệch
GDP p.c. ở thời điểm cải cách so với Việt Nam khoảng +100 USD), thế nhưng tại
sao GDP p.c. của Trung Quốc bây giờ gấp 4 lần của Việt Nam (chênh lệch GDP p.c.
bây giờ là +4500 USD)? Trung Quốc đã đi được chặng đường dài trên con đường
công nghiệp hóa – hiện đại hóa, từng vùng đã mang tính chất là một nước công
nghiệp, tại sao Việt Nam còn đứng rất xa vời mục tiêu này? Vân… vân…
Xin lưu ý: Sự phát triển đột xuất của Trung
Quốc rất độc đáo, vô tiền khoáng hậu,
nguyên nhân như đã phân tích. Hiện tượng khác thường này chẳng liên quan gì đến
chủ nghĩa xã hội theo học thuyết Mác như mọi nỗ lực hoài công gán ghép cho nó.
CNXH đặc sắc Trung Quốc chỉ là tên gọi cho một hình thái phát triển đặc trưng
không ít máu và nước mắt của chủ nghĩa tư bản mang văn hóa Đại Hán trong thế
giới toàn cầu hóa ngày nay mà thôi. CNXH đặc sắc Trung Quốc như thế đến hôm nay
đã xâm phạm và đang tiếp tục uy hiếp nghiêm trọng lợi ích chính đáng và chủ
quyền quốc gia của nhiều nước khác, trong đó có Việt Nam[47].
Cần tỉnh táo thấy rằng
Trung Quốc vẫn đang trên đà tiếp tục tăng trưởng và phát triển, vì các yếu tố
nội tại và bên ngoài vẫn đang cho phép như vậy. Không ít người đi thăm Trung
Quốc về kể cho tôi nghe một ấn tượng chung sau khi tiếp xúc với các giới khác
nhau: Chất keo dính kết quốc gia khổng lồ này là “Trung Quốc phải trở thành siêu
cường lãnh đạo thế giới!” Một
thứ chủ nghĩa sô-vanh nước lớn kiểu Trung Quốc!?
Hiện tượng Trung Quốc khác
thường này không thể dùng những quan điểm học thuật thuần túy để lý giải.
Phải chăng đây là một khúc quanh của lịch sử: Một dạng trỗi dậy trở lại của văn
hóa Đại Hán, nhờ vào những yếu tố và đặc điểm của toàn cầu hóa thời đại ngày
nay!? Chủ nghĩa dân tộc ở quốc gia 1,3 tỷ dân này đang được thứ văn hóa này
nuôi dưỡng, đến mức đang xuất hiện một giấc mơ Trung Quốc, na ná như một
thứ đạo
Đại Hán, tinh thần Đại Hán, chủ nghĩa Đại Hán… – được nuôi dưỡng bằng “…tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ!”
Nghĩa là trở thành lãnh đạo thế giới thì không thể, và chắc Trung Quốc cũng
chẳng cần. Nhưng khát vọng bình thiên hạ, thì sẵn có trong hơi
thở Trung Quốc từ ngàn xưa. Đượm màu sắc văn hóa như vậy ở thời hiện đại này, thế
giới sẽ càng mệt![48] Vì thế vấn đề Trung
Quốc càng thực sự sâu sắc, càng trở thành vấn đề của cả thế giới.
Nếu liều đoán, cùng
lắm cũng chỉ có thể nói mò: Xu thế phát triển hiện nay của Trung Quốc chỉ thay
đổi một khi sự vận động tự thân của các
yếu tố bên trong của Trung Quốc không kiểm soát được nữa. Dù quan trọng đến mức
nào, các yếu tố bên ngoài chỉ có vai trò hỗ trợ cho sự vận động này. Hiển
nhiên, đây là câu chuyện của thập kỷ, của nhiều thập kỷ.
Song cho dù một khi
trở thành nền kinh tế lớn số 1 thế giới,
kinh tế Trung Quốc đến lúc ấy dự báo cũng chỉ chiếm tới 1/10 - 1/8 kinh tế thế giới, có nghĩa kinh tế
Trung Quốc phụ thuộc rất lớn vào kinh tế thế giới. Điều này có nghĩa khó lòng
Trung Quốc có thể làm mưa làm gió hơn hôm nay. Bởi vì đến lúc ấy, các nền kinh
tế khác cũng sẽ lớn hơn, thiên hạ cũng sẽ ngày một khôn hơn. Chưa nói đến
khoảng cách vài chục năm với phương Tây về tiến bộ khoa học kỹ thuật, về công
nghệ, về năng lực tổ chức và quản lý xã hội… Trung Quốc không dễ gì vượt qua.
Người Trung Quốc có
câu “ngưu
tầm ngưu, mã tầm mã” – hiểu nôm na theo ngôn ngữ người châu Âu: xem anh
chơi với ai, tôi sẽ biết ngay anh là ai![49] Quyền lực mềm của Trung
Quốc có nhiều đối tác lắm. Cứ xem các đối tác của Trung Quốc khắp thế giới là
ai, làm ăn cái gì và với ai, tìm hiểu tại sao chủ nghĩa thực dân con rồng
lại thành công hơn tất cả các bậc đàn anh của nó ngày xưa (dù là Anh, Pháp,
Bồ-đào-nha…), xem Trung Quốc hành xử với các nước láng giềng, xem Trung Quốc
ủng hộ những vấn đề gì và chống vấn đề gì trên thế giới.., hoàn toàn không khó để
nhận biết khả năng và bản chất sự tập hợp lực lượng của Trung Quốc trong thế
giới này nay, kể cả một khi Trung Quốc trở thành siêu cường…
Một tập hợp lực lượng
như thế có thể gây ra những ảnh hưởng lũng đoạn, song không bao giờ và hoàn
toàn không thể có ảnh hưởng lãnh đạo thế giới.
Có thể dự báo khái quát:
1. Rồi đây, dù là một khi Trung Quốc trở thành cường quốc có nền kinh tế
lớn số 1, song hầu như chắc chắn đó chỉ là trên phương diện tính toán khối lượng
GDP. Trung Quốc sẽ không đủ lực và hoàn toàn không thể có phép lạ gì để tạo ra
cho mình sứ mệnh tinh thần thực hiện một tập hợp lực lượng để dấy lên ở trên thế
giới ngày nay một cái ảnh hưởng hay trào lưu gì đó - ở quy mô và theo cách nào
đó… ví dụ như một thời Liên Xô đã từng làm – mặc dù về sau Liên Xô sụp đổ[50]. Hơn nữa, siêu cường nước kinh tế lớn số 1 này không
có hoài bão hay mục đích thực hiện một tập hợp lực lượng như Liên Xô hồi ấy đã
từng làm. Trung Quốc chỉ có giấc mơ “bình thiên hạ” và sự nham hiểm của
quyền lực đặc sắc Trung Quốc.
Vì bản chất sự phát triển và ý đồ của nó
có nhiều cái cơ bản trái chiều với các giá trị toàn cầu như vậy, Trung
Quốc không có khả năng trở thành siêu cường lãnh đạo thế giới.
2. Nếu có làm được gì trong tập hợp lực lượng trên thế giới,
siêu cường nước kinh tế lớn số 1 thế giới này lúc ấy chắc sẽ không thể đi xa
hơn bao nhiêu những gì nó đã và đang làm được mấy thập kỷ nay và đã được
trình bầy trong các phần trên của bài viết này – về cơ bản đấy sẽ là tập hợp
lực lượng của những lợi ích thực dụng và lợi dụng lẫn nhau. Đương nhiên,
trong những bối cảnh nhất định, sự tập hợp lực lượng như thế sẽ không kém phần
nguy hiểm cho hòa bình và ổn định.
Tuy nhiên đến lúc ấy siêu cường Trung Quốc
cũng khó có khả năng thách thức Mỹ nói riêng và thế giới phương Tây nói chung về
quân sự; nhưng đối với các nước nhỏ láng giềng thì không hẳn thế, thậm chí tùy
hoàn cảnh có khi hoàn toàn ngược lại.
Siêu cường nước kinh tế lớn số 1 này chắc
chắn đặt ra cho thế giới nhiều thách thức mới về kinh tế và văn hóa. Song nếu
Trung Quốc quá đà và phạm sai lầm lớn, phản ứng của thế giới còn lại sẽ không dễ
gì Trung Quốc có thể vượt qua được, và sẽ phải trả giá.
Giả định rằng siêu cường nước kinh tế lớn
số 1 này có tham vọng làm mọi việc để lấy
lại 5 thế kỷ đánh mất, thế giới còn lại có thể sẽ có thêm những thách thức
mới và những phiền toái mới – chắc sẽ không ít đau đớn. Song hầu như chắc chắn
kết cục chung một của phiêu lưu như vậy sẽ là sự phân rã: Trong kịch bản này, ĐCSTQ
sẽ không còn tồn tại nữa, đại Trung Quốc có thể tan thành một số nước Trung Quốc.
Kịch bản phiêu lưu đẫm máu này chắc lãnh
đạo ĐCSTQ không muốn, và có thể cũng không
dám; thế giới còn lại chắc chắn càng không muốn phải trả giá theo cho lỗi
lầm này của Trung Quốc.
3. Trong một khoảng thời gian nhất định, kể cả đến khi trở
thành nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới, không thấy có khả năng xẩy ra cải
cách thể chế chính trị với đúng nghĩa ở Trung Quốc – ngoại trừ những cải cách
nhỏ và rất cục bộ, chỉ nhằm đáp ứng cho yêu cầu bảo đảm mức độ tăng trưởng giữ
cho chế độ không sụp đổ hoặc tránh được khủng hoảng lớn.
Đối với
thế giới bên ngoài, thực tế này có nghĩa phải tìm cách sống cùng được và
chế ngự được một Trung Quốc như hiện nay thế giới đang có. Một thách thức
hoàn toàn mới. Đối với các nước láng giềng Trung Quốc: Phải tìm cách sống chung
với lũ.
Lý do cơ bản là: Cho đến khi có được một
cuộc cải cách sâu rộng thể chế chính trị, nhìn chung Trung Quốc không thừa nhận,
không muốn đi cùng chiều với các giá trị toàn cầu – bởi vì bản chất sự phát triển
của nó đặt ra như thế, lại thêm di sản của văn hóa Đại Hán, văn hóa thiên triều.
4. Tình hình các mặt hiện nay của Trung Quốc cho thấy:
Trong một tương lai xác định được, không có chuyện xảy ra một Trung Quốc đổ vỡ
do thất bại trong kiểm soát các vấn đề đối nội. Sự kiện Thiên An Môn, các sự kiện
gần đây ở Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông… cho thấy lãnh đạo Trung Quốc sẵn sàng
ngăn chặn và ngăn chặn được khả năng này với bất kỳ giá nào.
5. Tuy bị đàn áp quyết liệt, thăng trầm tùy lúc khác
nhau, thực tế đang cho thấy xu thế cải cách ở Trung Quốc vẫn âm ỷ tồn tại,
không thể tiêu diệt được, đến một lúc nào đó có thể phát triển mạnh – ví dụ đến
một khi lực lượng trung lưu có vị trí áp đảo trong xã hội Trung Quốc... Bởi vì đấy là sự vận động tất yếu của những
mâu thuẫn xã hội nội tại đang ngày càng tích tụ ngay trong lòng Trung Quốc.
Ngay hiện tại, các “chuẩn mực xã hội chủ nghĩa” hầu như chẳng còn mấy giá trị
trong đời sống xã hội Trung Quốc, cuộc sống đang phát đi ngày càng nhiều tín hiệu
về sự suy vong của ĐCSTQ (David Shambaugh), không ít trong giới học giả TQ thừa
nhận tham nhũng đang phá hủy chế độ (Lin Zhe)… Song đây là vấn đề của thời gian
chưa tiên lượng được.
6. (a)Sự vận động của các mâu thuẫn nội tại trong xã hội
Trung Quốc, (b)cùng với sự phát triển của giới trung lưu, (c)áp lực phải thích
nghi với các chuẩn mực quốc tế để phát triển – có lẽ đấy là 3 yếu tố chính thúc
đảy quá trình cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc. Cả 3 yếu tố này đang tiếp
tục tăng lên. Có một sự thật: Trong cuộc sống hiện tại, quyền
lực tuyệt đối hiện nay của ĐCSTQ đối với các nhóm lợi ích đang ngày càng giảm;
chính thực tế này mặt nào đó hé lộ sự vận động không thể cưỡng lại của xã hội
Trung Quốc hướng về cải cách. Song vì cải cách thể chế chính trị ở đất nước
này có 1,3 tỷ dân với văn hóa Đại Hán, lại rất nhậy cảm với sự phân rã Trung Quốc,
nên thước đo thời gian có lẽ phải tính bằng nhiều năm, bằng thập kỷ, hoặc cả thế
kỷ?.. Có người còn dự báo thế kỷ 21
là thế kỷ Trung Quốc (Schell,
Delury…)! Sống cạnh Trung Quốc thì phải
tính toán như thế. Cũng đừng phí thời giờ
nghĩ hộ người Trung Quốc nên cải cách như thế nào, họ thông minh hơn người
ngoài rất nhiều trong các vấn đề của họ… Nhưng cần lưu ý: Mối lo bị phân rã của Trung
Quốc cực kỳ nhạy cảm và là một trong những nguyên nhân chủ yếu đối kháng cải
cách thể chế chính trị. Bởi vì phân rã đồng
nghĩa với xóa bỏ đế chế Trung Quốc.
7.
Dù không tự
nguyện, về cơ bản Trung Quốc chủ yếu vẫn phải lựa chọn đi với cả thế giới theo
cách của Trung Quốc. Vì thế, hòa bình và phát triển phải luôn luôn
được coi là ưu tiên số một của cả thế giới, vì thế khuyến khích mọi hợp tác có
lợi cho hòa bình và phát triển trên cơ sở bình đẳng + cùng có lợi và bảo đảm
tôn trọng chủ quyền của moi bên hữu quan dù là rất khó, song vẫn phải là mục
tiêu phấn đấu của các nước hữu quan trong các mối quan hệ với Trung Quốc. Đòi
hỏi này bao gồm cả sự cần thiết dành cho Trung Quốc một vị thế quốc tế đúng với
ảnh hưởng và trách nhiệm của nó, tôn trọng những giá trị văn hóa chân chính của
Trung Quốc.
Hợp tác như vậy còn là phương thức làm
cho cách đi của Trung Quốc với cả thế giới ngày càng gần với cả thế giới.
8. (a)Nhìn cho rõ bản chất những vấn đề Trung Quốc đặt ra
cho thế giới bên ngoài và (b)tâm lý bài xích Trung Quốc là hai việc hoàn toàn
khác nhau. Bài xích bất kể một nước nào, đều là sai và chỉ dẫn đến mù quáng.
Bài xích Trung Quốc càng như thế, nhưng với hệ quả và cái giá phải trả sẽ lớn
hơn nhiều, và không thể thay đổi được tình hình. Bài xích Trung Quốc, sợ Trung
Quốc, hay dựa vào Trung Quốc đều ngu xuẩn như nhau, không thay đổi được gì, chỉ
tăng thêm cái giá phải trả.
9. Ứng xử của các quốc gia trong quan hệ với Trung Quốc
cho thấy: Chỉ thực hiện được bình đẳng + cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng độc lập
chủ quyền của nhau trong quan hệ với Trung Quốc nếu quốc gia ấy – dù là nước
nhỏ hay lớn – có bản lĩnh đối nội & đối ngoại là chính mình. Hiểu Trung
Quốc là một thách thức, điều này là cần thiết. Song làm thế nào sống được với
thách thức ấy, điều này quan trọng hơn nhiều. Vẫn có khả năng, có con đường biến
thách thức ấy thành cơ hội, nếu quyết cùng với cả thế giới tiếp cận thách thức này,
bằng ý chí và trí tuệ với mục đích như vậy.
10.
Siêu cường nước
kinh tế lớn số 1 xuất hiện trên bàn cờ thế giới đồng thời cũng làm cho
các “cuộc chơi” giữa các nước lớn phức tạp hơn. Cụ thể bây giờ một bên là “lợi
ích cốt lõi bao gồm đến 80% Biển Đông” đang đối chọi quyết liệt với bên kia
là chiến lược “Pivot to Asia & Pacific” + TPP. Các nước bên thứ ba phải làm thế nào để bảo tồn được lợi ích chính
đáng và chủ quyền của mình, đồng thời không cho phép biến nước mình thành sân chơi của các cuộc
chơi giữa các ông lớn, hoặc biến thành vật đổi chác với nhau của các nước lớn.
Đây thật là một nhiệm vụ rất khó. Nước
bên thứ ba chỉ có sự lựa chọn: thành hoặc bại! Không có kịch bản khác.
11.
Không có “free
lunch” trong tìm cách sống cùng được với “con rồng” Trung Quốc và chế ngự nó. Mỗi
quốc gia dù lớn dù nhỏ đều phải dấn thân cho những giá trị toàn cầu, để hiệp đồng
thúc đẩy xu thế tiến bộ của cả thế giới – bao gồm cả trong lòng Trung Quốc, để
các chuẩn mực của các giá trị toàn cầu được cả thế giới – bao gồm cả Trung Quốc
– cùng nhau tôn trọng, thực hiện, phát huy. Đã lỗi thời nhìn nhận dân tộc này
dân tộc nọ theo tư duy phân biệt chủng tộc; cần trí tuệ và bản lĩnh xây dựng mối
quan hệ bình đẳng và hữu ái giữa các dân tộc mọi quốc gia trên cơ sở tôn trọng
nhân phẩm và quyền con người – đây chính là một trong những giá trị toàn cầu,
vì nó chúng ta phấn đấu.
Vấn đề Trung Quốc đang thôi thúc nước ta
thức tỉnh: Ngày nay, để sống chung với lũ, hơn bao giờ hết phẩm chất và bản
lĩnh quốc gia, bản lĩnh dân tộc là yếu tố quyết định vận mệnh đất nước: Phải trở
thành một quốc gia độc lập của các công dân tự do.
*
Nhìn toàn cục sự vận động kinh tế thế giới hiện nay trong bối cảnh trật tự quốc tế một
siêu đa cường đang ngày càng định hình rõ nét, có thể rút ra 3 điều đang lưu ý
sau đây:
Một
là, sự việc CA – TBD trở thành trung tâm năng động mới của kinh tế
thế giới trong bối cảnh cường quốc kinh tế số 1 (Mỹ) và cường quốc kinh tế số 2
(Trung Quốc) đều coi khu vực này là trọng tâm, đang tạo ra những căng thẳng mới
– đặc biệt là tại khu vực Đông Nam Á và Biển Đông; trong khi đó những vấn đề
“nóng” ở các khu vực trên thế giới vẫn tiếp tục giữ nguyên cường độ. Mọi quốc
gia đều đứng trước những thách thức và cơ hội mới, đặc biệt trong đó Trung Quốc
với mọi nỗ lực vươn lên siêu cường mang sắc thái Đại Hán đang trở thành vấn đề
của cả thế giới.
Hai
là: Những thách thức và cơ hội mới trong cục diện thế
giới hiện nay, với tất cả tính triệt để và tính quyết liệt của chúng, đang gõ cửa
từng quốc gia. “Phải thay đổi!” – điều này ngày nay trở thành thành đòi hỏi quyết
liệt như một mệnh lệnh đối với mọi quốc gia.
Ba
là: Cuộc sống cũng cho thấy tập hợp lực lượng xoay quanh các
giá trị toàn cầu đang trở thành một xu thế, một quyền lực ngày càng mạnh
trong quá trình phát triển của thế giới ngày nay. Mỗi nước cần vận dụng khả
năng mới này tạo ra tập hợp lực lượng để bảo vệ lợi ích chính đáng
của mình, đồng thời thúc đẩy hợp tác: Cùng
nhau vì hòa bình, vì phát triển, chống lại cái “ác” (vấn đề dấn thân).
*
VII
– Nhìn lại chặng đường 38 năm qua của Việt Nam
Các
vấn đề trình bầy trong các phần I – VI cho phép kết luận thế giới đang chuyển
mình đi vào một thời kỳ phát triển mới có nhiều sóng gió hơn, trong đó CA – TBD
chiếm vị trí nổi bật.
Chặng
đường đầu tiên của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời bình đến nay
là gần 4 thập kỷ, trong đó thời kỳ đổi mới đã làm xong nhiệm vụ chuyển đổi thể
chế kinh tế; ngày nay đất nước đứng trước đòi hỏi phải chuyển sang một giai đoạn
phát triển mới.
(1)Nhìn
nhận nước ta đang đứng ở đâu, mạnh yếu ra sao trước khi bước vào thời kỳ phát
triển mới này, (2)nhìn nhận mọi thách thức và cơ hội mới của thế giới đang đặt
ra cho nước ta, (3)nhìn nhận những đòi hỏi
phát triển của chính nước ta trong bối cảnh mới của thế giới để từ đó có quyết
sách phù hợp, đấy là những việc bắt buộc phải làm.
Dưới
đây là những điều trăn trở.
VII
– 1. Điểm nổi bật sau khi kết thúc thời kỳ đổi mới: Bên cạnh những thành công,
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc vấp phải nhiều thất bại nghiêm trọng
VII – 1.1 So sánh nước ta với chung quanh
Thành
công cơ bản của 28 năm đổi mới là cứu đất nước thoát khỏi đổ vỡ, xóa bỏ cơ chế
kinh tế bao cấp để đi vào cơ chế kinh tế thị trường, mở đường cho đất nước đi
vào thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH). Đã có nhiều đánh giá,
ca ngợi những thành công của thời kỳ đổi mới, thiết nghĩ như thế là đủ. Bây giờ
nên tập trung đánh giá kỹ những việc chưa làm được, những thiếu sót, tồn tại.
Tai
chúng ta đã nghiện kiểu so ta hôm nay với ta
hôm qua. Không hiếm khi cách so sánh này bị lạm dụng, với ý đồ
xấu.
Hiển
nhiên, những gì đất nước hôm nay đạt được so với hôm qua, thật là rất lớn. Đấy
là sự thật. Ví dụ, trước khi tiến hành đổi mới (1986) GDP p.c danh nghĩa của nước
ta khoảng xấp xỉ 200 USD; hiện nay GDP p.c. danh nghĩa của nước ta khoảng 1500
USD, nghĩa là cao gấp 7 - 8 lần trong vòng 3 thập kỷ (nói chính xác là 28 năm)...
So sánh như vậy là cần thiết, nhưng hoàn toàn chưa đủ. Nếu chỉ đơn thuần xem
xét theo cách như vậy, tai mắt chúng ta bị khỏa lấp nhiều thứ lẽ ra cần phải biết
tường tận hơn.
Ví dụ, nếu ngó ra thế
giới chung quanh để so sánh ta với người, chúng ta sẽ thấy gì?
Thử
nhìn sang Trung Quốc: Trong gần 4 thập kỷ (chính xác là 35 năm kể từ khi
tiến hành cải cách năm 1978) GDP danh nghĩa của Trung Quốc tăng 35 lần, GDP p.c danh nghĩa tăng khoảng 20 lần.
-
Bước vào cải cách kinh tế năm 1978 GDP
p.c. của Trung Quốc cao hơn của ta khoảng +100 USD, nhưng hiện nay khoảng cách
này là +4500 USD.
-
Trước cải cách năm 1978, kinh tế Trung
Quốc chỉ lớn hơn kinh tế của nước ta khoảng 10 - 15 lần!.. Hiện nay GDP danh
nghĩa của Trung Quốc lớn của nước ta gấp 58 lần.
-
Cả 2 nước Việt Nam và Trung Quốc – nói
theo ngôn ngữ chính thống – đều là xã hội chủ nghĩa. Nhưng hiển nhiên theo dòng
thời gian, nước ta càng chạy đua với Trung Quốc, càng tụt hậu một cách nguy hiểm…
So
với nhiều nước có mối liên hệ quan trọng với nước ta, chắc cũng thấy nhức nhối.
Ví
dụ, so với Thái Lan: Năm 1986 (bắt đầu đổi mới) GDP
p.c. của Việt Nam ước khoảng 200 USD, của Thái Lan lúc ấy là 807 USD, chênh
nhau -607 USD; hiện nay của ta là 1500 USD, của Thái Lan là 5500 USD chênh nhau
là -4000 USD (số tròn),. Năm 1986 các nhà kinh tế của ta ước tính phải mất 20
năm mới đuổi kịp được Thái Lan, bây giờ khoảng cách này không hề thu hẹp lại.
Nói riêng về hệ thống giao thông vận tải, nếu nước ta giữ nguyên tốc độ phát
triển như hiện nay, sau 20 năm nữa khó có thể bằng Thái Lan bây giờ.
So
với Hàn Quốc: Hiện nay GDP danh nghĩa của Hàn Quốc
cao hơn của nước ta khoảng 10 lần, mặc dù diện tích Hàn Quốc chỉ bằng khoảng
1/3 Việt Nam, dân số chỉ hơn một nửa Việt Nam.
GDP p.c. danh nghĩa hiện nay (2012) của Hàn Quốc cao hơn nước ta khoảng
15 lần (23.133 USD / 1.528 USD). Hiện nay Việt Nam đang mắc vào cái bẫy nước
thu nhập trung bình thấp, điều này có nghĩa khả năng cạnh tranh và con đường trở
thành nước công nghiệp phía trước càng thêm nhiều chông gai. Khoảng cách phát
triển giữa ta và Hàn Quốc tiếp tục doãng ra.
Một
khía cạnh so sánh khác: Trong ba thập kỷ đầu tiên của đổi
mới (nói chuẩn xác là 28 năm), toàn bộ nguồn lực Việt Nam nhận được từ bên
ngoài dưới mọi dạng (FDI đã thực hiện, ODA, viện trợ không hoàn lại, kiều hối
các loại…) ước khoảng 200 tỷ USD (sự thật
có thể hơn), nghĩa là khoảng gấp đôi toàn bộ nguồn lực bên ngoài Hàn Quốc nhận
được trong ba thập kỷ đầu tiên trên con đường kiến thiết của nó sau cuộc
chiến tranh 1950 – 1953; nhưng đầu thập kỷ 1980 Hàn Quốc đã trở thành
NIC (nước mới công nghiệp hóa). Còn Việt Nam hôm nay vẫn đứng rất xa cột mốc được
công nhận là NIC. Mặc dù so với Hàn Quốc,
nước ta có quy mô kinh tế lớn hơn, diện tích đất nước rộng hơn, tài nguyên
thiên nhiên phong phú hơn – nghĩa là thuận lợi hơn Hàn Quốc rất nhiều.
Một
con số khác nữa: Kế hoạch Marshall của Mỹ nhằm viện trợ
tái thiết cho các nước Tây Âu sau chiến tranh thế giới II (với mục đích ngăn ngừa
sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản) được xúc tiến trong các năm 1948 – 1951, với
tổng số tiền là 13 tỷ USD (tương đương 5% GDP nước Mỹ thời đó)[51]
- quy theo thời giá hiện nay ước khoảng gần 100 tỷ USD (số tròn). Kế hoạch
Marshall đã thực hiện được mục tiêu của nó, kinh tế các nước Tây Âu thực sự đã
được vực dậy nhanh chóng, từ thập kỷ 1960 đã bắt đầu bỏ xa các nước XHCN Liên
Xô Đông Âu về năng suất lao động. Không thể không băn khoăn, nước ta đến nay nhận
được khối nguồn lực từ bên ngoài khoảng gấp đôi kế hoạch Marshall dành cho toàn
bộ các nước Tây Âu, nhưng nước ta hiện nay vẫn chưa tạo được bước ngoặt mở ra giai đoạn phát triển
mới của đất nước.
VII
– 1.2. Không thể hoàn thành công nghiệp hóa Việt Nam vào năm 2020
Trong
các góp ý với các Đại hội ĐCSVN kể từ Đại hội IX (2001) cho đến nay (3 kỳ Đại hội
liên tiếp), nhiều ý kiến đã đánh giá đường lối xây dựng đất nước hiện nay không
thể đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp[52]
vào năm 2020.
Kể từ khi thực hiện đổi mới năm 1986, nếu tính đến
năm 2020 như các nghị quyết của ĐCSVN ấn định, thời kỳ công nghiệp hóa ở nước
ta sẽ là 34 năm, thời gian 10 năm trước đổi mới bỏ không tính. Hôm nay có thể
nói chắc chắn: Không thể hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hóa nước ta trong vòng 7
năm nữa.
Để trở thành nước công nghiệp dù là lọai gì (đấy là NIC, hay “cơ bản là
nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại”như ghi trong các nghị quyết của
ĐCSVN), từ nay đến năm 2020 – nghĩa là còn 7 năm nữa – Việt Nam không có cách
nào có thể đưa tỷ trọng lao động nông nghiệp hiện nay là 57% xuống còn dưới 20%
- một trong những tiêu chí tối thiểu và bắt buộc. Hàn Quốc khi được coi là trở thành NIC, tỷ trọng
lao động nông nghiệp chỉ còn 16 - 17%. Cơ cấu lao động của Hàn Quốc hiện nay
(2012) như sau: nông nghiệp 6,4%, công nghiệp 24,2%, dịch vụ và các ngành nghề
khác 69,4%.
Một ước tính thô thiển: Ví dụ, muốn giảm tỷ trọng
lao động nông nghiệp cả nước hiện nay xuống = >20%, ít nhất phải giải quyết
được vấn đề mỗi lao động nông nghiệp sẽ phải có một diện tích canh tác bình
quân cả nước gấp 3 - 4 lần diện tích canh tác bình quân hiện nay; ví dụ: hiện
nay là 1 ha / 3 lao động, phải chuyển sang 1 ha /
1 lao động. Giả thử có duy ý chí đến thế nào đi nữa, làm sao có thể
hoàn tất việc này với quỹ thời gian là 7 năm còn lại!?
Chưa nói đến một thực tế khác còn gay gắt hơn nhiều:
Với trình độ thâm canh và trình độ cơ giới hóa tự phát và còn ở trình độ thấp
của tư nhân hiện nay đã đạt được trong nông nghiệp nước ta, mỗi lao động
nông nghiệp hiện nay ước lượng sẽ cần phải có diện tích canh tác bình quân gấp
10 lần mức diện tích canh tác bình quân hiện có, để có đủ việc làm quanh năm
với tính cách là nông dân, tính sơ bộ tối thiểu là 3 ha / 1 lao động nông nghiệp.[53]
Đặt nhiệm vụ công nghiệp hóa sang một bên tính sau, bản
thân vấn đề 3 ha / 1 lao động nông nghiệp đang trở thành đòi hỏi ngày càng bức
xúc của nông nghiệp nước ta. Không giải quyết được, sẽ đồng nghĩa với kìm hãm sự
phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, phát sinh thêm nhiều mâu thuẫn
xã hội mới, đồng thời cũng có nghĩa sẽ không có công nghiệp hóa!
Xin tạm đặt cho vấn đề tích tụ ruộng đất trong thời
kỳ công nghiệp hóa của nước ta cái tên: vấn đề 3 ha / 1 lao động nông nghiệp.
Giả định chuyện 3 ha / 1 lao động nông nghiệp ngay từ
đầu đã được thiết kế thành một mục tiêu trong đường lối phát triển
nông nghiệp và nông thôn để tiến hành công nghiệp hóa cả nước, thiết nghĩ 28
năm qua là khoảng thời gian đủ, để thực hiện xong các bước đi thích hợp,
tự nhiên, theo cơ chế thị trường (có thể là tiệm tiến), tuần tự nối tiếp nhau từ
thấp lên cao, để cuối cùng là hoàn tất mục tiêu này trong phát triển hài hòa của
cả nền kinh tế, không gây nên những xáo động nguy hiểm.
Nhưng đường lối phát triển nông nghiệp và nông thôn của
ĐCSVN cho đến hôm nay không hề có ý niệm về vấn đề 3 ha / 1 lao động nông nghiệp
như một trong những bước khởi đầu chiến lược mang tính tất yếu của nhiệm
vụ công nghiệp hóa. Quan điểm của ĐCSVN trong vấn đề thiết yếu này lại là bám
riết vấn đề hạn điền và rất khắt khe với kinh tế trang trại, tất cả chỉ để giữ
vững định hướng XHCN – được hiểu ngầm là không để cho hình thành giai cấp bóc lột
mới trong nông nghiệp và nông thôn..
Toàn bộ đường lối của ĐCSVN về nông nghiệp và phát
triển nông thôn chỉ nhằm vào giải quyết những đòi hỏi phát triển trước mắt (an
ninh lương thực, xuất khẩu, an ninh xã hội...)… Đi đến đâu lãnh đạo cũng yêu cầu
nông dân vắt óc nghĩ: Trồng cây gì? Nuôi con gì? Lẽ ra những
câu hỏi bức xúc này nên để nông dân dành cho lãnh đạo.
Lối
tư duy định hướng XHCN như vậy của hệ thống chính trị đã vứt bỏ trách nhiệm của
nó trong việc tìm kiếm khả năng thực hiện bước tích tụ ruộng đất có ý nghĩa chiến
lược này một cách văn minh và hiệu quả nhất.
Ai cũng biết: Mô hình hợp tác xã cũ sau cải cách ruộng
đất để đi lên sản xuất lớn đã thất bại; rồi đến mô hình hợp tác xã hiện hành
đang thoi thóp biến tướng thành một thứ “tổ phục vụ” và chẳng giúp được gì
trong hiện đại hóa nông nghiệp. Trong các văn kiện chính thống hiện nay và báo
chí lề phải, mọi ngôn từ ca ngợi cái gọi là hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp
thật ra chỉ là sự tự đánh lừa chính mình.
Cũng phải nói sòng phẳng, giả thử hệ thống chính trị
này thấy được vấn đề và muốn thực hiện
bước khởi đầu 3 ha /1 lao động nông nghiệp, thì nó cũng bất lực. Đơn giản vì
hệ thống chính trị này không có trí tuệ
và phẩm chất để thực thi, đồng thời bộ máy luật pháp của nó cũng không kham nổi.
Nhìn lại những gì đã xảy ra trong lĩnh vực đất đai hàng chục năm qua, có thể
phán đoán: Dưới chính quyền này, thực hiện tích tụ ruộng đất 3 ha
/ 1 lao động chắc chắn sẽ biến tướng thành cướp bóc ruộng đất, rồi sẽ
có hàng triệu nông dân sẽ gia nhập đội quân vô sản thất nghiệp... Chú
ý: Hàn Quốc và Đài Loan nhờ có lộ trình đúng gắn kết nông nghiệp với
công nghiệp hóa và đô thị hóa nên đã tránh được tình trạng “ăn cướp” trong quá
trình tích tụ ruộng đất để hiện đại hóa nông nghiệp.
Hiện nay, mặc dù vẫn là 1 ha ruộng đất / 3 lao động,
thế nhưng cả nước có hàng vạn (hay chục vạn?) người phải đi lao động kiếm sống ở
nước ngoài – hợp pháp hoặc không hợp pháp, không ít người phải sống chui lủi
không còn là người, bị bóc lột thậm tệ ở trong nước cũng như ở nơi họ đi làm
thuê. Còn phải kể đến hàng vạn phụ nữ lấy chồng nước ngoài vì muốn thoát khỏi
đói nghèo ở nông thôn. Không hiểu có người có chức có quyền nào cảm thấy xấu hổ
cho mình và cho đất nước mình về thực tế này hay không, mặc dù đây là chuyện
không thể ngăn cản và cũng không nên ngăn cản trong thực trạng đất nước hiện
nay. Cuộc sống xảy ra quá nhiều chuyện khiến tôi thầm lo: Hay là chúng ta đang mất đi cảm giác nhận biết
thế nào là nhục (xin lỗi vì dùng cụm từ chúng
ta).
Nói theo lý luận về
quan điểm giai cấp và định hướng XHCN của ĐCSVN, có thể kết luận: Thể
chế chính trị hiện thời và tư duy của nó đã kiến tạo nên một thứ quan hệ sản xuất
đang kìm hãm sức phát triển của nông nghiệp nước nhà, mặc dù trong thời đại
thông tin ngày nay nước ta có thể có bất kỳ know how nào và có thể huy động bất
kỳ nguồn lực nào cho một nền nông nghiệp phát triển cao đáng mong muốn. Thể chế
chính trị hiện thời hoàn toàn không thể làm khác, thậm chí nó bóp chết cách làm
khác.
Với bình quân là 1 ha / 3 lao động
nông nghiệp, hiện nay cả nước có trên 75 triệu thửa ruộng, thuộc quyền sở hữu của
9 triệu 259 nghìn hộ nông dân – nghĩa là vô cùng manh mún, cho đến ngày hôm nay
vẫn chưa làm xong việc dồn điền dồn thửa.
Trong nông nghiệp đang tranh luận sôi nổi vấn đề giảm
2 triệu ha trồng lúa ở đồng bằng Nam Bộ để chuyển sang canh tác cây khác,
nhằm tăng thu nhập cho nông dân đang thua lỗ. Lo nghĩ này đáng trân trọng, song
chưa hẳn chủ trương này là đúng hoặc khả thi. Hiện nay vẫn chưa tìm ra được những
giải pháp thuyết phục cho mọi khâu liên có quan trong quá trình thực hiện mong
muốn này, cũng như cho toàn bộ các vấn đề có liên quan đến tiêu thụ đầu
ra mới (các sản phẩm nông nghiệp khác không phải lúa). Nghĩa là còn thiếu
rất nhiều giải pháp đồng bộ đi kèm, còn nợ rất nhiều câu trả lời thỏa đáng cho
mọi vấn đề đặt ra, cần được khai phá tiếp.
Cứ giả thiết là trời giúp cho tìm được các giải pháp
thỏa đáng cho mọi vấn đề đặt ra trong việc chuyển đổi 2 triệu ha thôi trồng lúa
như thế, song tựu trung đấy cũng sẽ chỉ là giải pháp tình thế, mang tính chữa
cháy mà thôi. Bởi vì, với diện tích canh tác bình quân nếu mãi mãi chỉ vỏn vẹn 1 ha
/3
lao động như hiện nay, cái
nghèo và lạc hậu sẽ tiếp tục đeo đẳng nông dân nước ta đời đời kiếp kiếp, đồng
thời giam hãm tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa kinh tế đất nước.
Nông nghiệp đã và đang hoàn thành xuất sắc việc bảo đảm
an ninh lương thực, ngày nay chiếm được khoảng 1/5 – 1/4 kim ngạch xuất khẩu cả
nước, đồng thời là yếu tố căn bản góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế, ổn định
chính trị quốc gia. Phải nói đấy là những đóng góp vô giá của nông dân vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Những thành tựu này cho thấy tiềm năng to lớn
của nông nghiệp Việt Nam. Song tiếc rằng đường lối công nghiệp hóa – hiện đại
hóa của ĐCSVN không thể nhìn nhận vấn đề hiện đại hóa nông nghiệp như một bộ phận
hữu cơ của công nghiệp hóa, gắn kết hữu cơ với quá trình từng bước đưa lao động
nông nghiệp sang các lĩnh vực kinh tế khác (công nghiệp, dịch vụ…), do đó không
đầu tư cho nông nghiệp công sức thỏa đáng. Hệ quả là toàn bộ quá trình CNH – HĐH
đã phải trả giá đắt. Nghị quyết số 26 ngày 04.08-2008 về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn tuy có đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 đạt chỉ còn tỷ lệ 30%
lao động xã hội trong nông nghiệp – một mức còn xa với so với tiêu chí của một
nước công nghiệp, song lại tránh né hoàn toàn vấn đề nan giải số 1 là giải quyết
đòi hỏi “3ha / 1 lao động nông nghiệp” như thế nào? Còn 7 năm nữa, tránh
né như vậy e rằng mục tiêu 30% lao động cả nước làm nông nghiệp chắc cũng sẽ chỉ
là trên giấy (hiện nay là 57%).
Sai lầm nói trên trong nông nghiệp đã tiêu phí mất 28
năm (kể từ khi đổi mới) và nhiều nguồn lực khác của đất nước. Trong khi đó tài
nguyên quốc gia đã bán đến mức cạn kiệt. Kết quả đạt được là đến hôm nay là vẫn chưa
thấy bóng dáng một nước Việt Nam công nghiệp; đồng thời quốc gia vẫn chỉ sở hữu
một nền nông nghiệp cơ bắp.
Bây giờ vấn đề đất đai đang rối bời. Hiện tượng nông
dân mất ruộng và bỏ ruộng đang tích tụ những căng thẳng mới rất nóng bỏng trong
xã hội[54].
Thể chế điều hành đất nước còn rất nhiều yếu kém và đang bị nạn tham nhũng lũng
đoạn nghiêm trọng. Sự cộng hưởng của quá nhiều bất cập trong mọi mặt phát triển
đất nước tích tụ suốt 3 thập kỷ vừa đang đẩy đất nước đi vào ngõ cụt. Tất cả
đang tạo nên một tình trạng đình đốn rất nguy hiểm trong phát triển nông nghiệp
nói riêng, trong toàn bộ quá trình công nghiệp hóa nói chung.
Nói
thêm về công nghiệp: Điều nguy hiểm không phải ở chỗ nền
công nghiệp Việt Nam hiện nay còn non trẻ, mà ở chỗ: Sau 28 năm đổi mới, đất nước
đang sở hữu một nền công nghiệp phụ thuộc[55],
ô nhiễm, què quặt, trùng lặp, hoàn toàn thiếu tính quy hoạch cho sự phát triển
đồng bộ và sự phát triển tiếp theo… Nói nghiêm túc, cho đến nay chưa có chiến lược
công nghiệp hóa, chưa xác lập được lợi thế so sánh của nền công nghiệp nước ta
là gì, không làm rõ được nước ta sẽ trở thành một nước công nghiệp như thế nào!
Lợi
thế so sánh lớn nhất của Việt Nam là con người và đất đai (hiểu
theo cả với nghĩa địa chính trị và địa kinh tế), song cả 2 yếu tố này đều bị chà
đạp, hủy hoại và lãng phí một cách không thương tiếc.
Hiện nay, toàn bộ các yếu tố phát triển kinh tế nói
chung và cho công nghiệp nói riêng theo phương thức phát triển theo chiều rộng
(extensive development) đã được khai thác gần như hết mức. Đó là các yếu tố: sức
lao động rẻ, tài nguyên, đất đai, môi trường, tăng trưởng nhờ đầu tư mới… Kết
quả đạt được là nước ta có một nền công nghiệp gia công là chủ yếu, tiêu thụ
nhiều nguyên liệu và năng lượng, hàm lượng khoa học và công nghệ thấp, giá trị
gia tăng rất thấp, tỷ lệ mức tiêu thụ đầu vào trên một sản phẩm ngày càng cao…[56].
Những lợi thế về lao động rẻ và địa lý tự nhiên (đất đai, các nguồn tài nguyên
khác) đã bị khai thác tới mức cạn kiệt, môi trường bị tàn phá nghiêm trọng,
càng phát triển càng phụ thuộc vào bên ngoài…
Đặc biệt nguy hiểm là hiện nay các yếu tố phát triển
công nghiệp theo chiều rộng đã được khai thác tới mức trần, nhưng lại chưa tạo
ra những tiền đề khả dĩ đưa nền công nghiệp nước nhà đi vào thời kỳ phát triển
theo chiều sâu và thời kỳ của kinh tế tri thức. Trên tất cả các phương diện trọng
yếu như (1)chất lượng nguồn nhân lực, (2)tiềm lực khoa học kỹ thuật, (3)sự phát
triển của kết cấu hạ tầng vật chất và kỹ thuật, (4)tạo dựng và phát triển các
giá trị, các yếu tố văn hóa và tinh thần phải có của một xã hội công nghiệp, (5)năng
lực quản lý quốc gia… tất cả đều quá tải so với đòi hỏi của hiện tại và không thể
đáp ứng những đòi hỏi của giai đoạn phát triển mới của công nghiệp nói riêng và
của cả nền kinh tế quốc dân nói chung.
Sau
3 thập kỷ, hiện nay kinh tế nước ta vẫn chưa ra khỏi thời kỳ phát triển của chủ
nghĩa tư bản hoang dã.
Xin
đặc biệt lưu ý, khi bắt tay vào quá trình CNH –
HĐH, nhất là từ khi vấn đề thu hút FDI và hội nhập quốc tế được nhìn nhận đúng
tầm quan trọng của nó, đã có không biết bao nhiêu cảnh báo của trong, ngoài nước
– từ các nhà khoa học, đến các giới kinh tế, chính khách…: Việt Nam cần tận dụng
lợi
thế nước đi sau để không đi vào vết xe đổ của nhiều quốc gia trên con
đường công nghiệp hóa – đó là phải tránh trở thành bãi thải công nghiệp của
các nước phát triển, các nước đi trước.
Tiếc rằng, Việt Nam về nhiều mặt đã và đang trở
thành một bãi thải công nghiệp như thế.
Tuy những xí nghiệp mía đường, xi-măng lò đứng… đã một
thời là những truyện cổ tích đau lòng, nhưng hiện nay cả nước có hàng trăm công
trình công nghiệp trọng yếu có trình độ công nghệ hạng 3, hạng 4 trở xuống
(trong đó có rất nhiều công trình công nghiệp nhập từ Trung Quốc), với chi phí
sản xuất và mức độ ô nhiễm môi trường đều rất cao. Sản phẩm của FDI chủ yếu là các
mặt hàng gia công và các sản phẩm thô mang tính nguyên liệu, nguyên liệu sơ chế,
sản phẩm trung gian là chính (như xi măng, thép, bột giấy, các loại khoáng sản khai
thác trong nước, alumina Tây Nguyên…).
Hiện nay một số khu đất lớn ở các vùng trọng yếu
trong cả nước đã được khoanh thành những khu công nghiệp khủng, diện tích mỗi
khu là hàng nghìn, thậm chí hàng vạn ha; mỗi vùng hay khu công nghiệp như thế
có tổng vốn đầu tư (dự kiến) của nước ngoài lên đến vài chục tỷ USD, chủ yếu để
sản xuất các nguyên liệu như thép, các sản phẩm lọc dầu, các loại sản phẩm khác
tiêu thụ nhiều nguyên liệu và năng lượng... để bán cho nước ngoài. Nói thô thiển,
đấy là một dạng bán lao động rẻ, mặt bằng sản xuất, môi trường, nguyên liệu và
năng lượng tại chỗ… Tiếp tục xu hướng đi sâu vào chức năng “sân sau”, chức năng
“bải thải công nghiệp” cho các nước đi trước như thế, Việt Nam làm sao đi lên
hiện đại được? làm sao tiến lên kinh tế trí thức?...
Ví
dụ, đi thăm khu công nghiệp Vũng Áng rộng khoảng 40
km2 (4000 ha, khoảng 2/3 trên bộ và 1/3 trên mặt biển), tổng đầu tư dự kiến
trên 9 tỷ USD… tôi không sao tránh khỏi lo lắng: Nước ngoài[57]
thuê đất và biển của ta để bê vào nước ta toàn bộ một khâu sản xuất nào đó đã
quá “bẩn” và lỗi thời đối với họ[58]–
cụ thể ở đây là để sản xuất thép; giai đoạn I dự kiến là 7 triệu tấn / năm,
giai đoạn II dự kiến sẽ là 15 triệu tấn
/ năm… Quặng nhập và mỏ sắt Thạch Khê[59]
đang được triển khai là đầu vào cho dự án này. Hàng loạt công trình đi kèm là bến
cảng, nhà máy điện…, trong đó có công trình đưa 1 triệu m3 nước / ngày lấy từ
thượng nguồn bằng đường ống để phục vụ khu công nghiệp - không hiểu sẽ lấy nước
ở đâu, mà ai cũng biết miền Trung khan hiếm nước như thế nào, khí hậu rất nóng…
Sắp tới khu này dự kiến sẽ mở rộng thêm 1000 ha nữa cho lọc dầu… Tôi không sao hình dung nổi những hệ quả về mọi
mặt sẽ xảy ra cho môi trường, cho nhân dân địa phương, cho cả nước… Chân bước đi trên vùng đất này, nhưng trong đầu
tôi ám ảnh một viễn tưởng thảm họa môi trường cho vùng này trong tương lai,
hàng nghìn công nhân khai thác mỏ và luyện kim ở đây sẽ đưa nước ta lên nền
kinh tế trí thức?..
Đối với loại công trình khủng như thế, đất nước và
người dân có quyền có tiếng nói gì? Hay là cứ quyết là xong. Quyết là thi hành!
Phải chăng đất nước ta đang bị biến thành đất nước cho thuê… Mọi hậu quả về môi
trường, về an ninh, về tiền đồ phát triển… nước ta gánh chịu hết – chỉ để phục
vụ cho việc làm ra một khối lượng thép khổng lồ bán cho nước ngoài!? Trong những
năm qua, đã nhiều lần tôi rãi bầy lo nghĩ này, gần đây nhất là việc khai thác
titan miền Trung, khai thác bauxite trên Tây Nguyên, bây giờ lại đến mối lo
Vũng Áng, nhiều nơi khác nữa!..
Trước mắt đã có lời cảnh báo cho một nơi khác: Không
được để khu công nghiệp Chu Lai trở thành bãi thải!
Sắp tới sẽ có thể có khu lọc dầu khủng 27 tỷ USD đầu
tư ở Bình Định của Thái lan – do công ty lọc dầu PPT thực hiện… Tôi thực sự
rùng mình, trong lòng tự hỏi tại sao thiên hạ và phía ta cứ thích bê những thứ “khủng” đầy ô nhiễm như thế vào nước
ta? Khủng như thế là thật đến đâu, giả đến đâu? Tiền này thực là của ai?.. Nước
ta đến nay đã ăn phải không ít những quả lừa vỹ đại, vốn Đài Loan té ra là vốn
Trung Quốc đại lục… … ... Vân vân…
Sắp tới, bên cạnh khu công nghiệp dầu khí khủng Bình
Định nói trên, lại sẽ thêm khu công nghiệp Phú Yên chế biến 8 triệu tấn dầu /
năm…
Xin lưu ý: Nước ta mật độ dân số cao nhất châu Á,
nghĩa là đất hẹp người đông, vốn quý nhất của đất nước là con người và đất đai
(bao gồm cả vị trí địa lý), song đem dùng như thế trong thời toàn cầu hóa hiện
đại ngày nay có đáng không? Đất nước ta có thể mở mày mở mặt với nền công nghiệp
“high carbon”, bán lao động cơ bắp, bán không gian sinh tồn và bán môi trường
là chính như vậy không? Là nước đi sau, nước ta có nhất thiết
phải ôm lấy những thứ “khủng” thiên hạ thải ra như thế không? Vân vân… Trong
khi đó khoảng 1/3 đến ½ diện tích các khu công nghiệp đã xây dựng chưa có người
thuê… Chẳng lẽ tôi chỉ là một kẻ yếu bóng vía mù quáng!?
Trí tuệ cả nước và trên thế giới không thiếu lời giải
để ngay từ đầu có thể tránh cho Việt Nam nguy cơ trở thành bãi thải công nghiệp
cho thiên hạ. Đã có rất nhiều ý kiến, kiến
nghị xác đáng từ khi tiến hành đổi mới 1986 cho hướng đi này. Tất cả chỉ là nước
đổ lá khoai.
Trong khi đó xuất hiện ồ ạt khắp cả nước các bong
bóng thị trường bất động sản gắn kết hữu cơ với quá trình công nghiệp hóa. Các
bong bóng này thu hút những nguồn lực quan trọng nhất của cả nước, làm sai lệch
sự phát triển của đất nước. Các bong bóng này đang xẹp, nổ và đang xô đẩy kinh
tế đất nước vào thảm họa.
Nơi nơi thi nhau tranh thủ phát triển các dự án, chồng
xéo lên nhau, “cheo” hay không “cheo” không thành vấn đề. Có lẽ càng nhiều dự
án và càng “khủng” thì càng dủng dỉnh cho các túi tham[60]?…
Chưa nói đến nhiều vấn đề rất nhạy cảm của an ninh quốc gia. Có thể thực hiện
công nghiệp hóa quốc gia bằng cách tỉnh nào tranh thủ được cái gì thì làm cái
đó như thế được không!? Dự án càng to càng tốt!..
Vả lại, tư duy nhiệm kỳ và nền
kinh tế GDP tỉnh không có chỗ đứng cho tầm nhìn và những chiến lược dài
hạn, không có khả năng lựa chọn những quyết định tối ưu chung cho cả nước, trên
thực tế đã vô hiệu hóa không ít những điều đúng đắn, băm nát đất nước, xé nền
kinh tế đất nước thành những mảng hay những vùng cát cứ… (Ví dụ: Cho đến ngày
hôm nay, mọi kế hoạch hay chiến lược phát triển kinh tế vùng hoàn toàn thất bại,
hay chỉ nằm trên giấy). Càng manh mún tranh giành nhau với tầm nhìn như thế, đất
nước mình càng rẻ đi!
Thực tiễn gần ba thập kỷ vừa qua của thể chế chính
trị nước ta cho thấy: (1)quyền lực chính trị, (2)lợi ích nhóm các loại và (3)sự
chi phối của tham nhũng mới là những yếu tố quyết định quá trình công nghiệp
hóa đất nước, chứ không phải lẽ phải, càng không phải lợi ích tối thượng của quốc
gia.
Hiện
nay GDP p.c. của ta mới khoảng 1500 USD, thế nhưng thể chế chính trị này và bộ máy nhà nước của
nó hầu như đã không kham nổi, để xảy ra quá nhiều bất cập, đổ vỡ, bất công và tổn
thất; kinh tế hiện nay đang quá nhiều bế tắc.
Xin
thử hình dung: Con đường từ GDP p.c.
1500 USD hiện nay của nước ta đi tới cái mốc là nước công nghiệp thấp – ví dụ GDP p.c. là 12.000 USD (nghĩa là rất
thấp, chỉ bằng ½ GDP p.c. của Hàn Quốc hiện nay) sẽ là chặng đường vô cùng khó
khăn. Bao nhiêu năm nữa mới đạt được? Hệ thống chính trị này và nhà nước của nó
dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của ĐCSVN như hiện nay liệu có khả năng
tạo ra được sự phát triển như thế không? Có quản lý nổi một nền kinh tế có quy
mô phát triển như thế không? Vân vân…
Đã
đến lúc phải quan tâm đến nhiều hơn xây dựng một khía cạnh khác nữa quan trọng
không kém: Một nước công nghiệp chỉ có thể ra đời trước hết nhờ có chế độ chính
trị, con người và văn hóa của một nước công nghiệp.
Nói
đến cùng: Với tầm nhìn và bản chất của nó, thể chế chính trị hiện nay không có khả
năng đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp và văn minh, thậm chí đang cản
trở đất nước trên con đường này. Các lập luận của một số học giả trong
nước và ngoài nước cho rằng Việt Nam đang sa vào cái bẫy là nước có thu
nhập trung bình thấp là xác đáng. Đây chính là điều cả nước ngay từ bây
giờ phải nhìn thấy – trước hết là các đảng
viên ĐCSVN.
Củ sắn, lãi xuất trần và FED
Câu chuyện
1: Sắn là
cây của người nghèo ở các vùng nghèo, một loại cây chủ lực xóa đói giảm nghèo ở
những vùng này. Cả nước hiện nay sản xuất được khoảng 600 triệu tấn sắn tươi và
có 100 nhà máy chế biến, còn nhiều tiềm năng nâng cao sản lượng và đẩy mạnh xuất
khẩu, song cũng có câu hỏi phát triển sắn thế nào và đến đâu là tối ưu? Nhưng
vì nhiều lý do, nhiều nơi nông dân đang muốn bỏ cây sắn, có nơi nông dân bỏ
không muốn thu hoạch vì tiền bán sắn (có khi rớt xuống còn 1000 đ / 1kg) không
đủ trả tiền công đào sắn; nhiều nhà máy chế biến thiếu việc. Cả nước đã có công
suất sản xuất ethanol 1 triệu lít / năm, mới sản xuất được 0,5 triệu lít và
đang ế vì không tiêu thụ được đầu ra… Nghĩa mấy chục năm trôi qua, hệ thống
chính trị và bộ máy nhà nước chưa giải quyết xong chuyện cây sắn bền vững cho nông dân nghèo, xóa nghèo rồi lại mau chóng
tái nghèo. Trong khi đó củ sắn vẫn chung sống được với VEDAN (mặc dù có lúc đã
xảy ra chuyện bê bối về ô nhiễm môi trường).
Câu chuyện
2: Lãi xuất
trần được Ngân hàng Nhà nước riêng trong 15 tháng qua giảm 5 lần – khoảng từ
14% xuống khoảng 7%, nghĩa là rất quyết liệt. Có thể ví von nỗ lực rất lớn này
giống như NHNN dùng xà beng và mọi quyền lực nhà nước bẩy nền kinh tế ra khỏi
vùng trũng, nhưng chưa đạt kết quả mong đợi, nghĩa là mọi chuyện mới chỉ nhúc
nhích tý teo.
Câu chuyện
3: FED (Cục
Dữ trữ Liên bang / Mỹ) phải đắn đo lắm mới sử dụng đến biện pháp hạ hoặc nâng
lãi xuất để xử lý những vấn đề kinh tế hóc búa. Trong những năm chống khủng hoảng
kể từ năm 2008 đến nay FED mới chỉ 5 – 6
lần sử dụng công cụ này, mức mỗi lần thường dùng là +0,25 đến +0,5%
là đủ tạo ra sự chuyển động mong muốn trong kinh tế, hãn hữu lắm mới là mức +1%. Có thể nói
cỗ máy này cứ bấm nút là chạy.
Dưới góc
độ cải cách thể chế chính trị, 3 câu chuyện rời rạc trên thôi thúc phải suy
nghĩ rất nhiều về hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước của nước ta. Hơn nữa,
người ta nói nước ta hiện có 2,8 triệu người ăn lương từ ngân sách nhà nước, có
lẽ nhiều khoảng gấp đôi số người này ở nước Mỹ!
Có
thể kết luận:
Một
nền công nghiệp đất nước hiện có như vậy đang trở thành cái bẫy giam cầm sự
phát triển của đất nước. Nền công nghiệp này là sản phẩm tất yếu của một thể chế
toàn trị, vì thiếu vắng hoàn toàn tiếng nói của xã hội dân sự và nhà nước pháp
quyền - qua đó trí tuệ và lẽ phải gần như bị loại trừ, chỉ còn lại tiếng nói của
chủ nghĩa tư bản hoang dã và nhóm lợi ích giữ vai trò quyết định.
Hoàn
toàn không có cách gì để Việt Nam năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại dựa trên 3 trụ cột là kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền,
xã hội dân sự.
VII – 1.3. Từ nhiều năm
nay nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế – chính trị - xã hội toàn diện
Trong 28 năm đổi mới, kinh tế nước ta
trải qua một số cuộc khủng hoảng[61],
trong đó cuộc khủng hoảng hiện nay là trầm trọng nhất. Điều này cho thấy thời kỳ
kinh tế đất nước phát triển năng động quá ngắn (gần như trung bình cứ 6 – 7 năm lại có khủng hoảng)[62],
nghĩa là một quá trình phát triển thường xuyên đứt quãng, nói lên tính thiếu liên
tục trong chiến lược phát triển của một quốc gia. Phải chăng đấy là hệ quả
không tôn trọng quy luật trong vận hành kinh tế, rồi đến hệ quả của phân khúc
nhiệm kỳ qua các Đại hội Đảng, hệ quả của tư duy nhiệm kỳ… theo kiểu “tân
quan tân chính sách” như ngôn ngữ dân gian thường nói? Và trước hết, thực
tế này phản ánh sự kém cỏi của đội ngũ lãnh đạo Đảng và đoàn quân trí tuệ của
nó.
Sự
thật là chiến lược CNH – HĐH đất nước đến năm 2020 tuy được nhất quán nhấn mạnh
trong tất cả các kỳ Đại hội Đảng, nhưng nó chỉ là một khẩu hiệu nhiều hơn là một
chiến lược, thiếu hẳn quy hoạch các bước đi tiếp nối nhau liên tục, thiếu các
chính sách lớn và các chiến lược đi kèm xuyên xuốt cho thời kỳ công nghiệp
hóa – ví dụ chiến lược giáo dục, chiến lược phát triển nguồn nhân lực,
chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng, chiến lược cải cách thể chế chính tri, các
cột mốc cho từng chặng phải đạt được, vân vân…[63].
Thậm chí trong các văn kiện các Đại hội Đảng, chiến lược công nghiệp hóa được
viết lên như các kế hoạch 5 năm của Chính phủ (nên đọc lại các văn kiện các đại
hội toàn quốc của ĐCSVN)…
Có
thể nhận xét: Ngoài các kế hoạch 5 năm cộng lại, cho đến nay khó mà nói rằng đã
có một chiến lược công nghiệp hóa đất nước theo đúng nghĩa. Nhưng khẩu hiệu chiến
lược về hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020 này không bao giờ thiếu vắng, được
tùy tiện điều chỉnh, thậm chí mặc nhiên coi quyết định của các Đại hội Đảng là
ý chí của đất nước!..
Từng
Đại hội Đảng đều kiểm điểm, đánh giá tình hình thực hiện chiến lược công nghiệp
hóa và tình hình mọi mặt của đất nước. Song cho đến nay việc kiểm điểm không bao
giờ đụng tới bất kỳ một sai lầm căn bản nào đã phạm phải, nhất là những khuyết
tật mang tính bản chất của hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo yếu kém của ĐCSVN.
Việc đánh giá tình hình / nhiệm vụ được làm theo một công thức cho “đủ mâm đủ
bát”, có đúng có sai, có ưu có khuyết, có thành có bại.., với kết luận muôn thuở:
Đường
lối của Đảng vô cùng sáng suốt và đúng đắn, chỉ có những yếu kém nhất định
trong quá trình vận dụng, thực hiện.
Sự thật là
(1) những
khó khăn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời bình vượt ra ngoài
khả năng và phẩm chất của lãnh đạo ĐCSVN[64],
(2) sự nô lệ thảm hại của tư duy ý thức hệ vay mượn,
(3) sự tha hóa không ngừng gia tăng của hệ thống
chính trị,
(4) sự dối trá trở thành vũ khí bảo vệ vai trò
lãnh đạo hiện đang nắm giữ của ĐCSVN.
Đấy
chính là 4 nguyên nhân gốc chi phối xuyên suốt quá trình phát triển
của Việt Nam sau khi giành được độc lập thống nhất.
Đổi
mới xóa bỏ được hệ thống kinh tế bao cấp, tạo ra sự phát triển ban đầu rất ấn
tượng, thế giới ngạc nhiên. Nhưng vì 4 nguyên nhân gốc còn nguyên
vẹn, cho nên không bao lâu Việt Nam rơi vào các cuộc khủng hoảng nối tiếp nhau
không thể tránh được. Tiềm năng to lớn của đất nước và những thuận lợi bên
ngoài Việt Nam tranh thủ được đã làm nên không ít những dự báo của nước ngoài về
“con
rồng Việt Nam”, “con hổ Việt Nam”... Tiếc thay tất cả
các dự báo này đều bị 4 nguyên nhân gốc làm cho phá sản, không thể đổ lỗi cho bất kỳ lực
lượng thù địch nào.
Trong
vòng 3 kế hoạch 5 năm trở lại, đây là thời kỳ kinh tế Việt Nam về đối nội cũng
như đối ngoại có quy mô phát triển ngày càng mở rộng, có nhiều công trình mới,
mọi nguồn lực huy động cho phát triển kinh tế thời kỳ này ngày lớn hơn rất nhiều
so với những năm trước đó. Sự tiến triển mới này cùng với những nỗ lực không nhỏ
đã thực hiện được cho tự do hóa kinh tế trong khoảng thời gian này đã mang lại những
tiến bộ nhất định. Nhưng ác thay, đồng thời 4 nguyên nhân gốc
nêu trên của hệ thống chính trị qua sự phát triển này của đất nước cũng có những
cơ hội chưa từng có để lũng đoạn thời kỳ phát triển mới này của đất nước.
Đây là thời kỳ tham nhũng tiêu cực bùng phát mạnh nhất, làm ăn thua lỗ và thất
thoát cao nhất, hiệu quả đầu tư kém nhất... Từ năm 2007, nghĩa là 1 năm trước
khi kinh tế Mỹ và sau đó là nhiều nước Tây Âu lâm vào cuộc khủng hoảng lớn (năm
2008) kinh tế nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng đến nay chưa có lối
ra.
Cuộc khủng hoảng hiện nay chỉ ra rõ nhất: Giai
đoạn phát triển kinh tế ban đầu của Việt Nam đã kết thúc, nhưng hoàn toàn không
được chuẩn bị về mọi mặt (kể cả thượng tầng kiến trúc và hạ tầng xã hội) để
chuyển kinh tế Việt Nam đi vào một thời kỳ phát triển mới.
Trong
thời kỳ này, cần đặc biệt lưu ý: Các tập đoàn kinh tế nhà nước và hệ thống ngân
hàng dưới sự chi phối của các nhóm lợi ích là những tác nhân chính và trực tiếp
đã gây ra nhiều đổ vỡ nguy hiểm cho đất nước:
-
nhiều tập đoàn kinh tế quốc doanh thua lỗ,
hoặc phá sản;
-
thị trường bất động sản sụp đổ gây tổn
thất hàng trăm nghìn tỷ đồng cho nền kinh tế. (Ủy ban Giám sát Tài Chính Quốc
gia ước khoảng 35% trong dự nợ của thị
trường bất động sản là nợ xấu – nghĩa là rất cao và ở ngưỡng nguy hiểm, hiện
nay tồn kho của thị trường bất động sản ước 1,6 triệu nghìn tỷ đồng; thực trạng
này kéo theo đổ vỡ của nhiều ngành kinh tế khác);
-
nợ xấu của các ngân hàng cùng với những hoạt động thâu tóm, mua bán, sáp
nhập, các công ty sân sau, sở hữu chéo trong ngân hàng... đã tạo ra những vòng
luẩn quẩn nguy hiểm không thể kiểm soát của các dòng tiền, (một
số chuyên gia ước đoán nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam hiện nay khoảng nửa
triệu tỷ VNĐ - 500.000 tỷ VNĐ)[65];
-
nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước chiếm
70% tổng nợ xấu của các doanh nghiệp trong cả nước; đáng ngại là riêng tổng nợ
xấu cần xử lý ngay của 80 (trong tổng số 96) tập đoàn kinh tế nhà nước cao 1,6
lần tổng vốn sở hữu, trở thành những thách đố nan giải;
-
trong thời gian này hàng chục nghìn
doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng cửa, phá sản, với rất nhiều hệ lụy kinh tế - chính
trị - xã hội nghiêm trọng, nạn thất nghiệp lan rộng..;
-
lạm phát, sự biến động của thị trường
ngoại tệ và thi trường vàng, nợ công, thâm hụt ngân sách nhà nước, nhập siêu…
là những căn bệnh kinh niên; riêng nợ công số liệu thống kê công bố chính thức
là 55% GDP (nhưng một số chuyên gia Việt Nam ước tính là 95 – 106% GDP, đối với
nước ta là mức rất xấu, vì khả năng trả nợ rất thấp);
-
nợ xấu, hàng tồn kho, và vốn chết không
cho vay được trở thành những cục máu đông nguy hiểm cho cả nền kinh tế;
-
vân vân…[66]
Một
nghịch lý nguy hiểm là thị trường trong nước hiện nay không thiếu vốn, nhưng
thiếu dự án và người đi vay có tiềm năng thanh toán, trong khí đó nhiều sản phẩm
làm ra đã lỗi thời và thừa ế, nhưng năng lực đi vào sản phẩm mới và thị trường
mới rất hạn chế, lại đúng lúc kinh tế thế giới có những chuyển đổi về cơ cấu. Đây
chính là một biểu hiện nguy hiểm của những bế tắc trong kinh tế nước ta.
Chưa
nói đến chất lượng yếu kém của các công trình kinh tế đã xây dựng sẽ tiềm ẩn những
hậu quả gì cho tương lai? Ngay trước mắt, trong cả nước có hàng trăm công trình
kết cấu hạ tầng (hồ thủy lợi, cầu cống, đường xá…) đã xuống cấp ở mức nguy hiểm
từ hàng chục năm nay đang đe dọa những hiểm họa lớn, nhưng bị bỏ bễ quá lâu và
không có kinh phí duy tu, sửa chữa…
Phương
thức phát triển kinh tế theo chiều rộng của nước ta đã đi hết
chặng đường của nó, nhất thiết phải đưa nền kinh tế sang thời kỳ phát
triển theo chiều sâu với chất lượng và hiệu quả cao hơn. Song toàn bộ
thực trạng kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội của đất nước như vừa trình bầy
trên đang dựng lên bức tường chắn kiên cố phía trước. Làm thế nào bây giờ?
Có
ý kiến bào chữa và phản bác: FDI và ODA vẫn đang đổ vào Việt Nam ầm ầm; hiện
nay từ IMF cho đến WB và không ít các tổ chức quốc tế khác… vẫn không thiếu lời
ca ngợi kinh tế Việt nam, tại sao lại nhận định bi quan như vậy được?
Xin
đáp: Việt Nam vẫn là một thị trường trong khu vực ĐNA hấp dẫn FDI, nên xem đây
là cơ hội của đất nước. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng FDI (cả lượng đăng ký và
lượng thực hiện) bước sang thập kỷ này không còn mạnh như thập kỷ trước. Điều đặc
biệt quan trọng: Vì nhiều lý do, tỷ trọng FDI mang công nghệ cao vẫn rất thấp,
trong đó số các dự án FDI có công nghệ cao vẫn ít và triển khai chậm. Không thể
bỏ qua một sự thật là các nước đối tác đang rất cố gắng không muốn để Việt Nam
được ôm ấp chặt chẽ trong vòng tay Trung Quốc; ODA và các lời khen hợp khẩu vị
cũng nên được xem xét dưới góc độ này. Nước cung cấp ODA số 1 hiện nay vẫn là
Nhật, mặc dù phía ta không giữ được nhiều cam kết với Nhật trong tiến trình thực
hiện, trong khi đó ODA của các nước khác giảm dần.
Còn
một sự thật khác nữa: Nhật, Hàn Quốc vì những lý do tái cấu trúc kinh tế của họ
và vì các lý do địa chính trị tại khu vực ĐNA (trong đó có v/đ Trung Quốc) đang
rất muốn Việt Nam trở thành đối tác chiến lược về kinh tế - trước hết với nghĩa
muốn hợp tác dưới dạng chuyển giao và gắn bó với kinh tế Việt Nam. Cũng vì những
lý do địa chính trị, Mỹ và nhiều nước phương Tây khác đang rất muốn đẩy mạnh
phát triển quan hệ kinh tế với Việt Nam. Song những yếu kém hiện có của đất nước
đang kìm hãm nghiêm trọng sự phát triển này.
Cuộc
khủng hoảng kinh tế - chính trị của đất nước hiện nay đang tác động nghiêm trọng
đến mọi phúc lợi xã hội; toàn bộ các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa; đạo đức xã
hội tiếp tục xuống cấp với biết bao nhiêu sự việc đau lòng. Đồng thời nạn tham
nhũng tiêu cực đang hủy hoại các thang giá trị trong xã hội ở mức tệ hại nhất kể
từ khi đất nước độc lập thống nhất.
Trong thời kỳ khủng hoảng hiện
nay, sự trấn áp của chế độ chính trị đối với những đòi hỏi của các tầng lớp
nhân dân về công lý và công bằng xã hội, về tự do, dân chủ, quyền con người…
hiện đang diễn ra ở mức tệ hại nhất trong suốt 28 năm đổi mới. Đời sống mọi mặt
của đất nước trở nên ngột ngạt chưa từng thấy. Nhân danh bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, đã xảy ra các bản án tai tiếng dành cho những người yêu nước bất
đồng chính kiến, đã xảy ra không ít các vụ dùng bạo lực vũ trang đàn áp sự phản
kháng của nông dân…
Phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn
Phú Trọng tại Hội nghị Trung ương 4 – XI mới chỉ nói lên được phần nào tình
trạng suy thoái trong ĐCSVN và phần nào sự mất lòng tin của dân. Sự thật trầm
trọng hơn thế rất nhiều. Trong khi đó hào quang của lịch sử được đội ngũ trí
tuệ của hệ thống chính trị tận dụng đến
mòn cả chữ, nhưng không phải để trang trải trách nhiệm đối với lịch sử, cũng
không phải để soi rọi cái đau, cái nhục của nghèo hèn hôm nay so với thiên hạ,
mà chỉ là để xoa dịu hay khỏa lấp cái đau, cái nhục này.., là để át đi những
khát vọng đòi thay đổi của nhân dân. Có quá nhiều thứ bộ máy tư tưởng đưa ra để
giữ lòng dân và ca ngợi sự tốt đẹp của chế độ - nghĩa là để lên dây cót – nhưng
hầu như chỉ mang nặng tính phô trương và
không thật.
Ví dụ: từ khoảng gần một thập kỷ nay việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là trọng tâm số một trong nhiệm vụ giáo dục chính
trị tư tưởng của toàn bộ hệ thống chính trị và cả nước. Song thập kỷ vừa qua
lại là thời kỳ kinh tế cả nước kém hiệu quả nhất (chỉ số ICOR các năm này
thường là 6 – 7), xảy ra những tội ác tham nhũng tồi tệ nhất, hệ thống chính
trị tha hóa trầm trọng nhất, đời sống xã hội có nhiều mặt xuống cấp nguy hiểm,
trấn áp dân cũng ở mức độ cao nhất, đồng thời sự phản kháng của nhân dân cũng
mang tính quyết liệt nhất... Thế nhưng hiện nay các phát ngôn của lãnh đạo cao
cấp, các báo chí của toàn hệ thống vẫn đang hàng ngày tiếp tục hết lời ca ngợi
thành tựu và những kết quả đạt được của cuộc vận động chính trị trọng đại này.
Thập kỷ này còn là thời kỳ ĐCSVN tha hóa nặng nhất, có nhiều chuyện bê bối tệ
hại nhất trong lịch sử của mình. Số đảng viên bị kỷ luật và bị kết án khá lớn, có
lẽ cũng cao nhất so với thập kỷ trước đó[67].
Quyền
lực chính trị, tập đoàn kinh tế quốc doanh, ngân hàng, - 3 thành tố này câu kết
với nhau thành nhóm lợi ích. Trong từng nhóm lợi ích lại có các mối quan hệ
chéo và các mối liên kết ngang / dọc với ngoài nhóm. Nhóm lợi ích câu kết, liên
kết, tranh giành, đấu đá nhau, vô hiệu hóa pháp luật, biến ĐCSVN – với vai trò tự nhận cho mình là đội ngũ tiên
phong của giai cấp và của dân tộc – thành cái bình phong bảo vệ nó, biến bộ máy nhà nước
thành công cụ thi hành ý đồ của nó… Nhóm lợi ích đang làm mục ruỗng hệ thống
chính trị và bộ máy nhà nước, đồng thời băng hoại mọi giá trị và đạo đức. Có bình luận: “nền kinh tế Việt Nam đang bị phá
hoại từ bên trong…” (J. Parker).
NSƯT
Phạm Nhuệ Giang – tác giả bộ phim truyền hình nhiều tập “Trò đời” chia sẻ, “Thế mới biết
nhà văn Vũ Trọng Phụng thật tài. Xã hội Việt Nam ông miêu tả, sau một thế kỷ sự
lố lăng vẫn còn nguyên…”
Đúng ra mọi lố lăng thời Vũ Trọng
Phụng phải gọi mọi lố lăng thời nay bằng cụ, nghệ sỹ Nhuệ Giang ạ!
Tiền thuế của dân trong một nước
còn nghèo phải gồng lên gánh tải một hệ thống chính trị đồ sộ, cồng kềnh, với
những quyền lực khác nhau lồng gép vào nhau: Đảng,
Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể quần chúng[68]. Nhưng hệ thống quyền lực này vừa hoạt động kém
hiệu quả, vừa có quá nhiều vùng chồng lấn quyền lực của nhau, có quá nhiều vùng
bỏ trống không ai quản – tất cả các thứ “vùng, miền” này là những mảnh đất lý tưởng cho tệ nạn quan
liêu tham nhũng, cho lũng đoạn… Sự thật của đất nước những thập kỷ vừa qua cho
thấy không một giá trị hay đạo đức xã hội nào có thể có tiếng nói quyết định
trong một hệ thống chính trị nhà nước lồng ghép trong nhà nước như hiện nay. Rốt
cuộc, chỉ những người có thực quyền trong hay ngoài ĐCSVN mới là nhà nước đích thực;
trong đó luật pháp, lý tưởng thường được diễn giải theo cách “dân chủ của nước
ta hơn gấp vạn lần dân chủ của các nước phương Tây”[69].
Ngôn
ngữ là tấm gương phản chiếu cuộc sống. Hệ thống chính trị của đất nước đã sản
sinh ra những cụm từ tiêu biểu cho bản chất và cấu trúc của nó. Đó là sự xuất
hiện của những hiện tượng xã hội mang những cái tên gọi như “văn
hóa phong bì”, “đấu tranh, tránh đâu”, “sống
lâu lên lão làng”, “chính sách cơ cấu”, “tân
quan tân chính sách”, “tư
duy nhiệm kỳ”, “nền kinh tế GDP tỉnh”, “quan
hệ”, vân vân… Nội hàm của những cụm từ này phong phú đến mức ngôn ngữ gần
như bất lực trong việc chứa đựng chúng.., cũng có nghĩa là sự tha hóa đạt tới mức
vượt ra ngoài khả năng diễn đạt của ngôn ngữ[70].
Vô vàn sự việc xảy ra trong đời sống cho thấy “tư duy nhiệm kỳ”, “nền
kinh tế GDP tỉnh” và “quan hệ” là 3 sát thủ chính đang hàng
ngày tìm cách giết chết mọi giá trị và hy vọng vốn là nguồn gốc làm nên sức mạnh
một quốc gia.
Chính
sách ngu dân, sự bưng bít thông tin, cùng với sự tha hóa của đạo đức và lối sống
– con đẻ của quan liêu tham nhũng và bất công xã hội – đang
tàn phá nghiêm trọng đời sống tinh thần của đất nước. Tâm lý thờ ơ, vô cảm,
mất phương hướng, mất lòng tin, không cần quan tâm đến trách nhiệm và đến tương
lai (cái gọi là chủ nghĩa mackeno)
đang lan rộng ở mức nguy hiểm trong xã hội. Việc dư luận viên đã tới mức phải
dùng đến cả sổ hưu làm công cụ biện hộ cho các lý lẽ bảo toàn chế độ và sự
vô cảm ẩn chứa nhiều tâm trạng trái ngược nhau của người nghe cho thấy sự khốn
quẫn thảm hại trong trạng thái tinh thần của đất nước! Còn điều nào đau lòng
hơn? …Giữa lúc đất nước cần xốc lên tinh thần quật cường của cả dân tộc trong
giai đoạn đầy sóng gió hiện nay của đất nước...
Sự
giả dối và trấn áp nhân danh “giữ vững định
hướng” của bộ máy tư tưởng và hệ thống báo chí lề phải càng làm cho tình hình tồi tệ hơn. Đến mức khoảng một năm
nay, lần đầu tiên trong lịch sử đất nước xuất hiện trong ngôn ngữ chính thống cụm
từ “đội ngũ dư luận viên”!.. Nghĩa là
để thực thi bạo lực trấn áp bây giờ có thêm binh
chủng “dư luận viên” bên cạnh những binh chủng sẵn có khác. Trong lãnh đạo
đã có người công khai nói lên niềm tự hào của mình về sự đông đảo của “đội ngũ dư luận viên” này… (!) Người ta
không thể không liên tưởng đến những cụm từ “móc ngoặc”, “bọn móc ngoặc”,
“con phe”… xuất hiện trong thời kỳ
bao cấp và tem phiếu cách đây ba thập kỷ. Chỉ có điều khác biệt là những cụm từ
này là do nhân dân hồi ấy tặng những người làm các việc không chính đáng này với
hàm ý phê phán; còn cụm từ “đội ngũ dư luận
viên” lại là sản phẩm trí tuệ của ĐCSVN, nói lên nội dung một việc làm đang được ĐCSVN thực thi và tôn
vinh.
Trong mọi sự tha
hóa đất nước đang phải trải qua, có lẽ sự dối trá là nghiêm trọng nhất, là cái
đẻ ra mọi tha hóa khác, đang hủy hoại mọi giá trị của đời sống mà tầm tay sự
dối trá có thể với tới!
Thất
bại nào trong đối nội cũng là tổn thất rất to lớn đối với đất nước. Nhưng điều
làm tôi trăn trở nhất là những thất bại trong nền giáo dục của nước nhà. Tôi thực
sự lo lắng không biết nước ta rồi đây – khi ra khỏi cuộc khủng hoảng nguy hiểm
này và thiết lập nên được một hệ thống chính trị mới - sẽ phải cần bao nhiêu năm hay bao nhiêu thế hệ
nữa, để có thể lấy lại được và xây dựng mới những giá trị tạo dựng nên những thế
hệ con người mới không thể thiếu cho một nước Việt Nam phát triển, hiện đại, dấn
thân và cùng đi được với cả thế giới! Cần một chế độ chính trị như thế nào để
có thể kiến tạo một nền giáo dục đất nước phải có?!..[71]
VII – 1.4. Thất bại lớn
nhất của sự nghiệp bảo vệ tổ quốc nằm trong mặt trận đối ngoại
Thời bình, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc chủ yếu diễn ra trên mặt
trận đối ngoại. Vì lẽ này, tôi xin tập trung trình bầy một số ý kiến của mình
trên phương diện này. Những vấn đề khác liên quan đến vấn đề bảo vệ chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ biên giới trên bộ, và các vùng biển, đảo… xin được
bàn vào một dịp khác.
Cũng như các phần trên, tôi xin đặt sang một bên cho một dịp
khác việc đánh giá các thành tựu đạt được. Trong phần này xin tập trung tìm hiểu
những việc chưa làm được, những thiếu sót hoặc sai lầm.
Chuỗi các sai lầm đầu
tiên rất trầm trọng với nhiều hậu quả lâu dài
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thực chất chứa trong
lòng nó 7 cuộc chiến tranh. Đó là:
(1)
cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam
chống Mỹ xâm lược;
(2)
cuộc chiến tranh giữa chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa đế quốc trực tiếp xảy ra trên đất Việt Nam, nước ta tự nhận về
mình nghĩa vụ là một tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa;
(3)
cuộc chiến tranh tranh giành ảnh hưởng
trên thế giới giữa một bên là Liên Xô và liên minh và một bên là Mỹ và liên
minh trên đất Việt Nam (một hình thái thể hiện cụ thể của “chiến tranh lạnh 1945 –
1991” diễn ra trên đất Việt Nam);
(4)
cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Mỹ
trên đất Việt Nam - với mục tiêu giữ kẻ thù Mỹ của Trung Quốc càng xa biên giới
Trung Quốc càng tốt, với ý chí của Trung Quốc tọa sơn quan hổ đấu và với
quyết
tâm chống Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng..;
(5)
cuộc chiến tranh tranh giành ảnh hưởng
trên thế giới và trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế giữa Liên Xô và
Trung Quốc;
(6)
cuộc chiến tranh của phong trào độc lập
dân tộc chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc, trong đó Việt Nam là một ngọn cờ
tiêu biểu; và
(7)
việc thực dân Pháp và đế quốc Mỹ hồi ấy
tiến hành âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam đã dẫn tới chiến tranh Bắc – Nam
1954 – 1975, đấy là một cuộc nội chiến kéo dài và đẫm máu. (Là người Việt Nam
phải hiểu thấu đáo khúc lịch sử bi thương này).
Đấy là thực tế lịch sử khách quan đã xảy ra.
Việc
mổ xẻ các khía cạnh để phân tích 7 cuộc chiến tranh trong 1 cuộc chiến tranh
như vậy không thuộc phạm vi bài này. Tuy nhiên, điều tất yếu có thể
rút ra ngay tại đây là: Khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc, khách quan của sự vật
đòi hỏi nước ta phải giải quyết hậu quả và mọi hệ quả liên quan về sau của
tất cả 7 cuộc chiến tranh này.
Nhưng
khi kháng chiến kết thúc, chủ trương chính sách đối ngoại của nước ta hồi ấy lại
không nhận thức được hay không thừa nhận điều tất yếu này.
Sẽ phải tốn rất nhiều công sức mổ xẻ ngoại giao của nước ta
thập kỷ đầu tiên sau khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc.
Theo
nhận thức của tôi, xin được kết luận ngay như thế này: Vì bỏ qua điều
tất yếu nói trên, ngoại giao nước ta khi ra khỏi chiến tranh vừa
say sưa chiến thắng, vừa có nhiều bất cập và bị động nghiêm trọng; nhất là thiếu
vắng hẳn truyền thống ngoại giao Việt Nam của cha ông ngàn xưa: Đó là luôn luôn
biết giữ thể diện cho các kẻ thù sau khi ta đánh bại họ, chủ động bình thường
hóa quan hệ với họ… Vì mục đích “lên dây cót” cho dân, cho đến hôm nay lúc này
lúc khác vẫn ra rả làm bẽ mặt đối phương cũ, nhưng lại không rút ra những bài học
cần rút ra.
Đất
nước ta đã phải trả giá rất đắt cho thiếu vắng sự hiểu biết này sau kháng chiến
chống Mỹ!
Ra
khỏi kháng chiến (7 cuộc chiến tranh), lại trong bối cảnh phe xã hội chủ nghĩa[72]
không còn là một hệ thống thế giới thống nhất (Trung Quốc và Mỹ đi với nhau từ
1972), ngay lập tức nước ta phải đối phó với
(a)
những kẻ ta đã đánh bại nhưng không chịu
buông tha nước ta: Trung Quốc, Mỹ;
(b)
thân phận nước ta không thể tránh được
là nước “bên thứ ba” trong cuộc tranh chấp không dứt giữa các cường quốc, giữa cộng sản
và chống cộng sản, nhất là trên địa
bàn ĐNÁ thời đó - trong đó đặc biệt là 3 nước Đông Dương - là một điểm nóng;
(c)
những nhiệm vụ vô cùng nan giải nhằm khắc
phục những hậu quả sâu sắc của sự tương tàn ruột thịt Bắc – Nam và phục hồi đất
nước sau những thập kỷ chiến tranh tàn khốc.
Song
sự lựa chọn của lãnh đạo lại là thừa thắng xông lên, tiến thẳng lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội: “tiến lên chủ nghĩa xã hội là xu thế tất yếu của thời đại”, “sự lựa
chọn đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của dân tộc Việt Nam”, “độc lập dân
tộc gắn với chủ nghĩa xã hội” ??? Vân vân…[73]?
Lịch
sử không làm lại được, nhưng có lẽ lịch sử có thể giúp ta suy luận: Để giải quyết
3 thách thức (a, b, c) nói trên sau khi ra khỏi chiến tranh, Việt Nam lẽ ra phải
vận dụng những kinh nghiệm sống còn đã làm nên thắng lợi của kháng chiến chống
Mỹ; đó là (1)phát huy sức mạnh dân tộc, và (2)tranh thủ sự hậu thuẫn của cả thế
giới tiến bộ.
Song
làm sao phát huy sức mạnh dân tộc, nếu không thực hiện được hòa giải dân tộc
ngay sau khi chiến tranh kết thúc?
Sự
thật là ngay sau 30 Tháng Tư, với tính cách là người chiến thắng, ĐCSVN là người
duy nhất có cơ hội và có đủ quyền lực trong tay thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
khó khăn và vô cùng nhạy cảm này: Hòa giải dân tộc.
Nhưng
tư duy ý thức hệ dứt khoát không chịu nhìn nhận trong 7 cuộc chiến tranh của
kháng chiến chống Mỹ mà đất nước lâm vào có cuộc nội chiến, cho đến ngày
hôm nay vẫn vậy.
Cuộc
chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam mang trong nó các yếu tố đặm đặc sự đối
kháng toàn cầu giữa hai phe trong chiến tranh lạnh. Bối cảnh quốc tế xung đột
giữa hai phe bất khả kháng và âm mưu chia cắt đất nước ta của chủ nghĩa đế quốc
hồi đó, lại dưới tác động đối kháng ý thức hệ giữa hai trào lưu một bên là cộng
sản và một bên là chống cộng sản, sự mù lòa chết người của ý thức hệ của phía
Việt Nam ở cả hai bên về lợi ích dân tộc của nước ta trong “bàn cờ
lớn của các nước lớn” đã không nhận ra: Có một cuộc nội chiến bất đắc
dỹ rất đẫm máu trên tổ quốc của chúng ta xuất hiện trong lòng cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam của Mỹ. Cả hai bên tham chiến Việt Nam đều coi như bản thân
mình đang tiến hành một cuộc thánh chiến, khiến cho cuộc huynh đệ tương tàn này
mang tính đối kháng vô cùng khốc liệt. (Là một dân tộc, thiết nghĩ không một
người Việt Nam nào có thể cho phép mình bỏ qua kinh nghiệm đau thương đẫm máu
này).
Do
đó khi chiến tranh kết thúc, người chiến thắng đã không đặt ra vấn đề hòa giải
dân tộc. Hệ quả là (1)vết thương nội chiến cho đến hôm nay vẫn bị bỏ qua không
được hàn gắn. Chẳng những thế, mà còn để xảy thêm những chết chóc, tổn thất mới
đau lòng (các vấn đề “nạn kiều”, “thuyền nhân”, cải tạo tư sản…) và bao nhiêu tổn
thất khác; (2)nội hàm đích thực của phát huy sức mạnh dân tộc lại là áp đặt duy
ý chí tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Thực
trạng đã xảy ra sau 30-04-1975 là: Trong khi vết thương nội chiến cũ còn nguyên
vẹn, đất nước phải chịu đựng thêm những thất bại nghiêm trọng về mọi mặt kinh tế,
chính trị, xã hội, đối ngoại… của duy ý chí
“độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Do đó cho đến hôm nay,
vẫn không thể phát huy sức mạnh dân tộc với đúng nghĩa, đất nước bị làm yếu đi
nghiêm trọng giữa lúc phải đối phó với không biết bao nhiêu thách thức ngổn
ngang.
Nói
ra hay không nói ra, không đặt ra vấn đề hòa giải dân tộc một cách thực tâm, trên
thực tế và trong thâm tâm có nghĩa ĐCSVN hôm nay tiếp tục coi phía bên
kia chiến tuyến cũ vẫn là thù địch. Càng để lâu, vết thương dân tộc cũ này càng
khó khắc phục. Ngày nay, trong tình trạng tha hóa trầm trọng của chế độ chính
trị, vết thương này tự nó sâu sắc thêm; hoặc tâm lý hận thù cũ đang cố ý làm
cho vết thương này sâu sắc thêm!.. Tất
nhiên, chỉ có đất nước phải gánh chịu mọi hậu quả mới tiếp theo. Điều vô cùng
phi lý: Tại sao ĐCSVN hôm nay đã thực hiện khép lại quá khứ với Mỹ, mà lại
không khép lại quá khứ với một nửa khác của chính mình bên kia chiến tuyến thời
chiến tranh?
Song quan trọng hơn thế, chừng nào ĐCSVN
hôm nay chưa thực tâm khắc phục vết thương dân tộc này, chừng nào
còn xem nhẹ vấn đề hòa giải dân tộc mãi mãi, thực tế này phải chăng chỉ càng
cho thấy: ĐCSVN của hôm nay không muốn và không có khả năng giương
cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ chấn hưng đất nước. Đơn giản vì ĐCSVN
hôm nay không có bản chất này, không coi đó là mục tiêu cách mạng của
mình, đang cam chịu nguyên vẹn sự nô dịch của ý thức hệ, hoặc tệ hại hơn nữa ý
thức hệ nó trương lên như thế chỉ là lá bùa hộ mệnh. Nghĩa là ĐCSVN
hôm nay đã biến chất hoàn toàn so với các thế hệ sáng lập ra nó? Có
phải như vậy không? Nếu đúng như thế thì nguy hiểm quá. Từng đảng viên trong ĐCSVN
phải có ý kiến của mình.
Kháng
chiến chống Mỹ thắng lợi, ngoài sức mạnh kiên cường của dân tộc, còn có nguyên
nhân quan trọng không thể thiếu: Sự ủng hộ của toàn thể loài người tiến bộ.
Nhân dân ta đã nhận được sự giúp đỡ anh em của các nước xã hội chủ nghĩa hồi ấy;
nhân dân ta còn được các lực lượng yêu chuộng hòa bình và công lý khắp thế giới
và ngay cả trên nước Mỹ cổ vũ, hậu thuẫn, được phong trào phản chiến của những
lực lượng này tiếp sức.
Xin
nói ngay, sự cổ vũ, hậu thuẫn của phong trào phản chiến nói trên là dành cho những
giá trị của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam mà những lực lượng
tiến bộ này của thế giới chia sẻ. Xin đừng ngộ nhận đấy là sự ủng hộ Việt
Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội – mặc dù những lực lượng tiến
bộ này của thế giới biết rất rõ cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Việt Nam do ĐCSVN
lãnh đạo. Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh này còn có nguyên nhân là thế giới
tiến bộ không chấp nhận một siêu cường đem vũ lực của mình bóp chết ý chí của một
dân tộc đấu tranh giành độc lập tự do – đó là Việt Nam.
Có
thể kết luận: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chứng minh hùng hồn: Để bảo vệ
mình, Việt Nam phải đi với cả thế giới, phải đứng trong hàng ngũ tiến bộ của
nhân dân thế giới. Cuộc kháng chiến này còn là sự đóng góp trực tiếp của Việt
Nam vào hòa bình và các giá trị tiến bộ của thế giới, đó cũng là sự dấn thân trực tiếp của Việt Nam trong trào
lưu tiến bộ của nhân loại. Thực tế này đã góp phần trực tiếp làm nên sức
mạnh bất khả kháng của Việt Nam lúc đó.
Trong
thời bình bảo vệ tổ quốc lại càng phải làm như vậy. Nhưng trong thời bình,
ĐCSVN đã không làm như vậy.
Nhìn
lại thời hậu chiến, nước ta làm không tốt (1)nhiệm vụ phát huy sức mạnh toàn
dân tộc và (2)nhiệm vụ phát huy sức mạnh cùng đi với cả thế giới tiến bộ ngang
tầm với những thách thức và cơ hội đặt ra. Vì 2 khuyết điểm này, nên đã vấp phải
nhiều thất bại nghiêm trọng về đối nội cũng như đối ngoại. Đất nước bị suy yếu
và uy hiếp nhiều mặt.
Những
sai lầm này đã được Khmer đỏ khai thác triệt để cho cuộc chiến tranh chống Việt
Nam. Những sai lầm này tạo thêm thuận lợi cho Trung Quốc xâm lược biên giới
phía Bắc Việt Nam tháng 2 – 1979, vào hùa với Mỹ cô lập và bao vây cấm vận chống
Việt Nam cả một thập kỷ sau chiến tranh. Những sai lầm nay làm cho quá trình hội
nhập quốc tế sau đó của nước ta diễn ra cực kỳ chật vật, quanh co, nhiều cơ hội
quan trọng bị bỏ lỡ[74].
Đấy
là những sai lầm rất nghiêm trọng trong nhiệm vụ bảo vệ đất nước ở thời kỳ này,
để lại nhiều hệ lụy cho hôm nay.
Có
không ít ý kiến biện hộ: …Những sai lầm vấp phải như thế trong thời hậu
chiến là tất yếu, là bất khả kháng trong bối cảnh quốc tế và khu vực lúc đó… Vì không thể vỗ cánh bay qua bối cảnh
lịch sử và đốt cháy giai đoạn trong tư duy…
Những lập luận như thế không hoàn toàn vô lý,
thậm chí có nhiều khía cạnh xác đáng. Lịch sử cũng không thể làm lại được.
Nhưng nếu muốn lịch sử là người thầy cho hiện tại và cho tương lai, nhất thiết
cần mổ xẻ tới căn nguyên mọi sự việc đã xảy ra.
Riêng
tôi xin thưa: Suy cho cùng, điều đau lòng vẫn là tầm trí tuệ hạn hẹp và sự nhìn nhận
thiên lệch của tư duy ý thức hệ của lãnh đạo hồi ấy về thế giới bên ngoài cũng
như về lợi ích quốc gia, khiến cho đất nước rơi ngay vào chặng đường đau khổ mới,
ngay sau khi vừa ra khỏi chiến tranh. Nói thô thiển, đấy là cái trí tuệ
chẳng biết người và cũng không biết mình sau khi ra khỏi chiến tranh. Có phải sự
thật là như vậy không? Tôi không dám cho mình cái quyền giữ chân lý về mình,
nhưng tôi thực sự nghĩ như thế, đinh ninh như thế. Xin được chia sẻ để cùng
tham khảo. Vì không nói ra cũng sẽ là có tội với đất nước. Còn chuyện đúng /
sai, để cho sự thật phân giải, để cho mọi người sẽ phân giải.
Hơn
nữa, nhìn rõ thế giới, hiểu đúng lợi ích quốc gia của ta – điều này hôm nay và
mãi mãi về sau vẫn là vấn đề nóng bỏng và có ý nghĩa mất / còn đối với hiện tại
và của tương lai của đất nước.
Có
thể kết luận: Sau kháng chiến, không phát huy được sức
mạnh dân tộc, không cùng đi được với thế giới như vậy, thế là sai lầm. Đất nước
yếu đi nghiêm trọng cả về thế và lực, nên đã phải trả giá đắt.
Đã 38 năm trôi qua. Nhưng hôm nay nhìn lại, trong lòng tôi canh cánh nỗi
niềm: Phải chăng ngay sau 30 Tháng Tư, một cơ hội lịch sử của dân tộc ngàn năm
mới có một lần đã bị bỏ lỡ? – ngàn năm với cả nghĩa đen của cụm từ này –[75].
…Giả
định rằng ngay sau 30-04-1975, ĐCSVN với tư cách là người chiến thắng (nói theo
Huy Đức là “bên thắng cuộc”) chủ trương hòa giải dân tộc, giương cao ngọn cờ
dân chủ, và với ý thức “không gì quý hơn độc lập tự do!”, nỗ lực dẫn dắt đất nước
phấn đấu đổi đời cả dân tộc, để trở thành một quốc gia của các giá trị mà ĐCSVN
đã từng ghi trên lá cờ của mình là “hòa bình, dân chủ, cộng hòa, độc lập, tự
do, hạnh phúc”, đã từng nói lên thành lời ý chí này trong Tuyên ngôn Độc lập
02-09-1945, đã từng thể hiện ý chí này thành pháp quyền trong Hiến pháp 1946…
Ôi, giả thử sau 30-04-1975 xây dựng nên một Việt Nam như thế và cùng đi như thế
với cả thế giới!.. Ôi, nếu từ ngày ấy đi
theo con đường này, hôm nay nước ta sẽ là gì và đang đứng ở đâu! ĐCSVN
hôm nay sẽ là đảng gì, thế giới sẽ nhìn nhận Việt Nam ra sao!?..
Tôi
không trả lời được những chữ “nếu” như vậy.
Nhưng
trong lòng tôi hôm nay vẫn dào dạt tâm trạng biết ơn những tình cảm tốt đẹp nhất
nhân loại tiến bộ hồi ấy đã từng dành cho tinh thần yêu độc lập tự do của dân tộc
ta trong kháng chiến chống Mỹ: “Việt
Nam là lương tri của thời đại!”, “Việt Nam trong trái tim tôi!...”
Vâng,
lịch sử không làm lại được. Nhưng nếu ngày nay học được từ lịch sử!
Vâng,
sau 30 Tháng Tư Bẩy Nhăm cái giá dân tộc ta phải trả tiếp cho ý thức hệ và sự
ngu dốt thật đắt quá, đau quá!
Xin
thưa lại chuyện cũ. Trong lịch sử cận đại, Việt Nam khi đã hoàn toàn ổn định lại
dưới thời Gia Long, đất nước đã từng bỏ lỡ cơ hội để tìm một con đường như nước
Nhật hồi ấy (thời Minh Trị) đã tìm được. Có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân
gốc có thể là: Thế giới quan hồi ấy của đất nước là Nho giáo, thế giới đối với
Việt Nam hồi ấy hầu như chỉ là Trung Quốc. Nói nôm na: Với cái lõi nhân văn này
và tầm nhìn này của triều Nguyễn lúc thịnh, Việt nam không thể đi xa hơn, không
thể với tới xa hơn, hệ quả cuối cùng đối với số phận của đất nước như chúng ta
đã biết. Có gì đau đớn hơn cho một dân tộc khi bỏ lỡ cơ hội lịch sử?[76]
Làm
sao chúng ta có thể chia sẻ với nhau bây giờ và với mọi thế hệ mai sau: Đừng
bao giờ để cho đất nước mình bỏ lỡ cơ hội lịch sử!..
Thế
nhưng… Vâng, thế nhưng…
…
(1)Hiện
nay và trong tương lai, làm thế nào để phát huy sức mạnh dân tộc? (2) Làm thế nào để nước ta có thể dấn thân
cùng đi với cả thế giới?
Đấy
vẫn là 2 câu hỏi lớn phía trước.
(1)Tư
duy ý thức hệ, (2)sự giác ngộ chưa đúng tầm lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc,
(3)sự hẫng hụt của trí tuệ và phẩm chất lãnh đạo đất nước, đấy vẫn là 3 rào cản
chính đang tiếp tục cản trở lãnh đạo ĐCSVN đi đến những câu trả lời đúng đắn
phía trước phải có cho 2 câu hỏi sống còn nêu trên đối với đất nước hôm nay.
Vâng, thế nhưng… Cái
giá phải trả cho bước ngoặt định mệnh
Chiến
tranh biên giới tháng 02 - 1979 của Trung Quốc chống Việt Nam lại đột nhiên rộ
lên ác liệt tháng 04 – 1984, khi hàng nghìn lính Trung Quốc ồ ạt tấn công chiếm
địa danh Núi Đất (tại xã Thanh
Thuỷ, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Tuyên, nay là tỉnh Hà Giang.[77]). Nhưng hồi ấy nội tình
Trung Quốc vẫn tiếp tục đầy rẫy khó khăn. Tháng 5 – 1989 xảy ra vụ đàn áp đẫm
máu Thiên An Môn là hệ quả tất yếu. Trong khi đó Trung Quốc vẫn tiếp tục bắn
phá trên biên giới nước ta; tháng 3-1988 đánh chiếm
thêm 7 đảo và bãi đá của ta ở Trường Sa, tiếp tục gây sức ép với
ta trong đàm phán bình thường hóa quan hệ 2 nước và trong giải quyết vấn đề
Campuchia, cùng với Mỹ tiếp tục bao vây cô lập nước ta…
Trong
khung cảnh như vậy, các nước LXĐA sụp đổ (1989 -1991). Việt Nam chấp nhận yêu
sách của Trung Quốc, đến hội nghị Thành Đô (ngày 3 & 4 – 09/1990) để hoàn tất
việc bình thường hóa quan hệ hai nước và việc giải quyết vấn đề Campuchia. Lãnh
đạo Việt Nam hồi ấy coi bước đi này là con đường bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa
và bảo vệ đất nước. Bước đi này cột chặt
nước ta vào Trung Quốc đến bây giờ chưa gỡ ra được, với mọi hệ lụy tác động
nghiêm trọng vào toàn bộ con đường phát triển của đất nước và sự nghiệp bảo vệ
tổ quốc hôm nay[78].
Nhìn
thực trạng quan hệ Việt – Trung mọi mặt hôm nay, nhìn vào thực trạng đất nước từ
sau 30-04-1975, so với những thách thức đất nước đang phải đối mặt, chưa bao giờ
nước ta bị suy yếu và bị thách thức nghiêm trọng như hiện tại. Tôi nghĩ rằng đi
tới thực trạng này được bẻ ghi từ hội nghị Thành Đô. Tôi nghĩ, đây là sai lầm đối
ngoại lớn nhất mang tính chiến lược của lãnh đạo nước ta kể từ sau 30-04-1975.
Rất mong bước đi này được mổ xẻ cặn kẽ, để nhìn nhận hiện tại và tiên liệu
tương lai cho đất nước[79].
Lại
phải nói, lịch sử không làm lại được, nhưng phải chăng cho phép đặt ra những câu
hỏi:
-
Khi các nước LXĐA sụp đổ, có hay
không cơ hội cho Viêt Nam bứt ra khỏi mọi lệ thuộc vào bất kỳ ai, để thực sự là
nước độc lập tự chủ, đi với cả thế giới tiến bộ? Đây còn là cơ hội sống còn
giành lấy độc lập về tư duy một quốc gia, một dân tộc không thể thiếu.
-
Phải chăng lợi ích quốc gia đã bị đẩy
xuống dưới, để ưu tiên bảo toàn chế độ chính trị với bất kỳ giá nào?
-
Bình thường hóa quan hệ và thiết lập
quan hệ hữu nghị với Trung Quốc là tối cần thiết. Song có thể đi với Trung Quốc
để cùng nhau bảo vệ CNXH giữa lúc quan hệ Việt – Trung có không biết bao nhiêu
sự kiện nước ta bị phản bội và rất đẫm máu được không?[80]
-
Đi với Trung Quốc như thế,
hôm nay nước ta mạnh lên hay yếu đi?
-
Phải chăng nhận thức thế giới và lợi
ích của đất nước qua lăng kính ý thức hệ, cùng với sự tha hóa phẩm chất cách mạng,
đã tất yếu dẫn tới bước đi định mệnh này?
-
Nói rốt ráo hơn nữa: Phải chăng đã
là ĐCSVN thì chỉ có thể lựa chọn như vậy trong tình huống các nước XHCN Đông Âu
sụp đổ? – Vì tư duy ý thức hệ không có chỗ cho sự lựa chọn khác, không muốn lựa
chọn khác?[81]
-
…
Vận
mệnh quốc gia đòi hỏi phải mất công sức tìm ra những câu trả lời chuẩn xác.
Muốn
xây dựng quan hệ láng giềng tốt và bền vững không thể thiếu với Trung Quốc,
càng phải rút kinh nghiêm những chặng đường đã qua để có bản lĩnh thực hiện
đúng đắn mục tiêu này.
Phải
chăng có thể kết luận: Vì bất kể lý do gì –
hoàn cảnh lịch sử và tình hình phát triển thấp của đất nước, bối cảnh quốc tế bất
khả kháng, sự trói buộc của ý thức hệ, sự hẫng hụt của trí tuệ và phẩm chất
trong nhận thức thế giới và trong giác ngộ giác ngộ lợi ích quốc gia, sự tha
hóa của đạo đức, vân vân… - suốt 38 năm qua, tất cả những hệ lụy của những sai
lầm và thất bại trong lĩnh vực đối nội cũng như đối ngoại, tất cả những việc gì
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đòi hỏi phải thực hiện nhưng chưa làm được,
đất nước đều phải trả giá không sót một việc nào.
*
Sau
38 năm kể từ khi giành lại độc lập thống nhất, nói chuẩn xác hơn sau 28 năm đổi
mới, Việt Nam đã hoàn thành giai đoạn phát triển đầu tiên của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước trong thời bình. Đây là thành tựu rất to lớn của đất nước.
Một
sự thật khách quan là sau 30-04-1975 những công việc phải làm là những nhiệm vụ
vô cùng khó khăn của một nước chịu nhiều hậu quả của chiến tranh (với nghĩa là
7 cuộc chiến tranh trong một cuộc chiến tranh) tàn phá nặng nề và kéo dài, lại
phải tiến hành trong những điều kiện đối ngoại rất khó khăn phức tạp.
Về
nhiều mặt, những nhiệm vụ phải hoàn thành trong thời kỳ này nhìn chung đều vượt
quá tầm với của bất kể đội ngũ lãnh đạo nào đất nước hồi ấy có thể có được. Bởi
vì đấy là những nhiệm vụ rất khó, chưa có tiền lệ. Những sai lầm và thất bại nhất
định đã vấp phải là điều không thể tránh khỏi. Không thể có bất kỳ một đội ngũ
lãnh đạo toàn năng nào, dù là được thượng đế ban cho nước ta, cứ được đặt vào vị
trí là có thể hoàn thành được những nhiệm vụ phải làm ấy. Đây cũng là một thực
tế khách quan.
Tuy
nhiên, điều đáng nói ở đây là bản chất của hệ thống chính trị, trước hết là đội
ngũ nòng cốt của nó là ĐCSVN, thiếu hẳn tố chất dân chủ và học hỏi trong thời
bình, do đó rơi vào tình trạng:
-
Khi nhận thức ra sai lầm, đã tiến hành
được công cuộc đổi mới năm 1986, và đã xoay chuyển hẳn được tình thế trong phát
triển kinh tế, nhưng cũng chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà thôi, không đi tiếp nữa
sang cải cách chính trị mà sự nghiệp phát triển của đất nước đòi hỏi. Hội nghị
đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của ĐCSVN khóa Đại hội VII (01-1994) ấn định
bước phát triển đổi chiều này.
-
Trong quá trình cầm quyền, vì thiếu tố
chất của dân chủ và học hỏi, lại không có một hệ thống chính trị pháp quyền dân
chủ làm được các chức năng: cọ sát, sàng lọc, thải loại, quyền phải được ràng
buộc với trách nhiệm giải trình, thực hiện công khai minh bạch.., nên hệ thống quyền
lực của ĐCSVN tha hóa không thể cưỡng lại thành hệ thống quyền lực cai trị -
(nhóm Kiến nghị 72 gọi đấy là hệ thống quyền lực của chế độ toàn trị).
Trở thành một hệ thống chính trị như thế, trước hết là ĐCSVN trở thành một đảng
toàn trị, nắm trọn mọi quyền thế (nguyên tắc lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối). Hệ
quả dẫn tới: Sai lầm xảy ra nối tiếp sai lầm, tha hóa ngày càng tha hóa, khiến
cho đất nước vấp phải những thất bại nặng nề, và hiện đang rơi vào cuộc khủng
hoảng trầm trọng hôm nay[82].
Bản
tổng kết 38 năm qua của ĐCSVN phải chăng như sau:
-
So với mục tiêu chiến lược của ĐCSVN đã đề
ra trong các cương lĩnh và trong các nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng,
-
so với nhiệm vụ thực hiện dân
chủ, độc lập, tự do, hạnh phúc cho đất nước và cho nhân dân mà ĐCSVN đã cam kết,
-
so với công sức và nguồn lực đất nước đã
bỏ ra,
-
so với các cơ hội to lớn đến với đất nước
và so với mọi nguồn lực bên ngoài đất nước ta đã huy động được,
-
so với những thành quả lẽ ra đất nước phải
giành được và triển vọng phải có cho giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước,
-
so với những hệ quả trầm trọng do những
khuyết tật của hệ thống chính trị hiện hành gây ra đang kìm hãm sự phát triển của
đất nước,
-
so với những cái giá đất nước phải trả về
đối nội và đối ngoại suốt 38 năm qua,
-
rồi so mức phát triển của nước ta với
các nước có liên quan,
-
so một bên là tình trạng nguy hiểm hiện
nay và những thách thức lớn phía trước đang đặt ra cho đất nước và một bên là
khả năng đối phó rất hạn chế của đất nước.., vân vân…
so như thế, phải chăng có
thể đánh giá:
-
Trong 38 năm hòa bình đầu tiên kể từ
khi đất nước độc lập thống nhất, ĐCSVN đã vấp phải nhiều thất bại rất nghiêm trọng;
đất nước phải trả giá và hiện nay đang lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc và toàn
diện.
-
Bản thân ĐCSVN ngày nay tha hóa thành
đảng cai trị, qua đó đã đánh mất phẩm chất chiến đấu cách mạng của mình.
-
Nhân danh thực hiện sự lãnh đạo toàn
diện và tuyệt đối, ĐCSVN 38 năm qua đã thiết lập nên một chế độ toàn trị, nguồn
gốc cơ bản của biết bao nhiêu quyết sách sai lầm và tệ nạn quan liêu tham nhũng
mà ngày nay đất nước đang phải gánh chịu mọi hậu quả[83].
Có
phải như thế không?
Nếu
đúng là như vậy, ĐCSVN hôm nay chỉ còn lại là một lực lượng chính trị lớn nhất
nắm vận mệnh đất nước; lợi ích cai trị của nó và lợi ích đất nước thường không
phải là một, và thậm chí có những xung đột hoặc đối kháng nghiêm trọng. Rất nên
trao đổi thẳng thắn trong nội bộ ĐCSVN và với nhân dân, để làm rõ thực trạng
nguy hiểm này và cùng nhau khắc phục, thay đổi.
Có
phải ĐCSVN bây giờ chỉ còn lại là một lực lượng chính trị lớn nhất trong nước
hay không?
Câu
hỏi này quá nghiêm trọng, nhất thiết các đảng viên ĐCSVN phải tìm ra câu trả lời.
Vì
lợi ích của bản thân sự tồn tại ĐCSVN đã đành, nhưng quan trọng hơn thế là vì lợi
ích của hòa giải đoàn kết dân tộc đòi hỏi nhất thiết không để xảy ra xung đột
hoặc thậm chí đổ máu giữa một bên là lực lượng chính trị lớn nhất này (ĐCSVN)
và một bên là các lực lượng chính trị khác trong nhân dân sớm muộn đến lúc nào
đó sẽ xuất hiện.
Muốn
tránh cho đất nước ta đến một lúc nào đó sẽ có thể xảy ra cái gọi là “hậu
chiến tranh Iraq”, hoặc những cái gọi là “mùa xuân Ả-rập” đang diễn
ra rất đẫm máu.., thì ngay từ bây giờ phải mổ xẻ thực trạng này, để
ĐCSVN phải tự thay đổi chính mình và tranh thủ sự hậu thuẫn của nhân dân cho cuộc
đổi đời này của Đảng. Ngay từ bây giờ nhân dân cả nước cần thấy rõ triển
vọng nguy hiểm này, chủ động đòi ĐCSVN phải thay đổi.
Hơn
bao giờ hết kể từ ngày lập quốc, dân tộc ta hiện nay đang đứng trước đòi hỏi phải
đứng lên giành lấy độc lập tự do về tư duy để tự giải phóng chính mình khỏi bất
kỳ sự nô dịch tinh thần nào và mọi lạc hậu khác, để trên cơ sở học hỏi, tiếp
thu trí tuệ của văn minh nhân loại, vận dụng truyền thống sáng tạo và ý chí
kiên cường của mình, phấn đấu trở thành một dân tộc, một đất nước của trí tuệ
và phẩm giá, có bản lĩnh phấn đấu cho tự do hạnh phúc của chính mình, và dám dấn
thân cho lợi ích chung của cộng đồng thế giới. Muốn như thế, mỗi người Việt Nam
chúng ta phải thay đổi. Sống sát nách bá quyền Đại Hán đang vươn lên siêu cường,
Việt Nam càng phải lựa chọn sống như thế. Và muốn thế, từng người Việt Nam
chúng ta phải thay đổi.
Tự
nhận về mình là đội ngũ tiên phong của dân tộc, nhưng ĐCSVN hôm nay không hề
nhận thức được đòi hỏi bức thiết này của dân tộc, thậm chí đang làm tất cả
để củng cố thêm sự nô dịch dân tộc về tư duy, chỉ vì mục đích duy nhất là bảo vệ
chế độ chính trị toàn trị hiện nay.
Có
không ít ý kiến không phải là thiếu căn cứ: “Để cho chế độ này sụp đổ đi, rồi
làm lại từ đầu. Sự ngột ngạt hiện nay hết chịu nổi, hà hơi tiếp sức góp ý xây dựng
cho nó kéo dài làm gì!.. Hơn nữa quyền lực ĐCSVN là không thể thay đổi được!”[84]
Thế
nhưng…: Sau 4 cuộc chiến tranh liên tiếp mà 3 thế hệ của đất nước phải gánh chịu,
bây giờ Việt Nam có nên chấp nhận một kịch bản như nêu trên không? đấy có phải
là kịch bản tối ưu không? Cũng xin đừng quên cảnh đục nước béo cò đã nhiều lần
dầy vò nước ta suốt 7 thập kỷ vừa qua, chắc gì không tái diễn?. Xin trí tuệ cả
nước – kể cả trong ĐCSVN – hãy tỉnh táo cân nhắc. Thậm chí: Đây có phải là kịch
bản duy nhất như một định mệnh của đất nước hay không?.. …
Trước
sau, riêng tôi chỉ lựa chọn con đường hòa giải dân tộc. Chỉ đi con đường này,
còn nước còn tát.
Nếu
như ĐCSVN vẫn còn tự coi mình là một đảng cách mạng, cam kết chỉ có lý tưởng
duy nhất là phục vụ đất nước, nếu ĐCSVN không muốn phản bội truyền thống chiến
đấu hy sinh vì nước của biết bao nhiêu thế hệ đi trước của đảng mình và của dân
tộc mình, thì ĐCSVN nên mổ xẻ thực trạng hiện nay của mình để tự kết luận.
ĐCSVN
hiện nay còn đủ thời giờ và các điều kiện cần thiết cho một cuộc mổ xẻ như thế
để tự thay đổi, và hoàn toàn có thể thay đổi được. Trong lịch sử đã từng không
dưới một lần ĐCSVN đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích của đảng một khi tình
hình đòi phải làm như vậy. Trong hàng ngũ đảng viên yêu nước hiện nay không thiếu
trí tuệ và tâm huyết cho sự thay đổi này. Khi còn sống, Võ Văn Kiệt là một
trong nhưng tấm gương như thế dấn thân không mệt mỏi cho thay đổi ĐCSVN trở
thành đảng của dân tộc[85].
Quả
thực, sựa lựa chọn đặt ra cho ĐCSVN hôm nay rất khắc nghiệt: Hoặc là bảo tồn
mình như là một lực lượng chính trị lớn nhất đang cai trị đất nước – và như thế,
đến một lúc nào đó đối kháng giữa cai trị và bị cai trị là điều khó tránh khỏi.
Hoặc là phải thay đổi tất cả để phấn đấu trở thành lực lượng lãnh đạo mạnh nhất
trong nước – với tính cách là một đảng của dân tộc!?
Song
cũng phải nói lên một sự thật khác: Cho đến nay chưa có một đảng cộng sản đã cầm
quyền nào ở các nước XHCN LXĐÂ trước đây có khả năng thay đổi đến lột xác như
thế, các đảng này chỉ có chung một số phận là bị lịch sử gạt bỏ thô bạo hay lặng
lẽ.
ĐCSVN
có bề dày mấy thế hệ kháng chiến cứu nước, liệu có thể là một ngoại lệ được
không? Liệu ĐCSVN có thể đặt lợi ích quốc gia lên trên hết để tự thay đổi mình
được không? Có nên thay đổi như thế không?..
Phải
tìm đường trả lời những câu hỏi này. Vì đấy là con đường đỡ xương máu và mồ hôi
nước mắt cho đất nước, đồng thời tránh cho ĐCSVN cuối cùng sẽ đi vào lịch sử với
tính cách là kẻ đối kháng lại lợi ích dân tộc. Thực ra, đây là sự thay đổi để
trở lại cái bản chất gốc, bản chất ban đầu là chủ nghĩa yêu nước của những người
cộng sản Việt Nam đã từng làm nên Cách mạng Tháng Tám và tinh thần tiên phong
hy sinh chiến đấu suốt mấy thế hệ trong kháng chiến cứu nước. Sự thay đổi này
chính là sự giải phóng của bản thân những đảng viên ĐCSVN hôm nay khỏi sự nô dịch
của ý thức hệ ăn đong và vay mượn từ bên ngoài.
Nhiều
cá nhân đảng viên yêu nước ở các nước XHCN LXĐÂ cũ đã thực hiện được sự thay đổi
như vậy. Nhiều đảng viên có phẩm chất và năng lực sau này vẫn được nhân dân trao
cho những trọng trách trong chế độ dân chủ ở các quốc gia này. Vậy rất nên đưa vấn đề lựa chọn sống còn này
ra cho các đảng viên ĐCSVN thảo luận dân chủ, công khai và thẳng thắn trong nội
bộ để quyết định.
Chưa
bao giờ ý chí độc lập - tự chủ, chưa bao giờ tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự
do!” của đất nước bị xâm phạm, bị sa sút như ngày nay. Sau 38 năm độc lập thống nhất, hiện nay đất
nước ta đang ở thời kỳ bên trong thì lòng dân vô cùng bức xúc; trong khi đó sự
uy hiếp và thách thức từ bên ngoài đối với đất nước vô cùng nguy hiểm. Cả nước
nhất thiết phải cùng nhau nhìn nhận lại tất cả, vì đất nước này không phải là của
riêng ai, mà là của tất cả mỗi người Việt Nam chúng ta!
VIII – Thách thức và cơ
hội – sự lựa chọn của nước ta
Bàn thêm về ASEAN
Các
phần trình bầy trên đã nêu lên những thách thức đối với nước ta. Tại đây xin
nêu thêm một số ý kiến về thách thức đối với Việt Nam có liên quan đến ASEAN.
ASEAN là một tập hợp do đòi hỏi của cuộc
sống tự thân các nước ASEAN, nhưng tập hợp ASEAN vẫn còn đứng xa cái đích đã tạo
ra nó: trở thành một hợp tác khu vực mang lại phát triển phồn vinh, hạnh phúc
cho các quốc gia thành viên, bảo vệ và phát huy được vị thế quốc tế phải có của
ASEAN.
Trở ngại lớn nhất cho việc thực hiện
cái đích của ASEAN là (1)sự phát triển không đồng đều và (2)một số khác biệt /
mâu thuẫn giữa các quốc gia thành viên do lịch sử (bao gồm cả những yếu tố văn
hóa) và do hoàn cảnh địa kinh tế và địa chính trị của mỗi quốc gia thành viên tạo
nên. Thực tế này là mảnh đất mầu mỡ cho mọi ý đồ can thiệp, lũng đoạn của bên
ngoài[86].
Điều
may mắn là những thách thức, đòi hỏi của phát triển tự thân các nước thành
viên, cũng như đòi hỏi và sức ép đến từ bên ngoài khu vực, đang thúc đẩy ngày
càng mạnh mẽ hợp tác của tập hợp ASEAN. Những nỗ lực nhằm hoàn tất việc xây dựng
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (CEA) vào năm 2015 phản ánh sự đang trưởng thành này.
CEA được xây dựng trên 3 trụ cột là an ninh chính trị, kinh tế, và văn
hóa xã hội; đấy sẽ là một dạng tập hợp tương tự như Liên minh Châu Âu
(EU), song ở mức thấp hơn và có những khác biệt nhất định.
Thách
thức lớn nhất đến từ ASEAN đặt ra cho Việt Nam là chính Việt Nam: Làm
gì? và làm thế nào? để thực hiện được vai trò và nghĩa vụ của chính nước ta mà
sự thành công của ASEAN đòi hỏi, mong đợi.
Muốn
hay không muốn, nói ra hay không nói ra, vụ lợi hay không vụ lợi, có sự mong đợi
từ ASEAN về một lá chắn Việt Nam đối với áp lực Trung Quốc. Cũng như vậy,
Việt Nam cần một hẫu thuẫn trực tiếp từ ASEAN chống lưng cho mình trong đối phó
với sóng bão Trung Quốc.
Thực
trạng hiện nay là:
(1) sự mong đợi từ ASEAN nước ta đáp ứng chưa tốt
– trước hết vì sự đóng góp của Việt Nam vào phát triển và hợp tác của ASEAN còn
rất khiêm tốn, Việt Nam vẫn đang thiếu một đường lối đối ngoại độc lập tự chủ
và dấn thân, Việt Nam chưa có một nền tảng đối nội cho một đường lối đối ngoại
mà vị thế của Việt Nam ngày nay đòi hỏi;
(theo tôi, không thể đổ lỗi tình trạng này cho sức mạnh kinh tế còn
khiêm tốn của mình);
(2) sự hậu thuẫn chống lưng cho Việt Nam đang có
những lỗ thủng rất đáng lo ngại – chủ yếu do ảnh hưởng và sự can thiệp
của quyền lực mềm Trung Quốc (trước hết vào Campuchia, Lào, Thái Lan…, chính
sách bẻ
từng que đũa của bó đũa…) và phần nào do bản thân sự phát triển của
chính các nước thành viên ASEAN còn những hạn chế nhất định[87].
Nước
ta đang đứng trước một thực tế rất nhạy cảm: Hoặc là Việt Nam thực hiện được
vai trò và nghĩa vụ mà ASEAN mong đợi; trong trường hợp này ASEAN mạnh lên và
Việt Nam cũng nhận được từ ASEAN và cộng đồng quốc tế điều mình mong đợi. Hoặc
là trường hợp Việt Nam bất lực, thậm chí giả sử Việt Nam đi ngược lại mong đợi
của ASEAN (ví dụ: giả thiết Việt Nam và Trung Quốc “đi đêm” với nhau trong đàm
phán song phương Việt – Trung…), Việt Nam sẽ rơi vào một thế bị cô lập nguy hiểm
- không phải chỉ trong phạm vi ASEAN, mà còn trong phạm vi quốc tế[88].
Xin
hình dung trước mắt ta là tấm bản đồ: Phía Bắc là Trung Quốc, phía Đông và Nam
là sự uy hiếp của Trung Quốc trên Biển Đông, phía Tây là các “điểm ASEAN” đã bị
Trung Quốc chọc thủng… Không thể nhắm mắt trước một tấm bản đồ
như vậy.
Hễ
là người Việt Nam thì cần nhìn thẳng vào tấm bản đồ này và lựa chọn quyết định
phải lựa chọn.
Trên
thế giới ngày nay không còn liên minh ý thức hệ (ví dụ như sự ra đời và tồn tại
“phe” XHCN trước đây), song lại có đòi hỏi bức thiết về liên minh của lợi ích
cùng chiều, liên minh của các giá trị và của sự phát triển,. Điều này có nghĩa
Việt Nam chỉ có thể có được một ASEAN như mình mong đợi, nếu Việt Nam tự phát
triển và tự dấn thân mạnh mẽ.
Tự
phát triển và tự dấn thân như vậy, thực sự là thách thức khó nhất, lớn nhất đặt
ra cho Việt Nam hiện nay. Sẽ là vô ích và nguy hiểm, nếu ta chỉ một chiều trách
cứ bạn bè thế nọ, thế kia… Đơn giản vì không thể có chuyện “mủi lòng thương cảm”,
“sự thông cảm…” từ phía bạn bè khi bàn những vấn đề liên quan đến lợi ích quốc
gia.
Thách thức do sự hội tụ
của mọi thách thức
(1) Sự tha hóa và bất
cập của hệ thống chính trị trước đòi hỏi nóng bỏng phải chuyển đất nước ta bước
sang một giai đoạn phát triển mới,
(2) con rồng Trung
Quốc đã bắt đầu nhe nanh vuốt của nó,
(3) trục xoay của Mỹ
hướng về CA-TBD,
(4) sự tự khẳng định
ngày càng tăng của các cường quốc khu vực hướng vào khu vực CA-TBD,
(5) kinh tế thế giới
đi vào một thời kỳ phát triển mới đang thay đổi sâu sắc sự vận hành hiện nay của quá trình toàn cầu hóa
– một phần việc cụ thể có liên quan của quá trình này là Việt Nam thực hiện các
bước đi tham gia vào TPP và phải cùng với các thành viên ASEAN hoàn thành xây dựng
cộng đồng CEA;
đấy là 5 thách thức đang đặt ra trực tiếp
cho nước ta hiện nay và trong những thập kỷ tới.
(Còn thách thức thứ 6 là nguy cơ ASEAN
bị phân hóa, song nguy cơ này còn tùy thuộc rất nhiều vào sự hiệp đồng giữa các
thành viên ASEAN, cũng có nghĩa là tùy thuộc rất nhiều vào vai trò dấn thân của
Việt Nam trong cộng đồng ASEAN; vì thế không muốn liệt kê vào đây).
Điểm nổi bật là cả 5 thách thức nói trên cũng hội tụ
vào thời điểm hiện tại, mọi mối quan hệ qua lại của chúng cùng tác động đồng thời
vào nước ta, tạo ảnh hưởng chi phối sự phát triển của nước ta trong những thập
kỷ trước mắt.
Sự hội tụ này có nghĩa:
a. làm
gia tăng tính triệt để của các thách thức,
b. mọi
giải pháp cho bất kỳ thách thức nào phải đồng bộ và liên quan hữu cơ đến những giải
pháp cho các thách thức còn lại,
c. không
làm chủ được thách thức này hàm nghĩa sẽ thất bại hay khó tránh thất bại trước
những thách thức khác,
d. các
giải pháp cho từng thách thức có thể hỗ trợ lẫn nhau, nhất thiết phải được thiết
kế theo cách tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau, các giải pháp đòi hỏi phải có tầm nhìn,
trí tuệ, ý chí và sự đồng thuận phù hợp trong toàn dân tộc;
e. trong
tất cả mối quan hệ qua lại hữu cơ giữa các thách thức, làm chủ và giải quyết thành
công thách thức số 1 luôn luôn là khởi sự và là chìa khóa cho giải quyết thành
công 4 thách thức còn lại.
Để giải quyết cả 5 thách thức (1 – 5) với
những đặc tính nêu trên (a – e), Việt Nam đứng trước đòi hỏi sống còn phải tiến
hành thành công một cuộc cải cách triệt để hệ thống chính trị để trở thành một
Việt Nam có bản lĩnh. Đây là chìa khóa giải quyết mọi vấn đề, mở ra cho đất nước
một giai đoạn phát triển mới bắt buộc phải vươn tới.
Sự
thật là, dù nhìn từ bất kể phương diện nào – đối nội hoặc đối ngoại, kinh tế hoặc
chính trị hay quân sự, hoặc trên các phương diện văn hóa, xã hội.., - tình hình
bắt buộc nước ta phải tiến hành một cuộc cải cách chính trị vỹ đại, để trở
thành một quốc gia có bản lĩnh đứng vững vàng trong khu vực ngày càng trở nên
nóng bỏng này…
Cuộc cải cách chính trị này phải nhằm
vào cái đích:
-
Phát huy được sức mạnh dân tộc, bắt đầu
từ xây dựng một thể chế chính trị dân chủ pháp quyền, thực hiện quyền con người,
giải phóng tự do cá nhân, từ đó làm nên sức mạnh vật chất và tinh thần của đất
nước.
-
Bằng đường lối ngoại giao dấn thân tạo
ra khả năng lan tỏa ảnh hưởng của Việt Nam cho một sự tập hợp lực lượng trên thế
giới hậu thuẫn sư nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Không
thể nói khác, đấy phải là cuộc cải cách dưới ngọn cờ dân tộc và dân chủ với tầm
trí tuệ và ý chí của văn minh nhân loại ngày nay.
Như
vậy, hy vọng đã trình bầy rõ điểm xuất phát là thực trạng của đất nước
hôm nay, cũng như cái đích phải đi tới của cuộc cải cách chính trị phía
trước.
Nghĩa
là từng người Việt Nam phải cùng nhau thay đổi, cùng nhau trưởng thành lên
ngang tầm đòi hỏi của đất nước, chứ không phải chỉ có riêng những người đảng
viên ĐCSVN.
Câu
chuyện còn lại là từ thực trạng đất nước hôm nay lựa chọn con đường nào? và
với lộ
trình nào? để đi tới cái đích phải đến nói trên.
Con
đường lý tưởng của cải cách là con đường của công khai minh bạch, của thông
tin, học hỏi, dân chủ, là con đường của thiện chí xây dựng, của phát triển, là
con đường của đồng thuận xã hội ở mức cao nhất, là con đường cùng nhau thiết kế,
cùng nhau khai phá, tiến hành.., là con đường được dẫn dắt bởi trí tuệ và các
giá trị thuộc về các quyền tự do dân chủ của nhân dân… Quyết khép lại quá khứ,
để làm bằng được như vậy. Quyết không phản bội bất kỳ hy sinh nào đã ngã xuống
vì nước, không bỏ qua bất kỳ mất mát nào đất nước đã phải trả giá để có được
hôm nay. Phải chắt chiu từng đồng tiền bát gạo đã dành dụm được, để vắt óc xây
đắp nên những thành quả mới của đất nước trên con đường cải cách… Đó chính là
con đường vận động dân chủ và trí tuệ từ dưới lên, vừa đặt ra đòi hỏi mạnh mẽ bất
khả kháng của nhân dân, và đồng thời vừa tạo thuận lợi cho việc tiến hành cải
cách thể chế chính trị từ trên xuống trong hòa bình, hiểu biết, hòa giải, đồng
thuận và đoàn kết dân tộc.
So
với các nước LXĐÂ cũ, so với Myanmar hiện nay, có thể nói nước ta hội đủ mọi điều
kiện trong, ngoài để tạo ra một khung khổ mang tính chất cam kết của
đồng thuận xã hội, được nuôi dưỡng bằng ý chí của dân tộc, để tiến hành một cuộc
cải cách bằng trí tuệ và hòa giải, không hồi tố, không đổ máu, không tiếng súng,
đảm bảo kinh tế tiếp tục phát triển trong cải cách. Tất cả với mục
đích duy nhất là vì Tổ quốc Việt Nam yêu quý của chúng ta, vì cuộc sống đáng sống
của người dân Việt ta – đúng với tinh thần: dân chủ, độc lập, tự do, hạnh
phúc.
Cải
cách dứt khoát không chấp nhận con đường bạo lực, và không thể thành công bằng
con đường này.
Có
2 luồng ý kiến chính:
-
Trong tình hình đối nội, đối ngoại đều
nóng bỏng đối với nước ta như hiện nay, cải cách sao tránh khỏi dẫn đến một
Ai-cập ở Việt Nam. Làm như thế để mà chết à?
-
Trong tình hình nước sôi lửa bỏng như hiện
nay, cải cách là lối ra, là con đường sống.
Xin
cứ nêu lên như thế để cùng bàn luận.
Người
viết bài này xin lạm bàn:
Qua
việc bàn luận sửa đổi Hiến pháp 1992, tình hình cho thấy luồng ý kiến thứ nhất
rất rôm rả trong tranh luận bằng “độc thoại” trên nhiều báo chí chính thống (lề
phải) và trong không ít phát ngôn quan trọng. Luồng ý kiến này nhấn mạnh: Ưu
tiên số một là giữ ổn định chính trị, tình trạng yếu kém khó khăn của đất nước có
thể được cứu chữa bằng đẩy mạnh tự phê bình và phê bình (tham khảo các ý kiến của
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại các Hội nghị Trung ương 4, 5, 6; tham khảo các
ý kiến của Hoàng Chí Bảo trong tranh luận kiểu độc thoại trên báo QĐND
25-08-2013 với Lê Hiếu Đằng). Thiết nghĩ, cách tiếp cận này là lựa chọn sự nhắm
mắt để dễ bề chấp nhận cái chết lâm sàng, trước khi đi tới cái chết hẳn dù dưới
dạng nào.
Luồng
ý kiến thứ hai nêu ra nhiều kiến nghị cụ thể về sửa đổi Hiến pháp. Tiếc rằng chỉ
được đăng tải trên “lề trái”. Rất nên phổ biến công khai các ý kiến của luồng này
trên mọi phương tiện thông tin đại chúng của lề phải, để công luận cả nước cùng
thảo luận. Tại đây chỉ muốn đặt câu hỏi: Nếu người cầm quyền tin rằng mình có
chính nghĩa thì có gì phải tránh né thảo luận công khai minh bạch trong cả nước
để tìm ra chân lý?
“Đi với Trung Quốc giữ
được chế độ nhưng mất nước? Đi với Mỹ giữ được nước nhưng mất chế độ và mất Đảng?…”
Đấy
là suy nghĩ nói lên thành lời của không ít vị lão thành trăn trở về vận mệnh đất
nước hiện nay.
Người viết bài này xin có lời bình: “Đi”
như thế, e rằng trước sau rồi sẽ mất tất cả, để rồi sẽ phải làm lại từ đầu tất
cả.
Bởi
vì đi như thế với ai đi nữa, thân phận của đất nước ta vẫn là thân phận của nước
bên
thứ ba (the third player, the third party) như đã nói tới ở các phần
trên. Gần 7 thập kỷ vừa qua nước ta đã không dưới một lần rơi vào cái thân phận
nước bên
thứ ba.., không dưới một lần bị thí, bị phản bội, bị cướp, bị móc
túi.., và cuối cùng nước ta đang có chỗ đứng đầy âu lo như hôm nay trên bàn cờ
thế giới.
Lịch
sử ngoại giao nước ta 7 thập kỷ vừa qua còn cho thấy, đi với bên nào thì trước
sau vẫn rơi vào nguy cơ thường trực: Đi với
một bên, chống một bên, với kết cục không bao giờ tốt đẹp.
Trong
nước và trên thế giới có nhiều nhận xét xác đáng: Việt Nam đang thực hiện đường
lối ngoại giao “leo dây”. Qua đó, cái yên thân Việt Nam giành được chỉ là cái
yên thân luôn luôn chung chiêng, chao đảo trên dây. Cái ý chí không
gì quý hơn độc lập tự do giành được qua sự yên thân này chỉ là cái tự
do có khung trời hẹp bằng sợi dây ta đang đi trên nó. Cái dây ấy có thể bị giựt,
bị đứt bất kỳ lúc nào. Khung trời tự do này cắt nghĩa sự lệ thuộc và phụ thuộc
nguy hiểm đất nước đang mang trên mình, như đã trình bầy trong các phần trên của
bài này.
Còn
phải tính toán thêm một yếu tố mới: Trong mọi bước
đi cố phục hồi lại vị thế quốc tế đã từng có thời Xô-viết và trước nữa, Nga
đang tiến hành nhiều hoạt động gia tăng sự có mặt của mình ở phía Đông. Thực tế
này làm cho yếu tố Nga ngày càng đặm nét hơn tại khu vực biển Hoa
Đông (liên quan đến đảo Kurin, đến Nhật) và trên biển Đông (bao gồm cả những nỗ
lực muốn trở lại Cam Ranh). (Hiện nay trong vấn đề Syrie cũng vậy).
Hiện
tượng mới này có thể đặt Việt Nam trước 2 tình huống:
(1)có
thể khai thác yếu tố Nga để giảm bớt sự căng thẳng cho ta trong việc giữ cân bằng
giữa hai đối trọng Mỹ - Trung? và
(2)phải
chăng việc ta thực hiện cân bằng giữa 2 đối trọng Mỹ - Trung sẽ có thêm những
khó khăn mới, nếu Nga cùng đi với Trung Quốc như đang làm trong vấn đề Syrie?
(Chú
ý: Kịch bản Nga đi với Mỹ trong chiến lược “trục xoay” của Mỹ có lẽ hoàn toàn
loại trừ trong bối cảnh quốc tế hiện nay).
Suy
cho cùng, cả 2 tình huống (1, 2) này chẳng lợi lộc gì cho nước ta. Hơn nữa, nước
ta hầu như không thể có ảnh hưởng gì trong trò chơi tay ba này, kể cả
trường hợp ta lựa chọn đối sách đi với một bên nào đó (dù là Nga). Cũng không
thể loại trừ trò chơi tay ba này mang đến cho nước ta những vấn đề nhạy
cảm và khó khăn mới. “Đi” với ai, trong trò chơi này, thân phận nước
bên thứ ba đối với nước ta vẫn là một ác mộng.
Có
thể tình huống 1 ở chừng mực nhất định có lợi cho Việt Nam – ví dụ như hiện nay
Nga đang là người bán cho Việt Nam nhiều vũ khí quan trọng, quan hệ với Việt
Nam có một bề dầy lịch sử được nhân dân cả hai bên trân trọng, vân vân… Song hiển
nhiên những mối quan hệ Việt - Nga có quá khứ tốt đẹp này làm sao có thể sánh được
với tầm quan trọng của việc Nga đang muốn phục hồi vị thế cường quốc trước đây
của mình. Nếu hình thành một trục Nga – Trung trong những vấn đề ở Bắc Phi (hiện
nay đang manh nha trong vấn đề Syrie), liệu việc Việt Nam đi với Nga như thế sẽ
có những hệ lụy gì? Hiện nay Nga đã đồng ý bán những vũ khí tối tân cho Trung
Quốc như tên lửa S400, máy bay chiến đấu SU – 35… Vũ khí Nga bán cho Việt Nam
kém hiện đại hơn (vì ta ít tiền hay không cần đến?)
Trong
tình hình có một kịch bản Syrie ở Biển Đông (Nga đi với Trung Quốc), giả thử Việt
Nam lựa chọn đi với một bên kép là Nga - Trung Quốc trong trò
chơi tay ba này, hầu như chắc chắn Việt Nam đứng trước một hiểm họa
mới khôn lường (là tiền đồn, là khu đệm cho liên kết Nga – Trung trong trò chơi
tay ba đầy nguy hiểm này? V… v…). Chẳng lẽ bài học nóng hổi “7 cuộc chiến tranh
trong 1 cuộc chiến tranh” hôm qua không nói lên điều gì với nước ta hôm nay?
Có
một điều có thể thấy trước: Mối quan hệ giữa các nước lớn càng rối rắm và nhạy
cảm, chắc chắn Nga sẽ càng bận bịu hơn nữa chăm lo đến vị thế quốc tế của mình.
Và như thế, quan hệ Nga – Việt sẽ chỉ còn nằm lại trong phần phụ lục của chính
sách đối ngoại Nga mà thôi.
Kịch
bản Việt Nam đi với Mỹ trong vấn đề Biển Đông nói riêng và trong vấn đề “chiến
lược trục xoay” nói chung – dù là có hay không có sự xuất hiện của Nga trong
khu vực ĐNA này – cũng không hứa hẹn điều gì tốt đẹp. Vì “đi” như thế, ta sẽ lĩnh
đủ đạn từ phía Trung Quốc, lại vẫn là rơi vào cái bẫy đi với một bên chống một bên.
Nếu có cả Nga tham gia vào trò chơi này, thì màn kịch sẽ càng rối rắm và không
bớt mùi máu trộn thuốc súng dành cho Việt Nam.
Kịch
bản đi với Trung Quốc?
Đi
với Trung Quốc như đã đi gần 70 năm qua? Đi với Trung Quốc như đã và đang đi từ
Thành Đô cho đến hôm nay? “Đi” như thế chắc là đủ lắm rồi! Trở
thành tiền đồn cho Trung Quốc thì nhân dân ta chắc chắn sẽ bác bỏ quyết liệt,
và thế giới cũng sẽ tảy chay. Bây giờ rất cần mối quan hệ láng giềng bình đẳng,
tôn trọng độc lập chủ quyền, tốt đẹp, tự trọng, bền vững đời đời với Trung Quốc,
chứ không phải sự mầu mè 4 tốt và 16 chữ...
Muốn
được như thế, phải chăng cái dĩ bất biến của Việt Nam là: Nhất
thiết phải có bản lĩnh không trở thành nước bên thứ ba trong bất kỳ
loại games nào của các ông lớn?
Kịch
bản là nước trung lập đứng ngoài cuộc chơi tay ba của Mỹ, Trung, Nga, hoặc đứng
ngoài cuộc chơi tay đôi (trong đó có một bên kép Nga - Trung) không đặt ra cho
Việt Nam. Đơn giản vì sẽ chẳng ai chịu để nước ta thoát khỏi thân phận nước
bên thứ ba. Nghĩa là dù ta có quỳ
gối xin được trung lập, chắc thiên hạ cũng không ban cho!
Tóm
lại, “đi” như nói trên với ai
cũng không được!
Trung
lập cũng không được!
Nghĩa
là không còn ngả đường nào khác ngoài con đường nước ta đã lựa chọn nhưng chưa
làm sao dấn thân bước vào được, đó là: Chính ta cũng phải trở thành đối tác chiến
lược, đối tác toàn diện của các đối tác. Đơn giản là làm gì có chuyện bắt tay
nhau hay hân hoan vỗ tay bằng một bàn tay!
Xin
nói huỵch toẹt ra thế này:
Hiện
nay có lẽ Mỹ cũng chưa tin ta, mặc dù ta có vị trí và vị thế chiến lược quan trọng
lắm. Thế thì làm sao ta là đối tác hợp tác toàn diện được?.. Vậy ta làm sao thực
hiện được vỗ tay hay bắt tay nhau bằng hai bàn tay được – nghĩa là trong đó phải
có một bàn tay là của phía Việt Nam?
Hiện
nay Trung Quốc cũng ngờ vực ta. Trung Quốc thừa biết 4 tốt và 16 chữ là của rởm.
Nhưng nội bộ Trung Quốc đặt câu hỏi: Việt Nam chập chờn? Bắt cá hai tay? Lật lọng?
Việt Nam có bản lĩnh, hay khiếp nhược hay vật vờ?.. Báo chí Trung Quốc không dưới
một lần nói “Việt Nam ăn cháo đá bát!”… Nghĩa là Trung Quốc không tin ta, coi
thường ta, chẳng sợ ta, cũng chẳng nể nang gì ta, có cơ hội thì còn làm cho ta
ê chề nữa…
Vậy
có cách gì làm cho cả Mỹ và Trung Quốc phải thay đổi cách suy nghĩ của họ về ta?
Phải làm thế nào cho họ hiểu: Có một Việt Nam khác – một Việt Nam tự nó, cho
nó, vì nó và vì lẽ phải, vì những giá trị toàn cầu… Đã đến lúc họ phải ứng xử
đúng mực với một Việt Nam bản lĩnh như thế!..
Chúng
ta cần nhìn thẳng vào sự thật:
-
Việt nam có một vị trí chiến lược địa
chính trị và địa kinh tế rất đặc biệt tại Đông Nam Á.
-
Nhưng trong con mắt của hầu hết những diễn
viên chính tại sân khấu CA - TBD, Việt Nam mới chỉ được coi là một vị thế
công cụ quan trọng.
-
Bây giờ Việt Nam nhất thiết phải chủ
đông chiếm được cho mình vị thế đối tác quan trọng (đối tác
chiến lược, đối tác toàn diện) và được tôn trọng. Không có sự lựa chọn nào
khác.
Vâng,
để chiếm được chỗ đứng là đối tác quan trọng trong chính sách đối ngoại của họ,
nhất thiết ta phải là một Việt Nam của phẩm giá – được đo bằng những giá trị của
dân tộc mình, những giá trị toàn cầu và được thể hiện thành hành động; mọi xảo
ngôn chẳng giúp được gì[89].
Một
Việt Nam biết tự trọng và muốn tạo ra lòng tin chiến lược (“diễn văn Shengri
La”), nước ta nhất thiết phải là như thế, phải làm được như thế.
Cùng
nhau vỗ tay hân hoan bạn bè, hay là bắt tay nhau hợp tác, đều phải có đủ hai
bàn tay như thế, trong đó Việt Nam phải là một bàn tay.
Ta
còn thua kém các đối tác về nhiều phương diện, nhưng vị thế địa kinh tế và địa
chính trị của nước ta cho phép ta tham gia và có những đóng góp vào các mối
quan hệ chung song phương / đa phương trong khu vực và toàn cầu đủ quan trọng,
để ta cũng được thừa nhận là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện.
Nhưng
sự thật là hiện nay nước ta đang thiếu trầm trọng bản lĩnh, phẩm chất và trí tuệ
để dấn thân trở thành một đối tác như thế, chứ không phải vì nước ta nghèo và lạc
hậu. Nói nghiêm khắc, nước ta vẫn chưa ra khỏi cái tâm lý đối phó, chập chờn, ỷ
lại, cầu xin, tâm lý mong được giúp, được chi viện![90]
Như
vậy hiển nhiên, cái dĩ bất biến là: Phải trở thành
một quốc gia có bản lĩnh, phẩm chất và trí tuệ - từ đó sẽ có thực lực để dứt
khoát không cam chịu thân phận nước bên thứ ba. Nhưng làm sao Việt
Nam trở thành một quốc gia như thế với chế độ chính trị toàn trị hiện hành?[91]
Xin mỗi người Việt Nam, trước hết là các đảng viên ĐCSVN, hãy trả lời câu hỏi
này.
Một
khía cạnh khác: Ngày nay, trên ngôn từ, Việt Nam
đã có quan hệ đối tác chiến lược, quan hệ đối tác toàn diện với tất
cả các diễn viên chính trên sân khấu thế giới. Nhưng phải nói ngay, quan hệ
thực chất của nước ta với tất cả những đối tác quan trọng này, kể cả với
Trung Quốc có “16 chữ và 4 tốt”.., nước ta đều ở vị trí rất thấp trong chính
sách đối ngoại của họ, đơn giản vì:
(1) về
mọi phương diện thế và lực của nước ta đều yếu,
(2) đường
lối đối ngoại chập chờn của ta vì phải đi dây, nên khiến các đối tác quan trọng
này của ta cũng đáp lại chập chờn theo (vì không có chuyện “free lunch” ở đây),
(3) đi
dây như thế không thể dấn thân được; điều này có nghĩa mãi mãi cam chịu giữ vị
trí thấp trong mọi vấn đề, trong mọi cuộc chơi của các đối tác / đối thủ và của
cả thế giới, chẳng bao giờ có thể bình đẳng.
Một
đường lối ngoại giao phải gánh chịu 3 nhược điểm lớn như thế, chung cuộc làm
suy yếu đất nước, đặt đất nước trước nhiều hiểm họa.
Đến
đây có thể kết luận: Bằng mọi giá, nước ta phải là chính mình, để thiết lập được
các mối quan hệ đối ngoại mà sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước đòi hỏi. Đấy
là: Bằng
ngọn cờ dân tộc và dân chủ phát huy sức mạnh dân tộc, đi với cả thế giới.
Việt
Nam nhất thiết phải đứng trên đôi chân của mình, quyết định những bước đi của
mình, bởi vì lợi ích của mình đòi hỏi như vậy, bởi vì hòa bình và xu thế tiến bộ
trên thế giới muốn có một Việt Nam như vậy. Đòi hỏi không thể thoái thác này
xác quyết: Việt Nam phải trở thành một quốc gia của dân chủ, độc lập, tự do, hạnh
phúc và hòa bình.
Còn
một sự thật nữa: Nước ta có một vị thế rất quan trọng trong chính sách đối
ngoại của tất cả các đối tác quan trọng, lớn cũng như nhỏ, các nước thành viên
ASEAN…, nhìn theo phương diện tiêu cực, cũng như theo phương diện tích cực.
Nhìn
theo phương diện tiêu cực: Nếu thống soái được
Việt Nam, sẽ làm được nhiều chuyện. Ví dụ, nếu biến được Việt Nam thành một bàn
đạp cho Trung Quốc tiến xuống phía Nam và ra Biển Đông!..
Nêu
lên như vậy là để bàn cho hết nhẽ. Cứ cho là Trung Quốc rất muốn, nhưng có thể phương
án này trong thực tế sẽ không khả thi hay rất khó khả thi. Vì hầu như chắc chắn
nhân dân Việt Nam sẽ từ chối đến cùng một phương án như vậy, và chắc cũng sẽ nhân
dịp này quét sạch luôn mọi ảo tưởng, phản bội, hay đầu hàng ăn theo phương án
này.
Xin
nhắc lại, Trung Quốc trước đây đã đôi ba lần đề nghị với Mỹ phương án chia
đôi Thái Bình Dương. Cách đây ít lâu bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc
Thường Vạn Toàn tuyên bố Thái Bình Dương
đủ chỗ cho cả Trung Quốc và Mỹ… Bây giờ xin lưu ý: Việt Nam có một vị trí
chiến lược khá quan trọng, nên từ sau chiến tranh thế giới II đến hôm nay không
dưới một lần người ta đã bàn với nhau các phương án “chia đôi” như thế dành
cho Việt Nam.
Trong
tiếp đón Chủ tịch Trương Tấn Sang vừa qua, phía Mỹ tuy cởi mở, tiến xa hơn so với
ta một chút lên phía trước, song vẫn bầy tỏ một thái độ “wait and see!” khá rõ rệt
với Việt Nam, (ví dụ: không thể tách việc bán vũ khí sát thương cho Việt Nam với
vấn đề thực hiện dân chủ và quyền con người ở Việt Nam, nội dung “đối tác toàn
diện” hàm ý có những điều chờ đợi nhất định…). Mỹ không thể làm khác, mặc dù ai
cũng biết phía Mỹ rất muốn triển khai mạnh mẽ chiến lược “trục xoay”. Thái độ “wait
and see!” như vậy phải chăng cho thấy: Mỹ không mơ hồ, cũng không sốt
ruột trước tình trạng “chập chờn” và “ngoại giao leo dây” khó tránh hiện nay của
Việt Nam!? Chưa nói đến việc là siêu cường, ắt Mỹ còn nghĩ đến nhiều tính toán
khác, nhiều phương án khác, cho những tình huống khác.[92].
Trên
phương diện tích cực: Việt Nam sẽ rất quan
trọng đối với nhiều nước nếu là một thành trì bất khả xâm phạm của hòa bình
trong khu vực, là cầu nối rất cần thiết giữa các khu vực và cho những players
trong nhiều vấn đề nan giải khác…
Sự
thật là trên thế giới ngày nay rất nhiều quốc gia muốn có một Việt Nam có đủ khả
năng giữ vai trò tích cực nêu trên. Trong
tất cả các đối tác chiến lược, có lẽ duy nhất chỉ có Trung Quốc muốn có một Việt
Nam suy yếu. Việt Nam thực sự đang có tiềm năng giành lấy một vị thế quốc tế xứng
đáng mà rất nhiều nước trên thế giới mong muốn cho Việt Nam! Cơ hội này thực sự
chưa từng có cho Việt Nam kể từ khi lập
quốc, do xu thế phát triển của thế giới hôm nay tạo ra.
Đã
thế, bàn cờ thế giới thay đổi như chong chóng. Vì lợi ích nào đó các cường quốc
hôm nay đi với nhau; vì lợi ích nào đó ngày mai có thể chống lại nhau. Việt Nam
không thể dựa dẫm hay ăn theo nói leo được.
Nếu không đủ trí tuệ và bản lĩnh để luôn luôn giữ được mình là chính mình và đi
cùng với cả thế giới tiến bộ, để có khả năng bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia của mình và biết dấn thân ủng hộ lợi ích của cộng
đồng, xin hỏi làm sao Việt Nam có thể có những quyết định đúng đắn?
Một
khi phải có một đường lối đối ngoại như thế, sẽ có nhiều điều vô cùng nhạy cảm
và vô cùng gian khổ, sẽ đụng chạm với nhiều nơi và sẽ chịu sức ép mới từ nhiều
nơi… Thử hỏi, nếu không có hậu thuẫn của một nền nội trị vững mạnh, làm sao dám có một
đường lối đối ngoại như thế? làm sao dám thực hiện? Vấn đề Biển Đông của đất nước
đang là một vấn đề như thế. Vấn đề quan hệ Việt – Trung, quan hệ Việt – Mỹ
trong bối cảnh chính trị mới của khu vực và trên thế giới đang là những vấn đề
vô cùng nhạy cảm và gian khổ như thế… (Xin nói một sự thật trong quá khứ: Trong
những thập kỷ trước đây, ngoại giao Việt Nam không hiếm khi phải chiến đấu trên
2 mặt trận: mặt trận đối ngoại, và phia sau lưng là mặt trận đối nội!)
Một
lần nữa lại càng rõ: Thách thức lớn nhất khiến Việt Nam có thể tuột mất cơ hội
lớn cũng như dễ dàng rơi vào các bẫy mới lại chính là yếu kém của Việt Nam. Mà
trong cuộc sống không có một yếu kém nào được buông tha! Một lần nữa lại càng rõ, cuộc cải
cách thể chế chính trị phía trước của đất nước là bắt buộc. Cải cách chỉ được
phép phải thành công, điều này cũng là bắt buộc, để đất nước có một bản
lĩnh mới, một năng lực mới. Đấy cũng là tiền đề hàng đầu để giành thắng lợi.
Có
lần, một người bạn muốn ở tôi lời khuyên, nếu được gặp lãnh đạo Việt Nam, ông
ta nên nói gì?
Đáp:
Lãnh đạo Việt Nam cần biết: (1)Vấn đề nóng bỏng nhất Việt Nam phải giải quyết ngay
là cải cách thể chế chính trị. (2)Sự bê bết lớn nhất của Việt Nam hiện nay là bất
lực trong cải cách thể chế chính trị. (3)Chỗ mạnh nhất của Việt Nam là quyết
tâm thực hiện bằng được cải cách thể chế chính trị.
Cái bóng không làm khác
được cái hình
Một số bạn lão thành khác chia sẻ với
tôi: Trung
Quốc không cải cách thì Việt Nam đừng có hòng! Họ cải thì mình mới cải được!
Thật
ra không ít người trong giới quan sát nước ngoài cũng nghĩ như vậy, và điều này
có những lý do xác đáng nhất định.
Có
quá nhiều dẫn chứng lấy ra từ cuộc sống lập luận cho cách nghĩ nêu trên. Tôi
không phản bác được, nhưng cũng không chấp nhận. Tôi tìm cách đặt vấn đề theo
cách khác: Giả định, vì lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc, vì lựa chọn con đường
dấn thân đi với cả thế giới, Việt nam quyết tiến hành cải cách thể chế chính trị
của mình thì sao? Trung Quốc sẽ có thể làm gì?
Sẽ dùng quyền lực mềm can thiệp sâu vào
nội bộ nước ta? Tiếp tay cho mọi nỗ lực bóp chết từ trong trứng cải cách của ta?
Lũng đoạn kinh tế, chính trị? O ép hay can thiệp bằng quân sự - công khai hoặc
trá hình? Chia rẽ? Ly gián? Gây bạo loạn, phá hoại? Xui khiến một lực lượng nào
đó gây hấn thọc vào sườn ta? Trung Quốc trực tiếp can thiệp bằng chiến tranh? Vân vân…
Tất
cả những giả thiết như vậy đều có thể[93].
Xin
nhắc lại: Bỗng dưng ngạo mạn lấy cớ dậy cho Việt Nam bài học, giữa lúc Việt Nam
không hề đụng đến một sợi tóc của Trung Quốc, để tiến hành cuộc chiến tranh
17-02-1979, kéo dài đến tận 1989.., thử hỏi còn việc gì khác Trung Quốc không
dám làm khi cần? Nghĩa là không đánh ta, hay muốn đánh ta, Trung Quốc đâu cần đợi
đến lúc Việt Nam tiến hành cải cách!
Hoàn
toàn có thể suy luận: Trung Quốc chắc chắn không thích sau Myanmar bây giờ lại
có thêm một Việt Nam dân chủ cạnh nách mình. Hiển nhiên Việt Nam không quyết định
được “khẩu vị” và sự lựa chọn như vậy của Trung Quốc.
Song
chẳng lẽ vì Trung Quốc không thích, nên nước ta không dám làm cái việc nước ta phải
làm? Trung Quốc rất muốn duy trì một nước Việt Nam èo uột và lệ thuộc như hiện
nay, chẳng lẽ chỉ vì trung thành với 16 chữ và 4 tốt nên nước ta phải chiều
lòng họ? Thực tế từ hội nghị Thành Đô đến nay nước ta đã làm quá mức, quá mức rất
nhiều những gì có thể, chỉ để mong xây dựng được quan hệ tốt đẹp giữa hai nước.
Thế nhưng Trung Quốc không để nước ta yên. Cuộc sống đang cho thấy: phía ta
càng nhân nhượng, phía Trung Quốc càng lấn tới.
Bây
giờ Trung Quốc ngang nhiên đòi đường lưỡi bò, leo thang tiếp đòi phải
thừa nhận cái gọi là chủ quyền thuộc Trung Quốc trên Biển Đông trước đã, rồi mới
tính đến chuyện cùng hợp tác khai thác – với nghĩa chỉ hợp tác những vùng trên
Biển Đông Trung Quốc có yêu sách nhưng chưa chiếm được, chứ đừng hòng cùng hợp
tác khai thác những vùng Trung Quốc đã phi pháp chiếm giữ như Hoàng Sa, một số
nơi ở Trường Sa…[94]
Tất
cả chỉ cho thấy, việc của nước ta, nước ta phải lo, không thể chiều lòng hay sợ
mất lòng bất kỳ ai.
Việt
Nam đến nay chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ điên dại đi khiêu khích Trung Quốc.
Việt Nam cũng không thể chấp nhận việc Trung Quốc cho phép mình làm gì và bắt
mình không được làm gì. Với bất kể lý do gì, một khi nhà cầm quyền Trung Quốc rắp
tâm cản phá con đường sống của nước ta là cải cách thể chế chính trị, nước ta
không có sự lựa chọn nào khác: Sống hay chết, nước ta phải làm việc nước ta phải
làm.
Xin
cứ bàn luận rộng rãi, công khai trong cả nước để có quyết tâm: Cải cách thể chế
chính trị là con đường sống của đất nước ta, kể cả trong quan hệ với Trung Quốc.
Thậm chí đấy là con đường tạo dựng ra mối quan hệ đúng đắn, láng giềng tốt và bền
vững với Trung Quốc. Câu chuyện này chẳng có gì phải giữ bí mật!
Như đã nói ở trên, xin được dành câu hỏi
“tiến
hành cải cách thể chế chính trị như thế nào?” cho một chuyên đề khác. Dưới
đây chỉ xin nêu một số nhận định khái quát.
Con
đường bạo loạn, lật đổ sẽ chỉ dẫn đất nước đến đổ vỡ, thậm chí có thể đổ vỡ rất
đẫm máu, không loại trừ sự can thiệp từ bên ngoài... Tiếp theo đó, đến lúc tình
hình cho phép, vẫn phải tiến hành nhiệm vụ cải cách không thể tránh né được,
nhưng quá trình này sẽ có thêm nhiều trở ngại mới nguy hiểm
Nhưng
nếu ngoan cố trấn áp nhân dân, dứt khoát cưỡng lại cải cách, sớm muộn cũng sẽ dẫn
đến chế độ bị lật đổ. Song vì quá trình này thiếu hẳn việc nâng cao dân trí và
xây dựng các giá trị cần thiết cho thực hiện cải cách, nên con đường cải cách
tiếp theo bắt buộc phải đi qua sẽ gian truân hơn nhiều và không loại trừ vấp phải
nhiều tổn thất, thất bại. Thực tiễn các nước Bắc Phi hiện nay đang diễn ra như
vậy.
Trong
khi đó dựa vào trí tuệ và ý chí của nhân dân chủ động cải cách từ trên xuống,
Myanmar đang vạch ra một triển vọng sáng sủa hơn, không tốn một sinh mạng, kinh
tế có được sinh lực mới, thể chế chính trị bắt đầu đi vào con đường dân chủ, vị
thế đối ngoại của đất nước được nâng cao đáng kể. Kết quả tổng hợp đến nay là độc
lập và chủ quyền của Myanmar vững chắc hơn trước.
Dứt
khoát không nên dẫn giải các câu chuyện ở Bắc Phi hiện nay ra để hù dọa “nguy
cơ Ai-cập”.., với ý đồ lẩn tránh cải cách.
Câu
chuyện Ram Sainry sau bầu cử tháng 7 vừa qua ở Campuchia cũng đáng được phân
tích, để tránh cho sự nghiệp cải cách ở nước ta những bước đi quanh co không cần
thiết.
Chúng
ta có nhiều thông tin về nền dân chủ hoàng gia ở Thái Lan, một nước tiếp cận với
dân chủ sớm nhất Đông Nam Á, nhưng đến nay vẫn chưa sao tránh được cứ dăm ba
năm lại đảo chính một lần.
Chúng
ta cũng có những kinh nghiệm thành công của Hàn Quốc về xây dựng nhà nước pháp
quyền dân chủ như một khâu quyết định. Giữa thập niên 1950, lúc khởi sự con đường
dẫn tới Hàn Quốc hôm nay, GDP p.c. Hàn Quốc chỉ đạt có 80 USD (tương đương với
GDP p.c. gần 200 USD của Việt Nam năm 1986 khi tiến hành đổi mới). Trong một thể
chế chính trị quân phiệt gần như là tàn dư của chiến tranh, nhưng có tinh thần
gìn giữ các giá trị của dân tộc mình, quyết học hỏi, có ý chí đuổi và vượt hàng
của Nhật, làm việc cật lực và có trách nhiệm – nhất là trong cơ quan nhà nước (ở
Việt Nam không thể nói như vậy), trong đời sống kinh tế - chính trị - xã hội rất hiếm không gian cho “làm giả, ăn thật”… Hàn
Quốc đã triển khai được những bước đầu tiên trên con đường kiến thiết. Nhưng phải
chờ đến hoàn thành việc xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ dưới thời Pác
Chung Hy, mới tạo ra được nền móng và cú hích đẩy Hàn Quốc bước lên con đường
trở thành NIC hôm nay.
Chúng
ta có không biết bao nhiêu thông tin về quá trình cải cách liên tục, cải cách
không ngừng của các nước phát triển từ giữa thế kỷ 20 cho đến nay; rồi đến những
bài học cải cách của các nước LXĐA cũ…
Lợi
thế nước đi sau cho phép nước ta học hỏi được rất nhiều từ các nước đi trước, để
có thể dựng lên một chiến lược cải cách, thiết kế một chế độ xã hội phát triển,
và hoạch định một lộ trình để đi tới cái đích ấy. Cái khó là sự ngoan cố của quyền lực,
chứ không phải là đất nước ta không đủ trình độ và điều kiện tiến hành cải cách[95].
Tình trạng lạc hậu và bối cảnh chính trị nhạy cảm hiện nay của đất nước ta càng
không phải là lý do để trì hoãn cải cách, mà là sự thôi thúc sống còn phải cải
cách.
Một
cơ may hay là một cơ hội, đúng vào thời điểm này đang tiến hành việc sửa đổi Hiến
pháp năm 1992. ĐCSVN nên nhân dịp này thực
hiện dân chủ và công khai minh bạch trong việc huy động trí tuệ cả nước xây dựng
một Hiến pháp mới, đặt nền móng đầu tiên cho việc tiến hành cuộc cải cách quyết
định vận mệnh và tiền đồ của đất nước.
Làm
như vậy là lãnh đạo.
Không
làm như vậy, thậm chí xuyên tạc và tìm cách bóp chết mọi ý kiến đúng đắn của
nhân dân về xây dựng Hiến pháp, có nghĩa là ĐCSVN tự tay vứt bỏ vai trò lãnh đạo
mà ĐCSVN giành lấy cho mình, để tiếp tục duy trì vị thế đảng cai trị. Không có
cách gì có thể bào chữa được.
Việc
sửa đổi Hiến pháp như hệ thống chính trị hiện nay đang làm không khác bao nhiêu
việc “dắt trâu qua rào”, chỉ để bảo toàn một hệ thống quyền lực cai
trị đang tiếp tục đẩy đất nước đi sâu vào bế tắc và khủng hoảng.
Tại
đây xin nêu một câu hỏi có thể nhiều người không thích nghe:
Tại
sao một ĐCSVN vì nước vì dân với tính cách là người nắm trọn mọi quyền
lực trong tay không dựa vào trí tuệ và nguyện vọng của nhân dân để chủ động tiến
hành một cuộc cải cách chính trị từ trên xuống, mở đầu bằng việc phát
huy dân chủ, thực hiện công khai minh bạch, tổ chức cho nhân dân xây xựng thành
công một Hiến pháp mới?
Không phải nói đâu xa, đổi mới 1986 chính là một
cuộc cải cách kinh tế từ trên xuống, do ĐCSVN tiến hành, được thực hiện trên cơ
sở dựa vào những đòi hỏi của cuộc sống, sự đóng góp trí tuệ của nhân dân. và cuối
cùng là chế độ chính trị chịu chấp nhận nhìn thẳng vào sự thật để thay đổi. Đấy
là một cuộc cải cách hòa bình. Nhờ thành công của đổi mới đất nước mới được như
hôm nay.
Cái
giá lớn nhất ĐCSVN sẽ phải trả cho cải cách và cho
Hiến pháp mới là phải rút lại cái quyền tự ban cho mình là đứng trên và đứng
ngoài Hiến pháp (Điều 4), chịu mất đi mọi đặc quyền đặc lợi vốn là cái nôi sinh
sản những quyết sách sai lầm và nuôi dưỡng sự tha hóa cũng như mọi tệ nạn quan
liêu tham nhũng của Đảng, của toàn bộ hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước. Tất
cả những đặc quyền đặc lợi này đã và đang làm hỏng toàn bộ xã hội và đời sống mọi
mặt của đất nước. Vứt bỏ những thứ xấu xa ấy là không đáng hay sao? Song đổi lại, cái được lớn nhất là
ĐCSVN có những điều kiện tốt nhất trong cả nước để từ đảng cai trị phấn đấu trở
thành đảng lãnh đạo. Và nhờ có vai trò lãnh đạo có thực chất như vậy, ĐCSVN sẽ có
điều kiện tốt nhất tranh thủ lá phiếu của nhân dân thông qua bầu cử trung thực,
qua đó trở thành đảng cầm quyền một cách chính danh và chính đáng. Nền tảng nhà
nước pháp quyền và xã hội dân sự được xây dựng nên như thế trong cải cách chẳng
những là cần thiết cho phát triển kinh tế nói riêng (kinh tế thị trường) và cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung, mà còn là không gian đáng mong muốn
duy nhất cho rèn giũa lý tưởng và phẩm chất chính trị của ĐCSVN. Một sự
lựa chọn như thế là sự lựa chọn đi với dân tộc, phục vụ sự nghiệp của đất nước[96].
Chỉ
có cải cách chủ động và từ trên xuống như thế, mới có thể chắc chắn thực hiện
được cải cách trong hòa bình, không bạo lực và thành công sớm nhất: dân
tộc hòa giải, đất nước phát triển hài hòa, bạn bè thế giới hậu thuẫn.
Đây chính là thế vững như bàn thạch của đất nước, có thể làm thất bại mọi can
thiệp dưới bất kỳ hình thức nào và dù từ đâu tới. Cải cách chủ động và từ trên
xuống như thế là con đường lý tưởng nhất của nước ta lúc này. Lý tưởng cho cả
ĐCSVN trong quá trình lột xác thành một đảng mới của dân tộc.
Không
có cải cách chủ động và từ trên xuống như thế, áp lực của cải cách thường dễ biến
thành sự bùng nổ, khó kiểm soát, rất dễ dẫn tới bạo lực.
Xin
nhấn mạnh: Với tư cách là đảng duy nhất cầm quyền và là lực lượng
chính trị lớn nhất của đất nước, ĐCSVN là người có trách nhiệm đầu tiên và trước
hết đề xướng và phát huy trí tuệ, tâm huyết cả nước thực hiện thắng lợi cuộc cải
cách chính trị trọng đại này. Làm như vậy, chắc chắn ĐCSVN sẽ nhận được từ nhân
dân sức mạnh Diên Hồng và sự hậu thuẫn của bè bạn khắp thế giới để làm nên lịch
sử: Một
Việt Nam từ nay và mãi mãi là chính mình, dấn thân cùng với cả thế giới tiến bộ.
Bác
bỏ cải cách, đấy sẽ là sự lựa chọn đối kháng với nguyện vọng chính đáng của
nhân dân và phản lại lợi ích quốc gia.
Sự
thật là đất nước ta hiện nay đang lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội toàn diện. Xin lưu ý, Liên Xô cũ tuy có
nhiều yếu kém dai dẳng, nhưng vẫn là một siêu cường, nhiều thập kỷ đối mặt
ngang ngửa với Mỹ. Song một khi diễn tiến của tha hóa dẫn tới sụp đổ các thang
giá trị trong lòng xã hội xô-viết và trong lòng dân, Liên Xô hùng cường tự đổ sập
không ai biết trước, không ai có thể cứu vãn được.
Sự
thật là con giun xéo mãi cũng oằn. Đất nước đã có những tiếng nói trực diện và
quyết liệt chống lại. Đó là những tiếng nói của Nguyễn Phương Uyên, Lê Hiếu Đằng,
của những người trong thế hệ trẻ đòi hủy bỏ Điều 258 của Bộ Luật Hình Sự, của
những người hiên ngang đeo giữa ngực biểu tượng “No U!” (Nói không với “đường
lưỡi bò”) bất chấp bị bắt bớ, của những người đòi hủy bỏ Nghị định 72, là tiếng
súng Đoàn Văn Vươn, là những tiếng nói của trí tuệ, của chính nghĩa và của đoàn
kết hòa giải dân tộc đóng góp vào việc sửa đổi Hiến pháp mà hiện nay ĐCSVN đang
cố tình bỏ ngoài tai…
Hơn
lúc nào hết, đã đến lúc ĐCSVN phải nhìn thẳng vào sự thật, như một lần Đảng đã
từng nhìn thằng vào sự thật năm 1986, và nhờ đó Đại hội VI đã đi tới các quyết
định đảo ngược tình thế.
Thế
giới ngày nay đang thay đổi với biết bao nhiêu vấn đề nóng bỏng liên quan đến mọi
quốc gia; trong đó ASEAN trở thành một trọng tâm của những vấn đề nhạy cảm ở
CA-TBD, Việt Nam rơi vào vị trí nhạy cảm nhất; vấn đề Trung Quốc là vấn đề của
cả thế giới – nhưng Việt Nam bị uy hiếp trực tiếp nhất. Trong bối cảnh như thế,
nước ta lại đang bế tắc đứng trước ngã ba đường: Giai đoạn phát triển đầu tiên
của đất nước đã kết thúc trong khủng hoảng, hầu như chưa chuẩn bị được bao
nhiêu cho giai đoạn sau; chẳng lẽ bây giờ chịu khuất phục quán tính để nhắm mắt
bước tiếp vào đường cụt? hay là phải cải cách để khai phá một con đường phát
triển mới cho đất nước?
Những
thách thức trong và ngoài rất quyết liệt đang đặt ra cho đất nước tại ngã ba đường
này, đồng thời cuộc sống đòi hỏi bức xúc đất nước phải trở thành một Việt Nam của
hòa bình - dân chủ - độc lập – tự do – hạnh phúc và đáp ứng sự tin yêu của bạn
bè, phải chăng tất cả những yếu tố này đang tạo ra cho nước ta một cơ hội lịch
sử cần nắm lấy? Một cơ hội trở thành một Việt Nam của trí tuệ và phẩm giá mà
sau 30-04-1975 nước ta đã bỏ lỡ!
Ở
ngã ba đường này, đã đến lúc mỗi người Việt Nam chúng ta phải lựa chọn quyết định
cho đất nước và cho chính bản thân mình!
Hay
là trong góc tối vẫn đang lấp ló con đường trở lại Thành Đô?
*
Đất
nước độc lập thống nhất đến năm nay là năm thứ 38, nhưng hiện nay độc lập và sự
toàn vẹn chủ quyền và lãnh thổ quốc gia đang bị xâm phạm và uy hiếp nghiêm trọng,
đòi hỏi đất nước phải chiến thắng mọi thách thức mới. Chưa thể nói đất nước đã
được chuẩn bị với tất cả tính triệt để cho các nhiệm vụ phía trước. Cái khó nhất
hiện nay là lòng dân chưa thu được về một mối và chưa tập hợp được sự hậu thuẫn
sâu rộng nhất trên thế giới. Trong khi đó đất nước đang phải vật lộn chật vật để
tìm lối ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay và khai phá con đường bước vào thời kỳ
phát triển mới; một lần nữa đất nước đứng trước nguy cơ lại để vuột mất thời cơ
lịch sử ngàn năm có một.
Đất
nước độc lập thống nhất 38 năm rồi, nhưng câu hỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa
có câu trả lời: Đất nước được độc lập, nhưng dân không có tự do thì độc lập để làm gì?
Đất
nước độc lập thống nhất 38 năm rồi, nhưng đến hôm nay cả nước vẫn chưa bước vào
cuộc đấu tranh giành lấy độc lập tự do về tư duy, để vĩnh viễn bước ra khỏi quá
khứ của nghèo hèn và lạc hậu, sớm khắc phục tình trạng tụt hậu và lạc lõng với
thế giới, để trở thành một dân tộc tự do. Nhiệm vụ này còn nguyên vẹn ở phía
trước. Tự nhận về mình vai trò đội ngũ tiên phong của dân tộc với sự
lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối, nhưng ĐCSVN hôm nay chưa một lần
đặt cuộc đấu tranh giành độc lập tự do về tư duy nhất thiết phải có này lên bàn
nghị sự của dân tộc. Trong khi đó cả nước đang chịu sự trấn áp tự do tư duy chưa
từng thấy.
Hết
Võng
Thị, Hà Nội, Tháng Tám 2013
Nguyễn Trung
Tài liệu tham khảo:
1.
Các sách và bài đã được dẫn, trích dẫn và đã được
nêu trong các chú thích.
2.
Nguyễn Trung, tiểu thuyết “Lũ”, tập I, tập II
3. Nguyễn
Trung, “Việt Nam trong thế
giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21”
4.
Nguyễn Trung, “Hiến pháp - và những bất cập của Dự thảo sửa đổi”
5.
Nguyễn Trung, “Đảng – Nhà nước – Hiến pháp, Vài suy nghĩ về sửa đổi Hiến pháp
1992” http://www.viet-
studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_Dang_NhaNuoc_HienPhap.htm
6.
Nguyễn Trung, “Đừng xuyên tạc lịch sử
để đưa những điều sai trái vào Dự thảo Hiến pháp sửa đổi” http://viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_DungXuyenTacLichSu.htm
7.
Nguyễn Trung, “Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản
Thành Đô 1990” http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_ChanDungThanhDo.htm
8.
Nguyễn Trung, “Diễn văn của Tổng thống CHLB Đức, Joachim Gauck” http://viet-studies.info/NguyenTrung/MguyenTrung_DienVanTongThongDuc.htm
9.
Nguyễn Trung, “Câu chuyện Myanmar”, http://viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_CauChuyenMyanmar.htm
10.Nguyễn Trung, Thư ngỏ ngày 19-02-2013, http://viet-
studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_ThuNgoGuiLanhDao.htm
[1]
Tiểu luận phục vụ nghiên cứu của sinh viên và giảng viên. Tác giả giữ bản quyền.
[2] Khoảng
mươi năm nay, ở Mỹ xuất bản khá nhiều sách, các bài nghiên cứu, các bài báo của
những tác giả có tên tuổi nói về chiều hướng đi xuống của siêu cường Mỹ. Có thể
rút ra từ những ấn phẩm này một nhận xét khái quát là: Xu thế chung đi xuống này của
siêu cường Mỹ là rõ rệt, tuy có những lúc thăng trầm khác nhau, nhưng đây là một
quá trình dài. Khác với sự suy vong của các đế chế trong quá khứ, siêu cường Mỹ tuy có ảnh hưởng
ngày càng thu hẹp, nhưng do bản chất sự phát triển của nó nằm trong trào lưu
phát triển chung của thế giới, nên trong một tương lai nhất định Mỹ vẫn giữ được
vai trò đi đầu , vai trò lãnh đạo với nghĩa rất có giới hạn, trong sự vận động của thế giới; và đây là sự
khác biệt quan trọng giữa siêu cường Mỹ và các đế chế trước nó. Siêu cường
Mỹ chưa bao giờ là một đế chế, mặc dù có thời nó rất khát vọng điều này, “Pax
Americana” vĩnh viễn chỉ là một ước mơ trong quá khứ.
[3] (1) Tham
khảo: J. Bradford DeLong “The Second Great
Depression - Why the Economic Crisis Is Worse than you Think” – Foreign Affairs July/August
2013.
(2)
Mark Urban - “Is the United States an
empire in decline?”, BBC 20-09-2012
[4] (a) Tìm xem
cuộc trao đổi ý kiến tại London School of Economics giữa LAWRENCE SUMMERS, AXEL WEBER,
MERVYN KING, BEN BERNANKE và OLIVIER BLANCHARD - March
25, 2013
http://delong.typepad.com/sdj/2013/03/mervyn-king-ben-bernanke-olivier-blanchard-lawrence-summers-axel-weber.html
-
(b) Tham khảo thêm: John Kao
“Innovation Nation: How America Is
Losing Its Innovation Edge, Why It Matters, and What We Can Do to Get It Back”.
© Tham khảo thêm: Các số liệu thống kê về tình hình kinh tế Mỹ trong CIA – World Factbook 2012, phần về USA - https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/th.html
[5] Tìm xem: Charles A. Kupchan “Tình trạng bất ổn tại các
nước dân chủ”, tạp chí Phía trước, do Trần Ngọc Cư dịch.
[6] Tìm xem:
Nguyễn Trung, “Việt
Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21” www.tapchithoidai.org/.../201018_NguyenTrung.htm
[7] Điều này
không có nghĩa nếu Mỹ chẳng làm gì thì hôm nay có thể sẽ có vị thế quốc tế cao
hơn. Cuộc sống thực tế của quan hệ quốc tế không có gì đứng yên một chỗ. Đứng
yên và không phát triển đồng nghĩa với tụt hậu, với chết lâm sàng và dẫn tới bị
lọai bỏ. Vấn đề chỉ là lựa chọn quyết định hành động nào mà thôi.
[8] Hãy đặt
các vấn đề đạo lý – chính nghĩa và phi nghĩa, nhân đạo và vô nhân đạo, tiến bộ
và phản động v… v… - sang một bên, tiến hành chiến tranh ở Iraq và Afghanistan
có thể siêu cường Mỹ đã tính toán: Đây là bước mạo hiểm phải thực hiện, với triển
vọng mở ra một cục diện mới trong trật tự quốc tế với lá cờ Mỹ sẽ được giương cao hơn trước. Bởi
vì thời cơ xuất hiện cho Mỹ sau sự kiện 11-9 (September 11th) rất
quyến rũ! Siêu cường nào mà lại chịu bỏ lỡ cơ hội nâng cao vị thế và uy quyền của
mình? – còn thành hay bại lại là chuyện khác! Hơn nữa không thể bỏ qua thực tế:
Sự kiện 11-9 đã thách thức Mỹ chí mạng. Là siêu cường và vì phải ngăn ngừa những
hậu họa khó lường, nên Mỹ không thể khoanh tay chấp nhận chuyện đã xảy ra với
mình. Có thể xem bước phiêu lưu này của Mỹ như một nỗ lực của chủ nghĩa tân tự
do (nỗ lực cuối cùng chăng?), vốn hình thành từ thời Reagan – Tatcher và trở
thành một nếp nghĩ sâu sắc ở Mỹ, nhất là trong kinh tế? Có thể đánh giá đấy là
một phiêu lưu có tính toán, nhưng thực tế đã cho thấy Mỹ đã tính toán chưa hết
và do đó phải trả giá? Bởi vì trước khi bước vào 2 cuộc chiến tranh này, Mỹ đã
có rất nhiều bài học của chính mình, bài học thảm bại của Liên Xô cũ trong chiến
tranh Afghanistan… V… v… Chú dẫn này chỉ nhằm lưu ý: Cường quốc có lối suy nghĩ
riêng và hành động riêng của cường quốc – kể cả những phiêu lưu nó dám chấp nhận.
Có lẽ người đọc không nên hiểu cường quốc theo cách nghĩ của mình, cũng không
thể dậy khôn họ. Cách nhìn nhận đối với Trung Quốc cũng nên như vậy.
[9] Có một
khía cạnh cần lưu ý: Có thể phía Mỹ coi vấn đề dân chủ và nhân quyền như một
cái “test”quan trọng, xem Việt Nam muốn hợp tác thực sự với Mỹ tới đâu. Bởi vì
ngoài những ràng buộc về luật pháp Mỹ trong quan hệ đối ngoại của Mỹ, vấn đề
dân chủ và nhân quyền liên quan đến bản chất của một chế độ. Một chế độ chính
trị coi trọng vấn đề dân chủ và nhân quyền thường có phạm vi hợp tác rộng hơn với
Mỹ, và ngược lại… Chưa nói đến vấn đề dân chủ, nhân quyền là vũ khí lợi hại của
Mỹ đối với các đối thủ lớn như Trung Quốc, Nga, các chế độ độc tài khác…
[10]
Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, “Diễn
văn của Tổng thống CHLB Đức Joachim Gauck…”
[11] Tham khảo:
(a) R.
Kaplan (2010) - “The Geography
of Chinese Power: How far can Beijing
reach on Land and at Sea” Foreign Affairs, volume 89. Bài này đã được nhóm
“Nghiên cứu quốc tế” nghiencuuquocte.net dịch ra triếng
Việt. (b) Joe hung, “ Can a Thucydides trap be prevented?
China Post - June 17, 2013.
[12] Giới học
giả Mỹ đã kiến nghị một bên là Mỹ và Hàn Quốc, một bên là Trung Quốc ngay từ
bây giờ nên bàn trước với nhau cách phân vai và phối hợp ứng xử như thế nào một
khi chế độ Bắc Triều Tiên sụp đổ, vì chế độ này hiện nay rất mong manh. Trong
quá khứ: Khi viện trợ của Liên Xô cũ đột nhiên mất đi, đã xảy ra hàng trăm
nghìn người dân Bắc Triều Tiên chết đói!..
[13] Cho đến
nay, còn rất nhiều thách thức phi truyền thống chưa được nhìn nhận thấu đáo mà
Trung Quốc có thể gây ra cho các nước khác. Đấy là những thách thức nảy sinh từ
các vấn đề nhân chủng học, tôn giáo, di dân,
di chuyển lực lượng lao động, cấu trúc dân số, khan hiếm năng lượng,
khan hiếm nguồn nước, thiếu vùng không
gian sinh tồn, ô nhiễm môi trường, vân vân… Trong những thách thức chưa hề biết
đến, hay rất ít biết đến và rất khó lường này, ví dụ có câu hỏi: Giả sử vì bất
kể lý do gì, nếu ở TQ xảy ra bạo loạn lớn, hay kinh tế đổ vỡ lớn, điều gì sẽ xảy
ra cho các nước láng giềng chung quanh? Câu hỏi này không phải là sản phẩm của
trí tưởng tượng, mà đã từng xảy ra khi tại nhiều vùng biên giới Trung Quôc người
dân đã ồ ạt chay sang các nước láng giềng để trốn tránh cách mạng văn hóa. Ngay
trong hiện tại, các nhà chức trách ở vùng Viễn Đông của Nga vẫn chưa có cách
nào khả thi và ngăn chặn hữu hiệu tình trạng nhập cư trái phép của người Trung
Quốc. Trong khu vực này dân số của Nga ước khoảng 4,5 triệu người và từ nhiều
năm nay vẫn đang trong xu hướng tiếp tục giảm, trong khi đó bên kia biên giới là trên 100 triệu dân Trung
Quốc rất đói đất đai và cơ hội làm ăn! Việt Nam đang có nhiều mối lo lớn trước
việc TQ khai thác một cách nguy hiểm vùng thượng sông Mekong, vân vân…
[14]
Thucydides (460 BC – 395 BC) – sử gia
Hy-lạp, đã chứng minh cuộc chiến tranh Peloponesian (499BC – 449BC) giữa Athen
và Sparta lẽ ra có thể tránh được nếu không để cho nỗi sợ hãi và nghi kỵ lẫn nhau thái quá chi phối,
đấy chính là cái bẫy đã dẫn đến chiến tranh mà những bên hữu quan đã
vướng vào. Từ đó có thuật ngữ “cái bẫy Thucydides” trong nghiên cứu sử quan hệ
quốc tế. Kinh nghiệm này cũng được một số
học giả Mỹ và Trung Quốc nhắc đến nhân dịp TBT Tập Cẩm Bình đi thăm Mỹ (đối
thoai kinh tế - chiến lược lần thứ 5).
[15] Tiếc rằng
những tác giả của ý kiến này không nói cụ thể hơn: Hệ thống thế giới thân thiện
hơn là gì? Thực hiện nó thế nào?
[17]
Tìm xem: R. Kaplan (2010) - “The
Geography of Chinese Power: How far can Beijing reach on Land and at Sea”
Foreign Affairs, volume 89. Bài này đã được nhóm “Nghiên cứu quốc tế” nghiencuuquocte.net
dịch ra triếng Việt.
[18]
Tham khảo thêm: Charles
A. Kupchan, bài đã dẫn. Kupchan
coi quá trình thay đổi này là liều
thuốc đắng. Ví dụ: Chỉ riêng vấn đề quốc hội Mỹ đòi cắt giảm chi tiêu
ngân sách, Obama bị bó tay trong không ít vấn đề…
[19]
Một trong những ấn phẩm đáng chú ý về đề tài này có thể là cuốn “Death by China” (“Chết dưới tay Trung Quốc”)
- (2011) - của Peter Navarro và Greg
Autry. Cuốn sách này đã được nhóm trí thức ở Montréal / Canada do tiến sỹ Lê Minh Thịnh chủ trì dịch
ra tiếng Việt: http://www.vietnam.ca/vi/tai-lieu/cac-bai-viet-dang-luu-y/chet-duoi-tay-trung-quoc.html
.
[20]
Tham khảo thêm: “China 2030 - Building a Modern, Harmonious, and
Creative Society”
do World Bank và Trung tâm Nghiên cứu
Phát triển của Hội đồng Nhà nước nước CHND Trung Hoa soạn thảo.
[21]Tham
khảo: Minxin Pei, “The Politics of a Slowing China“, Project Syndicate, ngày 6
Tháng Bảy 2013. Theo tiến sỹ Vũ Quang Việt,
nhiều học giả đánh giá: Một trong những nguyên nhân quan trọng
khiến kinh tế TQ nổi lên mạnh mẽ là phong cách làm ăn theo kiểu rent
seeking (trục lợi). Nghĩa là làm giầu chủ yếu không dựa vào lao động
của con người và phát triển, mà trước hết bẳng cách (1) tàn phá thiên nhiên,
khai thác của trời cho như các tài nguyên không thể tái tạo được, dùng quyền
lực cướp đất công bán để thu lợi chênh lệch giá… (2) lạm dụng quyền lực có trong tay để vơ vét…
(3) lạm dụng những gì người khác đã tạo ra như ăn cắp bản quyền, ăn cắp cơ hội,
lừa gạt…
[22]So sánh
với những nước có GDP p.c. tương đương với Trung Quốc , các số liệu thống kê
cho thấy chênh lệch giầu nghèo ở Trung Quốc cao hơn nhiều, chỉ số gini
qua các năm gần đây ở Trung Quốc là 0,5
- 0,6.., trong khi đó ở những nước so sánh thường là 0,4 (chú ý: chỉ số gini càng
cao, mức chênh lệch giầu nghèo càng lớn).
[23] Tham khảo: Vũ Quang Việt: “Về cải cách sắp tới ở TQ: một cuộc trốc rễ vĩ đại” trên Bô-xit Viêt Nam và các bài báo khác.
[24] Thật ra
ngày nay khó tách bạch phạm trù địa kinh tế với phạm trù địa
chính trị, đến mức hai thuật ngữ này bị coi là lỗi thời và hầu như
không còn được sử dụng nữa. Tuy nhiên trong bài viết này, để tiện cho sự theo
dõi của bạn đọc, tôi vẫn “chia đôi” ra như vậy, cũng là để tôi dễ trình bầy,
mong được thông cảm.
[25]
Tham khảo thêm: “Chết dưới tay Trung Quốc”, sách đã dẫn, chương 7: “Chết dưới tay con rồng thực dân”.
[26]
Khối “BRICS” bao gồm các nước Brasil,
Nga, Ấn-độ, Trung Quốc, Nam Phi; diễn đàn Bác Ngao / Hải Nam hiện nay đang được
Trung Quốc nỗ lực đẩy lên như một diễn
đàn kinh tế thế giới kiểu WEF tại Davos.
[27] Tham khảo
thêm: “Chết dưới tay Trung Quốc”, sách đã dẫn, chương 4: “Cái chết của nền sản xuất của Hoa Kỳ: Tại sao
hàng Mỹ không còn ‘ăn khách’ (*) nữa?”
[28] Hiểu
theo nghĩa sự can thiệp của nhà nước vào thương mại và mọi hình thức lũng đoạn
khác trái với tinh thần WTO. Chỉ cần liên hệ với thực tiễn quan hệ kinh tế
Trung – Việt và những gì thương nhân Trung Quốc hàng ngày đang làm ở nước ta,
cũng có thể hiểu được tính nghiêm trọng của vấn đề.
[29] Chính
giới Trung Quốc đã nhiều lần giải thích “lợi ích cốt lõi” có nghĩa là Trung Quốc
coi các đảo và cái gọi là chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông quan trọng
như Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông…
[30] Năm
1950 Trung Quốc đã nêu ra “đường lưỡi bò”. Nhưng từ sau khi Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh
Việt Nam, Trung Quốc mới bắt đầu tiến hành ráo riết âm mưu “đường lưỡi bò”, năm
2009 Trung Quốc đã chính thức đưa yêu sách này ra Liên hiệp quốc.
[31] Báo chí
Trung Quốc gần đây cho biết: Trong khuôn khổ chiến dịch Hồng kỳ rực Biển Đông,
Trung Quốc huy động xong 6000 tầu cá ra
Hải Nam, sẵn sàng tùy lúc thực hiện sự có mặt khắp nơi trên Biển Đông với sự yểm
hộ của các tầu hải giám và các chiến hạm…
[32] Nên tham khảo thêm Sách trắng “Sự thật về quan hệ Việt
Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua” , Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1979, do Bộ Ngoại
giao phát hành, để thấy rõ mọi chiều
cạnh quan hệ Việt – Trung hiện nay.
[33] Tham khảo
thêm: R. Kaplan – “Geograpy of Chinese Power: How far can Beijing reach on Land
and at Sea” – tài liệu đã trích dẫn. Bài này đã được nhóm Nghiên cứu Quốc tế dịch
ra tiếng Việt.
[34] Tài liệu đã dẫn.
[35]
Loại trừ cách nhìn nhận vấn đề Trung Quốc của Mackinder ít nhiều có mầu sắc
phân biệt chủng tộc, song những nhận định về mối hiểm họa tiềm tàng Trung Quốc
của ông ta là có lý, nhiều nét tương đồng với nhận xét của người hùng nước Pháp
– Napoléon – cũng về vấn đề này.
[36]
Trong đó có các lợi thế lao động rẻ, lợi thế
cạnh tranh về giá thành, lợi thế về quy mô thị trường, nhất là những thực tiễn
của chủ nghĩa con buôn (merchandism) luôn luôn là những vũ khí nguy hiểm …
[37] Một
ví dụ: Tập đoàn dầu khí Hải Dương Trung
Quốc (CNOOC) là một vương quốc riêng cho chính nó, trên thực tế quyền lực nhà
nước cũng không thể xen vào (Willy Lam / Hongkong); cương trực như cựu thủ tướng
Chu Dung Cơ cũng đành bó tay… Các tập đoàn kinh tế quốc doanh của Trung Quốc đều
là như thế.
[38]
Tham khảo thêm các bài của Dương Danh Dy
viết về Đại hội 18 ĐCSTQ.
[39] Một ví
dụ tiêu biểu: Năm 2012 vùng Bordeau đã bán 23 trong tổng số 37 vườn nho của
mình cho Trung Quốc, kèm theo cả công nghệ, các phương tiện khỹ thuật… Doanh
nhân Trung Quốc dự tính phi vụ này sẽ phục vụ việc phát triển ngành rượu vang ở
những vùng thích hợp tại Trung Quốc, nhiều thương hiệu vang Pháp nổi tiếng ở
Bordeau sẽ rơi vào tay Trung Quốc. Ví dụ này là một trong hàng trăm phi vụ đã xảy
ra trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc mấy thập kỷ vừa qua, một hiện tượng
đương nhiên của quá trình toàn cầu hóa.
[40]
Campuchia, Malaysia, Singapore, Thái Lan đã có lúc có tiếng nói không phải là
hướng vào hành động chung của ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Việc Philippines
đưa v/đ Trung Quốc lấn chiếm Mischief và
Scarborough ra kiện tại tòa án quốc tế, Singapore không công khai không tán
thành, các nước ASEAN khác – trong đó có Việt Nam - im lặng…
[41] Ví dụ:
Trong chiến tranh Triều Tiên, mang cái tên là “Cuộc kháng chiến chống Mỹ viện
Triều”, ban đầu Trung Quốc thắng nhiều trận đánh lớn, nhưng chung cuộc Trung Quốc
thua cả cuộc chiến vì đã thất bại trong việc thực hiện những mưu đồ quyết định
xúc tiến chiến tranh. Riêng trong chiến tranh 17-02-1979 chống Việt Nam Trung
Quốc đánh lớn đúng 1 tháng 1 ngày (kết thúc 18-03-1979 với những tính toán rất
kỹ lưỡng, sau đó chuyển sang bắn phá và lấn chiếm biên giới kéo dài đến 1989.
Liên Xô cũ trong chiến tranh Afghanistan, Mỹ trong chiến tranh Iraq và
Afganistan vừa qua… cũng là những ví dụ thuyết phục.
[42] Lúc đó Trung Quốc có nhiều vấn đề nội bộ cần hướng ra ngoài để
giảm áp lực, cần nâng cao thanh thế của Đặng Tiểu Bình vừa mới được phục hồi, có
yêu cầu phải kiềm chế Việt Nam trong vấn đề Campuchia, nhận được thái độ bật
đèn vàng của tổng thống J. Carter và tâm lý hội chứng Việt Nam của giới
cầm quyền Mỹ, lại vào thời điểm Liên Xô
đang trên đà đi xuống, Việt Nam đang khủng hoảng kinh tế nặng nề… Tham
khảo thêm ý kiến của Dương Danh Dy: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2011/02/110217_1979_war_history.shtml .
[43]
Tình hình thực tế này cho phép suy đoán đối thoại kinh tế & chiến lược
vòng 5 vừa qua không đem lại bước đột phá nào cải thiện quan hệ Mỹ - Trung.
[44] Ở nước
ta, rất tiếc rằng sự thật gần như là một chân lý này đang bị ý thức hệ, những
tư duy dị giáo khác và sự ngu dốt che lấp hay vùi dập. Đây là một trong những vấn
nạn gốc đau lòng của nước ta, nhất thiết phải sớm được khắc phục, để nhìn rõ thực trạng khắc nghiệt hiện nay của
đất nước, song quan trọng hơn thế là để giải phóng nghị lực sáng tạo và mọi tiềm
năng kiến tạo lại và phát triển của quốc gia.
[45]
Tham khảo thêm: Lưu Minh Phúc - “Giấc mơ Trung Quốc”, Nguyễn Hải Hoành dịch.
[46]
Thống kê của IMF 2012.
[47] Tham khảo: Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng, diễn văn tại trường
đảng cao cấp Cuba Nico Lopez – VOV 11-04-2012.: “…Trung Quốc, Việt Nam, Lào,…đang đổi mới thành công, giành
được nhiều thành tựu và tiếp tục vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cuba vẫn
hiên ngang đứng vững, vẫn là tấm gương sáng về tiến bộ và công bằng xã hội, về
đoàn kết quốc tế, về tinh thần bất khuất vì tự do cho các dân tộc và phẩm giá
con người. Và những bước tiến cách mạng đang diễn ra ở Vênêxuêla, Bôlivia,
Êcuađo... cùng sự lớn mạnh của các phong trào cánh tả tại nhiều nước Mỹ Latinh
khác thể hiện trào lưu hướng tới chủ nghĩa xã hội đang nổi lên mạnh mẽ tại Tây
Bán cầu này. Các nước xã hội chủ nghĩa khác tại Châu Á vẫn tiếp tục con đường
tiến lên phía trước. Nhiều đảng cánh tả, các phong trào nhân dân tiến bộ các
nước tại các châu lục ngày càng giương cao khẩu hiệu đấu tranh vì chủ nghĩa xã
hội và xác định ngày càng rõ rằng đây là sự lựa chọn duy nhất đúng để vượt qua
những bế tắc của mô hình phát triển đang khủng hoảng hiện nay. Đó là những bằng
chứng đầy khích lệ về sức sống của chủ nghĩa xã hội…”
[48] S.
P Huntington trong “The
Clash of Civilizations and the Remaking of World Order”, xuất bản 1996, cho rằng
thời đại đấu tranh ý thức hệ đã chấm dứt; ngoài những mối quan hệ mọi mặt vốn
có trong đời sống giữa các quốc gia, đang ngày càng nổi lên sự đụng độ có nguồn
gốc từ các nền văn minh khác nhau, thường dẫn đến sự đụng độ giữa nhóm nước này
với nhóm nước kia. Đặt vấn đề như vậy, Huntington chủ yếu cảnh báo phải nhìn thấy
đặc thù này trong khi tìm cách xử lý các đụng độ và qua đó tái tạo lại trật tự
thế giới.
[49]
Người Đức nói: “Sag mir mit wem du gehst, ich sage dir wer du bist.”
[50] Xin
lưu ý: Một sự thật lịch sử là Liên Xô đã một thời giương cao được
ngọn cờ của chủ nghĩa xã hội, có ảnh hưởng quyết định trong việc hình thành hệ
thống thế giới xã hội chủ nghĩa, hậu thuẫn mạnh mẽ phong trào giành độc lập dân
tộc của các nước thuộc địa sau chiến tranh thế giới II, hình thành được một tập
hợp lực lượng chế ngự 1/3 địa cầu. Ngoài lực, sự tập hợp này còn do Liên Xô đã
phát huy được những giá trị lúc đó đang là khát vọng của một bộ phận đông đảo
nhân loại trên 2 phương diện: (a)Những lý tưởng tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội;
(b)khát vọng độc lập dân tộc của các nước thuộc địa. Khi phong trào giành lại độc
lập dân tộc đã hoàn thành sứ mệnh của nó và kết thúc, khi những lý tưởng của chủ
nghĩa xã hội sau này chứng tỏ không thể trở thành hiện thực trong thể chế chính
trị toàn trị, Liên Xô sụp đổ, tập hợp lực lượng do Liên Xô đứng đầu tan biến.
Trên thế giới bây giờ chỉ còn lại một số
rất ít đảng cộng sản. Nhưng phong trào cộng sản và công nhân quốc tế như
một thời đã từng tồn tại đã hoàn toàn đi vào dĩ vãng.
[51]
Chú thích: GDP của Mỹ năm 1948 là 258 tỷ
USD.
[52] Mệnh đề
“…Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào
năm 2020…” được ĐCSVN sửa đi sửa lại qua các kỳ đại hội, không hỏi ý kiến cả
nước, cũng không giải thích. Hiện nay, ngôn từ chính thống trong các văn kiện của
ĐCSVN là “…Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2020…” - được ngầm hiểu là mục tiêu này điều chỉnh thấp xuống một chút, hay
đây là cách nói co giãn thời gian.
[53] Tai các
nước công nghiệp như Mỹ, Canada, Úc, các nước ở Tây Âu, các nước ở Nam Mỹ… diện tích canh tác bình quân của một lao động
nông nghiệp tùy nơi là vài chục ha hoặc lớn hơn nhiều.
[54]
Hiện nay, diện tích nông dân bỏ ruộng không canh tác vì thua lỗ trong cả nước
lên đến con số hàng nghìn hecta.
[55] Có qua
nhiều mối nguy lớn: 70% phụ tùng cho các xí nghiệp FDI trong cả nước phải nhập
khẩu, nguyên liệu cho công nghiệp dệt may hầu như nhập ngoại 80 – 100%, đầu ra
của sản phẩm trung gian (ví dụ như
xi-măng, thép…) vượt xa khả năng tiêu thụ trong nước nên phụ thuộc nghiêm trọng
vào xuất khẩu nhưng giá thành cao, phần lớn phôi thép cũng phải nhập…
[56] Mức
tiêu thụ đầu vào cho một sản phẩm công nghiệp ở nước ta hiện nay cao hơn hầu hết
các nước trong khu vực.
[57]
Trên danh nghĩa là của tập đoàn FORMOSA – Đài Loan. Trên thực tế thì còn nhiều
điều phải xem xét thận trọng.
[58]
Vì làm ô nhiễm trầm trọng môi trường tự nhiên, tiêu thụ quá nhiều tài nguyên và
năng lượng như nước, điện, các loại khoáng sản hay nguyên liệu khác, chiếm quá
nhiều diện tích đất đai…
[59]
Mỏ sắt Thạch Khê đang là một thách đố lớn- trước đây Liên Xô cũ và tập đoàn
Krup (lúc đó còn tồn tại Tây Đức) đã bỏ không đi tiếp triển khai dự án này, trước
hết vì còn nhiều vấn đề về môi trường quá lớn liên quan đến biển – nơi mỏ gần
biển nhất chưa đến 1 km, sẽ rất tốn kém…
[60]
Trong một hai thập kỷ nay, cứ nhìn khối lượng nhập khẩu xe ô-tô du lịch tăng vọt
qua các năm, nhìn khối lượng các quan chức các tỉnh mua nhà tại các thành phố…
sẽ có thể suy luận ra nhiều điều.
[61]
Có những ý kiến đánh giá khác nhau về vấn đề này; ý kiến của tôi là có 4 cuộc
khủng hoảng, trong đó cuộc khủng hoảng năm 1997 và cuộc khủng hoảng hiên nay bắt
đầu từ năm 2007 là lớn nhất.
[62] Ở Trung
Quốc, Hàn Quốc, Indonesia, một số nước Nam Mỹ… thời kỳ phát triển năng động ở
giai đoạn khởi đầu quá rình CNH kéo dài hơn ở nước ta – thường là vài thập kỷ liên tục.
[63] Như đã
chứng minh cụ thể trong phần nói về nông nghiệp, trong đó có các quan điểm về
hiện đại hóa nông nghiệp, vấn đề tích tụ ruộng đất, kinh tế trang trại, vấn đề
3ha / 1 lao động nông nghiệp, vân vân…
[64] Không
thể không đặt ra câu hỏi, tại sao một đảng kiên cường và giầu kinh nghiệm đấu
tranh trong thời kháng chiến, lại thất bại như thế trong thời bình? Đây là vấn
đề chính bản thân ĐCSVN phải quan tâm mổ xẻ trước tiên - vì lợi ích sự tồn tại
của đảng mình, song quan trọng hơn thế nhiều lần là vì ĐCSVN cần kiểm điểm
trách nhiệm không thể thoái thác của mình trước đất nước với tính cách là đảng
cầm quyền duy nhất, toàn diện và tuyệt đối.
[65] Các số
liệu thống kê đưa ra thay đổi soành soạch và không tin cậy được – ví dụ có số
liệu nói nợ xấu của ngành ngân hàng ước 6% tổng dư nợ, nhưng vài hôm sau lại có
số liệu nói là 35%, vân vân…
[66] Tham
khảo:
(1) Diễn đàn Kinh tế mùa Thu 2012 - Ủy ban kinh tế
ecna.gov.vn/ct/ht/Lists/HoiThao/View_Detail.aspx?...
và Báo cáo của Ngân hàng Thế giới –
Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam – Hà Nội 10-12-2012;
(2) Thủ tướng Dũng có cứu
vãn được kinh tế Việt Nam?
(3) Kinh tế Việt Nam
2012-2013: Cơ hội xoay chuyển tình thế?*
(4) Thực trạng nợ xấu tại các ngân hàng Việt Nam
và giải pháp tháo gỡ
http://www.tapchitaichinh.vn/Trao-doi-Binh-luan/Thuc-trang-no-xau-tai-cac-ngan-hang-Viet-Nam-va-giai-phap-thao-go/16290.tctc & 'Nửa triệu tỷ đồng
nợ xấu ngân hàng' - VnExpress Kinh Doanh
kinhdoanh.vnexpress.net/.../ngan-hang/nua-trieu-ty-d...
(5) Quá khứ đồng nhất tương lai và 'cái chết' của giới
ngân hàng
www.doimoi.org/.../qua-khu-dong-nhat-tuong-lai-va-...
·
(6) Một số vấn đề về nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước
(7) “Vietnam’s Economy: Sabotaged From Within” January 29, 201 3 By
James Parker, tìm trong The Diplomat http://thediplomat.com/pacific-money/2013/01/29/vietnams-economy-sabotaged-from-within/
Vân vân…
[67]
Tìm hiểu các tư liệu và số liệu nêu trong tạp chí Xây dựng Đảng các năm gần
đây.
[68] Một
giai thoại: Lúc là đương kim thủ tướng, Võ Văn Kiệt nhiều lần đề xuất phải cải
cách hệ thống chính trị của đất nước, nhưng không được chấp nhận. Để phục vụ
minh họa những lý lẽ của ông về sự cần thiết phải thực hiện cuộc cải cách này,
đã có lần ông yêu cầu các chuyên gia của mình vẽ lên một sơ đồ phác họa toàn bộ
hệ thống chính trị của đất nước bao gồm 4 thành tố: Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đòan thể quần
chúng. Kết quả: Các chuyên gia đành bó tay: Một sơ đồ có thể dựng lên dù rối rắm
đến thế nào cũng không thể minh họa hết
được cấu trúc phức tạp và các mối quan hệ quyền lực qua lại trong không gian
nhiều chiều giữa 4 thành tố này của hệ thống quyền lực. Nhưng cái sơ đồ bất
thành này lại cho thấy: Luật pháp trở thành vô nghĩa trong một hệ thống quá rối
rắm như thế, sự lũng đoạn hay là ảnh hưởng hoặc sự thâu tóm của vai trò cá nhân
mới là điều quyết định.
[69]Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan nói như vậy. Song khi đi khảo sát địa phương, chính bà cũng phải kêu lên: “Người ta ăn của dân không từ cái gì!”
[70] Ví dụ:
Có những affairs các nhóm lợi ích mặc cả với nhau: Giải quyết việc này sẽ hết bao
nhiêu “quan hệ”? Khái niệm “quan hệ” này chứa đựng những gì? Khối lượng
tiền?, “sổ đỏ”, “dự án”, “cơ chế”, cái bằng? cái ghế?, “cặp chân
dài”, trao đổi giữa “tội” với “tội”,
trao đổi giữa “tội” và “cơ hội”… vân vân và vân vân… Chỉ có chúa trời mới biết
được đích xác!
[71] Có một
sự thật đang bị trối bỏ: Gần 3 thập kỷ nay công cuộc cải cách giáo dục của nước
nhà hoàn toàn thất bại, cho đến nay đất nước ta chỉ có một nền giáo dục đào tạo
ra con
người công cụ, không phải là con người của chính nó và sáng tạo.
Một nền giáo dục như thế trên thực tế đang góp phần không nhỏ vào việc hủy hoại
các giá trị chân chính và đạo đức xã hội. Qua những con người trong các bộ máy
của hệ thống chính trị do nền giáo dục này (bao gồm cả hệ thống trường Đảng) đào tạo nên, đất nước đang bị làm hỏng và biến
dạng nghiêm trọng về mọi mặt. Nền giáo dục
hiện tại đang trực tiếp làm hỏng các thế hệ con người của đất nước, vì trong bản
thân nó ngấm ngầm tồn tại quá nhiều cái sai trái, cái lạc hậu… Những nỗ lực bỏ ra cho cải cách giáo dục là rất
lớn và rất tốn kém, nhưng cho đến nay đều không mang lại kết quả mong muốn.
Nguyên nhân chính là những nỗ lực này không thắng nổi 2 kẻ tử thù của giáo dục
là tham nhũng và dối trá. Đó lại chính là 2 kẻ thù có chỗ ẩn náu rất sâu trong
hệ thống chính trị của đất nước, được nuôi dưỡng bằng mọi giá trị và văn hóa của
chính hệ thống chính trị này sản sinh ra. Đã đến lúc cần rút ra kết luận: Cải
cách giáo dục chỉ có thể thành công khi đồng thời cả nước tiến hành cuộc cải
cách chính trị sâu sắc. Lịch sử ngàn năm của nước ta các thời đã chứng minh:
Không thể nào có một nền giáo dục chân chính trong một chế độ xã hội bất lương
(tham khảo: Hoàng Lê Nhất Thống Chí).
[72]
Khái niệm được sử dụng thời đó.
[73]
Tham khảo các văn kiện của ĐCSVN sau chiến thắng 30-04-1975, các văn kiện các Đại
hội toàn quốc ĐCSVN từ đại hội IV.
[74] Xin đừng
quên: Sau 30-04-1975, cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ và với các nước
ASEAN đến sớm hơn rất nhiều so với việc
bình thường hóa đã diễn ra. Đã gần 4 thập kỷ đã trôi qua, thiết nghĩ lưu trữ quốc
gia Việt Nam nên sớm bạch hóa chuyện này.
[76] Tham khảo: YOSHIHARU TSUBOI Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa - Lịch sử
Việt Nam www.lichsuvietnam.info/index.php?... Không phải ngẫu nhiên một số học giả đã đề
ra ý tưởng “thóat Á luận”, “thoát Trung Quốc luận” để giải thoát nước ta khỏi
cái quán tính đầy tai ác của lịch sử.
[77]
(1) Năm 2009, nhân dịp 20 năm ngày nổ ra chiến tranh 17-02-79, sách và báo
Trung Quốc có một số bài thừa nhận cuộc chiến 1984 của quân Trung Quốc chiếm
vùng Núi Đất của ta vấp phải sự kháng cự vượt sức tưởng tượng của họ, gọi đấy
là một trận “tiểu Stalingrad”, mỗi bên thương vong hàng nghìn binh sỹ.
(2)
Trận chiến núi Đất năm 1984 giữa Việt Nam và Trung Quốc
[78]
Tham khảo: Nguyễn Trung, “Phải chặn đứng nguy cơ
tái diễn kịch bản Thành Đô 1990” http://www.vietstudies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_ChanDungThanhDo.htm
[79]
Tham khảo: Trần Quang Cơ, “Hồi ức và suy nghĩ”, tìm trên các
trang web.
[80] Xin lưu
ý, khi bình thường hóa quan hệ với Việt Nam theo lập trường của phía Trung Quốc,
phía Trung Quốc nhấn mạnh: Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, là đồng chí
(ý nói cùng là xã hội chủ nghĩa), chứ không phải là đồng minh (ý nói không có
chuyện đứng chung với nhau một chiến tuyến trong bất kể việc gì). Như vậy đây
là thứ quan hệ gì?
[81] Đối với
ĐCSVN, tôi nghĩ câu hỏi này vô cùng quan trọng tới mức sống còn (to be
or not to be?!); bởi lẽ câu hỏi này đòi ĐCSVN phải xem lại chính mình:
Tổ quốc trên hết, hay ý thức hệ trên hết!
[82] Sau khi
ra khỏi cuộc chiến tranh Trung – Triều 1950 – 1953, chính thể Hàn Quốc dười thời
Lý Thừa Vãn và Pác Chung Hy là một chính thể độc tài, quân phiệt khét tiếng.
Tuy nhiên, đặt trên nền móng dù chưa hoàn hảo của kinh tế thị trường và nhà nước
pháp quyền, sự phát triển của Hàn Quốc dần dần dựa trên một nền móng
hoàn hảo hơn của kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự, được
nuôi dưỡng bởi một nền giáo dục coi trọng
phát huy các giá trị. Đấy là những yếu tố cơ bản chuyển hóa Hàn Quốc thời hậu
chiến thành nước công nghiệp phát triển như ngày nay.
[83]
Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, tiểu thuyết “Lũ”, tập II, tr. 499… và tr. 554…,
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/Lu_T2_Final.pdf
[84]
Tổng thống Nga Yeltsin đã từng nói như vậy và đã làm mọi việc xóa bỏ ĐCSLX qua
tòa án hiến pháp.
[85] Nhìn lại,
có căn cứ xác đáng để nhận định: Võ Văn
Kiệt đã sớm có ý tưởng này giữa lúc ông là đương kim thủ tướng. Trong bức thư
ngày 09-08-1995 gửi Bộ Chính trị ĐCSVN ông nêu ra 4 vấn đề: (1)Phải nhìn nhận lại
thế giới; (2)Phải xem lại đường lối phát triển đất nước; (3)Phải xây dựng nhà
nước pháp quyền; (4)Phải xây dựng lại ĐCSVN về tổ chức và về đường lối, loại bỏ
cái gọi là nguyên tắc tập trung dân chủ. Cho đến khi đi xa..., ông vẫn kiên trì
quan điểm phải xây dựng lại ĐCSVN trở thành đảng của dân tộc.
[86] Ví dụ gần
đây nhất là Sam Rainsy, người cầm đầu đảng
đối lập - “đảng Cứu quốc Campuchia” (CNRP) - trong và sau tranh cử tháng 7 vừa
qua đã nhiều lần nói các vùng biển – đảo Trung Quốc đòi hỏi trên Biển Đông đều
thuộc chủ quyền Trung Quốc, ông ta hoàn toàn ủng hộ, các phát biểu rất xấu của
ông ta trực tiếp chia rẽ mối quan hệ Việt Nam – Campuchia, vân vân… Cách xử sự
của Campuchia hiện nay trong vấn đề Biển Đông rất đáng lo ngại… Hiện nay sự can
thiệp trực tiếp dưới nhiều hình thức của quyền lực mềm Trung Quốc vào Lào và
Campuchia là toàn diện và ở mức độ rất nguy hiểm.
[87] (1)Thái
độ dè dặt của Campuchia đối với lập trường các nước ASEAN trong vấn đề Biển
Đông, đối với COC, và (2)sự hậu thuẫn của Campuchia dành cho lập trường Trung
Quốc trong vấn đề Biển Đông trong các cuộc họp của ASEAN là những động thái được
lặp đi lặp lại. Sự việc này cắt nghĩa nhiều điều.
[88]
Thực tế này đã xảy ra khi Việt Nam chưa giải quyết được vấn đề Campuchia suốt
thập niên 1980.
[89] Một
trong những ví dụ gần đây nhất là phía chính giới Việt Nam bào chữa cho nghị định
72, phản bác ý kiến phê phán của Mỹ. Trong khi đó nhiều trí thức Việt Nam đã
công khai đòi hủy bỏ nghị định này. Những
lời các vị lãnh đạo Việt Nam thanh minh với các nước bạn bè về tự do
– dân chủ - quyền con người chỉ làm xấu thêm hình ảnh của Việt Nam.
Không thể nào một mặt thì tìm kiếm đối tác chiến lược, nhưng trong nước vẫn thẳng
tay đàn áp một cách không văn minh những người bất đồng chính kiến.
[90] Một
doanh nhân là bạn của tôi kể cho tôi nghe mẩu đối thoại của anh ta với một
doanh nhân Israel, đại ý: Các bạn
Việt nam thường nói nhiều về áp lực từ Trung Quốc; điều này đúng. Nhưng dù sao
áp lực như thế nhìn về mặt dân số thì
khó khăn ở Việt Nam cũng mới chỉ là tỷ lệ 1 / 13, còn Israel chúng tôi tỷ lệ áp
lực này là 1 / 35, lại còn thêm Đạo Hồi
nữa. Hai nước chúng ta chẳng có quyền chọn
hay không chọn vị trí địa lý chúa ban cho như thế, mà chỉ có mỗi con đường
phải sống!..
[91] Lịch sử
quan hệ quốc tế cận đại và hiện nay có không
ít quốc gia ở vào thế bị các quyền lực bên ngoài o ép, co kéo, giằng xé
tứ phương. Thành công điển hình trong bảo vệ chính mình trước tình huống này có
lẽ là Thụy Sỹ từ trước đến nay, và hiện nay là Israel, ngoài ra cũng phải kể đến
một số nước vùng Scandinavie (BẮc Âu).
[92] Trong
giới nghiên cứu Mỹ có ý kiến đại ý: Kinh nghiệm với Iraq, Afghanistan, các nước
Bắc Phi… cho thấy Mỹ không thể gửi trứng cho đối tượng mình không chắc chắn hợp
tác được, chờ cho Việt Nam qua giai đoạn chập chờn Mỹ sẽ quyết định cũng không
muộn.
[93]
Tham khảo: Nguyễn Trung, tiểu thuyết “Lũ”, tập II – tr. 642…, tr.
695…
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/Lu_T2_Final.pdf
[94]
Cho đến thời Hồ Cẩm Đào, phía Trung Quốc chỉ nêu “gác tranh chấp, cùng khai
thác”. Từ cuối nhiệm kỳ Hồ Cẩm Đào và đặc
biệt là sau Đại hội 18 của ĐCSTQ, lập trường của Trung Quốc bây giờ là “chủ quyền
thuộc Trung Quốc, cùng khai thác”.
[95]
Nếu so nước ta bây giờ với lúc Liên Xô tiến hành Glasnos và Perestroika thời
Gorbachov / Yeltsin, Việt Nam ngày nay có nhiều hiểu biết và thông tin cần thiết
cho cải cách chính trị hơn Liên Xô thời ấy rất nhiều, chưa nói đến kinh nghiệm
trên thế giới bây giờ về thắng / bại của cải cách chính trị vô cùng phong phú.
[96]
Tham khảo: (1) thư của luật sư Trần Vũ Hải ngày 22-08-2013 gửi UB Thường vụ Quốc
hội Việt Nam về “THÀNH LẬP VÀ THAM GIA MỘT ĐẢNG NGOÀI
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁP LUẬT VIỆT NAM”
(2)Hoàng
Xuân Phú, “Uẩn khúc trong Điều 4 của Hiến pháp” http://hpsc.iwr.uni-heidelberg.de/hxphu/index.php?page=readwriting&w=UanKhuatTrongDieu4HienPhap-20130829
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét