Thứ Năm, 2 tháng 1, 2014

1
Hà Nội, ngày 08-01-2010
Kính gửi Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam
Thưa các Đồng chí,
Thực hiện trách nhiệm đảng viên, tôi xin gửi đến Bộ Chính trị bài viết sau đây, nhằm
trình bầy một số suy nghĩ của cá nhân trước thềm Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ XI.
Kính thư,
đảng viên Nguyễn Trung
10 ngõ 47 phố Võng Thị, phường Bưởi, quận Tây

Trách nhiệm lịch sử

Kính dâng Tổ quốc nhân dịp 1000 năm Thăng Long
Nguyễn Trung
I. Tình hình đã chin muồi
Lịch sử đầy máu và nước mắt của nước ta trong thế kỷ 20, đặc biệt trong
nửa sau của thế kỷ này cho thấy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước đòi hỏi
phải có tầm nhìn thấu đáo cục diện và xu thế của thế giới hiện tại - với lý tưởng lợi
ích quốc gia là duy nhất và trên hết, để có đủ trí tuệ và bản lĩnh tạo ra cho đất nước
bên trong là sự đồng thuận không gì phá vỡ được, bên ngoài là một bối cảnh hòa
bình tối ưu cho phép – bao gồm những mối quan hệ quốc tế thuận lợi có thể tranh
thủ được. Đòi hỏi này ngày nay rất cấp bách, vì đất nước đang cần có mọi điều
kiện thuận lợi nhất để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới - trong một thế
giới đang có nhiều bất trắc mới vì những biến đổi sâu sắc cả về kinh tế và chính trị
đang diễn ra.
Bước vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ này, thế giới tiếp tục đi sâu vào cục
diện đa cực. Mỹ vẫn là siêu cường duy nhất, song đang xuống dốc nhanh. Trung
Quốc đang ngoi lên nhanh trên con đường trở thành siêu cường.
Điểm lại, trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh Mỹ chiếm được vị thế quốc tế
mạnh nhất trong lịch sử của nó, song cũng là thời kỳ Mỹ chịu nhiều thất bại và tổn
thất nhất, là thời kỳ quyền lực và ảnh hưởng của Mỹ sa sút nhanh nhất so với mọi
2
thời kỳ từ sau chiến tranh thế giới II đến nay. Nguyên do là “tham vọng và gánh
nặng đế chế” quá lớn và sự đổ vỡ thảm hại của chủ nghĩa tân tự do trong kinh tế!
Thất bại của Mỹ kéo theo vị thế toàn cầu của cả phương Tây xuống thấp.
Trong bối cảnh như thế, người ta càng bị ấn tượng sâu sắc là Trung Quốc đang đi
nhanh quá trên con đường trở thành siêu cường - gần như với bất kỳ giá nào: khai
thác lao động rẻ trong nước, chấp nhận môi trường trong nước bị ô nhiễm tệ hại,
thẳng tay trong các vụ Tây Tạng, Tân Cương, chủ nghĩa thực dân mới ồ ạt ở mọi
nơi trên thế giới liên quan đến thu hút tài nguyên, ráo riết vũ trang, uy hiếp Biển
Đông… Bây giờ Trung Quốc còn có trong tay 2100 tỷ USD để giữ vai chủ nợ lớn
nhất thế giới.
Chưa bao giờ như hiện nay sách báo và các phương tiện truyền thông Mỹ
lại đày rãy các nhận định, đánh giá nói về Kinh tế thế giới đang lâm vào cuộc
khủng hoảng chuyển giai đoạn.., về Hiện tượng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc trở thành chủ nghĩa tư bản toàn trị đặc sắc Khổng giáo, về Sự giới hạn
của quyền lực Mỹ, về Chiến lược toàn cầu của Washington đang hủy hoại nước
Mỹ, về Triển vọng chẳng lấy gì làm sáng sủa của Obamanomics, về Sự cáo
chung của đế chế Mỹ, vân vân, - và về …Thế giới trong thập kỷ tới này nghiêng
về phương Đông!. Đang manh nha một trật tự thế giới mới...
Thật rất khó thờ ơ trước những ý kiến hay nhận định như vậy. Tình hình này
liên quan đến mọi quốc gia, trong đó có lẽ đặc biệt là Việt Nam – vì về mặt địa lý
tự nhiên nước ta ở sát nách cái “công xưởng thế giới” và án ngữ con đường độc
đạo thuận lợi nhất cho siêu cường tương lai Trung Quốc vươn ra Thái Bình Dương.
Cường quốc quân sự lớn nhất này trong khu vực đang hàng ngày có nhiều hành
động trực tiếp uy hiếp nước ta trên Biển Đông – mặc dù lãnh đạo Trung Quốc vẫn
khẳng định quan hệ 16 chữ với Việt Nam.
Trên thế giới đã thấp thoáng các mối lo: Một khi Mỹ và Trung Quốc tay đôi
chi phối thế giới tình hình sẽ ra sao? Lác đác đã có dự báo về một khả năng lúc nào
đó sẽ tái hiện trở lại “mối quan hệ các quốc gia triều cống” dưới dạng mới nào đó
và Trung Quốc sẽ có một số nước chư hầu thời hiện đại!.. Nếu lại thêm tình hình
một nền kinh tế lớn nào đó – ví dụ Trung Quốc – nổ bong bóng, hay các nền kinh
tế phương Tây chưa có lối ra… sẽ chấn động đến nước ta như thế nào?..1 Phía
1 Tìm xem Niall Ferguson: “The decade the world tilted east”
http://www.ft.com/cms/s/0/ac26eb9a-f30a-11de-a888-00144feab49a.html
Published: December 27 2009 18:23 | Last updated: December 27 2009 18:23
Và nhiều sách báo khác liên quan của các tác giả: Andrew Bacevich, Noam Chomsky, Timothy P.
Carney, Willy Lam, John Tkasick, Francis Fukuyama, Martin Jaques…
3
trước có nhiều chuyện khó lường và nước ta thực sự đang đứng trước nhiều thách
thức mới.
Nhìn xa thêm chút nữa, hiện nay Việt Nam là một trong nhóm 11 quốc gia
sẽ chịu ảnh hưởng tàn phá nặng nề nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu, thời gian
không còn nhiều để chuẩn bị đối phó với những nguy cơ đang đến gần – ví dụ
khoảng gần cuối thế kỷ này có thể mất tới 20% diện tích trồng trọt vì mất ruộng và
vì ngập mặn trong khi dân số nước ta vào khoảng thời gian ấy sẽ tăng gấp đôi hiện
nay. Thậm chí ngay từ năm 2020 sự gia tăng của nhiệt độ sẽ tác động nghiêm trọng
đến nông nghiệp…2 Ngay trước mắt thiên tai ngày càng nhiều và lớn, nước và
năng lượng ngày càng trở nên khan hiếm… vân… vân… Đó là những vấn đề của
phát triển phải được xử lý ngay từ hôm nay, không thể tiếp tục mô hình phát triển
cũ. Thế hệ hôm nay không có quyền sống nước đến chân mới nhẩy, không có
quyền để lại mọi gánh nặng cho các thế hệ sau, càng không được phép đời cha ăn
ốc, đời con đổ vỏ!
Trên hết cả, trên chặng đường 25 năm đầu tiên của đổi mới mô hình phát
triển theo chiều rộng đã làm xong chức năng của nó, đất nước ta nhất thiết phải
chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi phải có những thay đổi sâu sắc
và toàn diện. Mặt khác, bên cạnh những thành tựu mô hình phát triển theo chiều
rộng đã mang lại cho đất nước trên chặng đường đầu tiên này, những yếu kém do
tha hóa và những yếu kém do bất cập đang tích tụ ngày càng nhiều vấn đề nan giải
cho đất nước. Tình hình cấp bách đến mức có thể nói: Những yếu kém nội tại của
đất nước có nguy cơ hạn chế đáng kể hoặc thậm chí có thể làm tê liệt khả năng của
nước ta đối phó với thách thức cũng như tranh thủ cơ hội mới. Vì vậy, chuyển sang
một giai đoạn phát triển mới, nhất thiết phải vượt qua mọi yếu kém này.
Có thể nói, chính thực tế trình bầy trên xác định nhiệm vụ cơ bản đặt ra cho
nước ta trong thập kỷ tới là phải cơ bản khắc phục mọi yếu kém, để mở đường cho
đất nước đi vào một giai đoạn phát triển mới, xử lý thành công mọi thách thức
phía trước3. Nhìn dài hạn hơn nữa, bài toán đặt ra cho đất nước là làm thế nào để
từ bước ngoặt này phát triển thành một quốc gia giầu mạnh, hiện đại, dựa trên xây
dựng một dân tộc có trí tuệ trong một thế giới đang có nhiều thay đổi sâu sắc.
2 Tác động của biến đổi khí hậu đối với kinh tế Việt Nam -
http://www.longan.gov.vn/tintuc/Pages/200912/20091211082751
3 Tham khảo: Nguyễn Trung “Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21”.
4
Muốn thế, trước hết cần dũng cảm và nghiêm túc nhìn lại cả chặng đường
dân tộc ta đã trải qua từ khi chiến tranh thế giới II kết thúc cho đến nay. Đơn giản
vì lẽ: Có dân tộc nào muốn thành công trên con đường trở thành một quốc gia phát
triển và văn minh mà không phải nghiêm khắc nhìn lại mình? Lịch sử không làm
lại được, nhưng bài học thì phải rút ra.
Câu hỏi nên đặt ra là: Vì sao một dân tộc có bề dày lịch sử và văn hóa như
dân tộc ta, vào thời đại ngày nay đã hoàn thành sự nghiệp giành lại độc lập và
thống nhất đất nước trong bối cảnh quốc tế khốc liệt, song lại vẫn là một quốc gia
phát triển lạc hậu sau 35 năm nỗ lực kiến thiết đất nước? Cái gì là những yếu kém
của tự thân nước ta, cái gì là do nguyên nhân cản trở hay kìm hãm từ bên ngoài?
Đối với mọi người Việt Nam quan tâm đến vận mệnh đất nước, câu hỏi này sẽ
nhức nhối hơn nếu so sánh mức độ phát triển mọi mặt nước ta đạt được hôm nay
với những hy sinh, mất mát dân tộc phải chịu đựng và sau này là công sức đã bỏ ra
cho 35 năm xây dựng và bảo vệ đất nước, so sánh với các nước cùng điều kiện
tương tự nhưng đi nhanh hơn nước ta!..
Những thành tựu đạt được có thể mở ra một triển vọng tốt đẹp cho đất nước,
nhưng đồng thời thực trạng hiện nay cũng đang thai nghén những hiểm họa khôn
lường. Triển vọng hay hiểm họa nặng nhẹ hơn nhau như thế nào? Cái nào sẽ lấn át
cái nào?.. Tình hình mọi mặt của đất nước hôm nay đang đặt ra nhiều điều lo âu.
Tất cả nói lên: Đất nước hiện nay đang đứng trước ngã ba đường, hoặc là dấn thân
đi vào hướng phát triển phồn vinh của dân chủ tự do, hay sẽ ngoặt vào sự đổ vỡ do
tham nhũng độc tài! Trong khi đó thách thức bên ngoài ngày càng quyết liệt.
Thành tựu đạt được dù to lớn đến đâu cũng chưa thể nói là vững chắc, những
yếu kém và tha hóa hiện có khiến cho nguy cơ kiếm củi ba năm thiêu một giờ luôn
luôn cận kề. Nguy cơ này đang gia tăng. Trong nhiều năm qua khắp nơi trong nước
không lúc nào ngớt tiếng nói nặng lòng với đất nước, với Đảng đã chung lời cảnh
báo nghiêm khắc. Có đảng viên đã chiến đấu gần hết cuộc đời trong hàng ngũ
Đảng phải thốt lên: Đảng trong tim tôi và Đảng của tôi bây giờ là hai Đảng khác
nhau mất rồi!
Nếu tổng hợp những ý kiến đóng góp với thiện chí, chẳng những sẽ thấy rõ
thực trạng đất nước, đồng thời triển vọng và lối ra cho đất nước cũng rõ ràng và
sáng sủa nếu quyết tâm lựa chọn. Tất cả nói lên trí tuệ và nghị lực trong Đảng,
trong nhân dân cho một tương lai hứa hẹn của đất nước không thiếu.
Không một sự quy chụp hay xuyên tạc nào có thể bác bỏ những ý kiến phân
tích thấu đáo và thiện chí như vậy. Chỉ riêng việc những ý kiến đóng góp của
5
những người tâm huyết này đặt vấn đề Đảng phải chủ động tự đổi mới để tránh
cảnh đổ vỡ điêu tàn cho đất nước, và cũng là tránh nguy cơ tiêu vong của Đảng, đã
nói lên trách nhiệm của họ đối với Đảng, đối với đất nước. Cũng có thể nói: Đấy là
những ý kiến chân thành của những người muốn bảo vệ Đảng, bảo vệ lợi ích quốc
gia.
Còn bạn bè xa gần đã lên tiếng cảnh báo Việt Nam cần rút ra các bài học
trên thế giới để tránh bằng được rơi vào cái bẫy các nước có thu nhập trung bình –
nghĩa là đi dần đến chỗ bế tắc và không thể trở thành một nước công nghiệp hóa
hay một nước phát triển – với triển vọng cuối cùng là sẽ đi tới hỗn loạn và sụp đổ
như đang lặp đi lặp lại ở nhiều nước đang phát triển khắp nơi trên thế giới.
Cần phải nói thêm những ý kiến muốn Đảng tự đổi mới xuất phát từ mong
muốn tránh thảm họa hỗn lọan hoặc thậm chí có thể tái diễn cảnh nồi da xáo thịt
cho đất nước, đồng thời cũng muốn Đảng phải thực hiện cam kết của mình với dân
tộc là lãnh đạo xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn minh.
Những ý kiến xây dựng nói trên cũng thẳng thắn nêu lên: Đặt mong muốn
như vậy vào Đảng có thể sẽ là không tưởng, thậm chí rất không tưởng – bởi vì xưa
nay quyền lực không có tính năng hiểu biết lẽ phải4. Tuy nhiên, mong muốn này là
sự lựa chọn tối ưu cuối cùng của thiện chí, của ý thức trách nhiệm đối với quốc gia,
đối với Đảng, với tinh thần bao dung, ơn xưa nghĩa cũ, còn nước còn tát, cố loại bỏ
khả năng phải để cho diễn biến tự nhiên của sự vật có tiếng nói cuối cùng.
Xét riêng về các mối nguy, thực trạng hiện nay của đất nước nghiêm trọng
tới mức rất đáng đặt ra cuộc thăm dò ý kiến trong nhân dân với câu hỏi: Nếu biết
cái đích đi tới được sau 35 năm độc lập thống nhất là như hôm nay, liệu dân tộc
ta trước đây có dám hy sinh chiến đấu hết thế hệ này đến thế hệ khác như vậy
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam hay không?
Chữ nếu bao giờ cũng là một giả định – thậm chí có khi là không tưởng.
Song trong câu hỏi cụ thể nêu trên, chữ “nếu” như vậy chẳng lẽ không nói lên điều
gì?
4 Đọc lại tham luận của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường “Qua sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây
dựng quan điểm lãnh đạo” tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội ngày 30.10.1956,
phải thừa nhận rằng những phân tích và phê phán của ông về những mặt trái của quyền lực
của Đảng cầm quyền vẫn còn nguyên giá trị. – Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, Dòng đời (tiểu
thuyết), NXB Văn Nghệ, TPHCM – 2006, quyển một, tập I, tr. 329…
6
Cuộc thăm dò ý kiến đáng mong muốn với chữ “nếu” như thế chưa diễn ra.
Tuy vậy có thể nói: Nhiều người trong hàng ngũ các thế hệ đã làm nên Cách
mạng Tháng Tám và tham gia hai cuộc kháng chiến5 đang ngày càng thất vọng với
nhiều vấn đề trong thực tại cuộc sống hiện thời - trong đó có không ít đảng viên lão
thành, có người thuộc bậc khai quốc công thần. Có những bà mẹ từng mang đơn đi
kiện cơ quan chính quyền các tội tham nhũng đã phải thốt lên: Biết như hôm nay,
chắc chắn ta đã không che chở cho các người trong những khi bị địch bố ráp năm
nào!
Đất nước đang đứng trước một sự thật khắc nghiệt: Kinh tế đất nước sau 25
năm đổi mới đã tận dụng mọi yếu tố phát triển theo chiều rộng. Tiếp tục mô
hình phát triển như hiện nay ngày càng ách tắc và khủng hoảng, chất lượng
cuộc sống của nhân dân sẽ ngày càng xuống cấp. Tiếp tục duy trì trạng thái
hiện nay của thể chế chính trị, bất cập sẽ gia tăng đồng thời quan liêu tham
nhũng ngày càng khó kiểm soát6, lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ
chính trị ngày càng giảm sút; trong khi đó đất nước đòi hỏi phải đi vào một thời
kỳ phát triến mới và đứng trước nhiều thách thức mới; lẽ ra Đại hội IX hay Đại
hội X đã phải đề cập tới và xử lý thấu đáo. Tình hình nay đã chín muồi, đáng
nhìn nhận lại tất cả7.
II. Bàn thêm về chữ “nếu”
Dù có hay không cuộc thăm dò ý kiến rất đáng làm như nói trên, chúng ta
không thể tránh né chữ “nếu” để có thể nhìn hết mọi chiều cạnh của sự vật.
Xin đơn cử hai trường hợp cụ thể:
- Một là: Cố Tổng bí thư Lê Duẩn đã từng nói chiến thắng giải phóng miền
nam và thống nhất đất nước là chiến thắng của toàn dân tộc. Giả thiết
rằng với tinh thần như vậy, ngay sau chiến thắng 30 Tháng Tư, nếu Đảng
5 Đúng hơn là 4 cuộc kháng chiến: chiến tranh biên giới Tây Nam chống Pol Pot diệt chủng, chiến tranh
chống Trung Quốc đánh phá biên giới phía Bắc 1979-1989.
6 Gần đây nhất bí thư than ủy Phạm Quang Nghị thừa nhận tham nhũng ngày càng trầm trọng và tràn
lan, ngoài việc bị lộ hay do báo chí tố cáo, cho đến nay các tổ chức cơ sở Đảng hầu như chưa phát hiện
được vụ nào, bản thân cơ chế còn nhiều sơ hở cho tham nhũng hoành hành (25-12-2009).
7 Tham khảo: Nguyễn Trung, “Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21”.
7
giương cao ngọn cờ dân chủ và thống nhất dân tộc, thu nhân tâm về một
mối, không phân biệt bên này bên kia, kêu gọi mọi người một lòng đem
hết tài sức ra hàn gắn vết thương chiến tranh và phát triển đất nước…
Nếu làm như vậy, cái bẫy Campuchia có tác dụng đến mức ghê gớm đến
thế không? kẻ thù trong, ngoài nào làm gì được Việt Nam? thương đau
nào sẽ được dịu bớt? và ngày hôm nay Việt Nam sẽ đứng ở đâu trong
hàng ngũ các quốc gia trên thế giới?
- Hai là: Mùa đông 1990 - 1991 Liên Xô tan rã, đánh dấu sự sụp đổ hoàn
toàn của phe (hệ thống) xã hội chủ nghĩa, chiến tranh lạnh kết thúc; trong
khi đó Trung Quốc sau khi tiến hành cuộc chiến tranh biên giới chống
Việt Nam tháng 2-1979 chưa ra khỏi chấn động Thiên An Môn (1989);
Mỹ đang bận rộn với chiến tranh vùng Vịnh trừng phạt Iraq xâm lược
Kuwait trong một cục diện quốc tế đã thay đổi (Mỹ chú trọng những mục
tiêu chiến lược toàn cầu khác ngoài khu vực Đông Dương). Giả thiết rằng
trong bối cảnh không còn hai phe như vậy, nếu Việt nam giương cao
ngọn cờ độc lập tự chủ, về đối nội thì phát huy đoàn kết, hòa hợp và hòa
giải dân tộc xây dựng đất nước (mà như vậy cũng có nghĩa là phát huy
dân chủ xây dựng đất nước), về đối ngoại bang giao và hợp tác với mọi
quốc gia vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, Việt nam có cần
phải chấp nhận những nhân nhượng không đáng có và liệu có rơi vào tình
thế bị bao vây cấm vận kéo dài đến tận giữa thập kỷ 1990 hay không?
Lựa chọn phương án này, ai làm gì được Việt nam? Lựa chọn phương án
này, Viêt Nam đương nhiên chẳng phải dựa vào ai, và ngày hôm nay Việt
Nam sẽ đứng ở đâu trong bàn cờ thế giới, trong ASEAN?..
Lịch sử không làm lại được, nhưng chữ “nếu” như vậy phải đặt ra. Chí ít,
chữ “nếu” ở đây cho thấy: Là lực lượng duy nhất nắm quyền lãnh đạo đất nước,
Đảng phải chịu trách nhiệm tối hậu đối với vận mệnh đất nước, nhất là trước
những bước ngoặt của lịch sử.
Trên thực tế Đảng đã lựa chọn quyết sách gì vào hai thời điểm lịch sử nêu
trên?
Xin gợi ra đôi điều.
Về trường hợp thứ nhất:
Sau khi giành lại được đất nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước cực
kỳ quan trọng. Nhằm mục tiêu này, sau chiến thắng 30 Tháng Tư 1975, Đảng đã
lựa chọn con đường đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội, với niềm tin sâu sắc đó là con
8
đường mở ra tương lai cho Việt Nam và giành lấy vị thế quốc tế xứng đáng. Về
căn bản, đấy là sự chọn của duy ý chí và lòng yêu nước trên nền tảng ý thức hệ
Đảng nuôi dưỡng và theo đuổi.
Sự lựa chọn này phải chăng đã bỏ qua thực tế cuộc chiến tranh chống Mỹ
mang trong nó 5 hay 6 cuộc chiến tranh khác nhau: (1)cuộc chiến tranh của nhân
dân ta chống Mỹ xâm lược, (2)cuộc chiến tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
đế quốc mà Việt Nam là tiền đồn – nói khác đi: đó là một cuộc chiến tranh nóng
trực tiếp giữa 2 “phe” trong thời kỳ chiến tranh lạnh trên đất Việt Nam, (3)cuộc
chiến tranh giữa Liên Xô và Mỹ trên đất Việt Nam, (4)cuộc chiến tranh giữa Trung
Quốc và Mỹ trên dất Việt Nam, (5)cuộc giành giật ảnh hưởng toàn cầu giữa Liên
Xô và Trung Quốc trên đất Việt Nam, và (6)trên hết cả cuộc chiến tranh này còn
mang tính chất cuộc nội chiến Bắc-Nam rất sâu sắc, bắt nguồn từ cuộc kháng chiến
chống Pháp trước đó8.
Nhìn lại có thể kết luận: Khi chiến tranh kết thúc, mọi vấn đề đối nội và đối
ngoại nghiêm trọng thời hậu chiến đặt ra từ 6 cuộc chiến tranh này không được xử
lý thỏa đáng, mọi nỗ lực chủ yếu được dành cho quan điểm thừa thắng xông lên
giành chiến thắng cho chủ nghĩa xã hội. Mọi sai lầm chủ quan và duy ý chí bắt đầu
từ đây.
Sự lựa chọn nói trên của Đảng sau 30 Tháng Tư 1975 còn dựa trên lòng tin
chủ nghĩa xã hội (dù cho đến nay còn nhiều vấn đề để ngỏ) là xu thế tất yếu và
đang chiến thắng của thời đại. Suy nghĩ này cho thấy không nhận thức đúng thực
tại thế giới lúc đó: Lợi ích quốc gia và lợi ích chiến lược toàn cầu cũng như thực
lực của từng bên là Mỹ và phe cánh, Trung Quốc và Liên Xô mới là các nhân tố
chủ yếu chi phối trực tiếp bàn cờ quốc tế thời kỳ này – nhất là tại khu vực nước ta,
chứ không phải chủ nghĩa xã hội với tính cách là xu thế tất yếu của thời đại.
Chính sự lựa chọn nói trên cắt nghĩa vì sao ngay sau 30 Tháng Tư 1975 Việt
Nam mau chóng rơi vào cái bẫy “Campuchia” do Trung Quốc xắp đặt, bị cô lập
trên thế giới cả một thập kỷ sau đó, để cho Trung Quốc và Mỹ tha hồ khai thác tình
trạng cô lập này và cố “gỡ” lại những gì họ đã mất! Trong khi đó duy ý chí đã
khiến cho đường lối phát triển đất nước của Đảng đi vào ngõ cụt với cuộc khủng
hoảng trầm trọng9, chế độ chính trị tiến gần đến miệng hố của sụp đổ, các vết
8 Đây là một thực tế nhạy cảm, kiêng cấm, cho đến nay vẫn còn cố tránh né trong nghiên cứu, tư duy.
Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, Dòng đời (tiểu thuyết), sách đã dẫn, quyển một, tập I, tr. 356 – 359; và
quyển một, tập II, tr. 496 – 499.
9 Tham khảo: Đặng Phong, “Phá rào trong kinh tế vào đêm trước đổi mới” – NXB Trí thức, Hà Nội, 2009.
9
thương chiến tranh và các vết thương trầm trọng không kém trong lòng dân tộc
chẳng những không được nỗ lực hàn gắn mà có những mặt còn bị khoét sâu thêm.
Nói nghiêm khắc, thực ra đấy còn là sự lựa chọn của chủ quan duy ý chí cho
chiến thắng và vinh quang của Đảng, mặc dù - và xin nhấn mạnh - sự lựa chọn này
dựa trên chủ nghĩa yêu nước với niềm tin sâu sắc của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa.
Tình trạng này kéo dài cả một thập kỷ với nhiều hệ quả lâu dài cho đất nước.
Nhìn lại có thể đánh giá: Với sự lựa chọn này Đảng đã đánh mất cơ hội là
người duy nhất lúc ấy có khả năng và uy tín lớn nhất thực hiện sự nghiệp thống
nhất dân tộc một cách bền vững và mãi mãi cho một đất nước đã từng mấy thập
kỷ bị nước ngoài xâu xé và đẩy vào trạng thái nội chiến đẫm máu.
Sự thật là không ai lúc ấy có thể thay thế và làm tốt hơn Đảng nhiệm vụ vô
cùng trọng đại này! Bởi vì sau khi có độc lập thống nhất quốc gia, sự nghiệp thống
nhất dân tộc như thế là bảo đảm vĩnh viễn tính bất khả xâm phạm của non sông đất
nước, là nguồn gốc sức mạnh bất khả kháng của một Việt Nam cường thịnh, hạnh
phúc, phồn vinh. Thực hiện được sự nghiệp thống nhất dân tộc như thế sẽ là con
đường ngắn nhất để Việt Nam trở thành một đối tác bình đẳng trong cộng đồng
quốc tế.
Cần nhấn mạnh trong 25 năm đổi mới đã có nhiều chính sách khắc phục
những yếu kém vấp phải, và đã tăng cường đáng kể khối đoàn kết thống nhất dân
tộc. Kết quả của những chính sách đúng này đã góp phần quan trọng vào việc hàn
gắn vết thương chiến tranh, vết thương dân tộc, và tăng cường khối đoàn kết toàn
dân. Chính những thành quả này đã đảo ngược tình thế hiểm nguy của đất nước,
phát triển đất nước về nhiều mặt 25 năm qua. Nếu so tình hình hôm nay với 10
năm đầu sau khi hoàn thành thống nhất đất nước rõ ràng đã đạt được một bước tiến
bộ lớn trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Điểm lại, cốt lõi của sự
chuyển biến quan trọng này là thực thi dân chủ trên nhiều phương diện – và đây là
điều rất quan trọng cần rút ra cho tương lai để đi tiếp.
Tuy nhiên cũng cần thẳng thắn nhìn nhận con đường phải đi còn dài cho
việc thực hiện được sự thống nhất dân tộc tạo ra hào khí mới - sự thống nhất dân
tộc với tính chất là (a)nền tảng cho quyền làm chủ của nhân dân, là (b)bảo đảm
cho gìn giữ kỷ cương của thể chế chính trị và là (c)cội nguồn sức mạnh của đất
nước. Tình hình và nhiệm vụ mới đặt ra cho đất nước ở bước ngoặt hiện tại càng
đòi hỏi như vậy.
10
Đã có nhiều ý kiến tâm huyết nhấn mạnh một trong những trở ngại chính
trên con đường này là:
Sau 35 năm độc lập thống nhất, Đảng vẫn chưa làm xong nhiệm vụ lãnh
đạo nhân dân hoàn thành sự nghiệp thống nhất dân tộc đúng với tinh thần
(a)hàn gắn vết thương quá khứ, (b)thu phục nhân tâm về một mối, (c)thống
nhất ý chí vì một Việt Nam giầu mạnh, dân chủ công bằng văn minh và con
đường thành đạt mục tiêu này. Sau 35 năm chưa thể nói đã tạo ra được sự
thống nhất dân tộc đầy tinh thần hòa hợp hòa giải, nhằm tạo ra sự đồng thuận
lớn nhất làm động lực xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhìn lại càng chưa thể nói
sau 35 năm Đảng đã mở ra được một trang sử mới cho đất nước trên con đường
xây dựng một chế độ chính trị gồm những giá trị khiến người dân cảm nhận
được chế độ chính trị ấy của đất nước gắn bó với mình gần như đồng nghĩa với
Tổ Quốc. Mọi việc còn đang ở phía trước!10
Xin Nói thêm: Vết thương của quá khứ được nói tới ở đây không phải chỉ có
chuyện Bắc Nam, mà còn bao gồm tất cả mọi tổn thất, sai lầm và yếu kém khác,
bao gồm hệ quả của biết bao đoạn trường quanh co đau lòng của đất nước đã xảy
ra vì bất kỳ lý do gì mà ngày nay không lấy lại được. Xem xét vết thương quá khứ
còn có nghĩa phải xem xét rất nhiều các vết thương khác chia rẽ dân tộc xuất hiện
trong các thời kỳ lịch sử khác nhau của đất nước, kể cả những thời kỳ trong lich sử
Việt Nam cận đại từ khi Pháp đô hộ nước ta cho đến nay – bao gồm cả chia rẽ
chính trị, chia rẽ các đảng phái, chia rẽ tôn giáo đang để lại nhiều tàn dư tiêu cực…
Khép lại vết thương của quá khứ còn đòi hỏi có cái tâm và trí tuệ gạt bỏ mọi tư duy
cũ, thành kiến hay định kiến cũ, để bao dung, vị tha với nhau, để cùng động viên
nhau vắt óc tìm đường đi lên cho đất nước.
Nguyên do chủ yếu chưa xây dựng nên được cho đất nước một chế độ chính
trị đồng nghĩa với Tổ quốc như thế là vì đảng lãnh đạo Đảng và Nhà nước chưa
thiết kế và chưa xây dựng nên được cho đất nước một thể chế dân chủ đích thực:
Người dân là chủ của chính mình và là chủ của đất nước, không có độc quyền yêu
nước, nước Việt Nam là của mọi người việt nam yêu nước dù chính kiến, tôn giáo,
đẳng cấp hay giai cấp nào, bình đẳng và không phân biệt quá khứ bên này bên kia,
giá trị cao nhất để đánh giá và xác định hay tôn vinh vị trí của mỗi người là sự
cống hiến cho một nước việt nam cường thịnh… Nói một cách khác: Giải phóng
xong đất nước, nhưng cho đến nay vẫn chưa hoàn thành được nhiệm vụ giải phóng
10 Tham khảo thêm Nguyễn Trung: “Việt Nam trong thế giới thập kỷ thứ hai thế kỷ 21” – phần nói về cải
cách chính trị với nội dung dân chủ hóa.
11
đích thực – mỗi người dân có quyền sống vì mình và vì đất nước, để từ quyền này
xây dựng sự đồng thuận tối đa và bất khả xâm phạm của toàn dân tộc cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc11.
Hơn nữa, mỗi người còn nên khép lại quá khứ với chính mình - vì cần mở ra
một bước tiến mới cho bản thân mình, cho đất nước, và vì một điều tốt đẹp gì đó
cho tương lai, để không ngồi xổm trên vinh quang của quá khứ, hoặc cũng không ủ
dột với những vấp váp, và càng không nên để cho quá khứ nuôi dưỡng thù hận
riêng mà làm suy yếu sơn hà xã tắc...
Khép lại quá khứ, hướng về tương lai với tinh thần nêu trên của từng người
Việt Nam là để tất cả cùng bắt tay nhau mở ra một trang sử mới cho Tổ quốc, dốc
lòng làm rạng rỡ đất nước mình, coi đấy là báo đáp tổ tiên và phấn đấu hết mình
cho tương lai của con cháu.
Nói ngắn gọn, khép lại quá khứ là để tạo ra đồng tâm nhất trí cao nhất của
toàn dân tộc phấn đấu cho tương lai của đất nước.
Có gì ngăn cấm mỗi người Việt Nam chúng ta ước mơ sống như vậy và
quyết tâm sống như vậy? Suy nghĩ như vậy là phi giai cấp à? Là ảo tưởng à? Hay
là nghĩ như vậy mới rõ ai là ai? Không dám suy nghĩ như vậy mới là thấp kém?
Nước ta đã khép lại quá khứ với tất cả các nước đã xâm lược ta, để bình thường
hóa quan hệ, để hũu nghị và hợp tác; vậy giữa người Việt chúng ta với nhau và
trong từng người tại sao không? Tổ quốc chúng ta đang đứng trước những hiểm
nguy và thách thức lớn, chẳng lẽ điều này không đáng để mỗi chúng ta nghĩ, phấn
đấu và hành động như vậy sao? Với vai trò tiền phong chiến đấu, thiết nghĩ người
đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam phải là công dân đầu tiên trả lời những câu
hỏi như vậy!
Thực tế thiếu vắng sự thống nhất dân tộc ở tầm cao như vậy khiến cho trong
35 năm qua đã mắc bao nhiêu sai lầm, lãng phí biết bao nhiêu trí tuệ, nhân tài và
tiềm năng to lớn của dân tộc, bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội lớn, gây ra biết bao nhiêu
khó khăn và đau thương không đáng có, quá khứ đầy máu và nước mắt của dân tộc
cho đến hôm nay vẫn chưa sao khép lại được, nguy cơ rạn nứt vẫn tiềm tàng. Đấy
là chưa nói đến ngay trong nội bộ Đảng vẫn chưa sao loại bỏ được hết sự phân chia
vùng, miền, tính công thần, cục bộ địa phương nặng nề... Trong lương tri người
11 Sự đồng thuận xây dựng từ quyền này chính là sự đồng thuận tối đa, là dân chủ. Cuộc sống không thể
có sự đồng thuận tuyệt đối cũng như không thể có nền dân chủ tuyệt đối hay hoàn hảo. Nền dân chủ ở
các nước phương Tây dù được hoàn thiện đến đâu cũng đầy rẫy khuyết tật. Song sự đồng thuận tối đa
về những giá trị cơ bản đạt được về quyền con người, về kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xã
hội dân sự ở các nước phương Tây là cơ sở của nền dân chủ cùa những quốc gia này.
12
dân nặng lòng với đất nước riết róng những câu hỏi rớm máu: Người Việt ta sao
không lo chung lưng đấu cật đối mặt với cả thế giới mà cứ cào xé, đố kỵ nhau?
Việt Nam hôm nay sẽ đứng ở đâu trên thế giới này nếu đã hoàn thành được sự
nghiệp thống nhất dân tộc như thế? Một sự nghiệp như thế không đáng lãnh đạo
nhân dân thực hiện?..
Nhiệm vụ thống nhất dân tộc này đến hôm nay chưa thể nói là đã hoàn
thành, không phải chỉ vì còn những vấn đề của quá khứ chưa được giải quyết thỏa
đáng, mà còn vì chưa tạo ra được ý chí thống nhất của toàn dân tộc về con đường
phát triển đất nước, vì tệ nạn quan liêu tham nhũng đang tích tụ những bất công,
gây ra những phân hóa và chia rẽ mới trong nội bộ các tầng lớp nhân dân và giữa
nhân dân với chính quyền. Trong thực tế cuộc sống vẫn tồn tại không ít quan điểm,
chính sách, cách cư xử không dung nạp sự thống nhất này, khiến cho lời nói và
việc làm khác nhau. Trên hết cả là thiếu hẳn một thể chế dân chủ thực hiện được
đại đoàn kết dân tộc, hòa hợp và hòa giải dân tộc - nhằm một mặt là đẩy lùi tham
nhũng tiêu cực, mặt khác nhằm khép lại quá khứ và phát huy dân chủ, tạo dựng
đồng thuận và khơi dậy sức mạnh cả nước12.
Nhân đây xin nhấn mạnh: Cần đánh giá cao và tiếp tục cổ vũ, hậu thuẫn
những nỗ lực to lớn của nhân dân mọi tầng lớp, chính kiến và tôn giáo khác nhau,
dù trong nước hay ở nước ngoài, tự mình chủ động đóng góp trực tiếp vào sự
nghiệp gây dừng đoàn kết, hòa hợp, hòa giải dân tộc - như nhiều người đã nói:
Trước sau vẫn là máu chảy ruột mềm… Nhiều vết thương đã lên da, đã thành
sẹo....
Bước vào giai đoạn phát triển mới của đất nước trong bối cảnh mới của thế
giới, đất nước ta rất cần sự thống nhất dân tộc trong một ý chí cho một Việt Nam
trụ được, phát triển được và cường thịnh – sự thống nhất từ trong lòng, chứ không
phải trên khẩu hiệu!
Về trường hợp thứ hai:
Trước khi trình bầy, xin nhắc lại một điểm: Tinh thần độc lập tự chủ và ý chí
đặt lợi ích quốc gia trên hết là một trong những yếu tố quyết định của Đảng lãnh
đạo làm nên thắng lợi vỹ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước! Rồi đây
lịch sử có lẽ sẽ công bố cho mọi người biết cuộc kháng chiến này đã phải vượt qua
những tác động gay go hay kiềm chế từ bên ngoài như thế nào, lúc thì là muốn ta
12 Thậm chí ngày nay vẫn còn dè dặt khi nói về hòa hợp, hòa giải và đông thuận dân tộc!
13
đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng, lúc thì muốn ta hòa hoãn, với lý do chổi
ngắn không quét được rác xa, thống nhất đất nước (Việt Nam) là sự nghiệp hàng
trăm năm!.. Những sự can thiệp như thế diễn ra trong tình hình cuộc kháng chiến
của ta phải dựa vào nguồn chi viện rất lớn của các nước bạn! Có lúc ta đã phải nói
thẳng với bạn: Không giúp, người Việt Nam chúng tôi cũng chiến đấu chống Mỹ
xâm lược đến cùng!
Tinh thần, ý chí độc lập tự chủ và Tổ quốc trên hết ấy trước tình hình sụp đổ
của các nước Liên Xô Đông Âu cuối thập kỷ 1980 như thế nào?
Thay vì khôi phục quan hệ bình thường, hữu nghị và hợp tác với Trung
Quốc trên cơ sở độc lập tự chủ và lợi ích quốc gia trên hết, lãnh đạo Đảng lúc ấy đã
lựa chọn liên minh ý thức hệ với Trung Quốc. Thậm chí lúc ấy hy vọng có thể
cùng với Trung Quốc xây dựng liên minh còn lại cuối cùng của chủ nghĩa xã hội
trên thế giới! Quá trình này mở đầu từ hội nghị Thành Đô năm 1990, trong thế yếu
của ta trước sức ép của Trung Quốc. Kết quả là chỉ được Trung Quốc công nhận là
đồng minh, chứ không phải là đồng chí – trước hết vì chính Trung Quốc cũng
không muốn giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội trước thế giới, sau nữa Trung
Quốc chỉ coi ta là một đối tác có nhiều khác biệt với Trung Quốc. Hồi ấy trong
lãnh đạo Đảng có những ý kiến không tán thành quyết sách này, nhưng đã bị gạt
đi13.
Phải chăng sự lựa chọn như vậy của của lãnh đạo Đảng trong tình hình sụp
đổ của các nước Liên Xô Đông Âu là kết quả hoang mang dao động trước bước
ngoặt lịch sử của thế giới: Chiến tranh lạnh kết thúc!?
Phải chăng thực chất sự lựa chọn này hầu như chỉ nhằm bảo vệ chế độ chính
trị và quyền lực của Đảng, nhân danh bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trong nước,
nhân danh bảo vệ trào lưu và con đường của chủ nghĩa xã hội trên thế giới?
Trong các thời kỳ cách mạng trước, quan điểm độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa xã hội gắn kết với lợi ích quốc gia, với chủ nghĩa yêu nước theo quan điểm ý
thức hệ của Đảng. Nhưng bước vào thời kỳ này trở đi, phải chăng quan điểm này
ngày càng mang tính chất là tiêu chí và kim chỉ nam cho mọi đường lối chính sách
và hành động của Đảng trong đối nội cũng như đối ngoại - tất cả với mục đích tối
thượng là bảo vệ chế độ chính trị của Đảng, lợi ích quốc gia được đánh đồng với
13 Tham khảo thêm Trần Quang Cơ: Hồi ký và suy ngẫm.
14
mục đích tối thượng này – độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - và trên
thực tế tụt xuống vị trí thứ hai?
Đặt ưu tiên như vậy phải chăng có nghĩa quyền lợi quốc gia chỉ được thực
hiện trong phạm vi không mâu thuẫn hay không thách thức quyền lực của Đảng?
Cứ giả định rằng bảo vệ chế độ chính trị trong tình hình quốc tế như vậy
cũng hoàn toàn xuất phát từ lập trường bảo vệ lợi ích quốc gia, nghĩa là không
mảy may có vấn đề đặt lợi ích quốc gia xuống hạng hai, thì cũng phải kết luận: Ý
thức hệ và tầm nhìn lúc ấy đã ngăn cản lãnh đạo Đảng đi tới nhận định đúng đắn
cần rút ra để lựa chọn quyết định tối ưu nhất cho đất nước: Việt Nam đứng lên
giữa thế giới với tính cách là một quốc gia với tất cả thinh thần độc lập tự chủ,
hòa bình với tất cả các nước trên thế giới, không cần đi theo ai hoặc dựa vào ai!
Nếu chọn con đường như vậy, ai sẽ làm gì được ta? Hay là: Chọn con đường như
vậy nước ta sẽ bước lên một vị thế mới chưa từng có?.. Chọn con đường như vậy,
cả dân tộc ta sẽ vùng đứng lên như thế nào!.. Rất đáng nghĩ lại lắm! Vì cuộc sống
của nước ta hiện nay và phía trước rất cần một bản lĩnh Việt Nam như thế!
Cần nói thêm vào thời điểm này Mỹ bận tâm với các mối quan hệ chiến lược
toàn cầu ở Trung Đông và Đông Âu (sau khi các nước xã hội chủ nghĩa ở đây sụp
đổ); còn Trung Quốc sau khi thất bại trong chiến tranh biên giới đánh Việt Nam
đang chưa ra khỏi chấn động của sự kiện Thiên An Môn năm 1989, chiến tranh
biên giới Việt – Trung đi dần vào thời kỳ kết thúc hẳn, vấn đề Khmer đỏ ở
Campuchia cơ bản đã giải quyết xong. Nghĩa là tình hình lúc này không thể hay rất
khó xảy ra một cuộc chiến tranh ngoại xâm mới bất kỳ từ đâu tới chống lại Việt
Nam. Trung Quốc lúc này chỉ có thể tiếp tục cuộc chiến tranh biên giới chống ta
đang tàn lụi dần chứ không thể mở rộng thêm, chính bản thân Trung Quốc lúc này
cũng lúng túng vì có nhiều chuyện khác phải lo – nhất là lo ảnh hưởng của Liên Xô
sụp đổ tác động vào nội tại Trung Quốc và các dư trấn sâu sắc của sự kiện Thiên
An Môn. Còn ở trong nước ta, ngoài tình hình khủng hoảng kinh tế do đường lối
của Đảng tự gây ra, chế độ chính trị sau những thành công đầu tiên của đổi mới
(được tiến hành tử Đại hội VI – 1986) đang được củng cố thêm, hầu như không có
một sự uy hiếp đáng kể nào từ bên trong. Nghĩa là bối cảnh quốc tế bên ngoài và
tình hình nội trị bên trong của nước ta lúc ấy không buộc Đảng phải lựa chọn bước
đi thỏa hiệp với Trung Quốc, với kết cục từ đấy trở đi chính sách o ép Việt Nam
của Trung Quốc cho đến hôm nay ngày càng leo thang.
Phải chăng ý thức hệ và sự dao động là nguyên nhân chủ yếu khiến cho lãnh
đạo Đảng lúc ấy nhìn nhận sai lệch thực trạng thế giới tại bước ngoặt lịch sử này
và đánh giá không đúng bạn, thù?
15
Nhìn lại, chữ “nếu” đặt ra như vậy, có thể sẽ có ý kiến cho là trào lưu tư
tưởng lúc ấy không cho phép nghĩ khác, là nói gì bây giờ cũng chỉ là nói hậu, là
thoát ly lịch sử!..
Song chừng nào còn nghĩ như vậy, sẽ chẳng rút ra được bài học gì từ lịch sử.
Trong khi đó rất cần đặt ra chữ “nếu” như thế từ người thầy lịch sử để đi tìm một
cách nhìn khác, một tầm nhìn khác cho hôm nay và ngày mai.
Đặt ra chữ “nếu” như thế, phải chăng sẽ thấy hai trường hợp (thứ nhất và
thứ hai) nêu trên là hai cơ hội lớn nhất của dân tộc Việt Nam ta trong thế kỷ 20 kể
từ sau ngày 30 Tháng Tư 1975 mà lãnh đạo của Đảng với tư cách là lực lượng
chính trị duy nhất nắm giữ vận mệnh đất nước đã đánh mất?
Chữ “nếu” nhất thiết phải tính đến này cho phép mường tượng mức độ
nghiêm trọng những điều tầm nhìn chưa với tới và những sai lầm chiến lược lãnh
đạo Đảng lúc ấy đã phạm phải.
Đằng sau chữ “nếu” có vẻ là giả tưởng này là một sự thật cay nghiệt như
thế. Bởi vì Đảng nắm tất cả quyền bính trong tay mình, lại ở vị thế thượng phong
và có uy tín tuyệt đối trên chính trường Việt nam, đằng sau Đảng lúc ấy là sự hậu
thuẫn hầu như không gì phá vỡ nổi của nhân dân, lại có vị thế cao trên trường quốc
tế, bối cảnh thế giới lúc ấy không cản đường, vậy cái gì bó tay Đảng lựa chọn chữ
“nếu” như thế? Cái gì ngăn cản lãnh đạo Đảng, nếu không phải là trí tuệ, tầm nhìn,
phẩm chất cách mạng và bản lĩnh hẫng hụt của mình vào 2 thời điểm lịch sử trọng
đại này? Và trên hết cả, nếu giác ngộ và kiên định lợi ích quốc gia là tối thượng,
là quyết định tất cả, có lẽ lãnh đạo Đảng sẽ nghĩ khác, lựa chọn khác – như thời
khãng hiến chống Mỹ!? Tất cả càng làm rõ sự trói buộc ý thức hệ!
Nhìn vào hiện tại và tương lai của đất nước trong thế giới phức tạp ngày nay,
nói bao nhiêu về giác ngộ và kiên định lợi ích quốc gia là tối thượng, là quyết định
tất cả cũng không đủ. Bài học này đau đớn lắm và đắt lắm đối với Đảng, đối với
dân tộc, hầu như không có cơ hội lấy lại! Nhìn lại có thể nói: Phải mất bao nhiêu
hy sinh xương máu và thời gian, rồi lại phải chờ vào lúc xảy ra biến cố lịch sử của
thế giới, mới có được 2 cơ hội lớn ấy, nhưng cuối cùng là vô dụng! Hơn nữa, sau
đó đất nước bị đẩy vào một con đường không mong đợi, lận đận mãi về nhiều mặt
cho đến hôm nay!
Nói riêng về Đảng, để mất hai cơ hội trọng đại này còn là hậu quả của sự
thiếu vắng phát huy trí tuệ trong Đảng, tình trạng mất dân chủ trong Đảng. Tính
16
tiền phong chiến đấu của lãnh đạo và của từng đảng viên chưa đúng tầm đã góp
phần quan trọng gây ra tình trạng này. Vì vậy toàn Đảng phải chịu trách nhiệm.
Phải nhấn mạnh điều này, vì đây là kinh nghiệm xương máu cho lãnh đạo và cho
toàn thể đảng viên đối với toàn bộ sự nghiệp của Đảng từ nay về sau.
Xin nêu thêm một chữ “nếu” lớn thứ ba không kém phần quan trọng:
Nếu đem vấn đề cải tạo tư sản hôm qua, nhất là đợt cải tạo tư sản ở miền
Nam sau 30 Tháng Tư, đặt bên cạnh những việc đã làm trong 25 năm đổi mới để
suy nghĩ, nếu đem thực trạng của “giai cấp tư sản” lúc đó ở miền Nam ra so sánh
với tình hình phân bổ của cải và tình hình các hình thái và quy mô các doanh
nghiệp các thành phần kinh tế, các loại hình sở hữu, các hình thái kinh tế đang có
trong nền kinh tế nước ta hôm nay.., sẽ không tránh được phải tự hỏi: Phải chăng
với cuộc cải tạo tư sản ở phía Nam, sau những năm đổi mới kinh tế đất nước đã đi
trọn một vòng tròn để trở lại đúng điểm xuất phát, và giờ đây đất nước đang tìm
cách xuất phát / cất cánh từ điểm đã xuất phát ấy cách đây 35 năm? Phải chăng
cải tạo tư sản như thế hiển nhiên là thừa và sai, với biết bao nhiêu hệ quả đến hôm
nay chưa khắc phục xong? Tệ hại hơn nữa là cải tạo tư sản ở miền Nam đã bỏ qua
tất cả những sai lầm đã vấp phải khi tiến hành cải tạo công thương ở miền Bắc…14
Song quan trọng hơn thế, cho đến hôm nay đường lối phát triển kinh tế của
Đảng vẫn chưa giải quyết tự giác và thành công trong vấn đề sở hữu nhà nước và
sở hữu tư nhân trong kinh tế, vẫn nhấn mạnh kinh tế quốc doanh là chủ đạo với nội
dung không rõ ràng, luật pháp và thể chế cho quốc doanh còn nhiều sơ hở. Trên
thực tế là: Nhân danh giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế quốc doanh
là chủ đạo, quyền lực trong Đảng đang tiếp tục duy trì những phân biệt đối xử giữa
kinh tế quốc doanh và kinh tế tư nhân, với kết quả là tình trạng độc quyền của khu
vực kinh tế quốc doanh vẫn tiếp tục gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, dẫn tới hiệu
quả kinh tế thấp; vốn liếng thuộc sở nhà nước, đất đai và tài nguyên bị thất thoát
lớn; môi trường bị hủy hoại trầm trọng. So sánh tổng cái được với cái vốn bỏ ra +
cái mất của kinh tế quốc doanh có lẽ ta sẽ chỉ thu được một số âm. Tình trạng này
còn bị căn bệnh nan y làm trầm trọng thêm, đó là sự câu kết giữa “tập đoàn kinh tế
quốc doanh + nền kinh tế GDP tỉnh + tư tưởng nhiệm kỳ”. Bộ 3 quyền lực này
đang được sử dụng làm nền móng cho quyền lực của Đảng. Do bản chất tự nhiên
bộ 3 quyền lực này vận động theo xu hướng chính nó trở thành một thứ quyền lực
riêng, đang tìm cách lũng đoạn toàn bộ đời sống mọi mặt của đất nước. Thực tế
14 Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, Dòng đời, sách đã dẫn, quyển một, tập II, tr. 522 – 528.
17
này thể hiện rõ nhất qua sự hình thành các nhóm lợi ích chi phối đất nước, với hệ
quả quan liêu và tham nhũng trở thành quốc nạn ngày càng khó kiểm soát.
Xin lưu ý, sở hữu nhà nước nói chung và đặc biệt là các tập đoàn kinh tế nhà
nước đang là vấn đề tồn tại lớn chưa có lời giải. Hiệu quả kinh tế thấp và khả năng
lũng đọan lớn là hai tác động chính kìm hãm sự phát triển mọi mặt của đất nước.
Tiếp tục duy trì và phát triển như hiện tại, là tích tụ thêm những nguy cơ đổ vỡ mới
cho tương lai. Chỉ số ICOR ngày càng cao, kinh tế quốc doanh chiếm tới 2/3 vốn
liếng toàn xã hội và được dành cho nhiều đặc quyền lớn nhưng chỉ làm ra non nửa
của cải cho xã hội, những vụ việc tiêu cực ngày càng khó kiểm soát, quyền lực và
ảnh hưởng chi phối của các tập đoàn ngày càng lớn… - đấy là những dẫn chứng
chỉ báo xu thế phát triển nguy hiểm này. Quan điểm kinh tế quốc doanh là chủ đạo
đang ngăn cản những cải cách cần thiết đối với chính bản thân kinh tế quốc doanh,
mâu thuẫn ngay với quan điểm đối xử bình đẳng các thành phần kinh tế đã ghi
trong các nghị quyết của Đảng. Mặt khác cải cách khu vực kinh tế quốc doanh và
xử lý tối ưu sở hữu nhà nước là các việc khó, đến nay chưa được nghiên cứu
nghiêm túc để tìm ra giải pháp hợp lý nhất cho nước ta với tính cách là một quốc
gia có xuất phát điểm rất thấp và rất cần vận dụng có hiệu quả cao nhất các hình
thái tích tụ kinh tế hiện có. Tình hình phức tạp đến mức các Đại hội Đảng vừa qua
tiếp tục khẳng định kinh tế quốc doanh là chủ đạo, song chưa làm sao đưa ra được
một định nghĩa nhất quán thế nào là “chủ đạo”!15 Việc thiết kế chính sách phát
huy tất cả các thành phần kinh tế vì thế không được như các nghị quyết của Đảng
mong muốn.
15 Xin lưu ý: Cho đến nay không một nước LXĐÂ cũ nào thành công thực sự trong cải cách kinh tế quốc
doanh và vấn đề sở hữu nhà nước. Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa của những nước này sụp đổ, mọi
cải cách tiếp theo cũng hầu như thất bại, cuối cùng phải lựa chon con đường xóa bỏ khu vực kinh tế này
(được gọi là state sector – để phân biệt với private sector) bằng những biện pháp khác nhau; riêng ở
nước Nga trên thực tế đã xảy ra một cuộc cướp đoạt tài sản quốc gia, với những hệ quả điêu đứng cho
nền kinh tế nhiều năm sau.
Ở Trung Quốc quá trình cải cách kinh tế quốc doanh trên thực tế là tư nhân hóa (dưới dạng cổ phần
hóa), gắn liền với phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân. Vào thời điểm 2005 kinh tế tư nhân chiếm
khoảng trên 70% GDP với nhiều tập đoàn lớn, nhà nước chỉ còn giữ lại khoảng 200 tập đoàn trên các
lĩnh vực chủ yếu như năng lượng, giao thông viễn thông, một số sản phẩm cơ bản khác như kim loại,
chế tạo cơ khí... Vì thế có thể nói nét nổi bật trong cải tạo kinh tế quốc doanh ở Trung Quốc có lẽ là phát
triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân – không để cho kinh tế quốc doanh lấn át khu vực kinh tế tư nhân,
kinh tế tập đoàn nhà nước chỉ tập trung vào một số sản phẩm thiết yếu đối với toàn bộ nền kinh tế. Có
thể kết luận đấy là con đường phát triển chủ nghĩa tư bản ở Trung Quốc ngày nay dưới tên gọi chủ nghĩa
xã hội đặc sắc Trung Quốc. Nhiều học giả trên thế giới đặt tên cho mô hình của chủ nghĩa tư bản Trung
Quốc ngày nay là chủ nghĩa tư bản trong chế độ toàn trị một đảng với các dấu ấn Khổng giáo.
18
Nhìn vào mọi lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước, có rất nhiều
hiện tượng thực hiện kinh tế quốc doanh là chủ đạo, giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội… với nội dung nhân danh như
vậy. Tình trạng này đang ngày càng trầm trọng thêm do hiện tượng “đảng hóa”
toàn bộ hệ thống chính trị, nhà nước và xã hội cũng như việc thiết kế các chính
sách và phương thức thực hiện.
Vân vân…
Tóm lại, thời kỳ ban đầu chỉ có những hạn chế của ý thức hệ gây ra những
khó khăn và sai lầm của Đảng. Song càng về sau, nhất là trong những năm gần
đây, những hạn chế về tư duy, về tầm nhìn cùng với sự tha hóa ngày càng gia tăng
đã làm cho những yếu kém và sai lầm của Đảng và của hệ thống chính trị càng trở
nên trầm trọng hơn, nhất là trong khi đó tình hình mọi mặt của đất nước ngày càng
đề ra những đòi hỏi khó khăn phức tạp hơn trước rất nhiều. Điều đặc biệt nguy
hiểm là quá trình “đảng hóa” được coi là phương thức lãnh đạo tối ưu, song kết
quả đạt được lại là cả Đảng và hệ thống chính trị ngày càng yếu kém và bất cập
hơn, quan liêu tăng hơn, đất nước ngày càng gặp nhiều khó khăn, đời sống văn hóa
xã hội xuống cấp. Mong rằng rồi đây sẽ có những công trình nghiên cứu đánh giá
khách quan và chuẩn xác đoạn đường 35 năm đầu tiên nước ta đã trải qua sau khi
giành được độc lập thống nhất.
Nhìn lại lịch sử đất nước từ khi chiến tranh thế giới II kết thúc đến nay, nhìn
lại những cơ hội quan trọng bị đánh mất, nhìn vào những đoạn trường đất nước ta
lâm vào sau 30 Tháng Tư 75, phải chăng có thể kết luận:
(1)Nhận thức phiến diện và không đúng thế giới chúng ta đang sống,
(2)sự giác ngộ không đúng tầm lợi ích quốc gia trong bối cảnh quốc tế luôn luôn
biến động và vô cùng phức tạp, (3)sự nô lệ vào ý thức hệ hoặc các niềm tin mù
quáng, đó là ba nguyên nhân khởi thủy kìm hãm sự phát triển của đất nước suốt
35 năm qua và làm suy yếu Đảng? Ngày nay còn phải cộng thêm nguyên nhân
(4) là sự tha hóa mới đang diễn ra trên nhiều phương diện của đời sống đất
nước do đường lối chính sách của Đảng tạo ra.
Chắc chắn nhóm lợi ích và tư tưởng bảo thủ sẽ khép tội những nhận định
nêu trên là tấn công trực diện vào cơ sở tồn tại của Đảng, là muốn thủ tiêu Đảng và
chế độ xã hội chủ nghĩa, là tiếp giáo cho bè lũ phản động khắp nơi trong ngoài
chống Đảng, chống chế độ... Xin thảo luận thẳng thắn để tìm ra lẽ phải, vì sự thật
dù thế nào cũng không đáng sợ bằng nhắm mắt trước sự thật.
19
Lịch sử luôn luôn đầy ắp những hạn chế không vượt qua được của con
người, vì thế lịch sử vô cùng hào phóng những chữ “nếu”, những bài học. Cho dù
cuộc sống muôn hình vạn trạng thế nào, các chữ “nếu”, các bài học rút ra từ lịch sử
cách mạng nước ta thường đưa tới một chỉ dẫn chung: Ý thức hệ, chủ nghĩa cá
nhân và chủ nghĩa cơ hội luôn luôn đem lại tai họa cho sự nghiệp cách mạng,
luôn luôn đe dọa thủ tiêu tính tiền phong chiến đấu và phẩm chất cách mạng
của đảng cầm quyền. Sẽ là thảm họa biết chừng nào cho hiện tại và tương lai nếu
như chúng ta lãng phí sự hào phóng những bài học của lịch sử. Công cuộc đổi mới
bắt đầu từ Đại hội VI cho thấy một cách đầy sức thuyết phục: Dũng khí rút ra bài
học từ sai lầm đã đảo ngược tình thế, cứu nguy đất nước và mới có hôm nay. Còn
như ai muốn lạm dụng những chữ “nếu”, những bài học như thế để theo đuổi ý đồ
xấu thì đấy là vấn đề nhân cách riêng của người đó.
III. Đảng đang tự “diễn biến hòa bình”
Những điều trình bầy trên cho phép kết luận: Vấn đề không phải là chỗ
Đảng – trước hết là đội ngũ lãnh đạo – không nhận ra thực trạng, mà là ở chỗ: Sau
sau 30 Tháng Tư 1975 quyền lực trong Đảng dần dần và lúc này lúc khác không
còn lựa chọn nhiệm vụ phục vụ lợi ích quốc gia là mục tiêu hàng đầu và tối
thượng nữa, và đang ngày càng chuyển hẳn sang lựa chọn ưu tiên duy trì chế độ
chính trị và quyền lực của Đảng. Ưu tiên lợi ích đất nước bị đẩy xuống hạng hai!16
Tính tiền phong chiến đấu trong toàn Đảng vì thế bị đẩy lùi từng bước và hôm nay
đang bị tha hóa lấn át. Lúc này Đảng ở đỉnh cao nhất của quyền lực, song cũng là
lúc Đảng yếu kém nhất về mọi mặt giữa lúc chưa bao giờ công sức và thời gian
cho xây dựng Đảng được bỏ ra nhiều như ngày nay! Nói nghiêm khắc: Kể từ khi
thành lập, đây là thời kỳ Đảng yếu nhất, có nhiều hư hỏng nhất!
Những cái được và mất, những cái làm nên và thất bại của 35 năm đầu tiên
xây dựng và bảo vệ đất nước cho thấy: Hầu như mọi việc bám lấy ý thức hệ và
nhằm nâng cao quyền lực của Đảng đều không kết quả, hoặc chỉ mang lại thành
tích giả tạo, thậm chí nhiều khi vấp phải thất bại nặng nề, đất nước phải trả giá đắt
và bị kéo lùi. Việc nào gắn với hoặc phù hợp với lợi ích dân tộc đều thành công,
thúc đẩy đất nước phát triển. Thực tế mọi mặt của đất nước cũng đang chứng minh
nhiều điều cốt yếu ghi trong Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng đã bị cuộc sống vượt
16 Thực tế này thể hiện trong rất nhiều chủ trương chính sách của Đảng, thậm chí trong suy nghĩ và lời
nói hàng ngày của lãnh đạo và cán bộ Đảng cũng vậy: đất nước luôn luôn đứng hàng thứ hai sau Đảng!
20
qua. Hiện nay chủ nghĩa hình thức và sự giả dối không buông tha sự thiêng liêng
nào và đang tiếp tục bành trướng trên chính trường của Đảng.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật như vậy, đất nước đang chứng kiến tình
hình: Qua mỗi kỳ Đại hội toàn quốc của Đảng, chất lượng của Đảng thêm một sa
sút – Đại hội sau thấp hơn Đại hội trước – về năng lực lãnh đạo cũng như về phẩm
chất; những vấn đề phải xử lý trong Đảng cũng ngày một nhiều và nghiêm trọng
hơn; trong khi đó nhiệm vụ của Đảng đối với đất nước ngày một khó khăn phức
tạp hơn. Chất lượng đảng viên nói chung còn đáng lo ngại hơn – thể hiện qua trình
độ và ý thức trách nhiệm đối với đất nước và đối với Đảng nói chung thấp, các tội
phạm và tính chất các tội phạm đảng viên mắc phải có xu hướng ngày càng trầm
trọng, tính cơ hội và sự dối trá trong Đảng ngày càng phổ biến – như đã được nhận
định trong nhiều báo cáo của Đảng.
Bên cạnh những nguyên nhân tha hóa về phẩm chất, phải nói thực trạng yếu
kém của Đảng hiện nay còn do thể chế và tổ chức sinh hoạt Đảng mất dân chủ và
ngày càng có nhiều cái lỗi thời tạo ra; cái lỗi thời lớn nhất là không đẩy được
Đảng và đảng viên đi tiên phong trong hàng ngũ của dân tộc, thoát ly những mối
quan hệ gắn bó và sự lựa chọn, thử thách của dân tộc. Cho nên rèn luyện đảng
viên và đổi mới Đảng ngày càng trở thành đòi hỏi sống còn đối với chính sự tồn tại
của Đảng.
Xin lưu ý, vai trò lãnh đạo hiện nay của Đảng là do hoàn cảnh lịch sử xác
lập nên. Nói thế hàm nghĩa là vai trò và ảnh hưởng của Đảng ngày nay chủ yếu
sống nhờ vào vốn liếng các thế hệ trước của Đảng để lại. Đảng đang ăn vào vốn
lịch sử của mình! Thực tế này cùng với việc đặt ưu tiên duy trì quyền lực của Đảng
lên trên lợi ích quốc gia là những nguyên nhân trực tiếp nhất gia tăng tốc độ tha
hóa của Đảng.
Nếu coi Đại hội VI là điểm sáng mang tính bước ngoặt có tính cách mạng,
các Đại hội tiếp theo đã không phát huy được bước tiến quan trọng này. Phẩm chất
và sức chiến đấu của Đảng hiện nay đang tụt xa so với Đại hội VI, ít nhất là không
dám nhìn thẳng vào sự thật, không dám từ bỏ những tư duy lỗi thời và các thói
xấu... Nói một cách khác, giữa một bên là phẩm chất, bản lĩnh và năng lực của
Đảng, và một bên là những đòi hỏi phát triển ngày càng cao của đất nước, khoảng
cách bất cập này đang ngày càng rộng ra. Chiều hướng của Đảng từ Đại hội VI đến
nay là những yếu kém của Đảng kéo theo sự suy yếu toàn bộ hệ thống chính trị đất
nước.
21
Đảng nói chung từ người yêu nước, lãnh đạo thành công dân tộc giải phóng
đất nước, giành lại độc lập thống nhất, ngày nay đang tha hóa thành người nắm
quyền. Khái niệm “đảng cầm quyền” bị tha hóa làm cho hiểu rất sai lệch, và trên
thực tế Đảng dần dần trở thành ông chủ cai trị đất nước. Sự nắm quyền này đã phát
triển thành một hệ thống chằng chịt trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, xuyên xuốt
từ cơ sở thấp nhất lên đến thượng tầng cao nhất trong toàn bộ hệ thống kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hóa của quốc gia. Đó chính là hiện tượng “đảng hóa” toàn
diện. Bao nhiêu lý lẽ, chủ thuyết, chủ nghĩa Đảng đề ra cuối cùng vẫn không đủ
sức chiến thắng được cái quán tính lịch sử muôn đời của các triều đại trước đây:
Cái quán tính người chiến thắng trở thành kẻ cai trị! Cái quán tính ngày xưa dân
gian gọi là: Được làm vua…17
Hiện nay đã vậy, từ Đại hội XI trở đi sẽ ngày càng ít đảng viên giữ cương vị
lãnh đạo có quá khứ tham gia cách mạng. Đội ngũ lãnh đạo của Đảng từ nay trở đi
chủ yếu là do cơ cấu quyền lực và chính sách cán bộ của Đảng tạo thành – thực
chất đấy là một dạng biến tướng nào đó của hình thái cha truyền con nối. Bởi vì
Đảng đang ngày đêm tạo ra, vun đắp, gìn giữ cho mình hệ thống chính trị và môi
trường tồn tại như thế - để duy trì quyền lực, duy trì vai trò lãnh đạo và vai trò nắm
quyền của mình. Vì thế, tính ủy thác của nhân dân với tính cách là yếu tố làm nên
vai trò lãnh đạo của Đảng trở thành vấn đề, trên thực tế hiện nay dần dần không
còn.
Thực tế trình bầy trên đòi hỏi Đảng càng phải phấn đấu nghiêm khắc hơn
nữa với chính mình để vươn lên giữ lấy bằng được cho mình khả năng và vai trò
lãnh đạo đất nước, chứ không phải là để củng cố sức mạnh nắm chặt hơn nữa trong
tay quyền lực đất nước. Tiếc rằng toàn bộ sức mạnh của hệ thống chính trị và
quyền lực chuyên chính hiện nay của Đảng lại được ưu tiên huy động cho việc
phục vụ mục đích sau, và đây là nguyên nhân trực tiếp nhất dẫn tới thỏa hiệp và
nuôi dưỡng tha hóa trong Đảng, tiếp tục hủy hoại tính tiền phong chiến đấu của
Đảng.
Hơn thế nữa, là lực lượng chính trị duy nhất nắm trọn vẹn quyền lực đất
nước, Đảng trở thành một thứ nhà nước siêu quyền lực, trong khi đó nhà nước của
dân, do dân vì dân trên thực tế chỉ còn lại là một công cụ của Đảng.
Trở lại câu hỏi có chữ “nếu” rất đáng đề ra cho một cuộc thăm dò ý kiến
nhân dân như đã nêu trên, xin lưu ý: Nhân dân ta thế hệ này đến thế hệ khác hy
17 Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, Dòng đời (tiểu thuyết), sách đã dẫn, quyển một, tập I, tr. 8 và các tr.
330 -332; quyển một tập II tr. 785 - 799...
22
sinh chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng là để xóa bỏ áp bức thống trị của nước
ngoài, để tự giải phóng chính mình và giành quyền làm chủ đất nước, chứ không
phải là để thiết lập nên một hệ thống của người trong nước cai trị lại chính mình.
Sự tha hóa đang diễn ra trong Đảng đang từng ngày từng giờ đẩy lùi Đảng từ vị trí
đảng lãnh đạo xuống vị trí đảng cai trị như thế. Có biết bao nhiêu quyết sách sai
lầm với nhiều hậu quả nghiêm trọng cho đất nước18 phản ánh sự diễn biến nguy
hiểm này.
Ngay cả lúc này lúc khác xử một số vụ án chính trị với tội danh chống đối
hay lật đổ chế độ, tình hình của đất nước cho thấy không một lực lượng chính trị
nào dù là ở trong nước hay ở nước ngoài có thể đủ sức lật đổ quyền lực của Đảng.
Song diễn tiến của tha hóa và bất cập đang làm suy yếu Đảng nhanh nhất và toàn
diện nhất, là nguy cơ lớn nhất trực tiếp đe dọa sự tồn tại của Đảng. Không phải
ngẫu nhiên đã có nhận xét: Chỉ có sự tự sụp đổ do tha hóa mới có thể lật đổ Đảng
mà thôi! Đảng, trước hết là những người lãnh đạo, cần nhận rõ thực trạng này và
nhất thiết đừng để cho một ngày nào đó những mâu thuẫn này diễn biến hòa bình
Đảng thành đối kháng dân tộc.
Cần nói rõ thêm: Bộ máy quan liêu của Đảng đang ra sức bảo vệ quyền lực
của Đảng, song trên thực tế không hiếm trường hợp đang cổ vũ, hậu thuẫn cho việc
diễn biến hòa bình Đảng – nhân danh bảo vệ Đảng và chế độ! Làm trầm trọng
thêm tình trạng mất dân chủ trong Đảng, bưng bít thông tin, ngăn cản hoặc làm tê
liệt ý chí đấu tranh trong Đảng chống lại những yếu kém, dung dưỡng các nhóm
lợi ích – đấy là 4 biểu hiện rõ nét nhất của hoạt động diễn biến hòa bình Đảng.
Ngày nay bộ máy quan liêu của Đảng đang ngày càng vô cảm hoặc quay
lưng lại với sự thật, thậm chí nói dối hay hù dọa Đảng. Tệ hại nhất là tình hình này
diễn ra giữa lúc lúc đất nước rất cần chuyển sang một giai đoạn phát triển mới và
Đảng có trong tay mọi điều kiện tốt nhất để chủ xướng cuộc cải cách chính trị đã
trở nên vô cùng cấp thiết. Cách đây 25 năm khi phải tiến hành đổi mới, Đảng thậm
chí lúc đó không có nhiều thuận lợi như ngày nay để tiến hành cuộc cải cách này.
Bộ máy quan liêu hiện nay một mặt lấn át những ý kiến xây dựng trong và
ngoài Đảng, mặt khác lớn tiếng kiên định bảo vệ độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa
18 Tham khảo thêm: China and Vietnam have finally agreed on the land border between the two countries
- http://asmmag.com/news/china-vietnamese-land-border-issue-settled
23
xã hội, đòi phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng việc làm thì không
thuyết phục hoặc không có nội dung như thế. Lòng tin của người dân giảm sút
trước hết và chủ yếu là do thực trạng này.
Thoạt kỳ thủy, quan liêu chỉ là một yếu kém, một thứ bệnh không một hệ
thống chính trị nào có thể miễn nhiễm nếu không có thể chế kiểm soát hữu hiệu
căn bệnh này. Sự yếu kém của Đảng dần dà biến thứ bệnh này (tự giác) hoặc để
cho thứ bệnh này (không tự giác) phát triển thành cơ chế. Hiện nay cơ chế quan
liêu đã trở thành bộ máy, thành công cụ đắc lực cho quyền lực của Đảng. Càng yếu
kém, Đảng càng bị chính bộ máy quan liêu của mình diễn biến. Vì sự tồn tại của
chính nó, bộ máy quan liêu này đang lăm le biến quyền lực của Đảng thành của
riêng chính nó. Diễn biến này đang được tình trạng mất dân chủ trong Đảng – và
chị em sinh đôi của nó là thói bao che & su nịnh - dung dưỡng.
Cùng với thời gian, bộ máy quan liêu này và bộ ba dinh lũy quyền lực
Đảng thâm nhập vào nhau – trước hết và chủ yếu thông qua chính sách tổ chức cán
bộ, nhất là chính sách cơ cấu - tạo ra một thứ quyền lực nhân danh Đảng. Trong
trường hợp nhất định, đấy là quyền lực cao nhất trong Đảng trên thực tế (de
facto) – nghĩa là quyền lực không thành văn, không ghi trong Điều lệ Đảng và vì
thế không có tính pháp lý19, ví dụ quy định: không là ủy viên trung ương Đảng
không thể là Bộ trưởng, tổng giám đốc tập đoàn cần phải bố trí vào BCHTƯ
Đảng… Với cách bố trí người và xắp xếp tổ chức như thế, với phương thức hoạt
động hiện nay, trên thực tế trong toàn bộ hệ thống đảng, nhà nước, kinh tế, xã
hội… đã và đang hình thành một nếp vận động mang tính hệ thống, tạo thành một
kiểu bộ máy, vận hành theo cơ chế “đảng hóa”, hoặc bị “đảng hóa” chi phối. Thứ
quyền lực nhân danh Đảng như thế không hiếm trường hợp đứng trên Hiến pháp,
luật pháp của Nhà nước và Điều lệ Đảng. Đấy là thứ quyền lực vô hình, thường
nằm ẩn bên trong các hình thái mang tải nó với các tên gọi khác nhau như “lãnh
đạo”, “chỉ đạo”, “quán triệt”, “học tập”, “tinh thần chỉ thị…”, “tập trung dân
chủ”.., mà thực chẩt là kết quả sự vận động qua lại giữa các “mối quan hệ”. Thứ
quyền lực nhân danh Đảng như thế và sự ràng buộc của nó không hiếm trường
hợp vô hiệu hóa trực tiếp người được Đảng giao trách nhiệm – (ví dụ: Lúc sinh
thời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có lúc phải kêu lên: Tôi không làm sao cách
chức nổi lấy một chủ tịch xã!..) Không ít quyết định quan trọng đối với vận mệnh
của đất nước và của Đảng hình thành qua sự vận động của những “mối quan hệ”
như thế – nghĩa là chịu tác động của thứ quyền lực nhân danh Đảng.
19 Điều này thể hiện rõ nhất là các Đại hội Đảng toàn quốc hay các cấp được Điều lệ Đảng quy định là cơ
quan cao nhất của toàn Đảng hoặc các đảng bộ, song trên thực tế chủ yếu trở thành thể thức hợp thức
các nghị quyết, quyết định, vân…vân...
24
Do bản chất và lợi ích sống còn của nó, thứ quyền lực nhân danh Đảng
như thế luôn luôn có xu hướng muốn biến Đảng thành công cụ cho nó. Không phải
ngẫu nhiên từ lâu nhiều ý kiến tâm huyết cảnh báo: Đảng đang trở thành đối tượng
của tham nhũng!20 Thứ quyền lực nhân danh Đảng như thế đang tồn tại song
song với hoặc lồng vào bên trong quyền lực chính thống của Đảng (được Điều lệ
Đảng quy định – ví dụ: Quyền của các Đại hội toàn quốc và các cấp, quyền của
Ban Chấp hành trung ương Đảng, quyền và trách nhiệm của các tổ chức Đảng và
các tổ chức cơ sở Đảng, quyền và nghĩa vụ của các đảng viên…). Song vấn đề
nóng bỏng đối với vận mệnh của Đảng – cũng nóng bỏng như thế đối với đất nước
– là thứ quyền lực nhân danh Đảng như thế đang lấn lướt quyền lực chính thống
của Đảng. Chính diễn biến này, chứ không phải hành động chống đối hay lật đổ
nào từ bên ngoài Đảng, mới là mối nguy lớn nhất đối với sự tồn tại của Đảng và kỷ
cương quốc gia.
Mặt khác, sự đầu hàng, tránh né hay thái độ bàng quan của không ít đảng
viên trong Đảng trước thực tế nêu trên đang gián tiếp hay trực tiếp hậu thuẫn cho
sự diễn biến hòa bình Đảng như vậy. Không phải ngẫu nhiên người đời đã nói: Sự
im lặng của lương tri nuôi dưỡng bạo hành của quyền lực!
Đảng với tư cách là đảng cách mạng phải tuyên chiến với diễn biến hòa bình
này và mọi hành động phụ họa nó – đây là một trong các nhiệm vụ cụ thể của đổi
mới Đảng21.
III. Trách nhiệm lịch sử
Không lâu sau chiến thắng 30 Tháng Tư, đã có trí thức kiến nghị: Sau khi
hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, sự nghiệp
vinh quang nhất của Đảng là xây dựng nên cho đất nước một thể chế dân chủ làm
20 Cộng Hòa Dân Chủ Đức hàng chục năm trước khi sụp đổ có sự đấu tranh gay gắt trong nội bộ Đảng
Xã Hội Thống Nhất Đức chống lại những hoạt động vi phạm Hiến Pháp và Điều lệ Đảng của những cán
bộ có chức có quyền; những hành động hay việc làm vi hiến và sai Điều lệ Đảng thời ấy thường được
gọi là các “quan hệ” (“Beziehungen”), cuộc đấu tranh này được gọi là cuộc đấu tranh chống các “quan
hệ”. Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, Dòng đời, sách đã dẫn, quyển hai, tập 4, tr. 716.
21 Tham khảo: Nguyễn Trung, Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21 – phần nói về
diễn biến hòa bình.
25
giường cột cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước lâu dài, phát huy sức mạnh
của toàn thể dân tộc cho sự nghiệp này. Từ đó đến nay, nhất là từ khi đất nước lâm
vào khủng hoảng và phải tiến hành đổi mới, rồi đến sự sụp đổ của các nước Liên
xô Đông Âu, ngày càng có nhiều ý kiến của những người có tâm huyết với đất
nước, - trong Đảng và ngoài Đảng, kể cả những ý kiến của một số đảng viên lão
thành - yêu cầu Đảng rút ra những bài học của thực tế này cũng như khai thác các
giá trị của văn minh nhân loại, để xây dựng nên một thể chế dân chủ của Việt Nam,
sớm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, thực hiện được nước mạnh dân
giầu, xã hội dân chủ công bằng văn minh.
Trong những đề nghị giầu tâm huyết và trí tuệ được nói tới trong bài này hầu
như chưa có ý kiến nào đặt vấn đề phải làm ngay đa nguyên đa đảng, cũng không
ai đòi phế bỏ vai trò lãnh đạo Đảng đang nắm giữ, song đặt ra vấn đề Đảng phải
vươn lên có năng lực và phẩm chất thực hiện đúng sứ mệnh lãnh đạo, chứ không
phải nắm quyền. Đảng phải thực hiện các quyền tự do dân chủ của toàn thể nhân
dân, xóa bỏ những định kiến giai cấp, những định kiến các thành phần kinh tế…
Những đề nghị này đặt sang một bên mọi thứ “chủ nghĩa”, “học thuyết”, “mô
hình” hay ý thức hệ, để lấy việc thực hiện quyền của công dân, việc thực hiện lý
tưởng độc lập tự do hạnh phúc, việc thực hiện lợi ích quốc gia và sự nghiệp phát
triển đất nước làm trung tâm. Trong một thể chế dân chủ như vậy, vai trò lãnh đạo
của Đảng hoặc các cá nhân đảng viên tùy thuộc vào kết quả phấn đấu của Đảng và
những đảng viên của mình trở thành lực lượng tinh hoa của dân tộc, trở thành đảng
của dân tộc. Nói nôm na, càng tinh hoa, càng xứng đáng giữ vai trò lãnh đạo.
Những ý kiến vừa nêu trên đặt vấn đề Đảng phải chủ xướng, phải huy động
trí tuệ cả nước thiết kế và xây dựng nên một thể chế dân chủ thực sự và của dân
thực sự như thế, trong đó quyền lực của dân và lợi ích quốc gia là tối thượng, Đảng
phải là người gương mẫu đi đầu trong việc xây dựng một thể chế như thế. Đặt vấn
đề như thế chính là thừa nhận và giao cho Đảng vai trò lãnh đạo trong sự nghiệp
xây dựng nên một thể chế như thế - nhiệm vụ hàng đầu và cũng có thể nói là nhiệm
vụ duy nhất của Đảng trong thời bình xây dựng và bảo vệ đất nước – đúng với tinh
thần cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, xây dựng và bảo vệ đất nước là
sự nghiệp của toàn thể dân tộc. Đặt vấn đề như thế cũng có nghĩa mọi quyền lực
đều là của dân, đại diện là nhà nước do nhân dân xây dựng nên và của toàn dân.
Quyền lực nhà nước như thế là tối thượng, không một cá nhân hay đảng phái chính
trị nào có thể đứng ngoài hoặc đứng trên hiến pháp, luật pháp. Lãnh đạo là như
vậy.
Cần phải nói thêm: Trong điều kiện Đảng giữ độc quyền chân lý và trong
khung khổ hệ thống chuyên chính vô sản, những ý kiến tâm huyết như vừa nêu trên
26
đã không được lắng nghe, mà còn bị quy chụp, bị xử lý, không hiếm trường hợp bị
xử lý nặng nề. Đến nay tình hình này vẫn không thay đổi.
Những tha hóa và bất cập nêu trên đang gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng,
trực tiếp cản trở sự phát triển của đất nước, đặt đất nước trước ngã ba đường nguy
hiểm. Không ít người đã lên tiếng yêu cầu Đảng với tính cách là đảng duy nhất
cầm quyền phải đảy mạnh cải cách chính trị, coi đây là chìa khóa của mọi giải
pháp và là tiền đề quyết định chuyển đất nước đi vào một giai đoạn phát triển mới,
để dứt khoát không bị đẩy sang ngả đường đi vào lệ thuộc và lạc hậu. Tựu trung
lại, những ý kiến này đòi hỏi phải đẩy mạnh cải cách với nội dung xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự cho Việt
Nam, trên cơ sở phát huy trí tuệ và nghị lực Việt Nam, tận dụng lợi thế nước đi
sau, và khai thác những thành quả của văn minh nhân loại. Những khái niệm kinh
tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự nói lên thì đơn giản, nhưng
thiết kế và thực hiện nó là cả triệu triệu công việc, là cả một quá trình phấn đấu và
xây dựng lâu dài và vô cùng gian khổ, là trường học rèn luyện và là môi trường
phát triển cho từng người và cho mọi người. Chung cuộc đó là con đường từng
bước tạo ra sự phát triển bền vững, năng động, và sẽ đưa nước ta trở thành nước
phát triển.
Xin đừng quên con đường xây dựng một thế chế dân chủ ở nước ta cho đến
nay về nhiều mặt mới chỉ là một ý tưởng, một nguyện vọng, cho dù là nóng bỏng
đến đâu đi nữa cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ một đòi hỏi, chưa thể nói chúng ta
đã có đầy đủ những hiểu biết xác đáng về thực trạng của đất nước và đặt trúng
được những vấn đề phải cải cách để làm căn cứ cho việc thiết kế, thực thi thể chế
dân chủ đáng mong muốn ấy. Vốn liếng để xây một tòa nhà dân chủ cho đất nước
thực ra mới chỉ là một số ý tưởng tiếp thu lại từ đâu đó, còn thiếu hẳn những ý
tưởng có căn cứ vững chãi cho phép xác định thiết kế tòa nhà đó như thế nào là
phù hợp nhất và khả thi cho nước ta. Chắc chắn tòa nhà này không thể là thể chế
định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều điều chưa được làm rõ như nước ta đang
xây. Nghĩa là con đường xây dựng thể chế dân chủ ở nước ta chưa được nghiên
cứu thỏa đáng – để lựa chọn và quyết định, nhất là chưa có thiết kế. Thậm chí có
thể nói cho đến ngày hôm nay con đường xây dựng thể chế dân chủ ở nước ta mới
chỉ dừng lại ở các ý tưởng mang tính khai sáng được Phan Chu Trinh nêu lên và
được phác thảo lần đầu tiên trong Hiến pháp 1946 – song Hiến pháp này chưa có
điều kiện thực hiện và sau này đã bị thay thế bằng các Hiến pháp khác.
Trong khi đó quan điểm chính thống hiện nay của Đảng vẫn cho rằng thứ
dân chủ được nói tới ở đây là dân chủ tư sản, là phi giai cấp, coi thể chế chính trị
27
hiện nay của nước ta còn vạn lần dân chủ hơn!.. Xin dành cho mọi người đọc đánh
giá.
Chắc chắn con đường xây dựng một thiết chế dân chủ ở nước ta đòi hòi phải
phát huy truyền thống dân tộc và nhiều giá trị văn hóa của đất nước, đồng thời phải
khắc phục rất nhiều trở ngại do hoàn cảnh lịch sử rất đặc thù và khắc nghiệt của
nước ta, nhất là hoàn cảnh lịch sử cận đại. Nói một cách khái quát, con đường xây
dựng một thể chế dân chủ ở nước ta là con đường chuyển đất nước từ một thể chế
kinh tế, chính trị, văn hóa còn mang nặng nhiều di sản của một nền kinh tế manh
mún, chậm phát triển, có nhiều tàn dư phong kiến lạc hậu, dân trí thấp, sang một
thể chế hiện đại mà văn minh nhân loại hôm nay đã thiết kế được. Trong những tàn
dư và hệ quả phải khắc phục còn phải kể mặt trái của tình hình đất nước hiện tại,
đó là ảnh hưởng của tư duy ý thức hệ, những hệ quả kinh tế - chính trị - xã hội –
văn hóa của hệ thống chính trị hiện nay, những hiện tượng “đảng trị”, những tác
động của khoảng cách giầu nghèo quá lớn, những tác hại khác của nhiều điều
không đúng khác do tình trạng tha hóa của thể chế chính trị hiện nay tạo ra...
Chắc chắn con đường đáng mong muốn nhất để xây dựng một thể chế dân
chủ như thế phải có sự phát triển kinh tế bền vững, năng động là nền tảng và động
lực – nghĩa là phải trên cơ sở phát huy những thành quả đạt được trong đổi mới,
trong hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa, phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách kinh tế hiện
nay.
Đúng là tình hình bức xúc hiện nay đòi hỏi phải đẩy mạnh cải cách chính trị
đã quá tụt hậu so với tình hình phát triển của kinh tế, song tuyệt đối không được
lấy kinh tế hay lấy đất nước ra làm thí nghiệm cho cải cách chính trị - như đã từng
xảy ra trong suốt thời kỳ nền kinh tế chỉ huy và bao cấp (thời kỳ này lấy kinh tế và
đất nước chứng minh cho chủ nghĩa xã hội!). Nghĩa là trước sau vẫn phải kiên
định phương châm phát triển kinh tế là nền tảng trong đẩy mạnh xây dựng thể
chế dân chủ, mặc dù đây là lúc phải đẩy mạnh cải cách chính trị hiện đang quá
tụt hậu. Nói dân dã: Có no và có học mới có hy vọng cải cách được.
Xin đặc biệt lưu ý một thể chế dân chủ đáng mong muốn cho đất nước đòi
hỏi phải có sự thống nhất dân tộc cao độ, để lụôn luôn có được sự đồng thuận dân
tộc tối ưu cho mọi quyết định và bước đi vô cùng khó khăn trong việc xây dựng thể
chế này. Nếu hiểu rõ lịch sử và tình hình đất nước, hiểu rõ những mặt còn yếu kém
của dân tộc ta, đòi hỏi này là rất cao – nhất là lâu nay cái tai chúng ta chỉ quen đến
mức nghiện những tiếng nói một chiều về truyền thống tuyệt vời của dân tộc Việt
Nam ta, về những điều cũng tuyệt vời như thế của con người Việt Nam!.. Thực ra
về phương diện phát triển đất nước thời hiện đại, tri thức và ý thức dân tộc của
28
chúng ta còn rất nhiều vấn đề - thậm chí đã có ý kiến than vãn: Hình như ý thức
dân tộc Việt nam ta chỉ trỗi dậy khi mất nước!.. Làm được một việc nhỏ con con đã
coi trời bằng vung!.. Trong khi đó chúng ta chưa ý thức đầy đủ tình trạng đất nước
hiện nay đang có nguy cơ biến thành đất nước cho thuê, người dân chúng ta đang
biến thành kẻ làm thuê; thậm chí nhiều điều trong tư duy kinh tế, chính trị, văn
hóa… chưa thấy hết được thực trạng đáng lo ngại của đất nước trước những thách
thức mới… Đòi hỏi về thống nhất dân tộc với tri thức và ý thức rất cao như vậy
còn nhằm tránh hoặc giảm xuống mức thấp nhất mọi đổ vỡ, thậm chí đổ máu.
Như vậy, dân chủ là cơ sở thực hiện sự thống nhất có trí tuệ này, đồng thời
chính sự thống nhất này thúc đẩy sự nghiệp xây dựng thể chế dân chủ phát
triển.
Đứng trước những khó khăn lớn về đối ngoại, lại càng phải lấy sự thống
nhất dân tộc làm sức mạnh, làm hậu thuẫn cho thế và lực để bảo vệ đất nước, dứt
khoát không được bỏ sang một bên sức mạnh này của đất nước trong bất kỳ bước
đi đối ngoại nào.
Xây dựng thể chế dân chủ cho đất nước như thế dứt khoát đòi hỏi một quốc
gia mạnh về đối nội để có thể vững vàng trước mọi can thiệp bất kể mầu sắc chính
trị gì từ bên ngoài – mạnh với nghĩa trong có ấm mới có thể giữ được ngoài êm!
Nếu nhìn vào bản đồ thế giới, nhất là bản đồ khu vực nước ta, nhìn vào mối nguy
của các loại quyền lực mềm từ bên ngoài tác động vào, yếu tố đối nội này rất quan
trọng. Ai không muốn một Việt Nam giầu mạnh và độc lập tự chủ, đều không
muốn Việt Nam lựa chọn con đường dân chủ dựa trên sức mạnh thống nhất dân tộc
như thế.
Mặt khác, nếu Việt Nam thành công trên con đường phát triển dân chủ và
trở nên giầu mạnh, sẽ có sự hoan nghênh, hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ, sẽ là
một nhân tố mới trong xu thế tiến bộ của thế giới. Thử hình dung, một nước đang
phát triển là Việt Nam tìm được con đường xây dựng thành công thể chế dân tộc và
dân chủ như vậy để phát triển, các nước đang phát triển trên thế giới sẽ hân hoan
chào đón và cổ vũ như thế nào. Ngược lại 180 độ là thế lực không muốn Việt Nam
độc lập tự chủ và giầu mạnh sẽ tìm mọi cách ngăn cản Việt Nam tiến lên trên con
đường dân chủ như thế - vì muốn kìm hãm nước ta, song cũng vì dân chủ là chỗ
yếu, nỗi sợ, mối nguy... và là kẻ thù của họ.
Vừa qua, dân chủ - dù còn ở mức độ thấp và chủ yếu mới trong lĩnh vực
kinh tế - là động lực quyết định làm nên những thành tựu của 25 năm đổi mới. Với
tính cách là động lực tạo ra những thành tựu mọi mặt đất nước đạt được, thành quả
dân chủ tuy còn khiêm tốn ấy cũng là thành quả lớn nhất của toàn bộ quá trình đổi
29
mới 25 năm qua. Sắp tới, dân chủ sẽ còn là động lực quyết định đưa nước ta tiến
lên giai đoạn phát triển mới. Dân chủ là điều kiện cơ bản tạo ra thống nhất và đoàn
kết dân tộc, phát huy được trí tuệ, vì thế dân chủ còn là nguồn gốc sức mạnh bảo
vệ tổ quốc, nhất là trong một thế giới ngày nay đang thay đổi sâu sắc.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay được thừa nhận là cuộc khủng
hoảng mang tính quá độ, chuyển đổi toàn bộ hệ thống kinh tế tư bản trên thế giới
sang một thời kỳ khác chưa xác định rõ được (the transitional crisis, the
transformational crisis... – Davos Forum 1-2009)22. Trong tình hình ấy lại xuất hiện
một Trung Quốc đã trở thành cường quốc mạnh nhất trong khu vực về mọi phương
diện kinh tế, chính trị và quân sự. Vào khoảng năm 2027 Trung Quốc sẽ có nền
kinh tế lớn bằng Mỹ, có thể vuợt Mỹ và thành siêu cường trong một hai thập kỷ
sau đó. Trên thế giới ngày nay đang có nhiều lo ngại về chủ đề “When China rules
the World!” (“Một khi Trung Quốc làm chủ thế giới!”). Có những ý kiến dự báo có
thể tái hiện trở lại một hình thái nào đó của thể chế triều cống đối với ngoại bang
như đã từng có trong lịch sử Trung Quốc; một siêu cường Trung Quốc xuất khẩu
người và quyền lực mềm, với những giá trị của đạo Khổng, sẽ khó thân thiện với
dân chủ; chủ nghĩa quốc gia Trung Quốc – cũng có lúc được gọi thẳng là chủ
nghĩa đại Hán - dưới triều đại của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đang lấy lại vị thế
của nó trước đây trong lịch sử, chủ nghĩa tư bản Trung Quốc đang lên với ưu thế
lớn của nó về nguồn nhân lực và vốn sẽ chi phối quan trọng thế giới thế kỷ 21, v…
v…23...
Trong một thế giới đầy thách thức mới như vậy, Việt nam lại càng cần có
một thể chế dân chủ phát huy tối đa mọi tiềm năng xây dựng và bảo vệ tổ quốc, hội
nhập thắng lợi vào thế giới đương đại, nhất là để có thể trở thành láng giềng tốt,
đối tác tốt và được tôn trọng của Trung Quốc. Một Việt Nam èo uột, không có dân
chủ, sẽ không phát triển, không có trong ấm ngoài êm, dù có quỳ xuống cũng sẽ
chẳng đối tác được với bất kỳ ai.
Hiển nhiên con đường đi tới một thể chế dân chủ đáng mong muốn như thế
ở nước ta sẽ vô cùng gian truân, phải chia ra làm nhiều chặng trong một lộ trình
22 Tìm xem các phát biểu của Klaus Schwab và của nhiều chính khách khác tại Diễn đàn kinh tế Davos,
Thụy Sỹ, 28-1 đến 1-2-2009.
23 Tìm xem: Martin Jaques “When China Rules the World: The End of the Western World and the Birth
of a New Global Order” 12-2009 - “Khi Trung Quốc làm chủ thế giới: Sự cáo chung của thế giới
phương Tây và sự ra đời của một trật tự thế giới mới” – 12-2009, và: Pete Engardio: “Chindia: How
China and India Are Revolutionizing Global Business”, USA – 2007, và một số tác giả khác chung
quanh đề tài này.
30
được cân nhắc thấu đáo, và phải tranh thủ được sự đồng thuận tối đa của toàn thể
nhân dân. Chắc chắn đấy sẽ phải là con đường tự học hỏi và tự dậy lại chính mình
và dậy lẫn nhau của từng người dân và của toàn dân – vừa là để khắc phục những
thành kiến và di sản văn hóa cũ cũng như những yếu kém do tình trạng tha hóa
hiện nay, vừa là xây dựng và nâng cao nhận thức mới về quyền, về trách nhiệm, về
khả năng và kỹ năng của từng công dân xây dựng cuộc sống hạnh phúc của chính
mình cũng như thực hiện nghĩa vụ đối với cộng đồng, đối với quốc gia.
Xây dựng thể chế dân chủ cho đất nước cần đặc biệt cải cách hẳn hệ thống
giáo dục hiện nay của đất nước và nâng cao dân trí - đây là việc đầu tiên phải làm
trong các việc đầu tiên phải làm.
Xây dựng một thể chế dân chủ của học hỏi, của phát triển như thế chưa có
dự án, chưa có lộ trình và cũng chưa ai nói được quá trình này sẽ kéo dài bao lâu
– một thế hệ? Vài thế hệ? Nhưng sự nghiệp nào cũng phải có sự bắt đầu, càng
không được để muộn.
Đảng cầm quyền phải là người đi học, học lại tất cả, là người phải học
trước tiên.
Bất chấp mọi tha hóa, trong Đảng vẫn còn đội ngũ đông đảo các đảng viên ở
tất cả các cấp có hiểu biết tường tận và trung thành với sự nghiệp của đất nước. Trí
tuệ và tâm huyết trong Đảng và trong nhân dân nếu được khơi dậy hoàn toàn cho
phép xây dựng thành công một thể chế mọi quyền lực là của dân như thế - đúng
với tên gọi là nhà nước của dân, do dân, vì dân, phát huy khả năng và quyền năng
của từng công dân. Chỉ riêng những kinh nghiệm được rút ra từ thành và bại của
đất nước trong 35 năm qua, chỉ riêng trí tuệ của đất nước đã tích lũy được hoàn
toàn cho phép xây dựng nên một thể chế dân chủ như thế, chưa kể đến kinh
nghiệm phong phú của văn minh nhân loại. Vấn đề còn lại là ý chí và sự lựa chọn
của Đảng lãnh đạo.
Sự phát triển năng động hiện nay của đất nước đang bị sự tụt hậu của cải
cách chính trị kìm hãm. Khả năng phát triển năng đông hiện nay của đất nước vừa
cho phép, vừa đòi hỏi xây dựng thành công một thể chế chính trị như thế, bắt đầu
từ nhiệm vụ đổi mới Đảng: Tổ chức học lại, nhìn nhận lại tất cả, với tinh thần cởi
mở và phê phán như thời Đại hội VI. Hơn bao giờ hết người đảng viên cần tự giải
phóng mình khỏi mọi ràng buộc giáo lý hoặc ý thức hệ, nâng cao trí tuệ, tiếp thu
những thành quả ngày nay của văn minh nhân loại, vắt óc tìm đường đưa đất nước
đi lên với tất cả nhiệt tình yêu nước và tính tiền phong chiến đấu của người đảng
31
viên. Người cộng sản xin đừng quên một điều đã từng làm nên chính mình khi
bước chân vào con đường cách mạng: Có cả gan giải phóng được chính mình,
mới kỳ vọng giải phóng được giai cấp, giải phóng được dân tộc! Khi được bồi
dưỡng để kết nạp vào Đảng thời trai trẻ tôi đã được học, đã tin và đã cố phấn đấu
như thế!
Từ nhận thức mới về thực trạng hiện nay của Đảng và của đất nước, về tình
hình và nhiệm vụ, cần phát huy dân chủ trong Đảng, để thống nhất ý chí: Đưa đất
nước chuyển lên một giai đoạn phát triển mới trong một thế giới đang thay đổi,
lấy xây dựng một thể chế dân chủ làm giường cột và động lực cho giai đoạn
phát triển mới này. Xin coi đây là mục tiêu phấn đấu thiêng liêng nhất và duy nhất
của Đảng. Đừng đẩy Tổ quốc xuống hạng hai!
Tình hình đòi hỏi phải phát huy trí truệ toàn Đảng và lắng nghe trí tuệ của cả
nước đề ra được một chương trình hành động đúng và các bước đi phù hợp, tạo ra
sự thống nhất cao nhất (không thể trông đợi có sự thống nhất hoàn toàn) trong toàn
Đảng và cả nước cho việc thực hiện chương trình này.
- Trước mắt cần đẩy mạnh thực hiện công khai minh bạch để làm rõ các
thuận lợi và khó khăn, thực hiện tốt luật pháp và những chính sách đúng
đắn đã xây dựng được24, phát huy những tiến bộ mọi mặt đã đạt được,
nhằm sớm đưa kinh tế ra khỏi khủng hoảng hiện nay, đẩy lùi quan liêu
tham nhũng.
- Trên cơ sở đẩy mạnh dân chủ hóa và công khai minh bạch, cần tập trung
sức từng bước khắc phục tình trạng “đảng hóa” và lấy đó làm nền tảng
tiếp tục cải cách hệ thống chính trị, trước mắt nhằm đẩy mạnh việc thực
thi pháp luật, nâng cao quyền lực và năng lực của bộ máy nhà nước.
- Báo chí không có “lề phải”, không có “lề trái”, mà chỉ tuân thủ lẽ phải,
cổ vũ cho xây dựng thể chế dân chủ, nâng cao sức chiến đấu của cả nước
cho một Việt Nam cường thịnh.
- Sự lãnh đạo của Đảng cần bảo đảm thực hiện bằng được những bước đi
đầu tiên nói trên, nhằm tạo ra tình hình thuận lợi, sao cho trong vòng vài
năm tới huy động trí tuệ và sự đồng thuận cả nước xây dựng xong được
một chiến lược cải cách hệ thống chính trị của đất nước và chiến lược
24 Xin đặc biệt lưu ý: Mặc dù những đạo luật hay chính sách tốt nhất đất nước đang có trong tay có
không ít khuyết tật hay thiếu đồng nhất, song phải nhấn mạnh những đạo luật và chính sách đúng đắn
hiện có là cơ sở ban đầu rất quan trọng cho phát triển tiếp trong việc xây dựng một thể chế dân chủ. Cần
kế thừa và phát triển tiếp thành quả này. Cái yếu nhất hiện nay và cũng khó khắc phục nhất là thực thi
pháp luật và ý thức thượng tôn pháp luật.
32
đưa đất nước vào giai đoạn phát triển mới. Đảng viên phải gương mẫu và
là người đi đầu thực hiện các bước đi này.
Nói một cách khác, một chiến lược như thế phải là thành quả lao động trí tuệ
của toàn Đảng và toàn dân, đạt được sự đồng thuận cao nhất của toàn Đảng và toàn
dân, để sẽ được thực hiện với quyết tâm cao nhất của toàn Đảng và toàn dân.
Một chiến lược như thế nhằm khắc phục mọi yếu kém hiện tại của đất nước,
kế thừa những thành quả cách mạng đến nay đã giành được và phát huy tiếp, tạo
ra những tiến bộ mới đưa đất nước phát triển tiếp.
Một chiến lược như thế nhất thiết không phải là, và dứt khoát không được
phép là “một cuộc cách mạng xóa đi tất cả để làm lại từ đầu!”
Tối ưu nhất có lẽ là cố sao trong vòng một vài năm tới huy động trí tuệ cả
nước xây dựng xong một chiến lược như thế và tạo được đồng thuận dân tộc và
những thuận lợi ban đầu cho việc thực hiện nó, để từ đó đất nước sẽ tiến từng bước
vững chắc trong sự nghiệp đầy gian truân này. Con đường trường chinh đi tới một
thể chế dân chủ như thế không có bản đồ hay hệ thống GSP nào chỉ đường ngoài
trí tuệ và ý chí. Một chiến lược phát triển đất nước như thế không thể là công việc
của bất kỳ ai riêng lẻ, của một vài ý kiến kiệt xuất, càng không phải là cuộc phiêu
lưu của một người hay một nhóm người nào. Đơn giản vì xây dựng một thể chế
dân chủ như vậy chỉ có thể là kết quả của nhiều thành tựu các mặt kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội của cả nước tổng hợp lại trong một quá trình phát triển lâu dài
và phát triển tiếp.
Xây dựng một thể chế dân chủ như thế và nhiệm vụ chuyển đất nước tiến lên
một giai đoạn phát triển mới đòi hỏi bền gan, vững chí với tầm nhìn dài hạn hướng
về một Việt Nam hiện đại trên cơ sở xây dựng một dân tộc trí tuệ, với mọi nỗ lực
cao nhất trong từng bước đi cụ thể, nhất thiết đây không thể là việc làm nhất thời,
một sớm một chiều.
Một cuộc cải cách chính trị trọng đại và có ý nghĩa sống còn như thế có thể
bắt đầu từ những việc làm thiết thực, cụ thể, dễ thực hiện, bước trước nuôi bước
sau trong một lộ trình lớn – ví dụ ngay trước mắt là những cải cách hành chính và
chính trị tháo gỡ những rào cản trong đời sống làm ăn của nhân dân, giảm thiểu
lãng phí hay tổn thất do quan liêu tham nhũng gây ra đang hàng năm làm thiệt hại
ước khoảng 10 – 20% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) làm ra, giảm thiểu và tiến tới
khắc phục hiện tượng “đảng hóa” theo hướng thượng tôn pháp luật, đẩy mạnh công
33
khai minh bạch, đầy mạnh thông tin và nâng cao dân trí, nuôi dưỡng các giá trị tốt
đẹp, vân... vân...
Lãnh đạo cả nước xây dựng được và thực hiện được một chiến lược như thế
và triển khai nó thực sự là một trách nhiệm lịch sử của Đảng trước dân tộc trong
thập kỷ này.
IV. Thay cho phần kết: Bàn về đa nguyên đa đảng
Cốt lõi của cải cách thể chế chính trị, của đường lối phát triển đất nước trong
giai đoạn phát triển mới là giương cao ngọn cờ dân tộc, dân chủ. Những thành tựu
đạt được trong đổi mới – nhất là trong kinh tế - chính là và trước hết là thành quả
của phát huy yếu tố dân tộc và dân chủ25. Những tiến bộ đạt được trong chính trị
cũng xác nhận như vậy. Suy cho cùng, đấy là phương thức phát triển, phát huy khả
năng, bản lĩnh và vai trò của từng cá nhân cho lợi ích của chính mình và lợi ích của
đất nước. Sớm muộn phương thức này sẽ dẫn tới đa nguyên, đa đảng. Cần nói
thẳng thực chất của dân chủ là nguồn gốc của hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội đa
nguyên, đa đảng. Dân chủ giả tạo không được bàn ở đây.
Song hệ thống đa nguyên và đa đảng nào? Đầy hỗn loạn như ở một số nước
đang phát triển, hay là một thể chế vững chắc và ngày càng phát triển như ở các
nước công nghiệp tiên tiến? Hiển nhiên, như đã trình bầy trong các phần trên, giữa
hai mô hình này là cả một giai đoạn phát triển – song như đã nói ở trên: …Sẽ là
một thế hệ? Nhiều thế hệ? Ai nói trước được giai đoạn này sẽ là bao lâu? Rồi
còn phải xây dựng tiếp, hoàn thiện tiếp...
Vậy vấn đề là lựa chọn dân chủ nào, chứ không phải vì sợ đa nuyên đa đảng
mà vứt dân chủ. Xây dựng một thể chế dân chủ của phát triển như thế, nhất thiết
phải có lãnh đạo của lực lương tinh hoa của đất nước. Rất đáng Đảng vận dụng
mọi vốn liếng truyền thống kiên cường của mình, ráng tự rèn luyện để trở thành
lực lượng tinh hoa như thế và khơi dậy tinh hoa của cả nước. Tiền phong chiến đấu
và lãnh đạo chính là như vậy. Tại sao không?26
25 Một sự thực gần như là một nguyên lý trong toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam từ Tháng Tám 1945
đến nay là: mọi thắng lợi đạt được, nhất là những thắng lợi trong những tình thế đặc biệt hoặc chuyển
giai đoạn, đều gắn liền với phát huy ngọn cờ dân tộc dân chủ. Mặt khác, mọi thất bại, kể cả những thất
bại lớn trong những lúc tình hình rất thuận lợi, đều do vi phạm nguyên lý này.
26 Xin nhắc lại: Lịch sử ĐCSVN có biết bao nhiêu gương phấn đấu hy sinh đời đời nêu gương cho nhiều
người sau, không phải chỉ kiên cường trước kẻ thù đô hộ hay xâm lược đất nước, mà nhiều người còn
vưt bỏ mọi giầu sang phú quý dấn thân vào con đường cách mạng, có những người tư chân lấm tay bùn
34
Mặt khác, không thể có một Đảng Cộng Sản Việt nam tồn tại vĩnh viễn, dù
là một đảng trong sạch vững mạnh. Hơn nữa, vấn đề là hệ thống chính trị một đảng
làm sao có được đảng trong sạch vững mạnh như chúng ta đang thấy trong đời
sống nước ta và tại mọi nơi khác trên thế giới. Như vậy sự tồn tại của Đảng là hữu
hạn, và dứt khóat đảng viên cũng như người ngoài đảng có ý thức trách nhiệm với
đất nước không thể lựa chọn cách sống nhờ trời được tới đâu hay tới đó, rồi sẽ
liệu… Hơn nữa quan liêu tham nhũng tự nó cũng sẽ tích tụ mọi ách tắc mới, dần
dần cũng đẩy đất nước tới đổ vỡ, chế độ chính trị một đảng chung cuộc cũng sẽ
dẫn tới đa nguyên đa đảng - nhưng một cách thiếu tự giác... Sự vận động của cuộc
sống đất nước hàng ngày hiện nay cho thấy: Buông thả hay chấp nhận theo kiểu
nhờ trời được tới đâu hay tới tới đó, chế độ chính trị của chúng ta hiện nay vừa bất
lực trước nhiều tha hóa, vừa khuyến khích chụp giựt, quan liêu, tham nhũng. Mà
như thế sẽ khó tránh khỏi hiểm họa nồi da xáo thịt, đất nước lai rơi vào vòng luẩn
quẩn của ách nô dịch mới – của ngoại bang hay do chính mình dựng nên.
Lúc này lúc khác đã có người nói đến chế độ một đảng độc tài sáng suốt – có
thể là như thế trong hội thảo hàn lâm, trong trí tưởng tượng… Song ở đây chúng ta
đang bàn chuyện sống còn của nước ta, tìm lối đi và giải pháp cho nước ta trước
một bước ngoặt lịch sử, trước một tình hình đã hoàn toàn thay đổi, chứ không phải
ngồi bàn chuyện phiếm trong phòng trà!
Cần xem xét mọi khía cạnh như trên cho hết nhẽ, để lựa chọn con đường tự
giác quyết tâm xây dựng thể chế dân chủ với tất cả trí tuệ và nghị lực của dân tộc
ta. Nhất quyết Đảng không thể chỉ vì sự hù dọa nào đó về đa nguyên đa đảng mà
dân chủ nửa vời hay lẩn tránh dân chủ.
Lựa chọn xây dựng thể chế dân chủ là kết quả bền vững của học hỏi và phát
triển là lựa chọn và xây dựng một thể chế để cho trí tụê và dân chủ dẫn dắt đất
nước, chứ không lựa chọn dân chủ với hệ quả chỉ là đem lại đa nguyên đa đảng
của đổ vỡ.
Nếu phải đặt một tên gọi chung cho tất cả các nhiệm vụ phải thực hiện trong
thập kỷ này để từng bước xây dựng nên một thể chế chính trị phát triển đất nước
như vừa trình bầy, thì tên gọi đó có thể là: quá trình dân chủ hóa!27. Rất đáng nỗ
phấn đấu trở thành người lãnh đạo kiệt xuất của Đảng. Ý chí sắt son vì nước, vì Đảng của họ đã làm nên
tất cả! Không thế không đặt câu hỏi đảng viên bây giờ thế nào?
27 Tham khảo thêm Nguyễn Trung: “Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21”, phần nói
về dân chủ hóa.
35
lực làm cho thập kỷ thứ hai này của thế kỷ 21 là thập kỳ đầu tiên của quá trình dân
chủ hóa ở nước ta trên con đường trở thành một nước pát triển.
Trở lại vấn đề cốt lõi của mọi vấn đề là dân chủ và thực thi dân chủ.
Đó sẽ là dân chủ của bầy đàn, của đám đông, của hỗn lọan, mà thực chất là
mất dân chủ hoặc là một thứ lũng đoạn nào đấy của quyền lực? Hay là dân chủ dựa
trên nền tảng của giáo dục và trí tuệ trong một thể chế được thiết kế khúc chiết,
minh bạch, có sự kiểm soát lẫn nhau và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển
của đất nước?
Cuộc sống sòng phẳng một cách lạnh lùng: Cho đến nay chưa một nền dân
chủ giả hiệu nào thành công trên bất kỳ quốc gia nào của hành tinh này!
Cuộc sống thừa nhận văn minh nhân loại ngày nay mang lại cho các quốc
gia trên thế giới nhiều con đường và giá trị dẫn tới một thể chế dân chủ của phát
triển. Song cũng là sự thật là nhiều quốc gia độc lập, có chế độ đa nguyên đa đảng,
mà từ nhiều thập kỷ nay chưa làm sao thành công được trên con đường phát triển
của dân chủ. Vấn đề còn lại là đội ngũ tinh hoa và các tầng lớp dân cư của mỗi
quốc gia có khả năng lựa chọn, thiết kế, xây dựng và phát triển con đường nào, thế
chế dân chủ kiểu nào cho quốc gia mình. Trước sau chân lý vẫn là: Chuẩn bị tiền
đề ra sao, sản phẩm dân chủ sẽ là thế nấy, gieo gì gặt nấy, lịch sử chẳng cho
không dân tộc nào bất kể thứ gì.
Dân chủ và chất lượng dân chủ còn tùy huộc vào mối tương quan được kiểm
soát hay không được kiểm soát của các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hóa giữa các nhóm quyền lực hay các tầng lớp dân cư, các địa phương, nghĩa là rất
tùy thuộc vào thiết chế hữu hiệu được xây dựng nên để điều tiết các mối tương
quan này.
Dân chủ như vừa trình bầy là cả một quá trình phấn đấu, xây dựng và phát
triển. Quá trình này dài, ngắn thế nào là tùy thuộc vào ý chí, văn hóa, những điều
kiện kinh tế, hoàn cảnh lịch sử… của quốc gia đó, trước hết là tùy thuộc vào đội
ngũ tinh hoa và tình hình dân trí của quốc gia đó. Dù quá trình này dài, ngắn thế
nào, cũng bắt buộc phải có sự khởi đầu, có dự kiến, thiết kế, và lộ trình triển khai
nó – nghĩa là cũng phải có lãnh đạo – trước hết là sự lãnh đạo của trí tuệ và ý chí.
Những điều trình bầy trên cho thấy sẽ là sai lầm nếu trong một đêm nhảy
phắt sang chế độ đa nguyên đa đảng với hy vọng để có dân chủ. Và càng sai lầm
36
hơn nếu để cho tình hình rối loạn, dẫn đến đổ vỡ rồi mới đi tìm dân chủ, với kết
cục là chỉ hình thành được một đa nguyên hỗn loạn – mà thực chất và cuối cùng là
hình thành một loại hình quyền lực độc đoán mới, với đủ mọi loại mafia đầy nguy
hiểm. Đối với nước ta, một quốc gia còn ở trình độ kém phát triển, vừa mới trải
qua những cuộc chiến tranh khốc liệt và phức tạp, nếu để tình hình xảy ra đổ vỡ
dẫn đến đa nguyên của hỗn loạn sẽ rơi vào tình cảnh không thể tưởng tượng nổi!
Mặt khác cũng sẽ là sai lầm tệ hại không kém, nếu vin vào điều này duy trì mãi
mãi chế độ toàn trị một đảng với ưu tiên đặt bảo vệ quyền lực của Đảng lên trên lợi
ích quốc gia.
Xin lưu ý, kinh nghiệm “shock therapy” (cải cách theo liệu pháp “sốc”) của
Nga và các cuộc “cách mạng da cam, da quýt” tại một số nước trong Liên bang Xô
viết cũ là những bài học cay đắng cho các quốc gia này. 10 năm sau cải cách, Nga
và tất cả các nước Đông Âu cũ (không kể Công Hòa Dân Chủ Đức cũ đã thống
nhất vào nước Đức) vẫn chưa lấy lại được mức sống trước đó và gặp nhiều khó
khăn lớn trong thời kỳ này. Đó là những kinh nghiệm phải trả giá của những quốc
gia này. Cho đến nay đã 20 năm trôi qua, song mấy năm gần đây một số trong các
nước này mới bắt đầu có đà phát triển. Nước ta không thể bắt chước để chịu đựng
thêm một cuộc bể dâu mới nào nữa28. Một số phong trào cánh tả đang thắng thế
trong bầu cử ở một số nước châu Mỹ Latinh, đang giương cao ngọn cờ xã hội chủ
nghĩa, thực hiện một số chính sách tạm gọi là “đốt cháy giai đoạn” của chủ nghĩa
xã hội mà Việt Nam đã từng trải qua trước đổi mới – hiển nhiên những bước đi này
mang đầy tính toán của những trò chơi chính trị của đảng thắng cử. Dứt khoát đấy
không thể là kinh nghiệm cho Việt Nam trong xây dựng thể chế dân chủ, càng
không thể được coi là sự trỗi dậy trở lại của chủ nghĩa xã hội theo cách tư duy của
ý thức hệ. Có thể nói Việt Nam tự mình đã có quá đủ các bài học rất đắt cho việc
hôm nay tìm đường xây dựng một thể chế dân chủ đích thực của nước ta và cho
nước ta. Đã thôi duy ý chí xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì cũng xin đừng duy ý
chí đi tìm dân chủ, mà phải kiên định xây nó!
Có thể sẽ có ý kiến phản biện: Trung Quốc một đảng toàn trị phát triển
nhanh, tại sao Ấn Độ dân chủ phát triển chậm? Xin cứ thảo luận cho hết nhẽ. Chỉ
xin đừng quên thể chế một đảng toàn trị của Trung Quốc đã huy động được toàn
lực của nước đông dân nhất thế giới cho phát triển chủ nghĩa tư bản gần như với
28 Sự sụp đổ của Rumani năm 1989 trên thực tế là một cuộc đảo chính của một số lực lượng quân sự và
an ninh trong chính quyền Ceausescu chống lại Ceausescu và cuộc nổi dạy của các phong trào chống
đối Ceausescu, dẫn tới tàn sát lẫn nhau đẫm máu (gần 1000 người chết và 2000 người bị thương), với
nhiều hậu quả sau 20 năm vẫn chưa khắc phục xong. Đây là một bài học của thứ đa nguyên hỗn loạn.
tham khảo:
http://www.rfi.fr/actuvi/articles/120/article_6220.asp
37
bất kỳ giá nào – từ cách mạng văn hóa, đến Thiên An Môn, Tây Tạng, Tân Cương,
chiến tranh biên giới đánh Việt Nam, chủ nghĩa thực dân mới “made by China”29...
v... v... Sự phát triển hiện nay của Trung Qụốc còn dựa trên huy động rất quyết liệt
công sức của khoảng 800 triệu dân tầng lớp lao động Trung Quốc với mức sống
nghèo khổ và gần như hy sinh môi trường. Ấn độ vì nhiều lý do, trước hết vì phân
biệt đẳng cấp và tôn giáo trong xã hội – không làm được như vậy.
Việt Nam không phải là Trung Quốc hay Ấn Độ. Vậy Đảng Cộng Sản Việt
nam với tư cách là đảng duy nhất lãnh đạo và nắm trọn quyền lực của đất nước lựa
chọn con đường nào?
Hiển nhiên đó chỉ có thể là con đường dân chủ của tiếp tục đẩy mạnh sự
phát triển mọi mặt của đất nước mà công cuộc đổi mới đã mở ra bắt đầu từ Đại
hội VI, chứ không được phép là con đường của thử nghiệm bỏ ngỏ cho mọi
nguy cơ đổ vỡ.
Kết quả thành hay bại trong việc mở ra con đường dân chủ của học hỏi và
phát triển cho đất nước hoàn toàn tùy thuộc vào việc Đảng lựa chọn và duy trì một
chế độ chính trị phục vụ ưu tiên số một là bảo vệ sự tồn tại và quyền lực của Đảng,
hay là ngay từ bây giờ Đảng bắt tay vào xây dựng một hệ thống kinh tế - chính trị -
xã hội – văn hóa của đất nước phục vụ yêu cầu phát triển đất nước là tối thượng, và
coi đấy là môi trường thử thách sự phấn đấu của Đảng - để trở thành lực lượng tinh
hoa của dân tộc, thành đảng của dân tộc, để lãnh đạo dân tộc.
Mở ra cho đất nước con đường phát triển của dân chủ như thế để có sức
mạnh bên trong và bảo vệ được bờ cõi là nhiệm vụ bức bách của đất nước. Đấy là
trách nhiệm Đảng không thể thoái thác. Nói cách khác, thực hiện nhiệm vụ này là
cách Đảng trang trải món nợ lịch sử của mình đối với dân tộc – người đã thế hệ
này tiếp theo thế hệ khác không từ hy sinh nào chiến đấu dưới lá cờ của Đảng cho
sự nghiệp độc lập thống nhất đất nước, người đã nuôi dưỡng, xây dựng và bảo vệ
Đảng trong mọi hiểm nguy, và hôm nay vẫn bao dung giữ mối quan hệ ruột thịt coi
Đảng là con đẻ của mình!
*
Thực hiện nhiệm vụ cải cách bức bách nêu trên là trách nhiệm lịch sử vinh
quang của Đảng với tính cách là người mở đường cho đất nước đi vào một giai
29 Tham khảo các sách của các học giả nước ngoài đã trích dẫn.
38
đoạn phát triển huy hoàng, sau khi Đảng đã hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo nhân
dân giành lại giang san đất nước. Đảng có thể khước từ một nhiệm vụ như thế?
Xin nhắc lại, trong xã hội nước ta, Đảng Cộng Sản Việt Nam với tính cách
là đảng cầm quyền có vị thế cao và ảnh hưởng rất lớn. Nếu Đảng – trước hết là cấp
lãnh đạo cao nhất – tận dụng thực tế này và là người chủ xướng, người đi đầu trong
việc xây dựng thể chế dân chủ, chắc chắn đấy là con đường thuận lợi nhất, an toàn
và đỡ tổn thất nhất cho đất nước, đồng thời cũng hứa hẹn thành công nhất. Cấp
lãnh đạo cao nhất của Đảng chuyển động, toàn Đảng sẽ chuyển động. Được như
thế, chắc chắn đấy sẽ là điều may mắn và vui mừng nhất của dân tộc, của đất
nước. Làm như vậy sẽ chắc chắn không kém Đảng sẽ mất mọi đặc quyền đặc lợi
không nên (không đáng) giữ, nhưng đổi lại Đảng sẽ trở thành đảng chân chính của
dân tộc. Hiện nay tình hình vừa là đã chín muồi, đồng thời cũng là lúc thuận lợi
nhất để Đảng thực hiện cuộc cách chính trị với nội dung dân chủ hóa như thế.
Hay hy vọng nêu trên chỉ là ảo tưởng?
Tới đây Đảng lại phải tự hỏi: Có dám không? Có làm nổi không? Cái gì bó
tay Đảng? Đất nước trên hết hay Đảng trên hết?..
Xin lưu ý, “perestroika” thất bại, không phải vì “perestroika”, hay
Gorbachov, hay Yeltsin là phản bội; càng không phải là các đảng viên ĐCSLX và
quân đội Liên Xô tê liệt, vô cảm hay hữu khuynh… như một số người muốn giải
thích. Đừng nghĩ rằng chúng ta yêu và hiểu nước Nga hơn người Nga! Và cũng xin
đừng quên nước Nga (Liên Xô cũ) có trình độ phát triển mọi mặt cao hơn nước ta
rất nhiều! Mọi chuyện đã xảy ra chủ yếu chỉ vì tình hình Liên Xô lúc ấy không thể
cứu vãn được nữa! Vì “perestroika” không thành công toàn diện! Nhất là
“perestroika” đã không thành công trong cải cách chính trị! Song “perestroika” chỉ
làm được cái việc nó không chủ định: làm Liên Xô sụp đổ hẳn. Cái kết cục không
muốn mà tới này đã bắt nước Nga phải trả cái giá ngày hôm nay có lẽ chưa thể nói
là đã trả xong, nếu rơi vào Việt Nam chắc sẽ không chịu đựng nổi. Hiển nhiên,
ngày nay sẽ không phải điều gì khác mà là nạn tham nhũng và sự hoành hành
nghiêm trọng của mafia nếu không bị đẩy lùi có thể lại sẽ chôn chân nước Nga!
Cho nên đa nguyên / đa đảng với bất kỳ giá nào rõ ràng không phải là bài thuốc
tiên. Trước sau, vấn đề sống còn của nước ta trên cả hai phương diện đối nội và
đối ngoại vẫn là tạo ra được một thể chế dân chủ cho phát triển, mọi bước phát
triển tiếp theo phải là thành quả với tính chất là các hệ quả tất yếu, và phải dựa
trên nền tảng của con đường này – con đường dân chủ của phát triển.
39
Nhưng bây giờ ĐCSVN đứng trước tình thế: Trong khi phải lấy kinh tế làm
nền tảng, phải kế thừa các thành tựu đạt được để phát triển, ĐCSVN phải lấy đẩy
mạnh cải cách chính trị làm tiền đề giải phóng kinh tế và đưa đất nước vào giai
đoạn phát triển mới không thể né tránh! Cải cách chính trị với nội dung dân chủ
hóa như thế sẽ không sai nếu muốn gọi đó là “cửa tử” Đảng bắt buộc phải đi qua.
Nếu không còn sự né tránh thì chỉ còn vận dụng trí tuệ và ý chí để đi qua. “Cửa
tử” như thế là cửa của bản lĩnh. Chắc chắn trí tuệ và ý chí có thể đi qua một khi có
sự hậu thuẫn của cả nước và trở thành ý chí và trí tuệ cả nước! Một lần nữa càng rõ
trí tuệ và dân chủ là đi với dân tộc, là chìa khóa giải quyết những vấn đề sống còn
của Đảng!
Xin đặc biệt nhấn mạnh, để quá trình dân chủ hóa được thực thi có kết quả,
tiết kiệm xương máu và dứt khoát không dẫn đến đổ vỡ, đòi hỏi phải có trí tuệ và
kỷ cương rất cao với tinh thần dám hy sinh mọi lợi ích riêng, dám vượt lên mọi yếu
kém riêng, hoàn toàn một lòng vì dân vì nước của đội ngũ lãnh đạo cao nhất của
Đảng và Nhà nước. Trước hết, nếu có ý chí như vậy, đội ngũ lãnh đạo cao nhất của
Đảng và Nhà nước sẽ phát huy được trí tuệ và ý chí trong Đảng và của cả nước,
nhờ đó sẽ có đủ trí tuệ và mọi điều kiện cần thiết trong tay để hoàn thành nhiệm vụ
cực kỳ khó khăn này. Kinh nghiệm đớn đau dầy dạn của dân tộc ta trên con đường
phát triển của mình, kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, trí tuệ của văn
minh và tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày nay đủ sức giúp chúng ta giải được bài
toán dân chủ hóa hóc búa này cho đất nước! Đảng đang nắm quyền lãnh đạo đất
nước, cho nên đội ngũ lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước mang trên vai
mình trách nhiệm không thể thoái thác về thành / bại của quá trình dân chủ hóa
này.
Sẽ có câu hỏi thẳng thắn: Chất lượng lãnh đạo của Đảng và Nhà nước kể từ
Đại hội VI đến nay có tình trạng Đại hội sau thấp hơn Đại hội trước, trong tình
hình như vậy mà không chờ xuất hiện một minh quân như Hồ Chí Minh, đội ngũ
lãnh đạo cao nhất hiện nay của Đảng và Nhà nước làm sao có thể hoàn thành được
nhiệm vụ không thể thoái thác nói trên?
Tiếc rằng cuộc sống không biết chờ đợi, thiết nghĩ toàn Đảng phải vắt óc tìm
câu trả lời.
Cho nên trước sau hướng của câu trả lời chỉ có thể dựa vào cái tâm và ý chí
thực hiện dân chủ của tập thể những người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà
nước, để từ đó huy động, phát huy được tốt nhất trí tuệ và động viên được cao nhất
40
ý chí của toàn Đảng và của cả nước. Tất cả cho việc thực hiện cải cách chính trị
với nội dung dân chủ hóa. Tất cả trước hết với ý chí: Việt Nam không quỳ gối
trước nghèo hèn! Từ ý chí với định hướng như thế mà tìm lối ra, thiết kế đường đi,
thiết kế lộ trình. Tất cả thông qua sự sàng lọc của mọi thử thách trong cuộc sống,
để quyết định, để tuyển chọn; tất cả với tinh thần thượng tôn pháp luật; kiên quyết
gạt bỏ mọi tập quán của “chỉ đạo và quán triệt” đứng trên luật pháp; xóa bỏ mọi
hủ tục theo kiểu “đến hẹn lại lên”, “sống lâu lên lão làng”, “cơ cấu”...
Nếu các thành viên trong tập thể Bộ Chính trị gương mẫu vượt lên mọi riêng
tư, tất cả một lòng một dạ với ý chí không chịu để đất nước quỳ gối, kiên quyết chủ
trương đổi mới Đảng để đưa đất nước vào giai đoạn phát triển mới, chắc chắn sẽ
khơi dậy được sức phấn đấu mãnh liệt và đầy sáng tạo của toàn Đảng, của toàn thể
dân tộc. Đầu não và bộ phận tinh hoa của đất nước bao giờ cũng phải đi trước. Đã
bao nhiêu lần Đảng có truyền thống: Bộ Chính trị chuyển, toàn Đảng và cả nước
cũng sẽ chuyển theo.
Xin nói thêm: Cải cách chính trị ở các nước phát triển nhất cũng muôn vàn
khó khăn và không hiếm thất bại, ngay cả ở nước Mỹ hiện nay! Sự xuống dốc
nhanh chóng hiện nay của nước Mỹ có nguyên nhân từ những thất bại trong cải
cách những mặt yếu kém. Từ hai chục năm nay chính phủ Mỹ bị các giới nghiên
cứu khác nhau trong nước phê phán gay gắt, đến mức coi Washington D. C. (Chính
quyền Mỹ - kể cả 2 Viện và Chính phủ) là kẻ phá hoại giấc mơ Mỹ từ A đến Z;
chính sách của chính quyền đang biến nước Mỹ thành con nợ lớn nhất thế giới –
năm 2010 nợ quốc gia sẽ là 9 nghìn tỷ USD, năm 2019 sẽ lên tới 23 nghìn tỷ USD;
Mỹ đang tụt hậu về hệ thống bảo hiểm xã hội và cả trong giáo dục; chính quyền
Mỹ có thể cắt giảm 20% biên chế dư thừa mà đến nay không chịu làm; chính sách
“outsourcing” (đưa các nguồn lực ra khai thác và phát triển bên ngoài nước Mỹ)
đang hút máu sinh lực Mỹ và chỉ đem lại hệ quả cuối cùng là “5/1” – nghĩa là về
tổng thể Mỹ phải nhập khẩu tới 5 USD mới xuất khẩu được 1 USD, rõ nhất là
trong buôn bán với Trung Quốc, thương mại tự do trở thành thương mại sai
lầm; tất cả khiến cho nước Mỹ bây giờ phải hạ mình, phải cúi đầu, phải ve vãn
thiên hạ, chính quyền Obama đang tiếp tục với đôi chút cải biên chứ không phải là
đảo ngược chiều hướng nước Mỹ đang đi; ... và Washington D. C. đang là trung
tâm của tham nhũng đến tê liệt về mặt trí tuệ của nước Mỹ (America’s nucleus of
anguish and intellectual corruption – M L Gross “National Suicide” tr. 324)…30
30 Tìm xem:Martin L. Gross “National Suicide – HowWasington is destroying the American Dream from A to Z”
N.Y. 2009; - Jerome R. Corsi “America for Sale”, 2009; - Newt Gingrich “Real change” , 2009 và một
số sách khác chung quanh chủ đề này.
41
Đương nhiên, ở Mỹ còn nhiều trường phái tư duy khác nữa. Thậm chí bây
giờ đã có ý kiến cho rằng nếu nước Mỹ còn nguyên các gánh nặng như hiện nay sẽ
khó mà có một nhiệm kỳ hai cho Obama!..
Nêu lên ví dụ Mỹ như vậy chỉ muốn nhấn mạnh cải cách chính trị hay thể
chế là rất khó, ở nước nào cũng khó và rủi ro lớn, song phải huy động trí tuệ và dân
chủ để thực hiện, chứ không phải để bàn lùi.
Tất cả càng cho thấy: Dân chủ hóa là nguồn lực tạo ra nội lực bất khả xâm
phạm cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước và có khả năng tập hợp sự hậu
thuẫn của cả thế giới tiến bộ cho sự nghiệp này. Dân chủ hóa vì vậy là dân tộc tất
thắng, là đất nước tất thắng!
Thách thức lớn nhất của dân chủ hóa ở nước ta không phải là diễn biến hòa
bình, mà là cám dỗ chính trị rất lớn của quyền lực và của lợi ích cá nhân; lịch sử
hiếm hoi ghi lại được các chiến công đánh bại được sự cám dỗ này. Nhưng cũng
xin nói ngay: Ngu dốt, vô đạo đức, cuồng tín hay bảo thủ thì chỉ có một đường dẫn
đến đổ vỡ mà thôi!
Thực hiện cải cách chính trị với nội dung dân chủ hóa toàn bộ đời sống đất
nước là trách nhiệm lịch sử và cũng là thách thức lớn nhất của Đảng kể từ ngày
thành lập cho đến nay!31 Nhiệm vụ không thể thoái thác này ngày nay đặt Đảng
trước tình huống phải tự chứng minh: Là Đảng vì dân tộc, vì đất nước, hay vì
mình?
Thực hiện trách nhiệm lịch sử này chính là Đảng quyết tâm chiến thắng
chính mình, gìn giữ, bảo vệ phẩm chất, chí khí của mình với tính cách là đội tiền
phong của dân tộc. Thực hiện trách nhiệm lịch sử này là Đảng trung thành với
chính mình chống lại mọi diễn biến của tha hóa, là Đảng tự bảo vệ mình với nghĩa
chân chính: Không để cho tha hóa chiếm mất Đảng, biến Đảng thành kẻ thù của
dân tộc.
Sự lựa chọn nói trên của Đảng sẽ khiến cho các loại nhóm lợi ích phản ứng
hay chống đối quyết liệt. Sự phản kháng này có thể diễn ra công khai và trực diện,
hoặc trá hình dưới các dạng nhân danh, hoặc gián tiếp. Sự phản kháng này rất
nguy hiểm. Nếu cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước xểnh tay, sẽ dễ dẫn
31 Tham khảo: Nguyễn Trung, Dòng đời (tiểu thuyết), sách đã dẫn, tập 4, tr. 717 – 718 và tr. 855-858
42
đến oan khiên, đàn áp và sát phạt lẫn nhau. Phải ngăn ngừa bằng được tình trạng
này. Sự đổ vỡ của Rumani năm 1989 là một trong các bài học đẫm máu: đảo chính
của lực lượng trong chính quyền, phản cách mạng của các lực lượng cơ hội, và
cách mạng của các lực lượng dân chủ nổi dậy xen quyện vào nhau, chống đối nhau
– ngày nay chưa khắc phục xong các hậu quả.
Lịch sử ra đời của Đảng nói lên điều gì? Và ngày nay Đảng vẫn còn giữ
được cho mình nhuệ khí đi tiên phong trong hàng ngũ của dân tộc như trong suốt
thời kỳ đấu tranh giải phóng và thống nhất đất nước? Hơn lúc nào hết, Đảng phải
nhìn thẳng vào kẻ thù nguy hiểm nhất của mình là sự yếu kém của chính mình - để
tuyên chiến, để đổi mới chính mình, chứ không đầu hàng. Một Việt Nam trên con
đường trở thành một nước phát triển rất cần một lực lượng tinh hoa dẫn đầu. Đó
chính là vị trí chiến đấu của Đảng từ nay về sau Đảng cần phấn đấu đạt tới. Đảng
phấn đấu đứng vào vị trí ấy chính là tồn tại và phát triển.
Biết là đứng giữa hai làn đạn, một bên có thể sẽ lên án những điều trình bầy
trong bài này là phản động, một bên có thể sẽ gọi đấy là những điều mộng mị của
kẻ ngu trung. Song dù đúng sai thế nào, tôi xin ngửa mặt giữa trời thưa thốt như
vậy, hy vọng để rộng đường dư luận: trong Đảng, trong cả nước và trong mọi bà
con người Việt chúng ta khắp nơi trên thế giới - với tất cả tấm lòng còn nước còn
tát, tìm kiếm một kịch bản phát triển an toàn và hứa hẹn thành công mà người viết
bài này thiết tha mong mỏi cho đất nước./.
Hết
Tháng 12-2009
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Trung: “Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21”
2. Đặng Phong, “Phá rào trong kinh tế vào đêm trước đổi mới” – NXB Trí thức,
Hà Nội, 2009.
3. Trần Quang Cơ: Hồi ký và suy ngẫm.
4. Martin Jaques “When China Rules the World: The End of the Western World
and the Birth of a New Global Order” USA, 12-2009.
5. Jerome R. Corsi, America for Sale, 3-2009
43
6. Robert Service, Comrades! A History of World Communism - Harvard 2008
7. Martin L. Gross “National Suicide – How Wasington is destroying the
American Dream from A to Z” N.Y. 2009; -
8. Jerome R. Corsi “America for Sale”, N.Y. 2009; -
9. Newt Gingrich “Real change” , N.Y. 2009 và m􀀀t s􀀀 sách khác chung
quanh ch􀀀 đ􀀀 này.
10.Nguyễn Mạnh Tường, “Qua sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan
điểm lãnh đạo” Tham luận đọc tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội
ngày30.10.1956
http://www.viet-studies.info/NMTuong/NMTuong_CaiCachRuongDat.htm
11.Nguyễn Trung, Dòng đời (tiểu thuyết), NXB Văn Nghệ, TPHCM 2006.
12.Một số bài viết và sách báo khác.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét