Thứ Năm, 2 tháng 1, 2014

1

Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21

Kính dâng Tổ quốc nhân dịp 1000 năm Thăng Long
Nguyễn Trung
(Như tên gọi của nó, bài viết này chỉ tập trung nêu lên những vấn đề
chính Việt Nam sẽ phải đối mặt, phải giải quyết trong thập kỷ thứ hai
của thế kỷ này. Với suy nghĩ cho rằng làm rõ được những vấn đề đặt ra
là việc phải làm trước khi suy nghĩ về các giải pháp. Vì vậy bài viết này
không đề cập tới, mà xin dành việc bàn về các giải pháp cho các dịp
khác. Với tất cả tinh thần trách nhiệm của mình, người viết bài này đưa
ra cách nhìn riêng về một số vấn đề, để ai quan tâm thì tham khảo. Hiểu
biết và điều kiện làm việc rất giới hạn, nên những ý kiến trong bài chắc
chắn có nhiều thiếu sót, mong được bổ khuyết.)

Vấn đề đặt ra
Việt Nam, kể từ 1986, sau một phần tư thế kỷ thực hiện sự thay đổi
căn bản mang tên là đổi mới, đã kết thúc thời kỳ phát triển theo chiều rộng
với nhiều thành tựu to lớn có tính bước ngoặt, thay đổi bộ mặt đất nước và
được thế giới ghi nhận. Cần nhận định dứt khoát như vậy để rỡ bỏ mọi rào
cản, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Cần nhận định dứt khoát như vậy
trước khi tìm hiểu những vấn đề đặt ra cho Việt Nam phía trước trên con
đường phát triển của mình.
Mặt khác cũng phải tỉnh táo nhận thấy, so ta với chính ta trước kia,
những thành tựu đạt được trong 25 năm qua là rất to lớn; nhưng nếu so với
chặng đường 25 năm đầu tiên trên con đường trở thành NIC (nước mới công
nghiệp hóa) của Hàn Quốc, Đài Loan.., nước ta phát triển như thế là chậm,
so với những thách thức hiện tại và phía trước nước ta phải đối mặt lại càng
chậm. Nên có cái nhìn nhiều chiều như vậy để định liệu công việc của mình,
và nhờ đó có thể “đỡ” rơi vào cái bệnh “mẹ hát con khen hay”!
Việt Nam bước vào thập kỷ 2020 đúng vào lúc kinh tế thế giới – trước
hết là những nền kinh tế lớn mà đầu tầu là kinh tế Mỹ - đang tìm cách ra
2
khỏi cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống hiện nay để tìm đường chuyển
sang một thời kỳ phát triển mới. Trong khi đó Trung Quốc đang dấn bước
vào thập kỷ 2020 với mọi nỗ lực quyết liệt nhất để đi nhanh hơn nữa trên
con đường trở thành siêu cường vào giữa thế kỷ này; giới nghiên cứu trên
thế giới hầu như chia sẻ nhận định chung: Thập kỷ 2010 đánh dấu bước
ngoặt mang tính thời đại của Trung Quốc trên con đường đi tới siêu cường,
thập kỷ 2020 hiện tượng Trung Quốc sẽ còn nóng bỏng hơn nữa trên trường
quốc tế1.
Như vậy, thập kỷ 2020 đến với Việt Nam với ba đặc điểm:
(1) thế giới đang tìm đường ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay, trên
thực tế là đang phải tìm đường chuyển sang một thời kỳ phát
triển mới khác trước,
(2) hiện tượng Trung Quốc trên con đường trở thành siêu cường ngày
càng trở nên nóng bỏng trên trường quốc tế - nhất là tại khu vực,

(3) Việt Nam vừa phải thích nghi với bối cảnh thế giới mới rất quyết
liệt so với trước, đồng thời vừa phải tự mình tìm đường chuyển
sang một giai đoạn phát triển cao hơn để có thể đứng vững trong
tình hình mới.
3 đặc điểm của thập kỷ 2020 vừa trình bầy trên đặt ra cho Việt Nam
nhiều thách thức mới, tới mức có thể nói:
Kể từ khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước
ngày 30 Tháng Tư năm 1975, do đòi hỏi trong nước và bối cảnh quốc tế
mới, chưa bao giờ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và
tương lai phát triển của đất nước phải đối phó với nhiều thử thách nguy
hiểm và quyết liệt như ngày nay. Cụ thể là con đường phát triển của đất
nước ta đang đặt ra nhiều đòi hỏi gắt gao, đồng thời cục diện quốc tế và
khu vực đang đi vào một bước ngoặt đặt nước ta trước nhiều thách thức
1 Tham khảo: China's_Quasi_Superpower_Diplomacy_OP.pdf
788K Xem Tải xuống
http://www.jamestown.org/programs/books/single/?tx_ttnews[swords]=8fd5893941d69d0be3f378
576261ae3e&tx_ttnews[any_of_the_words]=Willy%20Lam%20
3
mới. Tất cả tạo nên sức ép căng thẳng bên ngoài và bên trong, đòi hỏi cả
nước phải dấn lên đối mặt.
Chỉ cần nhìn vào bức tranh thế giới, bản đồ địa chính trị hiện thời của
khu vực nước ta với một Trung Quốc đầy tham vọng, và nhìn vào các vấn đề
kinh tế, chính trị, xã hội, vào các vấn đề an ninh quốc phòng, vào những đòi
hỏi của phát triển và cạnh tranh.., sẽ thấy rõ những điều vừa trình bầy. Tính
chất quyết liệt của chặng đường nước ta phải đi trong thập kỷ 2011-2020 là:
Làm chủ được tình hình này sẽ tạo ra thời cơ lớn cho tương lai của đất nước,
thất bại trong xử lý tình hình này, đất nước đi vào con đường đầy hiểm họa.
“Cách đây đúng 151 năm, năm 1858, thực dân Bồ Đào Nha và thực dân
Pháp nã súng đánh thành Đà Nẵng, dẫn đến 80 năm mất nước, dân tộc ta
phải chịu ách nô lệ. Nguyên nhân chủ yếu không phải vì dân tộc ta và
triều Nguyễn hồi đó yêu nước kém ngày nay, chiến đâu kém dũng cảm
hơn ngày nay! Muôn ngàn lần không phải như vậy! Song mất nước có
thể coi như là tất yếu, bởi lẽ nước ta so với kẻ địch tụt hậu hẳn một giai
đoạn phát triển. Ngày nay, kinh tế nước ta nếu tiếp tục đi sâu vào cơ cấu
các sản phẩm thượng nguồn như đang làm bô-xít, sớm muộn sẽ rơi vào
nguy cơ thành bãi thải công nghiêp. Đồng thời nước ta đang phải đối phó
với 3 nguy cơ khác nữa; đó là: sự o ép từ bên ngoài, sự xâm lăng về văn
hóa, sự tàn phá của môi trường tự nhiên do không được bảo vệ thỏa
đáng. Cả 4 nguy cơ này có thể dấn nước ta vào một tình trạng tụt hậu
nguy hiểm, đến lúc nào đó có thể sẽ tạo ra cho nước ta một sự nô dịch
mới – sự nô dịch của nghèo nàn và lạc hậu, của lệ thuộc, sự nô dịch
không có chủ nghĩa thực dân. Đừng để cho việc khai thác bô-xít góp phần
làm tăng thêm những nguy cơ này.” Nguyễn Trung, tham luận tại hội thảo 09-4-2009
về bô-xít Tây Nguyên, do Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải chủ trì.
Dưới đây xin trình bầy một số vấn đề chính có liên quan.
I. Những nét mới nổi bật trong bối cảnh quốc tế liên quan mật thiết
đến nước ta (trong phạm vi bài này không bàn rộng ra những vấn đề
khác)
Cục diện thế giới đang có thay đổi lớn cả về kinh tế và chính trị,
không náo nhiệt như khi chiến tranh lạnh kết thúc, song hầu như tác động
sâu sắc hơn nhiều đến mọi quốc gia. Thậm chí tại nhiều nước – kể cả Mỹ -
4
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay tác động trực tiếp đến từng gia
đình.
Cuộc đại khủng khoảng kinh tế thế giới đang diễn ra là vô tiền khoáng
hậu. Sau một năm ròng rã (09-2008 tới 09-2009) đánh vật với cuộc khủng
hoảng này, các nền kinh tế lớn đã phải bỏ ra tổng cộng ước khoảng trên 10
nghìn tỷ USD (tương đương với 2/3 GDP của cả nước Mỹ và với 1/6 GDP
toàn thế giới), đồng thời phải tiến hành nhiều liệu pháp đau đớn mang tính
điều chỉnh vỹ mô và hệ thống để cứu chữa. Hiện nay cuộc khủng hoảng này
được xem là đã chạm đáy; nhưng lối ra có lẽ sẽ phải mất nhiều năm, hiện
vẫn chưa xác định được; nguy cơ lại xảy ra khủng hoảng mới ngấp nghé.
Chưa ai dám nói bao giờ và như thế nào kinh tế thế giới sẽ phục hồi
và lấy lại được sự phát triển năng động đã có như trong một hai thập kỷ vừa
qua. Tuy nhiên, có khá nhiều người trong giới nghiên cứu chia sẻ ý kiến:
1. kinh tế thế giới hiện nay vừa phải khắc phục sự đổ vỡ của nền
kinh tế bong bong của hệ thống tài chính tiền tệ thế giới, đồng
thời về nhiều mặt đang phải đối phó với một cuộc khủng hoảng
thừa rất sâu sắc có những thuộc tính cơ cấu2, còn nhiều vấn đề
nan giải chưa lường hết được; một khi kinh tế thế giới ra khỏi
cuộc khủng hoảng này, có lẽ nó sẽ không thể giữ nguyên cấu
trúc và sự vận hành như trước nữa – nói cụ thể hơn: trong và
sau cuộc khủng hoảng này của kinh tế thế giới, các quốc gia sẽ
không thể giữ nguyên cách làm ăn như lâu nay (kể từ khi chiến
tranh lạnh kết thúc),
2. cơ cấu sản phẩm trong mỗi quốc gia sẽ dần dần có những thay
đổi lớn theo hướng quan tâm hơn nữa đến sự bền vững của thị
trường nội địa mỗi nước và của môi trường, nghĩa là sẽ xuất
hiện những điều chỉnh vỹ mô.
3. hệ thống tài chính tiền tệ thế giới đang có những xáo trộn lớn,
buộc phải cải tổ cơ bản để hạn chế những rủi ro - đặc biệt là
trên 2 vấn đề: (1)sự suy yếu ngày càng nhanh chóng của đồng
2 Đặc biệt là sự thừa ế trên thị trường bất động sản, trên thị trường xe hơi và nhiều thị trường
quan trọng khác đang kéo theo sự suy sụp của nhiều ngành kinh tế khác. Tình trạng nợ nần lớn
của cá nhân, công ty và ngân sách quốc gia khiến cho sức mua khó hồi phục. Hơn nữa sự điều
chỉnh cơ cấu kinh tế bắt buộc phải lựa chọn thường gắn theo với những đổ vỡ và cái giá phải trả
không thể tránh khỏi. Thậm chí có ý kiến coi đây là 4 nguyên nhân có thể làm nảy sinh khủng
hoảng mới.
5
USD và (2)vai trò đang nổi lên đầy tính lũng đoạn của đồng
Nhân dân tệ (Trung Quốc);
4. phải tăng cường hơn nữa vai trò điều tiết của nhà nước để hỗ
trợ “bàn tay vô hình” của thị trường; khung khổ WTO tuy vẫn
được duy trì, nhưng chắc chắn sẽ có nhiều cọ sát mới gay gắt
hơn,
5. phải sớm có các chính sách và biện pháp thân thiện hơn với
môi trường tự nhiên để giảm thiểu các đại họa, tại nhiều nước
đã phải hướng mạnh tới nền kinh tế có hàm lượng carbon thấp...
6. phải thay đổi nhiều điều quan trọng trong tư duy kinh tế; một số
học giả nổi tiếng như Krugman, Stiglitz, Fukuyama, thượng
nghị sỹ Max Baucus... cho là kinh tế học hiện đại có nhiều điểm
lỗi thời3.
6 điểm nêu trên cho thấy kinh tế thế giới hiện nay đi vào thời kỳ
khủng hoảng sâu sắc mang tính hệ thống với những dấu hiệu chuyển sang
một thời kỳ phát triển khác.
Trong khi đó cục diện quốc tế có hai hiện tượng nổi bật nhất kết thúc
thời kỳ hậu chiến tranh lạnh:
(a) sự suy yếu nhanh chóng của siêu cường Mỹ4, và
(b) vai trò ngày càng nổi lên của các cường quốc khác – trước hết là
Trung Quốc, rồi đến Nga, Ấn Độ.
*
Về Mỹ: Chiến tranh Iraq và chiến tranh chống khủng bố - trước hết là
chống Al-Qeada - Taliban – không đem lại kết quả như Mỹ đề ra, thậm chí
chưa thấy ánh sáng cuối đường hầm, cùng với tình trạng từ năm 2008 Mỹ
lâm vào khủng hoảng kinh tế nặng nề nhất trong lịch sử quốc gia này, đã dẫn
3 Thậm chí có người gọi khoa kinh tế học hiện nay là “kinh tế học của đổ vỡ”, coi Alan Greenspan
- nguyên chủ tịch FED - là một trong những tội phạm chính của khủng hoảng kinh tế thế giới
hiện nay!..3 Tuy nhiên sẽ là xuyên tạc sự thật hay ngộ nhận nực cười nếu nghĩ rằng kinh tế thế
giới đang quay đầu hướng về chủ nghĩa xã hội – như một số người nào đó cố tình nhận định
như vậy...
4 Chủ yếu do những thất bại của 2 khóa tổng thống George Bush vì tham vọng quá lớn trong
chiến lược toàn cầu và do sự phá sản của chủ nghĩa tân tự do dẫn tới cuộc khủng hoảng kinh tế
Mỹ hiện nay. Cuộc khủng khoảng này âm ỷ từ lâu và bủng nổ với sự sụp đổ của ngân hàng
Lehman Brothers ngày 14-09-2008, sau đó lan tỏa thành quy mô thế giới.
6
tới Mỹ phải điều chỉnh căn bản chiến lược toàn cầu của mình. Mức độ điều
chỉnh gay cấn đến nỗi Singapore cho rằng Mỹ đang tạo ra khoảng trống cho
Trung Quốc hoành hành ở châu Á5.
Để hiểu rõ thực trạng kinh tế Mỹ trong khủng hoảng hiện nay, xin trích dẫn phân
tích sau đây của Francis Fukuyama: “ ...Chỉ riêng từ năm 2001 đến năm 2008, (trước
đó không tính) hơn 5 nghìn tỷ USD tiền tiết kiệm của nước ngoài đã đổ vào nền kinh tế
giầu nhất thế giới – nước Mỹ, thúc đẩy một cao trào đi vay và kích thích quá mạnh chi
tiêu của các hộ gia đình cũng như các tập đoàn. Mức độ nợ liên tục gia tăng và ở mức
rất cao: khi xảy ra suy thoái đầu thập kỷ 1980 tổng nợ tư nhân (hộ gia đình và các tập
đoàn, công ty) mới chỉ là 123% GDP, nhưng đã vọt lên 290% GDP năm 2008. Trong
khoảng thời gian này, riêng nợ của các hộ gia đình là 48% GDP đầu thập kỷ 1980 đã
vọt lên tới 100% GDP vào năm 2008. Vì vậy mọi cố gắng của Quỹ dự trữ Liên bang
(FED) tung tiền ra để tăng thêm khả năng thanh toán của nước Mỹ chẳng còn mấy hiệu
quả. Các hộ gia đình và các tập đoàn lâm vào tình trạng suy sụp kéo dài hơn các thời
kỳ suy thoái trước. Người Mỹ bắt đầu phải học để trở thành người tiết kiệm, nhất thiết
phải như vậy. Nhưng việc tỉnh táo quay trở lại với nghịch lý nổi tiếng của Keynes về sự
tằn tiện lại gây ra cho nước Mỹ bệnh thiếu máu!..” – xem trong: Thinking About the Future
of American Capitalism Francis Fukuyama http://www.the-american-interest.com/contd/
Sự điều chỉnh này của Mỹ thực chất là sự thoái lui một bước quan
trọng có tính bắt buộc trong chiến lược toàn cầu so với thời George W.
Bush, nguyên nhân chủ yếu là lực bất tòng tâm. Mỹ hiện nay vẫn còn là siêu
cường số 1, song vai trò và ảnh hưởng của nó giảm sút đáng kể so với thời
kỳ hậu chiến tranh lạnh.
Hiện tượng Obama thắng cử không đơn thuần chỉ là một thắng lợi độc
nhất vô nhị cho đến nay của thể chế dân chủ Mỹ và trên thế giới. Sâu xa hơn
thế, hiện tượng Obama nói lên tầm vóc điều chỉnh chiến lược chưa từng có
kể từ sau chiến tranh thế giới II mà Mỹ phải chấp nhận.
Điều đáng chú ý là so với tất cả mọi thời kỳ khác kể từ chiến tranh thế
giới II kết thúc, siêu cường Mỹ trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh chiếm vị
thế quốc tế cao nhất trong toàn bộ lịch sử của nó. Song chính trong thế
thượng phong này của thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, siêu cường Mỹ đã chịu
nhiều thất bại và tổn thất nhất, đã sa sút nhanh nhất so với tất cả các thời kỳ
5 See: “Obama urged to fix policy vacuum” – Financial Times , By Edward Luce inWashington
http://www.ft.com/cms/s/0/5b24d05a-cd61-11de-8162-00144feabdc0.html
Published: November 9 2009 20:06 | Last updated: November 9 2009 20:06
7
trước đó kể từ khi kết thúc chiến tranh thế giới II. Nguyên nhân chủ yếu là
“tham vọng và gánh nặng đế chế” quá lớn cùng với sự đổ vỡ thảm hại của
chủ nghĩa tân tự do trong kinh tế. Sự thoái lui này diễn ra trong bối cảnh
Trung Quốc phát triển “rất nóng” trên con đường trở thành siêu cường,
vì thế trên thế giới đang manh nha những biến động chao đảo của quá
trình hình thành một trật tự mới, nhiều quốc gia sẽ chịu tác động – trong
đó có nước ta. Tình hình quyết liệt tới mức chưa bao giờ sách báo và các
phương tiện truyền thông Mỹ lại đày rãy như hiện nay các nhận định, đánh
giá nói về Hiện tượng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trở thành chủ
nghĩa tư bản toàn trị đặc sắc Khổng giáo, về Sự giới hạn của quyền lực
Mỹ, về Chiến lược toàn cầu của Washington đang hủy hoại nước Mỹ, về
Triển vọng chẳng lấy gì làm sáng sủa của Obamanomics, về Sự cáo
chung của đế chế Mỹ, vân vân, - và về …Thế giới trong thập kỷ tới này
nghiêng về phương Đông!.6.
Hiện tượng Obama cũng đồng thời cho thấy Mỹ quyết tâm thay đổi và
có lẽ có thể thay đổi được – chính điều này cho phép Mỹ sẽ còn tiếp tục duy
trì được – dù không còn mạnh như trước - vị trí siêu cường số 1 trên bàn cờ
của một thế giới đang tiến vào cục diện một siêu đa cường. Sự điều chỉnh
của Obama trong kinh tế thông qua các luật pháp mới và gói kích thích
(stimulus) thực chất là một cuộc xắp xếp lại và điều chỉnh lại nền kinh tế.
Rất nhiều khó khăn còn ở phía trước, và tiếng nói trong nước Mỹ chỉ trích
cái gọi là Obamanomics không phải là ít. Đơn giản là cuộc cải cách nào
cũng đau đớn; bởi vì trong phạm vi nguồn lực có hạn xóa sổ ai, cứu ai đều
vấp phải cọ sát gay gắt. Hiện tượng Obama đánh dấu một thời kỳ thay đổi
sâu sắc đang diễn ra sôi động ở tất cả các nước phát triển trong thế giới
phương Tây – mới đây nhất là sự kiện ngày 30-08-2009 thủ tướng Yukio
Hatoyama7 đảng Dân Chủ ở Nhật thắng cử và lên cầm quyền, chấm dứt thời
kỳ đảng Dân chủ Tự do ngự trị chính quyền Nhật hơn nửa thế kỷ!
Nét nổi bật của điều chỉnh chiến lược toàn cầu của nước Mỹ Obama
là: Mỹ quyết rút khỏi Iraq để tập trung vào các vấn đề như mặt trận chống
6 Tìm xem Niall Ferguson: “The decade the world tilted east”
http://www.ft.com/cms/s/0/ac26eb9a-f30a-11de-a888-00144feab49a.html
Published: December 27 2009 18:23 | Last updated: December 27 2009 18:23
Và nhiều sách báo khác liên quan của các tác giả: Andrew Bacevich, Noam Chomsky, Timothy
P. Carney, Willy Lam, John Tkasick, Francis Fukuyama, Martin Jaques…
7 Hatoyama hiện nay đang gặp khó khăn vì phụ tá của ông ta bê bối.
8
Al-Qaeda – Taliban tại Afghanistan, vấn đề vũ khí hạt nhân của Iran, vấn đề
vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên... Ngày 17-9-2009 Mỹ đi thêm một nước
cờ chiến lược nữa là quyết định rút bỏ kế hoạch lá chắn tên lửa Châu Âu
để tăng thêm hòa hoãn với Nga (đã được Nga hưởng ứng) và tập trung cố
gắng tìm kiếm các khả năng xử lý vấn đề vũ khí hạt nhân của Iran. Bước đi
này còn nhằm phân hóa bớt các thế lực gây sức ép khác đối với Mỹ. Quan hệ
Mỹ - Nga ấm hẳn lên cho thấy tầm vóc của quyết định 17-09-2009. Khả
năng nâng quan hệ với Nga để tranh thủ thêm điều kiện đối phó với Iran
đang được Mỹ tính đến. Những cải cách trong đối nội của nước Mỹ đang
diễn ra càng làm rõ những thay đổi trong chiến lược đối ngoại của nước này.
Có thể nói cải cách, thay đổi theo cái mới là việc diễn ra thường xuyên và liên
tục năm này qua năm khác ở các nước phương Tây. Tuy nhiên những thay đổi
qua cuộc khủng hoảng này thực sự là một đợt cải cách sâu rộng. Đặc biệt tại Mỹ,
công việc điều chỉnh vỹ mô hiện nay có lẽ quyết liệt hơn các cường quốc phương
Tây khác, được bắt đầu từ cải cách giáo dục, đổi mới việc đào tạo nguồn nhân
lực, đặt lại cách nhìn về “outsourcing” (lấy nguồn từ bên ngoài) và cơ cấu ngành
nghề của nền kinh tế Mỹ trong tình hình mới (nhất là trước tình hình sản phẩm
Trung Quốc ngày càng thôn tính thị trường Mỹ), cải cách mạnh mẽ các thể chế về
tài chính, bảo hiểm y tế, về điều hành kinh tế, v... v... Nói chung là không thể phó
thác cho “laissez faire” với bất kỳ giá nào của “chủ nghĩa tân tự do” như đã diễn
ra trong mấy thập kỷ vừa qua. Việc Mỹ ngày 11-9-2009 quyết định áp mức thuế
35% (mức cũ là 4%) đối với lốp xe hơi nhập từ Trung Quốc, không đơn thuần chỉ
là một hành động “trả miếng”, mà còn liên quan mật thiết đến việc xem lại chủ
trương “outsourcing” (lấy nguồn lực từ bên ngoài) hiện nay. Tóm lại, có thể nói:
Nội dung cơ bản nhất của điều chỉnh vỹ mô ở Mỹ hiện nay là chia tay với trạng
thái cực đoan vừa qua của chủ nghĩa tân tự do, hướng mạnh hơn vào nền kinh tế
carbon thấp, tăng cường vai trò kinh tế trong thị trường nội địa. Vì những lẽ này,
gọi đấy là sự điều chỉnh mang tính hệ thống. Còn có thể nói một cách khác: Đó
còn là sự điều chỉnh có nhiều dân chủ hơn.
Từ tình hình trên, có thể thấy phát biểu của Tổng thống Obama tại
phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp quốc ngày 23-0-2009 ''...đã đến lúc thế
giới chuyển sang một hướng mới. Chúng ta phải dấn thân vào một thời đại tiếp
cận mới dựa trên quyền lợi chung và cùng tôn trọng nhau...'' không đơn thuần là
một lời nói ngoại giao, mà hàm ý rõ ràng kêu gọi cộng đồng các quốc gia
trên thế giới nỗ lực cho một cách sống chung mới. Phát biểu này đánh đi tín
hiệu khá rõ: Chính Mỹ cũng đang tìm cách ứng xử mới trong thế giới ngày
nay.
Liên quan đến Đông Nam Á, đặc biệt là Biển Đông, nhiều lần các nhà
quân sự Mỹ tuyên bố (ngay từ cuối thời George W. Bush): Mỹ đứng ngoài
việc tranh chấp biển đảo ở khu vực này, miễn là giữ được thông thương tự
9
do trên eo biển Malacca, các quyền lợi của Mỹ ở khu vực này được bảo
đảm, và không được đụng chạm đến Đài Loan. Có thể hiểu đây sẽ là ranh
giới cuối cùng Mỹ sẽ có thể chấp nhận một khi tình hình đòi hỏi bắt buộc
phải như vậy8.
Mặt khác Mỹ khuyến khích giải quyết những đề tranh chấp trên Biển
Đông trên diễn đàn đa phương giữa các nước liên quan ở Đông Nam Á.
Trong cuộc nghe điều trần của về Biển Đông tháng 7-2009, Thượng viện Mỹ
đã bầy tỏ mối quan ngại sâu sắc của Mỹ về tình hình Trung Quốc ngày càng
lấn át về kinh tế và quân sự ở khu vực này. Cuộc điều trần này cho thấy Mỹ
chủ trương phải có thái độ chủ động hơn đối với các nước trong khu vực
Biển Đông, “...từ quan hệ về chính sách đến đối thoại về chiến lược, lên tới
tầm mức hoạt động quân sự, bằng cách gia tăng khả năng quân sự cho các
nước đối tác. Trong khi đó Hoa Kỳ cũng tăng cường hoạt động ngoại giao
quân sự với Trung Quốc, gia tăng đối thoại để tránh nguy cơ tính toán sai
lầm gây xung đột bất ngờ”9.
Trong khi đó, tại cuộc họp ASEAN - Mỹ 24-07-2009 ngoại trưởng H.
Clinton khẳng định Mỹ tiếp tục tăng cường quan hệ với ASEAN10.
8 Tham khảo thêm: The Erosion of U.S. Power in Asia
http://www.feer.com/essays/2009/may/the-erosion-of-u.s.-power-in-asia
Chú ý: Tháng 2-1995 hải quân Philippines bị hải quân Trung Quốc đánh bại trong việc đòi lại khỏi
đảo San Hô Mischief (Vành Khăn – thuộc Trường Sa), Philippines yêu cầu hải quân Mỹ can
thiệp, nhưng bị từ chối với lý do đảo này nằm ngoài phạm vi Hiệp ước phòng thủ chung 2 nước
ký năm 1951, Mỹ chỉ ra tuyên bố phản đối Trung Quốc.
9 Tham khảo phát biểu của Scot Marciel và Robert Scher, Bộ quốc phòng Mỹ, tại cuộc điều trần
trước Thượng viện ngày 15-09-2009:
http://www.newsmax.com/headlines/webb_china_seapower/2009/07/16/236456.html
và phát biểu của thượng nghị sỹ JimWebb tại cuộc điều trần này
http://webb.senate.gov/newsroom/record.cfm?id=315847&
10 Tham khảo diễn văn khai mạc của ngoại trưởng H. Clinton
http://www.voanews.com/english/2009-07-23-voa16.cfm
10
Cũng không thể bỏ qua một thực tế khác là trong quan hệ song
phương Mỹ - Trung hiện nay, phía Mỹ cũng chủ động đảy mạnh xu thế hòa
hoãn.
Đối thoại chiến lược và kinh tế Mỹ - Trung (khai mạc phiên đầu tiên
tại Washington 27-09-2009) đã thực sự trở thành diễn đàn G2 mà nhiều
đồng minh của Mỹ không muốn. Tại diễn đàn này Obama nói “Mối quan hệ
giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ định hình cho thế kỷ 21… Đây là trách
nhiệm mà hai bên phải gánh vác.” Trong điện chúc mừng phiên họp đầu tiên
của diễn đàn này, Hồ Cẩm Đào viết: “Cả Trung Quốc và Mỹ gánh vác trên
vai trách nhiệm quan trọng về những vấn đề trọng đại liên quan đến hòa
bình và sự phát triển của nhân loại.” 11.
Chắc chắn rồi đây lúc hòa hoãn, lúc căng thẳng, song phía Mỹ sẽ vẫn
có các bước đi tiếp mở rộng quan hệ với Trung Quốc trên mọi lĩnh vực, bên
nào cũng có thừa khôn ngoan giành cái lợi về cho mình.
Như vậy có thể thấy chính sách đa dạng của Mỹ nói trên đối với khu
vực Biển Đông sẽ còn tùy thuộc đáng kể vào chính thái độ các nước ASEAN
(đối với Mỹ và Trung Quốc), đồng thời chịu sự chi phối sâu sắc của quan hệ
Mỹ - Trung.
*
Về Trung Quốc: Sự lớn mạnh của Trung quốc với tính cách là “công
xưởng của thế giới” đang thúc đẩy khát vọng của Trung Quốc đi nhanh trên
con đường trở thành siêu cường, dự kiến khoảng năm 2050, mặc dù kinh tế
và nội trị Trung Quốc còn rất nhiều vấn đề nhạy cảm, thậm chí rất nhạy cảm.
Sẽ là phiến diện trong đánh giá Trung Quốc nếu bỏ qua những vấn đề nhạy cảm luôn
luôn xuất hiện trong kinh tế và trong nội trị của quốc gia này. Báo chí nước ngoài nhận
11 Tìm xem diễn văn của Tổng thống Obama tại phiên họp đầu tiên “Đối thoại chiến lược Mỹ -
Trung và Thương mại”,
http://www.whitehouse.gov/the_press_office/Remarks-by-the-President-at-the-US/China-
Strategic-and-Economic-Dialogue/ và
Washington, 27-07-2009: http://http//www.whitehouse.gov/blog/A-Dialogue-with-China
11
xét: Cái yếu nhất của Trung quốc là Trung Quốc là nước của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc (Willi Lam), chính vì lẽ này Trung Quốc không thể trở thành siêu cường với nghĩa
lãnh đạo thế giới. Thậm chí cần thấy rõ trong quá trình phát triển của nó, quốc gia này
luôn luôn đứng trước không ít những vấn đề nan giải về phân hóa và bất công xã hội, về
khoảng cách giầu nghèo quá lớn, nguy cơ phân rã, sự mong manh của hệ thống ngân
hàng tài chính tiền tệ, những thách thức thường trực đối với hệ thống chính trị... Thực tế
này giải thích tại sao Trung Quốc sẵn sàng thực hiện các biện pháp cực đoan không
tưởng tượng nổi và chưa từng có như “cách mạng văn hóa”, “sự kiện Thiên An Môn”,
chính sách đối với Tân Cương và Tây Tạng... Nhạy cảm lớn nhất đối với hệ thống chính
trị của Trung Quốc là vấn đề dân chủ. Điều cần chú ý: Trung Quốc là một thế giới cho
chính nó, nghĩa là trong tình hình cấp thiết, Trung Quốc có thể huy động mọi khả năng và
lực lượng có thể, để chế ngự và kiểm soát tình hình nội tại; Trung Quốc có thể làm tất cả
mọi việc rất cực đoan với cách nghĩ “mục tiêu biện minh cho mọi biện pháp”, chấp
nhận trả giá ghê gớm để giành được mục tiêu Trung Quốc muốn... Lịch sử cho thấy
Trung Quốc đã làm được một số việc cực đoan và đẫm máu như vậy. Lịch sử còn chứng
kiến, khi nội bộ có khó khăn hoặc cần giải quyết một yêu cầu chính trị nào đó, Trung
Quốc thường hướng “ngòi nổ” ra bên ngoài, đó là lúc tiến hành cách mạng văn hoá thì
giương cao ngọn cờ chống đế quốc “gió Đông thổi bạt gió Tây”; khi tiến hành cuộc chiến
tranh biên giới chống Việt Nam tháng 2-1979 thì gương cao ngọn cờ chống tiểu bá và
dậy cho Việt Nam bài học…12
Với nguồn tài nguyên Trung Quốc đem về bằng mọi cách từ khắp nơi
trên thế giới, trước hết là từ châu Phi và châu Mỹ Latinh, Úc.., Trung Quốc
hiện nay đứng đầu thế giới trong sản xuất nhiều nguyên liệu cơ bản như sắt,
thép, đồng, nhôm, ciment..; là cường quốc thứ nhất trong xuất khẩu tầu biển,
là cường quốc thứ hai sau Mỹ trong xuất khẩu ô-tô, trong vòng một vài năm
tới GDP kinh tế Trung Quốc dự kiến sẽ vượt Nhật13...
Báo chí thế giới thừa nhận Trung Quốc thành công vượt xa chủ nghĩa
thực dân mới của phương Tây tại châu Phi, Mỹ Latinh và một số nơi khác
trên thế giới (trong đó có Đông Nam Á...). Những khoản viện trợ lớn của
12 by/par Major H.A. Hynes China: the Emerging Superpower
http://www.fas.org/nuke/guide/china/doctrine/0046.htm
Beijing Learns to be a Superpower, Far Eastern Economic Review, May 2009
http://feer.com/essays/2009/may/beijing-learns-to-be-a-superpower
vân... vân...
13 Tìm đọc: các bài của John Tkacik về siêu cường Trung Quốc:
http://edgeweb.heritage.org/Research/AsiaandthePacific/upload/wm_1762.pdf
http://edgeweb.heritage.org/Research/AsiaandthePacific/upload/96070_1.pdf
http://www.gees.org/documentos/Documen-994.pdf
https://www.policyarchive.org/bitstream/handle/10207/12192/wm_1389.pdf
12
chính phủ Trung Quốc dành cho các quốc gia này với danh nghĩa “không
can thiệp vào công việc nội bộ của các nước nhận viện trợ”. Trên thực tế là
Trung Quốc quan hệ trực tiếp và ủng hộ giới thống trị ở những quốc gia này,
bất luận bản chất những chế độ này như thế nào. Phương thức hợp tác song
phương như vậy của Trung Quốc tại những quốc gia này đang mang lại
nhiều kết quả lớn cho Trung Quốc (tuy nhiên gần đây một số nước châu Phi
đã phản ứng chống lại sự tham lam thái quá của Trung Quốc). Hơn thế nữa,
hiện tượng Trung Quốc trở thành đối tác kinh tế ngày càng quan trọng với
Iran, Iraq, với các nước và lực lượng “cánh tả” (chống Mỹ) ở châu Mỹ
Latinh – nơi được coi là sân sau của Mỹ - đang làm cho Mỹ và phương Tây
lo lắng.
Bàn về sự thành công của Trung Quốc...
Tham khảo các bài:
Chinamixes rice and neo-colonialism
http://paguntaka.org/2006/10/07/china-mixes-rice-and-neo-colonialism/
China and Neo-Colonialism in Africa: AWarning from
South Africa
Larry Catá Backer, “The Problems of Being a great Power: China and
Neo-Colonialism in Africa, Law at the End of the Day, Nov. 22, 2006.
“Mbecki Warns on China-Africa Ties, BBC News, Dec. 14, 2006.
Andrew Bast: “China Safari: On the trail of Beijing’s Ex[pansion in
Africa – by Serge Michel and Michel Beuret” – bài bình đăng trong
World Politic Review ngày 18-09-2009 của hai tác giả người Pháp này,
trêm trang:
http://www.washingtonpost.com/wpdyn/
content/article/2009]08/14/AR2990081401094.pf.html
Bài của Andrew Bast bình về cuốn sách “China Safari...” đã được dịch
ra tiếng Việt dưới tiêu đề: “Chủ nghĩa thực dân Trung Quốc vận hành
không cần tư tưởng”, đăng trên trang:
http://bauxitevietnam.info/c/9949.html
13
“East Timor hit over 'dirty' power plants” http://www.theage.com.au/world/easttimor-
hit-over-dirty-power-plants-20090403-9qqc.html
Và nhiều bài khác về chủ đề này.
Những bài nói trên toát lên những ý chính sau đây:
Với danh nghĩa “không can thiệp vào công việc nội bộ”, Trung
Quốc không đặt ra những đòi hỏi về dân chủ hay nhân quyền, hay
những đòi hỏi về chấm dứt chiến tranh sắc tộc, nội chiến, về bảo vệ
môi trường... đối với các nước nhận viện trợ ở châu Phi, châu Mỹ
Latinh... (đặc biệt là đối với Sudan trong vấn đề tàn sát sắc tộc ở Dafur,
và đối với nội chiến ở Congo...) ; Trung Quốc cũng không quan tâm đến
những quy định cấm đoán có liên quan của Liên Hiệp Quốc. Trong khi
đó các nước phương Tây coi những đòi hỏi nêu trên là chuẩn mực cho
hợp tác của họ với những quốc gia này.
Nói khái quát: Viện trợ chính phủ, xóa nhiều khoản nợ lớn, quà
biếu, xuất khẩu nguồn nhân lực dồi dào, cùng với sự hậu thuẫn mãnh
mẽ từ phía chính phủ Trung Quốc cho các công ty của họ hoạt động
theo phương thức đổi các công trình kết cấu hạ tầng lấy tài nguyên và
đất đai... và nhiều phương thức khác, đã giúp cho Trung Quốc thu về
được những nguồn nguyên liệu to lớn và làm chủ nhiều khu mỏ quan
trọng tại những nơi này. Nạn tham nhũng và quan liêu trầm trọng của
nhiều quốc gia nhận viện trợ cũng tự nó góp phần đáng kể vào sự
thành công của Trung Quốc. Các nước nhận viện trợ này phát triển ra
sao, đời sống của nhân dân những nước này có được cải thiện gì
không... không phải là những vấn đề Trung Quốc quan tâm. Tại một số
nơi đã xảy ra bất mãn và chống đối của nhân dân với chính quyền tại
chỗ, đụng độ giữa lao động Trung Quốc và dân địa phương - có khi rất
nghiêm trọng như ở Algérie...
Với phương thức “Ít ý thức hệ thôi, trước hết vì lợi nhuận!” chủ
nghĩa thực dân của Trung Quốc đang thành công vượt hẳn Anh và Mỹ
trước đây (Serge Michel và Michel Beuret)...
Một sự kiện đang gây nhiều sự chú ý trong ngoại giao là trong khi
Đại sự quán Trung Quốc ở Dili (thủ đô Đông Timor) nỗ lực tuyên truyền
trong dư luận quốc tế về quan điểm “thắng – thắng” thể hiện qua sự
viện trợ hào phóng của Trung Quốc cho Đông Timor và sự hợp tác tốt
đẹp giữa hai quốc gia này, thì Tòa án Hiến pháp Đông Timor vừa qua
đã bác bỏ một dự án nhiệt điện do Trung Quốc làm chủ đầu tư mà thủ
tướng Đông Timor đã phê duyệt, lý do: đắt, công nghệ quá lạc hậu, gần
như mua sắt vụn, gây ô nhiễm môi trường nặng nề. Hiện nay, nhiều tổ
chức phi chính phủ ở Đông Timor đang lên án nhiều dự án khác do
Trung Quốc đầu tư – trong đó có nhà máy điện hạt nhân – không thông
14
qua đấu thầu rõ ràng... Báo chí nói rõ mọi nỗ lực của Trung Quốc ở
Đông Timor là nhắm vào các mỏ dầu phong phú của quốc gia này.
Vân Vân...
Liên quan đến Việt Nam nên tìm đọc toàn bộ quá trình phản biện của cả
nước và các trí thức người Việt ở nước ngoài về việc Trung Quốc khai thác
bô-xít ở Tây Nguyên.
Với nguồn dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới (2100 tỷ USD) Trung
Quốc đang tìm cách thay đổi hệ thống tiền tệ thế giới. Trước mắt Trung
Quốc chưa thể “hạ bệ” đồng USD (hiện nay vẫn còn chiếm tới 60% tổng
giao dịch tiền tệ và thương mại trên thế giới). Song với tư cách là chủ nợ lớn
nhất của Mỹ, đang nắm giữ khoảng 60% trái phiếu và những giấy tờ có giá
khác của Mỹ14, Trung Quốc đòi hỏi đồng nhân dân tệ cũng phải được coi là
phương tiện thanh toán quốc tế. Đòi hỏi này bị bác bỏ tại cuộc họp G20
(London 02-04-2009) với lý do đồng nhân dân tệ chưa phải là đồng tiền
chuyển đổi tự do. Trung Quốc chuyển sang chiến thuật mới là đòi nâng cao
vai trò của Trung Quốc tham gia vào “quyền rút vốn đặc biệt” (SDR – một
đơn vị được coi như là tiền của IMF) để làm yếu và tiến tới thay thế dần
đồng USD. Đồng thời Trung Quốc áp dụng các biện pháp đòi các nước có
quan hệ buôn bán với Trung Quốc trực tiếp dùng đồng nhân dân tệ làm
phương tiện thanh toán trong quan hệ song phương, một số nước đã chấp
thuận. Có thể nói đây là một bước mới bổ sung quan trọng cho việc mở rộng
quyền lực và ảnh hưởng của Trung Quốc trên thế giới – đặc biệt là quyền lực
mềm.
Trong số hàng nghìn tập đoàn kinh tế của Trung Quốc đã có nhiều tập
đoàn lọt vào danh sách các nhóm TNCs top 100, TNCs top 50 của thế giới,
trong đó phải kể đến tập đoàn dầu khí PetroChina có số vốn vượt 1000 tỷ
USD và trở thành TNC đứng đầu thế giới về quy mô vốn15.
14 Có tài liệu nói trong tổng số 2100 tỷ USD dự trữ của Trung Quốc có 35% nằm trong dạng dự
trữ bằng đồng USD và 25% là trái phiếu và các giấy tờ có giá; nghĩa là gần 1/3 tổng dự trữ của
Trung Quốc là do Mỹ nợ. Có lẽ thông tin này chính xác hơn.
15 Tuy nhiên về quy mô sản xuất dầu lửa, PetroChina vẫn chỉ bằng một phần ba hay một phần
hai so với các tập đoàn dầu khí của Anh và Mỹ như EXXON, BP.... Song chính thực tế này đang
nói lên chính sách huy động vốn rất quyết liệt của của chính phủ Trung Quốc cho PetroChina và
phản ánh cái “đói dầu” cực kỳ gay gắt của quốc gia này. Tìm xem: U.D.News - Now, From
China, the World's Biggest Company
15
Tình hình vừa trình bầy trên cho thấy chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc ngày càng tự bộc lộ ra là chủ nghĩa tư bản Trung Hoa thời nay
trong hệ thống chính trị một Đảng. Đấy chính là chủ nghĩa tư bản toàn trị
với đặc trưng Khổng giáo16.
Thế giới, nhất là các nước láng giềng của Trung Quốc, ngày càng lo
ngại trước hiện tượng Trung Quốc cũng đang trên đường trở thành siêu
cường quân sự - đặc biệt là các nước trong khu vực châu Á – Thái Bình
Dương.
Bình luận trên nhật báo Giải phóng quân Nhân dân (Trung Quốc)
ngày 12-03-2009, Hoàng Thôn Luận viết:
“...Quyền lợi quốc gia của Trung Quốc vượt xa ra ngoài biên cương
lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Trung Quốc, bao gồm cả các vùng đại
dương bao la nơi các tầu chở dầu của Trung Quốc qua lại, cũng như không
gian vũ trụ… Quyền lợi quốc gia Trung Quốc mở rộng đến đâu, sứ mệnh
của lực lượng vũ trang của chúng ta (Trung Quốc) được mở rộng đến đấy!..
Đứng trước nhiệm vụ lịch sử mới, lực lượng vũ trang của chúng ta (Trung
http://www.usnews.com/money/business-economy/articles/2007/11/05/now-from-chinathe-
worlds-biggest-company.html
16 Tìm đọc Niall Ferguson: “The decade the world tilted east”
http://www.ft.com/cms/s/0/ac26eb9a-f30a-11de-a888-00144feab49a.html
Merle Goldman: “China’s Beleaguered Intellectuals” đăng trong Current History: A Journal
of Contemporary World Affairs, số đặc biệt China and East Asia tháng 9 năm 2009: “...Chính quyền
Trung Quốc hiện nay vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Ðảng Cộng sản... Một thế hệ mới các lãnh
tụ Đảng xuất hiện, dẫn đầu là cựu Thị trưởng Thượng Hải Giang Trạch Dân... ngay sau khi lên
nắm quyền đã thẳng tay đàn áp những người biểu tình ủng hộ dân chủ tại Quảng trường Thiên
An Môn ngày 4 tháng Sáu năm 1989. Tập đoàn lãnh đạo đó – và đặc biệt thế hệ các lãnh tụ hiện
thời, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Cẩm Ðào cùng các cộng sự viên của ông ta, những kẻ lên nắm
quyền vào năm 2002 – đang tìm cách giáo huấn trở lại cán bộ Đảng để họ thấm nhuần hệ tư
tưởng Lê-ni-nit. Trong khi củng cố năng lực của chính quyền nhằm đối phó với những bất bình
đẳng ngày càng tăng và tệ nạn tham nhũng tràn lan, những kẻ lãnh đạo thuộc thế hệ trẻ của xứ
sở ấy đang ra sức tái tập trung quyền lực chính trị...”
http://www.currenthistory.com/Article.php?ID=702
Cao Huy Thu􀀀n:
“An ninh”, http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai17/200917_CaoHuyThuan.htm
16
Quốc) không chỉ bảo vệ biên giới lãnh thổ, mà còn phải bảo vệ biên giới
quyền lợi quốc gia của chúng ta.” 17
Ngân sách quốc phòng hàng năm của Trung Quốc hai thập kỷ nay
thường xuyên tăng 2 con số (từ 10 đến 17%/năm). Số liệu thống kê chính
thức của Trung Quốc cho biết chi tiêu quốc phòng của nước này năm 2007
ước khoảng 70 tỷ USD. Song theo đánh giá của Bộ Quốc phòng Mỹ, của
RAND - cơ quan nghiên cứu của Mỹ, và của RAW (Research and Analysis
Wing) – cơ quan nghiên cứu của Ấn Độ, thực chi cho ngân sách quốc phòng
của Trung Quốc năm 2007 ước khoảng 138 – 156 tỷ USD, đứng vào hàng
thứ 2 trên thế giới – nghĩa là ước khoảng 1/4 – 1/3 ngân sách quốc phòng
của Mỹ, vượt Nga, gấp 5 lần của nước Anh, và bỏ xa Ấn Độ... Ngày 21-09-
2009 Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt tuyên bố nước
này có hầu hết mọi hệ thống vũ khí hiện đại của các nước phương Tây.
Trung Quốc đang trở thành cường quốc vũ trụ. Hiện nay Trung Quốc
đang đẩy mạnh xây dựng hải quân nước xanh (hoạt động tầm đại dương
với hàng không mẫu hạm đang mua của Nga hoặc tự đóng lấy). Trong
chuyến đi thăm Trung Quốc đầu năm 2009 của đô đốc Mỹ Timothy Keating,
phía Trung Quốc đặt thẳng vấn đề để Trung Quốc quản lý Thái Bình Dương
từ đảo Hawaii về phía Tây, phía Mỹ sẽ quản lý Thái Bình Dương từ Hawaii
về phía Đông. Keating đã đáp lại: “No, Thanks!”18. Riêng trên Biển Đông
hải quân Trung Quốc giữ vị thế áp đảo, với mục tiêu trước mắt là “cái lưỡi
bò”19.
17 Tìm xem: China's_Quasi_Superpower_Diplomacy_OP.pdf
http://www.jamestown.org/programs/books/single/?tx_ttnews[swords]=8fd5893941d69d0be3f378
576261ae3e&tx_ttnews[any_of_the_words]=Willy%20Lam%20
18 Tham khảo: (1) Tham khảo bài “China Proposes to the US - Split the PacificWith Us” của tạp chí
Strategy Page - USA http://www.strategypage.com/militaryforums/69-28963.aspx
(2)tường thuật của Taipe Times 22.02.09 về chuyến đi thăm Trung Quốc của đô đốc Mỹ Timothy
Keating.
19 Tham khảo:
17
Trên nhiều phương diện, hiện tượng Trung quốc trên đường trở
thành siêu cường đang là vấn đề nóng bỏng và rất phức tạp của cả thế giới.
Giáo sư Thôi Lý Nhũ, chủ tịch Viện Nghiên cứu quan hệ quốc tế đương đại
(CICIR – Bắc Kinh), một viện nghiên cứu chiến lược của Trung Quốc tầm
cỡ quốc tế, đầu năm nay phát biểu thẳng thắn trước giới học giả nước ngoài:
“Mười năm qua Trung Quốc đã phát triền từ một vị thế tương đối thấp lên một vị thế
tương đối mạnh, vì vậy những xung đột giữa Trung Quốc với thế giới bên ngoài không
đặc biệt quyết liệt lắm (not particularly vehement). Tuy nhiên, trong vòng mười năm tới,
Trung Quốc sẽ đi tiếp từ vị thế tương đối mạnh hiện nay lên một vị thế còn mạnh hơn nữa.
Ảnh hưởng của Trung Quốc đối với thế giới sẽ còn lớn hơn nữa – và nỗi lo của thế giới về
Trung Quốc cũng sẽ tăng theo...”20
Trên thế giới, kể cả Mỹ, không ai đặt vấn đề đối đầu với Trung Quốc.
Nhưng tất cả các quốc gia đều phải cùng nhau hay riêng lẻ nỗ lực tìm cách
ứng xử và đối xử thích hợp nhất với hiện tượng Trung Quốc trong thế kỷ 21
này sao cho phù hợp với xu thế tiến bộ chung của loài người. Đó còn là
phương thức hữu hiệu nhất, khuyến khích hay bắt buộc Trung Quốc cũng
phải thích nghi với trào lưu chung của thế giới.
*
II.Một số vấn đề đối ngoại đặt ra cho Việt Nam
Sự suy yếu tiếp tục của Mỹ và mối quan hệ Mỹ - Trung trong cục diện
thế giới như vừa trình bầy trên là hai yếu tố mới, nổi bật nhất, trực tiếp nhất
kết thúc thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, vẽ lại bản đồ chính trị của thế giới:
hiện tượng một siêu đa cường.
(1) “Chiến lược hải quân của Trung Quốc và hàm ý của nó đối với khu vực Biển Đông” của
Ngô Vĩnh Long,
Đại họcMaine,Orono,Maine, http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai11/200711_NgoVinhLong.htm
(2) “An ninh” của Cao Huy Thuần trên VietnamNet và Thời đại mới tháng 12-2009
20 – (tìm xem trong: Willy Lam,
China's Quasi-Superpower Diplomacy: Prospects and Pitfalls, September 2, 2009,
http://www.jamestown.org/programs/books/single/?tx_ttnews[tt_news]=35453&tx_ttnews[backPid]=7&
cHash=c647881d48)
18
Riêng trên Biển Đông đang hình thành với nhiều diễn biến phức tạp
xu thế hai cực Mỹ - Trung. Thực tế này liên quan trực tiếp đến nước ta trong
thập kỷ tới trên nhiều phương diện. Mối quan hệ Việt – Trung trở thành vấn
đề đối ngoại quan trọng nhất và khó xử lý nhất đối với nước ta trong thập kỷ
tới.
1. Vị trí của Việt Nam trong chính sách đối ngoại hiện nay của các
nước trên thế giới
Trước khi bàn sâu quan hệ Việt – Trung, xin nêu lên một vài nhận xét
khái quát về vị thế Việt Nam ngày nay trên trường quốc tế.
Có thể nói hiện nay Việt Nam đạt được vị thế quốc tế cao nhất trong
lịch sử của mình với tính cách là một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Việt
Nam ngày nay là đối tác chiến lược của nhiều nước, đầu tư nước ngoài và
kim ngạch ngoại thương tăng trưởng năng động. Chính sách đối ngoại hòa
bình – hợp tác – hữu nghị của Việt Nam cùng với cục diện thế giới hiện nay
mang lại cho Việt Nam vị thế này. Sự thiện cảm của nhân dân thế giới dành
cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước của Việt Nam
trong thế kỷ trước cũng là yếu tố quan trọng góp phần làm nên vị thế quốc tế
ngày nay của đất nước. Toàn bộ thực tế vừa trình bầy tạo ra thuận lợi rất
quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, cho thực hiện nghĩa
vụ đối với thế giới của Việt Nam với tính cách là một quốc gia thành viên
đầy đủ và bình đẳng trong cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên, cần nhận rõ một sự thật khác, đó là vị trí của Việt Nam
trong chính sách đối ngoại của nhiều nước đối tác, nhất là các nước đối tác
quan trọng, nói chung là tương đối thấp so với khả năng Việt Nam có thể đạt
được – nguyên nhân chính không phải là nước ta nghèo mà chủ yếu vì:
(1) Về một số phương diện nhất định nước ta vẫn chưa bước ra khỏi
phong cách đối ngoại thời kháng chiến – phong cách tranh thủ sự
ủng hộ của cộng đồng thế giới là chính, mà chưa chủ động và tích
cực dấn thân tham gia vào những vấn đề chung của cộng đồng thế
giới, trong khi cuộc sống luôn luôn đòi hỏi có cho có nhận chứ
không thể một chiều chỉ nhận – nhất là nước ta bây giờ là một
quốc gia thành viên đầy đủ trong các thể chế của cộng đồng quốc
tế.
19
(2)Tuy ta có thiện chí hợp tác – dù song phương hay đa phương,
nhưng do khả năng của ta, do nhiều vấn đề nội bộ riêng của nước
ta chưa một lòng một ý, dẫn tới sự hợp tác của ta chưa đạt được
mức tiềm năng cho phép, chưa đúng mức các đối tác mong đợi,
thậm chí có lúc ta chịu nhiều thua thiệt. Trong 25 năm qua nhiều
lần ta bỏ lỡ cơ hội lớn rất đáng tiếc và không lấy lại được.
(3)Nền ngoại giao Việt Nam hiện nay do ảnh hưởng của ý thức hệ
nên tiếp tục có những hẫng hụt nhất định trong nhận thức những
diễn biến mới trên thế giới, chưa chủ động dấn thân tiến cùng với
trào lưu thế giới - đây còn là vấn đề của tri thức, trí tuệ, phẩm
chất chính trị và mưu lược -, do đó chưa xác lập được cho mình
bản lĩnh mới để khai thác hay chủ động ứng phó với sự vận động
của xu thế thế giới. Bản lĩnh ngoại giao ngày nay của nước ta rất
yếu so với thời kỳ kháng chiến.
(4)Trên hết cả ngoại giao Việt Nam đang thiếu một nội trị vững
mạnh (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội) và một ý chí thống nhất
làm nền tảng. Phải thừa nhận: Nội trị hiện nay của nước ta cản trở
đáng kể phát huy vị thế đối ngoại của đất nước.
Những nhược điểm trình bầy trên đang hạn chế sức mạnh ngoại giao
nước ta và ảnh hưởng đến sức mạnh của nước ta nói chung, nhất là trong
việc tập hợp đồng minh để bảo vệ lợi ích quốc gia và để tiếp tục phát huy vị
thế mới của đất nước.
Do sự vận động của tình hình thế giới, đặc biệt là do các mối tương
quan mới giữa các cường quốc – bao gồm cả hiện tượng Trung Quốc đang
trên đường trở thành siêu cường, xuất hiện tại nhiều nước các châu lục khác
nhau trên thế giới mối lo Việt Nam có thể rơi vào vòng tay của Trung Quốc.
Đặc biệt là trong bối cảnh quốc tế hiện nay, các cường quốc phương
Tây, kể cả Mỹ, đều không muốn có một Việt Nam yếu, chịu lệ thuộc vào
Trung Quốc. Những nước này, kể cả Mỹ, hiểu rõ ý thức độc lập tự chủ của
Việt Nam và vì thế có lẽ không có ảo tưởng lôi kéo Việt Nam đi vào con
đường ngoại giao của những đối trọng. Có thể hiểu, xu thế chính của
những nước này là muốn có một Việt Nam mạnh đúng với vị thế đang có
trong khu vực, giữ vững được độc lập tự chủ của mình – vì các lý do:
(1)Việt Nam ngày nay không phải là “đối tượng” của những
cường quốc này;
(2)Việt Nam ngày nay không có có xung đột lợi ích với họ;
20
(3)một Việt Nam mạnh, độc lập tự chủ và có vị thế như thế sẽ
có lợi nhất cho họ trên bàn cờ thế giới hiện tại...21;
(4)một Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc hoặc để Trung
Quốc khống chế là điều nguy hại đối với hòa bình và an
ninh khu vực với nhiều hệ quả xấu khác – đây là điều
nhiều cường quốc và nhiều nước láng giềng và bè bạn của
ta không muốn, chính nhân dân ta cũng không chịu22;
(5) vân… vân…
Cần nói rõ như vậy để không cường điệu hóa đến mức nhầm lẫn coi
các sự việc “can thiệp vào nội bộ Việt Nam để diễn biến hòa bình dưới chiêu
bài dân chủ và nhân quyền” là quốc sách lật đổ của các nước phương Tây
đối với nước ta. Trong bối cảnh thế giới và khu vực hiện nay, bất kể sự
cường điệu nào với mầu sắc như vậy đều có hại cho nước ta.
Hiển nhiên giữa chế độ chính trị nước ta và chế độ chính trị của các
nước phương Tây có nhiều giá trị khác nhau, đặc biệt là chung quanh vấn đề
dân chủ và nhân quyền.
Các nước phương Tây vì lợi ích của chính mình có chủ trương khai
thác các vấn đề như xã hội dân sự, dân chủ và nhân quyền – một xu thế ngày
càng trở thành một trào lưu mạnh trên thế giới – để phát huy ảnh hưởng của
họ vào các nước khác, kể cả vào Trung Quốc. Có quốc gia nào, nhất là các
nước lớn, lại không muốn phát huy ảnh hưởng của mình ra bên ngoài, để tập
hợp lực lượng, để khai thác, để tác động vào những điểm yếu của các nước
có liên quan, v... v..?
21 Tìm xem: “Quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ”, bài nói chuyện của Thượng Nghị sỹ John
McCain tại Học viện Ngoại giao Việt Nam, Hà Nội 07/04/2009: “…Giờ đây, công việc
khó khăn nhất bình thường hoá quan hệ đã lùi lại phía sau. Tôi tin rằng, đã đến lúc
chúng ta chuyển từ việc bình thường hoá quan hệ song phương sang hiện đại hoá
những liên kết giữa hai nước cho tương xứng với vị thế ngày càng tăng của Việt Nam ở
khu vực và trên thế giới… Đã đến lúc cần có bước đi mới…Việc tiếp tục củng cố mối
quan hệ giữa hai nước không nên chỉ vì sự chuyển đổi kinh tế chưa từng thấy của Việt
Nam và tiến bộ vượt bậc trong quan hệ giữa hai nước trong hai thập kỷ qua, mà còn vì
sự chuyển dịch sức mạnh kinh tế mang tính lịch sử từ phương Tây về châu Á…Và trong
kỷ nguyên này, tôi tin rằng Việt Nam sẽ đóng một vai trò hết sức quan trọng”. Thông
điệp này của McCain nói lên điều gì?
22 Chỉ riêng viện trợ ODA năm 2009 đạt mức cao nhất từ xưa đến nay (8 tỷ USD) trong lúc các
nước cấp viện trợ chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay đã nói lên điều này.
21
Xin đừng quên cuộc sống và quy luật tiến hóa của xã hội loài người
cũng như trong quan hệ giữa các quốc gia trên trái đất này xưa nay và mãi
mãi sẽ có “diễn biến”, “diễn biến hòa bình” vào nhau như vậy. Cứ xem
Trung Quốc “diễn biến”, “diễn biến hòa bình” vào nước ta như thế nào trong
lịch sử 2000 năm quan hệ hai nước cho đến ngày nay cũng sẽ rõ. Trong sự
“diễn biến” vào nhau này, quy luật muôn đời vẫn là: Người thắng cuộc luôn
luôn là kẻ có khả năng thích nghi và vượt trội cao hơn đối tượng của mình.
Yếu tố căn bản để trở thành người thắng cuộc là phải đồng hành với tiến bộ
và những giá trị cao đẹp. Chẳng lẽ lịch sử 2000 năm của nước ta không nói
lên điều gì trong mối quan hệ qua lại này?
Cũng là chuyện hiển nhiên các tổ chức của một số người Việt ở nước
ngoài muốn sử dụng vấn đề dân chủ và nhân quyền để lật đổ nhà nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Họ làm mọi việc và “lobby” mọi người,
mọi tổ chức, mọi cơ quan nước họ cư trú, vận động dư luận, để tranh thủ
nhân vật này hay lực lượng nọ của nước sở tại hoặc ở những nơi khác cho
mục đích lật đổ, chống đối của họ. Vấn đề chống đối hay lật đổ như thế
trước hết là vấn đề giữa trong nước và những lực lượng người Việt này ở
nước ngoài23.
Nếu cho câu chuyện chống đối và lật đổ của những người Việt này là
quốc sách hay là nằm trong quốc sách của các cường quốc phương Tây, kể
cả Mỹ, thì sẽ là sự cường điệu đến mức chệch hướng. Nếu các cường quốc
phương Tây lúc này có quốc sách muốn lật đổ hay muốn diễn biến hòa bình
để lật đổ Cộng Hòa Xã Hội chủ Nghĩa Việt Nam thì họ phát triển quan hệ
mọi mặt với Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, dành cho Việt Nam
không ít sự giúp đỡ để làm gì? Mà Việt Nam đã, đang nhận và sẽ tiếp tục
23 Tiếp súc với nhiều người Việt ở nước ngoài nổi lên một nhận xét khá phổ biến: Khi còn chính
quyền Sài Gòn với cả triệu quân đầy vũ khí trong tay mà còn thua cộng sản, mấy tổ chức
đảng phái này nọ ngoài này nhằm nhè gì! Đánh võ mồm! Có những người của các đảng
phái này chống Hà Nội quyết liệt, song không ít trong số họ vì những động cơ riêng tư
hoặc vì những mục đích vụ lợi rõ rệt. Số đông người Việt ở nước ngoài thuộc thế hệ
chiến tranh không muốn dính líu với những đảng phái này, số thế hệ trẻ không biết đến
chiến tranh hầu như không quan tâm đến những thứ như thế. Tâm lý số đông người Việt
thuộc thế hệ chiến tranh là hận thù cũ nguôi ngoai dần, muốn đất nước yên ổn để gìn giữ
quan hệ ruột thịt họ hàng hoặc có điều kiện phát triển công việc làm ăn, ví dụ rõ nhất có lẽ
là trường hợp ông Nguyễn Cao Kỳ... Có nhiều trí thức mong muốn đóng góp với đất nước
nhưng thấy trong nước còn nhiều điều chưa chấp nhận được. Tâm lý chung là mong
muốn đất nước có dân chủ, thượng tôn pháp luật và sớm thoát nghèo, rất lo ngại uy hiếp
của Trung Quốc đối với đất nước – một số còn cho rằng nếu làm được như vậy thì ĐCSVN
cũng được!
22
nhận sự giúp đỡ ấy. Thậm chí Việt Nam đang yêu cầu họ thừa nhận nền kinh
tế của mình là nền kinh tế thị trường, muốn họ tăng cường giúp đỡ...
Nếu các cường quốc phương tây lúc này có quốc sách lật đổ hay diễn
biến hòa bình để hạ gục nước ta, tại sao một số nước trong các nước phương
Tây lại đồng ý nâng quan hệ hợp tác với nước ta lên tầm đối tác chiến
lược?.. Các nước phát triển từ hàng chục năm nay liên tục dành cho nước ta
những khoản viện trợ ODA không nhỏ, nguồn vốn tài trở này góp phần quan
trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội nước ta. Hàng năm chính phủ ta
tiếp tục vận động các nước duy trì nguồn tài trợ này. Hội nghị các nước tài
trợ ODA tháng 12-2009 đã quyết định viện trợ ODA cho Việt Nam 8 tỷ
USD, mức cao nhất từ trước đến nay – trong lúc bản thân những nước này
chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay. Tại hội nghị này
các nước nhấn mạnh: muốn phía Việt Nam xử nghiêm khắc vụ Huỳnh Ngọc
Sỹ và đảy mạnh chống tham nhũng nói chung, đình chỉ một số vụ việc mất
dân chủ và nhân quyền... Giữa lúc nước ta đang nỗ lực khắc phủng khủng
hoảng kinh tế, sự giúp đỡ này càng có ý nghĩa. Có thể coi những đòi hỏi này
của các nước viện trợ là diễn biến hòa bình chống đối hay lật đổ Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa việt Nam? Còn chủ trương của trong nước dùng vấn đề
“diễn biến hòa bình” để giải quyết những vấn đề trong nội bộ nước ta lại là
câu chuyện hoàn toàn khác.
Sự thực có một thứ diễn biến hòa bình khác nhất thiết phải vô hiệu
hóa, đó là sự câu kết giữa tham nhũng, tha hóa ở trong nước và bàn tay can
thiệp của quyền lực mềm từ bên ngoài. Song cho đến nay chưa được đặt ra
yêu cầu chống sự diễn biến nguy hiểm này. Những dự án kinh tế lớn công
nghệ lạc hậu có vốn đầu tư nước ngoài được hình thành thông qua những
quá trình đấu thầu méo mó, tình trạng buôn lậu, xuất khẩu lậu những khối
lượng hàng hóa lớn và nhiều sự việc nghiêm trọng khác đã xảy ra… đòi hỏi
phải ngăn ngừa sự lũng đoạn nguy hiểm này.
Nói thêm về vấn đề làm bạn với người
Cần nhấn mạnh đường lối ngoại giao muốn làm bạn với người của
nước ta là đúng đắn. Tuy nhiên, lẽ đời nghiệt ngã: chỉ có thiện chí “chay” –
nghĩa là chẳng có thực lực hay ảnh hưởng gì làm căn bản – thì trước sau
“chay” vẫn hoàn “chay”! Vì vậy, không thể bỏ qua một chuỗi câu hỏi tiếp
theo và rất nhiều việc phải làm, để cho đường lối làm bạn này trở thành hiện
thực:
23
-1- Ta muốn làm bạn với người, nhưng người có muốn làm bạn với ta
không? – đấy là hai chuyện khác nhau.
-2- Làm thế nào để ta có thể là bạn được của người? người cũng muốn nhận
ta làm bạn? – Còn thứ “làm bạn” do được ban phát thì chẳng hay ho gì
– vì đó sẽ là nếu sang thì làm đĩ, nếu kém sang một chút thì làm thằng
hầu!
-3- Làm thế nào để người cần phải làm bạn với ta?
-4- Làm thế nào để người nếu không muốn làm bạn với ta thì cũng không
chống được ta?
-5- Làm thế nào để người nếu không muốn làm bạn với ta thì cũng phải tôn
trọng ta?
-6- Làm thế nào để người không thể phản ta hay bán rẻ ta?
-7- Làm thế nào để người nếu chưa phải là bạn của ta hoặc chưa muốn thì
cũng không chống ta?
-8- Làm gì và làm thế nào để nước ta không bị lôi vào trò chơi “đối trọng”,
lúc là “cái mộc” cho người này, lúc là “lá chắn” cho kẻ khác..?
-9- Làm thế nào để ngày càng thêm bạn, bớt thù?
-10- Làm thế nào để không ai cô lập được Việt Nam?..
-11- Vân... vân...
Tóm lại, muốn làm bạn với người, trước hết phải biết mình là ai, và
cần hiểu mình phải (sẽ phải) là ai. Điều này cũng có nghĩa ta phải quyết tâm
là chính ta, rồi mới đủ trí tuệ và bản lĩnh tính chuyện làm bạn với người.
Đừng quên độc lập tự chủ là một trong những bài học quý được xếp ngang
với ý chí Không gì quý hơn độc lập tự do!
Có thể nói ngoại giao Việt Nam vô cùng giầu có những bài học này.
Vậy lo câu chuyện làm bạn, trước hết là lo cho mình có lực, có trí tuệ, có tư
cách, có tính cách, có ảnh hưởng lan tỏa, có khí phách, có mưu lược và có
bản lĩnh thực hiện đường lối đối ngoại làm bạn. Tại hội nghị Thành Đô
(1990) ta muốn làm bạn, thậm chí muốn làm đồng chí nữa, nhưng Trung
Quốc có chấp nhận đâu! Có thể nói dứt khoát đường lối ngoại giao làm
bạn phải bắt nguồn từ nội trị lành mạnh và đầy sức sống của quốc gia, từ sự
chủ động dấn thân vào trào lưu chung của thế giới – nếu khộng, thì đường
lối này chỉ đưa nước ta trở thành con đĩ hay thằng hầu. Không có ý thức hệ
nào thay đổi được quy luật này trong cuộc sống.
Việt Nam đang có vị thế đối ngoại cao chưa từng có trong lịch sử của
mình để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, mở rộng ảnh
hưởng của mình đối với thế giới bên ngoài. Song vấn đề hàng đầu của ngoại
24
giao Việt Nam ngày nay vẫn là nhận biết chuẩn xác thế giới và giác ngộ triệt
để lợi ích quốc gia, dấn thân với tất cả tinh thần độc lập tự chủ.
2. Một số suy nghĩ về quan hệ Việt – Trung
2.1.Đại hán, bài Hoa, thần phục Hoa
Trước hết nên đặt sang một bên những ảnh hưởng di sản lịch sử để lại
và tách ra khỏi mọi cách nghĩ bài Hoa hay thần phục Hoa để tỉnh táo nhìn
nhận sự việc.
Ví dụ không ít người nghĩ rằng sự bành trướng của Trung Quốc là do
tư tưởng đại Hán. Điều này đúng nhưng không đủ. Nghĩ thế hàm nghĩa khi
nào Trung Quốc bỏ được đại Hán – một điều không tưởng – thì sẽ hết bành
trướng
Thực ra đòi hỏi về không gian sinh tồn của Trung Quốc trên con
đường trở thành siêu cường đặt ra nhiều vấn đề nghiêm trọng hơn so với tư
tưởng đại hán. Nghĩa là dù có hay không tư tưởng đại hán, vấn đề mở rộng
không gian sinh tồn của cái công xưởng thế giới này vẫn là tất yếu – vì “đầu
vào” và “đầu ra” của nó là cả thế giới, nhằm vào thế giới. Tự Trung Quốc đã
nói lên: Hàng hóa Trung Quốc tới đâu, quyền lực mềm của Trung Quốc tới
đó. Điều này cho thấy chẳng có liên minh hay đồng minh nào cùng ý thức
hệ, cũng chẳng có tư duy bài Hoa hay thần phục Hoa nào có thể vô hiệu
hóa được đòi hỏi mở rộng không gian sinh tồn này24 của cái công xưởng thế
giới. Thực tế này đòi hỏi nước ta phải có một cách tiếp cận khác và cách giải
quyết khác những thách thức đặt ra.
Trung Quốc trên con đường trở thành siêu cường rất khó mở rộng
không gian sinh tồn đi lên hướng Bắc, sang phía Đông hay về phía Tây. Cứ
24 Khái niệm “không gian sinh tồn” nghe rất lạc hậu, rất thịnh hành thời Đức quốc xã, ngày nay ít
người muốn nói tới; thậm chí ngày nay có người tin rằng vấn đề này ngày nay đã được giải
quyết: các quốc gia thời kỳ toàn cầu hóa ngày nay không cần phải mở rộng không gian sinh tồn
của mình mà vẫn có thể phát triển – trong chừng mực nhất định ý kiến này là có lý. Song rất tiếc
rằng cuộc sống không biến mất hiện tượng mở rộng không gian sinh tồn, mà chỉ phát triển thêm
các hình thái “mở rộng” khác nhau mà thôi. Hình thái “mở rộng” của Trung Quốc hiện nay là
đa dạng nhất, bao gồm cả hình thái xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải nước khác và các hoạt động
khác, trong nhiều trương hợp là cách hành xử “mục tiêu biện minh cho biện pháp” như mọi
người đều biết.
25
nhìn bản đồ địa dư và bản đồ địa chính trị thì thấy rõ điều này. Trong lịch sử
đã có vụ Ussuri với Liên Xô cũ năm 1969, phần trên bài viết này đã nêu ví
dụ Timothy Keating từ chối đề nghị của Trung Quốc đầu năm nay về chia
đôi Thái Bình Dương, Nhật bản trước sau không chịu chấp nhận đòi hỏi của
Trung Quốc về biển đảo, biên giới Ấn – Trung hiện nay đang căng thẳng...
Hướng thuận lợi nhất làm bàn đạp cho Trung Quốc mở đường giành vị thế
siêu cường chỉ còn lại hướng Nam, Việt Nam trong tình hình này trở thành
chướng ngại vật chính! Thực hiện được cái “lưỡi bò” ở Biển Đông, Trung
Quốc sẽ khống chế được tuyến đường biển huyết mạch Malacca và từ đó có
thể khống chế đáng kể Thái Bình Dương, sẽ có thêm sức nặng mặc cả để
nâng cao vị thế của Trung Quốc. Chuyện Biển Đông có thể là đột phá khẩu,
là cú hích đẩy Trung Quốc lên vị thế chiến lược toàn cầu cao hơn, chứ
không đơn thuần là Trung Quốc chỉ tranh chấp lãnh hải và tài nguyên. Xin
đừng quên điều này.
Hơn nữa, trong thập kỷ vừa qua sự đi xuống quá nhanh của phương
Tây – trước hết là Mỹ, sự đi lên quá nóng của Trung Quốc trên thực tế đã
dẫn đến tình hình Lý Quang Diệu mô tả: Đang hình thành khu vực trống
(vacuum) trong chính sách của Mỹ khiến cho Trung Quốc tự do hoành hành
ở châu Á25. Không phải ngẫu nhiên mối quan ngại của hầu hết các nước
châu Á về một siêu cường Trung quốc đang gia tăng, nhất là trong bối cảnh
quốc tế hiện nay. Sự vận động của cục diện thế giới và sự phát triển tự thân
của Trung Quốc tạo nên tình huống như vậy; chẳng có đạo đức, thiện chí, ý
thức hệ hay cuồng vọng nào có thể thay đổi được. Sự thật duy nhất Trung
Quốc phải tuân thủ là cường quốc đang phát triển năng động này tuy thế
cũng không thể làm gì vượt quá khả năng và tầm với của nó.
Trong chiến lược toàn cầu của mình, hiện nay Trung quốc vẫn chủ
trương “giấu mình chờ thời”, tiếp tục tranh thủ thời gian để mạnh thêm và
để cho các đối thủ chính của mình – trước hết là Mỹ - tiếp tục suy yếu thêm.
Đồng thời Trung Quốc sẽ không bỏ lỡ bất kỳ cơ hội nào có các “bước đi
nóng” (hot performances) trong phạm vi cục bộ, nhất là đối với Việt Nam -
như chúng ta đã thấy từ hơn nửa thế kỷ nay: trong cuộc chiến tranh biên giới
chống Việt Nam 2-1979, trong đàm phán biên giới trên bộ, trong đánh chiếm
25 Tìm xem:
“Obama urged to fix trade policy vacuum”
By Edward Luce inWashington
Published: November 9 2009 20:06 | Last updated: November 9 2009 20:06
http://www.ft.com/cms/s/0/5b24d05a-cd61-11de-8162-00144feabdc0.html
26
các đảo của ta ở Biển Đông, các hoạt động uy hiếp khác trên biển, vân vân…
Thế giới về cơ bản vẫn là cục diện hòa bình, song một nửa thế kỷ qua Đông
Nam Á luôn có những sự cố như vậy. Đây là điểm khác nhau quan trọng
giữa cục diện quốc tế nói chung và tình hình khu vực nước ta đang sống nói
riêng. Giới hạn hay yêu cầu Trung Quốc đặt ra cho những “bước đi nóng”
này là về đại cục miễn sao không cản trở, mà phải thúc đẩy nhanh hơn mục
tiêu chiến lược là sớm trở thành siêu cường của Trung Quốc26.
Cũng không phải ngẫu nhiên, các Đại hội của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc từ năm 1949 đến nay không lúc nào không tìm cách xoa dịu mối lo
của thế giới, luôn luôn giương cao ngọn cờ chống bá quyền, thực chất là để
thanh minh cho chính mình. Gần đây nhất Trung Quốc bỏ cả cách nói trỗi
dậy hòa bình, và ngày càng nói nhiều đến win-win. Trong khi đó phương
tiện truyền thông nội địa Trung Quốc gần như không có thời kỳ nào, kể cả
hiện tại, ngớt nói công khai suy nghĩ của Trung Quốc về không gian sinh
tồn, điển hình có lẽ là bài nói của tướng Trì Hạo Điền – nguyên bộ trưởng
Bộ Quốc phòng, tại Hội nghị các tướng lĩnh Trung Quốc bàn về chiến lược
chiến tranh tương lai, tổ chức năm 2005 (được công bố trên Tạp chí "Các
vấn đề chiến lược", Ấn Độ, 15/4/2009) và các bài nói về thời cơ đang đến
cho Trung Quốc giải quyết dứt điểm vấn đề Biển Đông27.
Như vậy cách nghĩ đại Hán, bài Hoa, thần phục Hoa chẳng ích gì.
Người Việt Nam ta cũng chẳng có cách gì bê đất nước mình đi chỗ khác để
tránh mọi điều phiền toái. Vậy chỉ còn cách đứng tại chỗ, suy nghĩ, làm
những việc phải làm: Chịu trở thành bãi phế thải của cái công xưởng thế
giới? Hay trở thành đối tác làm ăn được tôn trọng?
Hoàn toàn có khả năng trở thành một đối tác làm ăn được Trung
Quốc tôn trọng, nếu nước ta là một đối tác tin cậy và được tôn trọng của cả
thế giới. Mặt khác, hợp tác được với Trung Quốc với tư cách là một Việt
Nam độc lập và là một đối tác được tôn trọng, Việt Nam cũng sẽ hợp tác
được với cả thế giới. Thiếu điều căn bản này, nhân nhượng của ta đối với
Trung Quốc không thể giúp nước ta yên thân, mà chỉ khuyến khích Trung
26 Tham khảo: Nguyễn Trung, “Biển Đông hòa bình hay nổi sóng?”
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai17/200917_NguyenTrung.htm
http://tuanvietnam.net/2009-12-03-bien-dong-hoa-binh-hay-noi-song
27 Tham khảo các bài báo Trung Quốc gần đây liên quan đến Biển Đông đã được nhà Trung
Quốc học Dương Danh Dy dịch ra tiếng Việt.
27
Quốc lấn tới. Hơn nữa, cần nhìn vào chính sách của Trung Quốc đối với
từng nước ASEAN riêng rẽ để thấy rõ thực tế trần trụi này. Làm thế nào để
cả dân tộc một lòng một dạ đem hết trí tuệ và nghị lực của mình làm bằng
được điều căn bản này, đấy là chìa khóa để giải quyết vấn đề. Cần nói thẳng
thắn: Hiện nay chưa làm được như vậy! Hiện nay con đường làm như vậy
thậm chí có những sự việc tự ngăn chặn!
2.2. Thực tế quan hệ Việt – Trung hiện nay
Hội nghị cấp cao Việt – Trung tại Thành Đô năm 1990 tuy còn nhiều
vấn đề phải bàn cãi28, song đã mở đầu thời kỳ quan hệ bình thường Việt-
Trung hiện nay. Đến nay đã được 2 thập kỷ, xen kẽ những đoạn đường lúc
hợp tác, lúc căng thẳng, nơi này nơi khác vẫn còn đổ máu – lúc ở biên giới
trên bộ, lúc trên biển.
Đáng chú ý, sau khi hoàn tất cắm mốc biên giới trên bộ đầu năm
2009, với tất cả những nhượng bộ và thiện chí phía Việt Nam có thể làm,
tình hình lại rộ lên vấn đề Biển Đông, lúc này lúc khác ngư dân nước ta bị
giết hoặc ngược đãi dã man, “cái lưỡi bò” vẫn được mưu toan triển khai, kể
cả kịch bản dùng vũ lực cũng được báo chí Trung Quốc đề cập tới... Giống
như chim phải đạn, trong ký ức, một không khí lạnh buốt năm 1946 phảng
phất lại “…ta càng nhân nhượng, địch càng lấn tới!..” Người Việt Nam ai
quên được khoảnh khắc ngày xưa ấy?!.. Tuy nhiên thời thế đã xoay vần…
Mới đây, đúng một ngày sau khi Thủ tướng Nguyến Tấn Dũng đi
thăm Tứ Xuyên, Hội nghề cá nước ta phải ra tuyên bố ngày 16-10-2009
phản đối Trung Quốc ngược đãi và cướp bóc 200 ngư dân ta vào lánh nạn
cơn bão Ketsana 26-09-2009 tại đảo Trụ Cẩu – Hoàng Sa thuộc ta, ngày 21-
10-2009 người phát ngôn Bộ ngoại giao ta phải trao tiếp công hàm phản đối
cho đại sứ Trung Quốc.
Đặc biệt là những hoạt động ngược lại với 16 chữ như thế của Trung
Quốc trong các năm 2008 và 2009 ráo riết hơn và nghiêm trọng hơn so với
trước, mặc dù phía Việt Nam hết sức kiềm chế – như người phát ngôn Bộ
Ngoại giao ta vẫn nói. Đến nỗi dư luận nước ngoài cho rằng: Trung Quốc
nắm thóp được Việt Nam không bao giờ dám ngả vào Mỹ và phương Tây,
28 Tham khảo: Trần Quang Cơ – “Hồi ức và suy nghĩ”
http://74.125.153.132/search?q=cache:e1BycmfYpe4J:www.diendan.org/tai-lieu/hoso/
hoi-ky-tran-quang-co/hoiky-tqc-ch28
nên càng làm tới!.. Việt Nam mất cắp mà không dám la làng thì thế giới làm
sao bênh được!..29
Những hiện tượng “nóng”/ “lạnh” như thế xen kẽ nhau thường xuyên.
Trong khi đó chính giới hai nước không thiếu các chữ vàng lời đẹp nói về
quan hệ hai nước! Khoảng cách có thuốc súng và máu giữa thực tế và lời nói
như vậy cho thấy điều gì?
Xin lưu ý, trong bối cục của tình hình thế giới những năm 1980 Trung
Quốc đã dùng vũ lực thường xuyên uy hiếp Trường Sa, – đặc biệt là cuộc
tấn công đẫm máu của hải quân Trung Quốc đánh chiếm thêm các bãi cát
ngầm và một số đảo ở Trường Sa ngày 14-03-1988. Ngày nay không thể
không đặt ra câu hỏi: Trung Quốc dự định và có thể sẽ làm gì nữa trong bối
cảnh thế giới hiện tại?
Trong bài đăng trên Hoàn Cầu Thời báo, ngày 18/03/09, tác giả Đới
Hy, đại tá không quân Trung Quốc và nhà bình luận có tiếng, kêu gọi thiết
lập căn cứ quân sự tại Trường Sa: "Song song với việc phát triển nguồn tài
nguyên Nam Hải (Biển Đông), cần thiết lập căn cứ quân sự trên quần đảo
Nam Sa (Trường Sa), với các cơ sở dành cho máy bay, trực thăng và các loại
hình tác chiến khác. Hải phận và không phận rộng lớn ở đây sẽ trở thành địa
điểm huấn luyện quân sự... không chỉ bảo vệ phát triển kinh tế của toàn Nam
Hải (Biển Đông) mà còn thúc đẩy hiện đại hóa quân đội."30
29 Loại trừ kẻ xấu, dư luận chính đáng trên thế giới không sao hiểu nổi phản ứng nhu nhược hay
sự nhẫn nhục cùa Việt Nam trước những sự kiện ngang ngược của Trung Quốc. Luồng dư luận
này cho rằng vì ngại sức ép của Trung Quốc, vì lo rằng phong trào phản đối Trung Quốc sẽ dấy
lên phong trào dân chủ trong nước, nên ĐCSVN không dám huy động nhân dân đấu tranh,
không dám kêu gọi dư luận quốc tế như đã làm thời kháng chiến.
30 http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2009/10/091011_china_stringofpearl.shtml
Dr. Evan A. Feigenbaum - China's Military Posture and the New Economic Geopolitics
http://www.rice.edu/energy/publications/docs/AsianEnergySecurity_ChinaMilitaryPosture.pdf
- trong bài này E. A. Feigenbaum đề cập đến nguy cơ TQ có thể tiếp tục đánh chiếm một số đảo ở Biển
Đông mà Mỹ không làm gì nếu chưa đụng chạm đến lợi ích chiến lược của Mỹ trong toàn vùng. Trong khi
đó không ít báo chí Trung Quốc cho rằng hiện nay là thời cơ tốt nhất để Trung Quốc thực hiện đường lưỡi
bò.
29
Trong quan hệ kinh tế hai nước có rất nhiều vấn đề phức tạp. Không
biết phía Trung Quốc lobby thế nào mà thắng thầu nhiều công trình kinh tế
lớn do phía Việt Nam làm chủ đầu tư, kể cả tại nhiều địa điểm có ý nghĩa
quan trọng đối với an ninh quốc phòng của ta. Đáng chú ý là nước ta hiện
nay đã đạt được trình độ phát triển nhất định, mà hầu như tất cả các công
trình do Trung Quốc thực hiện đều dưới dạng chìa khóa trao tay (EPC) - với
công nghệ chắc chắn là hạng hai hạng ba gì đó – ví dụ công nghệ cho nhà
máy Nhân Cơ sơ chế bô-xít thành alumin ở Tây Nguyên là công nghệ Bayer
có từ 100 năm nay! - cùng với thiết bị và vật tư gần như 100% là của TQ,
đưa hàng vạn người Trung Quốc không có tay nghề vào làm việc không có
giấy phép. Có nhiều hiện tượng gian lận trong thực hiện các dự án, có nơi
đưa vào nước ta từ cái hố xí bệt như báo chí ta đã phanh phui!.. Họ ở lại sinh
con đẻ cái thì sẽ làm sao? Xin nhắc lại, đấy là những sự việc thật, không có
chuyện bài Hoa ở đây. Vì thế không thể không đặt ra câu hỏi: Trong những
dự án đã ký kết, đã thực hiện, và đang thực hiện, có sự thao túng nào không
của bàn tay tham nhũng? chúng luồn lách từ đâu? đến mức độ nào?..
Phần lớn đầu tư của Trung Quốc vào ta là khai thác khoáng sản và
chuẩn bị địa bàn hoạt động mới ở nước ta cho công nghiệp của Trung Quốc
– gần đây nhất là khu công nghiệp An Dương – Hải Phòng do Thâm Quyến
xúc tiến. Trong khi đó ngoại thương ta nhập siêu từ Trung Quốc mỗi năm 10
– 13 tỷ USD, khoảng 80 – 90% kim ngạch xuất khẩu của ta sang Trung
Quốc là nguyên liệu. Buôn bán qua biên giới (biên mậu) là một kênh quan
trọng trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, song không
hiếm lúc Trung Quốc đưa ra đủ mọi thứ lý do đơn phương “đóng cửa” với
các lý do khác nhau - mỗi lần xảy ra như thế hàng trăm triệu đồng sản phẩm
xuất khẩu của ta bị hủy hoại bên trong biên giới… Tình hình này cộng với
nhập lậu ồ ạt hàng Trung Quốc kém chất lượng thực sự gây nguy hiểm cho
đất nước. Duy trì tình trạng này trong tương lai, đầu tư của Trung Quốc và
kim ngạch ngoại thương hai nước càng lớn, nước ta phải đối mặt với mối
nguy và sự lệ thuộc càng lớn. Tăng cường quan hệ kinh tế Việt – Trung có ý
nghĩa rất quan trọng đối với nước ta, song mở rộng hợp tác kinh tế với các
tỉnh Trung Quốc mà không cải thiện được tình hình nêu trên sẽ càng bất lợi.
Ngoài việc gây sức ép các hãng BP và EXON phải hủy các hợp đồng
thăm dò dầu khí đang làm với ta (nhưng phía ta lại giải thích với báo chí là
các hãng này đã làm xong việc và tự rút!), Trung Quốc tiếp tục nêu yêu sách
30
“lưỡi bò” trên Biển Đông, tuyên bố vùng cấm đánh cá từ 16-05-2009 đến 1-
08-2009 kinh độ 170 Đông xuống tận vỹ tuyến 12; có lúc đưa tầu quân sự
đánh đuổi tầu cá của ta trong vùng biển của ta chỉ cách bờ 65 hải lý… khiến
hàng nghìn ngư dân của ta thất nghiệp, khốn đốn…
Còn không ít các vấn đề phức tạp khác nữa của quyền lực mềm...
Toàn bộ thực tế nói trên sẽ chi phối sâu sắc tình hình phát triển và an
ninh của nước ta trong thập kỷ 2011-2020. Lịch sử tranh chấp giữa các siêu
cường mà nước ta đã nếm trải thời chiến tranh lạnh sẽ không lặp lại. Nhưng
mối quan hệ tay đôi và sự tranh chấp hay tranh giành ảnh hưởng như vậy
giữa hai nước lớn này thời nào cũng dễ đẩy các nước nhỏ lâm vào cảnh “trâu
bò húc nhau ruồi muỗi chết”.
Lịch sử Việt Nam chưa bao giờ có chính sách đối đầu với Trung
Quốc. Ngày nay cả thế giới – kể cả Mỹ - không nước nào chọn chính sách
đối đầu với Trung Quốc. Việt Nam càng không có lý do để làm việc này. Kể
từ khi ra đời, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – ngày nay là Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nước ta đã từng sống trong thời kỳ quan hệ
Việt – Trung đúng với tinh thần vừa là đồng chí vừa là anh em, núi liền
núi sông liền sông…
Không hoài cổ, nhưng không thể không đặt ra câu hỏi: Cái gì tốt đẹp
đã đạt được trong quá khứ, tại sao không đạt được trong tương lai?
Câu trả lời về phía Trung Quốc, để cho Trung Quốc trả lời.
Câu trả lời về phía chúng ta, tự chúng ta phải trả lời. Để có câu trả lời
ấy, dân tộc Việt Nam ta hôm nay cần bắt đầu từ lòng tự trọng và ý chí thoát
ra khỏi tình trạng lạc hậu hiện nay, rồi mới đến các việc phải làm khác. Một
nước Việt Nam èo uột không thể làm bạn với Trung Quốc hoặc với bất kỳ
nước nào trên thế giới này. Điều chắc chắn là Trung Quốc cần thế giới nếu
không hơn thì cũng không kém các cường quốc khác. Có thể sẽ có một
Trung Quốc siêu cường, nhưng có lẽ không thể có một đế chế Trung Quốc,
một Pax Sinica trong thời đại ngày nay. Thực lực và những giá trị Trung
Quốc có, hoặc sẽ có đều khó lòng cho phép Trung Quốc trở thành một đế
chế như thế. Tự thân Trung Quốc cũng nói lên điều này. Vì thế, Việt Nam
nên có một vai trong cái thế giới mà Trung Quốc cần ấy.
31
Trung Quốc có thể rất thâm độc, nguy hiểm, rất hung hãn như chúng
ta đã từng thấy từ Hội nghị Genève 1954 về Đông Dương, như trong vấn đề
chiến tranh Khmer đỏ chống Việt Nam, chiến tranh biên giới tháng 2-1979,
các cuộc đánh chiếm cướp các đảo của ta, tiếp tục uy hiếp trên Biển Đông,
thâm nhập sâu vào Tây Nguyên... Nhưng Trung Quốc sẽ làm được gì nữa
nếu cả nước ta trên dưới một lòng và có sự hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ?
Trung Quốc sẽ làm được gì nữa, nếu nước ta hiểu rõ bàn cờ thế giới mọi thời
đoạn, không tự trói buộc mình vào bất kỳ một ý thức hệ nào ngoài lý tưởng
duy nhất và ý chí sắt đá: Phải khôn ngoan đến cùng để thực hiện lợi ích quốc
gia trên hết!
Mặt khác quan hệ Việt – Trung hai, ba thập kỷ vừa qua phải chăng
cho thấy nhân nhượng Trung Quốc bao nhiêu cũng không đủ? hòa hiếu đến
thế nào nữa cũng vẫn không được tôn trọng? Thậm chí nhiều lúc Trung
Quốc tỏ ra rất hỗn xược – điển hình nhất có lẽ là chuyện nửa đêm gọi đại sứ
ta ở Bắc Kinh để trách cứ chuyện báo chí ta nói nhiều về thực phẩm Trung
Quốc xuất vào việt Nam nhiễm hóa chất độc hại, chuyện lãnh đạo Trung
Quốc phê phán Việt Nam cải cách quá nhanh! Còn bao nhiêu chuyện đau
lòng khác nữa!.. Trong khi đó thượng nghị sỹ Obama lúc tranh cử cũng như
sau khi đắc cử tuyên bố thẳng thừng không cho nhập khẩu các đồ chơi của
trẻ em có nhiều chất chì sản xuất từ Trung Quốc, phía Trung Quốc hoàn toàn
lặng lẽ!
Nhìn chung, từ sau 30-4-1975, đặc biệt từ sau hội nghị Thành Đô
(1990), Trung Quốc tiếp tục lấn tới trong quan hệ với Việt Nam, đồng thời
Trung Quốc khuyến khích hay để ngỏ cửa cho phát triển những mối quan hệ
hợp tác nhẩt định. Với cả hai cánh tay “cứng” – “mềm” như vậy, Trung quốc
nhất quán theo đuổi mục đích làm cho Việt Nam ngày càng lệ thuộc hoặc
phải nằm trong quỹ đạo của Trung Quốc. Cũng phải nói cho khách quan: Từ
xưa đến nay có cường quốc nào không đối xử với các nước nhỏ hơn hay các
con mồi của mình như thế? Lịch sử Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến
nay có biết bao nhiêu bài học phong phú trong mối quan hệ như vậy với các
“người bạn lớn” muốn chi phối vận mệnh nước ta!
Tuy nhiên, trước hết ta cũng phải tự trách mình: Ta có làm sao thì
người mới dám xử sự với ta như thế chứ!? Hay là mọi việc xảy ra chưa đủ
thức tỉnh lòng tự trọng của dân tộc Việt Nam thời này?! Còn ai muốn hiểu
những điều trình bầy trên là kích động chống quan hệ hữu nghị hợp tác Việt
– Trung xin cứ phản bác.
32
Không chống Trung Quốc, không bài Hoa, nhưng nhất thiết phải tự ta
là ta và phải có thực lực để trở thành một đối tác được tôn trọng! Hữu nghị
“chay” kết quả sẽ là “âm”. Dân tộc Việt Nam ta chẳng lẽ không có kinh
nghiệm gì về tình bằng hữu ăn xin?
Và trên hết cả, hữu nghị thực sự, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, cùng
phát triển với cái công xưởng thế giới là điều kiện căn bản cho chung sống
hòa bình, hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đừng chọn kịch bản để
cho Việt nam trở thành một bãi thải, một lá chắn hay một con đê chắn sóng
Trung Quốc, mà cần tìm ra và lựa chọn kịch bản Viêt Nam trở thành cầu nối
giữa các bên với Trung Quốc - cho một thế giới của hợp tác hòa bình và phát
triển. Đòi hỏi sống còn này đặt ra cho nước ta nhiệm vụ phải phấn đấu tự
nâng cao mình toàn diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc
phòng, ngoại giao, trước hết là đòi hỏi nâng cao nhân cách, năng lực và bản
lĩnh con người Việt Nam thời nay, toàn dân tộc là một ý chí thống nhất
mạnh mẽ! Trên hết cả, đòi hỏi này được đặt ra trách nhiệm trực tiếp và vô
cùng quan trọng cho những người đang nắm giữ vận mệnh quốc gia.
Xin đừng quên lịch sử Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến nay
đã hơn một lần đem lại cho nước ta bài học cay đắng: Quyền lợi quốc gia
của ta luôn luôn đứng trước nguy cơ bị các nước lớn bán rẻ, tranh giành
nhau, hoặc đem ra đổi chác với nhau. Điều gì sẽ xảy ra nếu ở khu vực Đông
Nam Á sẽ do thế hai cực Trung – Mỹ với các kịch bản khác nhau chi phối:
kịch bản cân bằng, kịch bản giành giật, kịch bản thỏa hiệp – nhất là kịch bản
Mỹ vì thế đi xuống và vì lợi ích chiến lược toàn cầu của mình muốn hi sinh,
muốn đem lợi ích của Việt Nam đổi chác lấy cái gì đó?.. Làm sao nước ta
đứng vững được trong bất kỳ kịch bản nào?
Tất cả xoáy vào câu hỏi: Làm gì để Việt Nam thoát được nghèo hèn
như một tật nguyền?
*
II. Việt Nam đứng trước đòi hỏi sống còn phải chuyển sang một
giai đoạn phát triển mới
Bước vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ này, sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước kể từ khi hoàn thành sự nghiệp giành lại độc lập và thống nhất
33
đất nước vừa tròn 35 năm. Trong xuốt thời kỳ 35 năm này, nước ta mất trắng
5 năm đầu tiên với nhiều hy sinh lớn lao cho chiến tranh chống bọn diệt
chủng Polpot – Yengsari ở Campuchia và chống cuộc chiến tranh chớp
nhoáng của Trung Quốc trên biên giới phía Bắc nước ta, được gọi là cuộc
chiến tranh 17-02-1979. Cuộc chiến tranh giúp nhân dân Campuchia chống
lại bọn Khmer đỏ diệt chủng còn kéo dài ác liệt thêm nhiều năm nữa sau khi
Phnompenh đã được giải phóng. Cuộc chiến tranh biên giới 17-02-1979 biến
thành xung đột đẫm máu với Trung Quốc trên biên giới phía Bắc nước ta,
kéo dài mãi đến năm 1989 mới thực sự kết thúc. Trong khi đó đất nước lâm
vào cảnh khốn khó với biết bao nhiêu chuyện đau lòng – từ những đổ vỡ, hy
sinh mất mát mới trong nước phải chịu đựng, đến những tang tóc khôn kể
xiết rơi vào những người vượt biển phải bỏ đất nước ra đi…
Điểm lại thực tế lịch sử nêu trên để thấy rõ bối cảnh vô cùng phức tạp
đất nước ta phải đối phó khi bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước
trong hòa bình. Người Việt Nam ta dù là ai, trong nước, ngoài nước, bất luận
tôn giáo, chính kiến, đẳng cấp nào, nếu còn nặng lòng với đất nước nhất
thiết phải cùng nhau nghiêm túc rút ra từ khoảng thời gian lịch sử này những
bài học không được phép quên. Vì vậy rồi đây sẽ phải đánh giá chuẩn xác và
khách quan 15 năm (1975-1989) bi kịch đầy máu và nước mắt sau khi cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã kết thúc – không phải chỉ để làm rõ
trách nhiệm trước lịch sử, quan trọng hơn là để không vấp lại sai lầm cũ, để
làm rõ con đường phải đi phía trước.
Điểm lại như vậy thực tế lịch sử trước khi nói về kinh tế chỉ muốn xin
lưu ý ngay từ đầu:
Trong thập kỷ tới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước nhất thiết
đòi hỏi phải có tầm nhìn thấu đáo cục diện và xu thế của thế giới - với lý
tưởng lợi ích dân tộc và lợi ích quốc gia là duy nhất và trên hết, để có đủ trí
tuệ và bản lĩnh tạo ra cho đất nước bên trong là sự đồng thuận không gì phá
vỡ được, bên ngoài là một bối cảnh hòa bình tối ưu cho phép – bao gồm
những mối quan hệ quốc tế thuận lợi có thể tranh thủ được.
Đương nhiên, mỗi người Việt nam được nói tới ở đây, còn món nợ lớn
hơn thế đối với tổ quốc mình trước sau nhất thiết phải trả. Đó là: Phải dũng
cảm và nghiêm túc nhìn lại cả chặng đường dân tộc Việt Nam ta đã trải qua
từ khi chiến tranh thế giới II kết thúc cho đến nay. Đơn giản vì lẽ: Có dân
tộc nào muốn thành công trên con đường trở thành một quốc gia phát triển
và văn minh mà không phải nghiêm khắc nhìn lại mình? Lịch sử không làm
34
lại được và có những khúc quanh có không cưỡng lại được, nhưng bài học
thì phải rút ra. Đặt vấn đề như vậy, phải chăng có thể rút ra:
(1)Nhìn nhận phiến diện thế giới chúng ta đang sống, (2)sự giác ngộ
không đúng tầm lợi ích quốc gia trong bối cảnh quốc tế luôn luôn biến động
vô cùng phức tạp, (3)sự nô lệ vào ý thức hệ hoặc các niềm tin mù quáng -
phải chăng đấy là ba nguyên nhân khởi thủy kìm hãm sự phát triển của đất
nước 35 năm qua? Ngày nay còn phải cộng thêm nguyên nhân (4) là sự tha
hóa mới trên nhiều phương diện. Suy cho cùng, trước sau đấy vẫn là những
vấn đề của trí tuệ, tầm nhìn và ý chí!
Dưới đây xin tập trung nêu ra một vài vấn đề phát triển kinh tế của đất
nước trong thập kỷ 20 tới.
1.Một mô hình phát triển theo chiều rộng hiện nay đã đi trọn
vòng đời
Kể từ khi xóa bỏ cơ chế kinh tế bao cấp và bắt tay tiến hành công
cuộc đổi mới năm 1986, nước ta thực sự bắt đầu đi vào thời kỳ phát triển
trong thời bình. Tính đến nay, chặng đường này trọn một phần tư thế kỷ (nếu
lấy năm họp Đại hội toàn quốc ĐCSVN lần thứ XI làm cột mốc).
Trong 25 năm này kinh tế nước ta vận hành theo mô hình tăng trưởng
theo chiều rộng: chủ yếu dựa vào (1)khai thác lợi thế so sánh về giá lao động
rẻ (trình độ tay nghề thấp, ít hàm lượng kỹ thuật, thậm chí một bộ phận đáng
kể là lao động cơ bắp), (2)khai thác tài nguyên thiên nhiên, (3)đẩy mạnh đầu
tư từ các nguồn trong nước và nước ngoài cho phát triển một nền kinh tế sử
dụng nhiều lao động giá rẻ và tiêu thụ nhiều tài nguyên thiên nhiên, (4)sử
dụng lãng phí đất đai và không thân thiện với môi trường. Nhìn chung mô
hình phát triển như thế cho thời kỳ này là cần thiết, nước ta đạt được tốc độ
tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Tuy nhiên chất lượng tăng trưởng kinh tế
thấp và càng về sau càng thấp so với công sức bỏ ra, hoặc so với những cái
giá phải trả. Đại hội X đã phê phán tình trạng yếu kém của mô hình phát
triển theo chiều rộng31.
31 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, trang 163.
35
Mối lo lớn nhất là sau ¼ thế kỷ tăng trưởng và phát triển kể từ khi đổi
mới, nước ta cho đến nay vẫn chỉ là người cung cấp lao động rẻ, nông phẩm
thô, nguyên liệu thô hoặc sơ chế thấp, sản phẩm gia công, sản phẩm chế tạo
với hàm lượng công nghệ thấp, đất đai và thị trường nội địa trở thành nơi thu
hút FDI chủ yếu cho công nghiệp có hàm lượng công nghệ thấp, gây nhiều
gánh nặng cho môi trường tự nhiên và xã hội... Với chiến lược phát triển dựa
vào 4 yếu tố như vậy, thế mạnh lớn nhất và nguồn lực nội tại lớn nhất của
đất nước là con người Việt Nam không được phát huy. Trên thực tế nước ta
đang đi vào xu thế trở thành một nước đi làm thuê và đất nước cho thuê với
cả nghĩa đen và nghĩa bóng32.
Nước ta có kế hoạch hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020.
Nhưng trong 25 năm qua quá trình công nghiệp hóa chủ yếu vẫn dựa vào 4
yếu tố của phát triển vừa nói trên. Vì thế vẫn chưa làm bộc lộ rõ và chưa xác
lập được thế mạnh để nền kinh tế nước ta có thể bứt phá trở thành một nước
công nghiệp hóa trong một tương lai gần. Cho đến nay cũng chưa xác định
được đâu sẽ là chỗ đứng trong tương lai của nền công nghiệp nước ta trong
kinh tế thế giới để vươn tới.
Với GDP tính theo đầu người hiện nay đạt khoảng 1000 USD – tăng
khoảng 10 lần so với khi bước vào đổi mới, nước ta mới ra khỏi nhóm nước
đang phát triển có thu nhập thấp. Hiện tại nền kinh tế nước ta phát triển ở
mức thấp trên các phương diện: trình độ lao động, hàm lượng công nghệ,
năng lực kinh doanh, năng lực quản lý đất nước, hiệu quả kinh tế, sự phát
triển của con người, của văn hóa, xã hội và của toàn bộ hệ thống chính trị...
Nhìn chung sau 25 năm nước ta vẫn còn là một quốc gia lạc hậu, vẫn chưa
thấy hình hài của một nền kinh tế công nghiệp hóa, càng chưa thể hình dung
một quốc gia công nghiệp Việt Nam trong vòng một hai thập kỷ tới sẽ ra
sao. Điều này có nghĩa vào năm 2020 nước ta sẽ vẫn còn đứng cách rất xa
các chỉ tiêu của một nước được coi là hoàn thành giai đoạn công nghiệp hóa.
Theo IMF, năm 2008 GDP danh nghĩa (nominal) tính theo đầu người của ta là
1040 USD, của Thái Lan là 4115 USD. Để đạt được mức phát triển trên nhiều
32 Tham khảo: Nguyễn Trung,
“Thân phận công dân thế giới hạng hai” (21-08-2007)
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_CongNhanTheGioiHangHai.htm,

“Ngã ba 2007”
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_NgaBa2007.htm
36
phương diện như của Thái Lan hiện nay (kết cấu hạ tầng, nhà nước pháp quyền,
thu nhập tính theo đầu người, quyền tự do dân chủ của dân...), ước tính nước ta
cần 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Song Thái lan hiện nay vẫn chưa được coi là một
NIC và vẫn trong tình trạng cứ vài ba năm lại một cuộc đảo chính quân sự. Từ đó
có thể suy ra: Tiếp tục con đường phát triển hiện nay, nước ta hai ba chục năm
nữa vẫn chưa thể trở thành một nước công nghiệp hóa.
Theo cách định nghĩa của UNDP và một số viện nghiên cứu trên thế giới, một
nước được coi là nước mới hoàn thành công nghiệp hóa (NIC), đại thể phải có
các tiêu chuẩn sau đây:
 Có những chuyển biến cơ bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh
tế công nghiệp, tỷ trọng lao động trong nông nghiệp chiếm phần nhỏ nhất trong
tổng số lao động cả nước, (theo đánh giá của Hội đồng quy hoạch kinh tế và
phát triển Đài Loan, sau 25 năm đầu tiên tiến hành công nghiệp hóa, tỷ trọng
này ở Đài Loan còn 18%, ở Hàn Quốc còn 12% lao động cả nước), tỷ trọng nông
nghiệp trong GDP chỉ còn rất thấp, công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng chủ yếu
trong công nghiệp và đã có các tập đoàn kinh tế tham gia vào các “chuỗi” cung
ứng hay sản xuất toàn cầu, trong toàn bộ nền kinh tế khu vực dịch vụ vượt khu
vực công nghiệp và khu vực nông nghiệp...
 Có khả năng lớn trong thu hút FDI.
 Kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường và trong khung khổ của pháp
luật.
 Quyền công dân và các quyền tự do dân chủ khác trong xã hội ngày càng
mở rộng. Nhà nước pháp quyền ngày càng phát triển.
 Có đội ngũ lãnh đạo mạnh và tinh thông.
 V… v…
Một quốc gia hoàn thành thời kỳ công nghiệp hóa còn phải được nhìn
nhận theo các tiêu chí của một xã hội công nghiệp. Đơn giản là rất khó tồn
tại một nước công nghiệp hóa trong một thể chế chính trị - văn hóa – xã hội
lạc hậu. Trên phương diện này, phải nói nước ta còn khá lạc hậu so với một
nước công nghiệp hóa và so với thế giới chung quanh về nhiều mặt: dân trí,
tính công khai minh bạch, xã hội dân sự, năng lực + tính trách nhiệm và tính
tin cậy được (accountability) của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước, đặt
Hiến pháp và pháp luật lên trên hết, khả năng đề kháng hay khắc phục
những tha hóa mới trong quá trình công nghiệp hóa và hội nhập, đặc biệt
nghiêm trọng là tình trạng lạc hậu và đi sai hướng của hệ thống giáo dục33
với những hệ quả lâu dài và khó lường cho tương lai...
Nói một cách hình ảnh: Đến năm 2010, sau ¼ thế kỷ đổi mới, nước ta
có lẽ mới chỉ đi được khoảng 1/3 hay một nửa đầu của toàn bộ chặng đường
công nghiệp hóa mà thôi.
33 Nền giáo dục nước ta hiện nay nặng về đào tạo con người công cụ hơn là hướng về đào tạo
con người hành động theo tư duy tự do. Đây có lẽ là vấn đề mấu chốt nhất khiến nền giáo dục
nước nhà lạc hậu và góp phần kìm hãm tương lai phát triển của đất nước.
37
Từ nay đến năm 2020 có cách nào “đi” hay “bay” nốt 2/3 hay một nửa
chặng đường còn lại không?
Trả lời:
Dứt khoát không! Thậm chí “đi” hay “bay” tiếp tục như
mô hình phát triển hiện nay, sẽ rất khó có một nước Việt
Nam công nghiệp hóa trong vòng ba bốn thập kỷ tới, hoặc
không bao giờ!34
Những điều vừa trình bầy trên cho thấy: Nhìn về bất kỳ phương diện
nào, nước ta chắc chắn không thể hoàn tất thời kỳ công nghiệp hóa vào năm
2020.
Tóm lại, sau 25 năm công nghiệp hóa, nước ta có một nền kinh tế
phát triển theo chiều rộng và còn mang nặng các đặc tính: manh mún,
bóc ngắn cắn dài, tranh thủ được cái gì thì làm cái nấy. Nền kinh tế nước
ta ngày càng có những mất cân đối lớn, ngày càng đi sâu vào một cơ cấu
kinh tế lạc hậu và ô nhiễm môi trường nặng nề! Hơn nữa tính mất cân
đối, tính lạc hậu này và tình trạng ô nhiễm môi trường đã tới ranh giới
chịu đựng cuối cùng của đất nước, vượt qua nó sớm muộn sẽ dẫn tới đổ
vỡ lớn.
Xin đơn cử một vài ví dụ:
o Xuất khẩu than, dầu, gạo và nhiều sản phẩm khác đã tới đỉnh
của khả năng cho phép, không thể vượt qua được, thậm chí tiếp
tục duy trì những cái “đỉnh” này có thể dẫn tới thảm họa (hiện
nay đã trù tính phải nhập than từ năm 2012).
o Ô nhiễm môi trường và sử dụng đất đai lãng phí đã tới mức
nguy hiểm, trong khi dân số tiếp tục tăng, ruộng đất ngày càng
khan hiếm.
34 Trong kinh tế học, người ta gọi hiện tượng các nước đang phát triển với mọi nỗ lực của nhiều
thập kỷ, thậm chí của cả nửa thế kỷ hoặc lâu hơn nữa mà vẫn không thể trở thành một nước
công nghiệp là hiện tượng “rơi vào cái bẫy nước có thu nhập trung bình”. Có nhiều nước đang
phát triển đã rơi vào cái “bẫy” này. Thái Lan là một ví dụ điển hình của “cái bẫy nước có thu nhập
trung bình”. Trong thế kỷ 20, Thái Lan không bị một cuộc chiến tranh nào tàn phá, không là thuộc
địa của một đế quốc nào, đã đi được 60 năm trên chặng đường công nghiệp hóa tính từ năm
1949, nhưng ngày nay chưa ai dám nói khi nào Thái Lan sẽ là một NIC!
Tìm đọc thêm: Nguyễn Trung, “Chàng trai 22 tuổi không thể sống trong bộ quần áo thiếu niên"
đăng trên Tuần Việt Nam – VNN - 31/10/2008 10:11 (GMT + 7)
38
o Cơ cấu kinh tế lạc hậu và nhiều chính sách kinh tế - xã hội hiện
nay không cho phép tận dụng được mọi cơ may mà “cơ cấu dân
số vàng”35 có thể đem lại cho đất nước. Thậm chí “cơ cấu dân
số vàng” này có thể biến thành mối đe dọa lớn vì nạn thất
nghiệp và sự xuống cấp của xã hội đang ngày càng nghiêm
trọng.
o Những yếu kém về nhiều mặt trong thu hút FDI khiến nước ta
về nhiều mặt thực chất đang là nước đi làm thuê và là đất nước
cho thuê.
o Nhập siêu và thâm hụt ngân sách cứ tiếp tục như hiện này sẽ
hứa hẹn những đổ vỡ lớn trong tầm tay.
o Càng nhiều đô thị hiện đại mọc lên do phát triển không đồng bộ
(nhất là quy hoạch, luật pháp, năng lực hành chính, các chính
sách kinh tế, các ngành dịch vụ, nguồn nhân lực, các ngành
cung ứng...) các thất bại và ách tắc càng lớn…
o Vân vân... Vân vân...
Xin đừng để những lời khen vàng ngọc của nước ngoài về “tính năng
động”, về “triển vọng tốt đẹp” của kinh tế Việt Nam, về “khả năng hấp dẫn”
của thị trường Việt Nam, “Việt Nam là nền kinh tế đang lên”, về vân vân...
ru ngủ chúng ta. Cứ cho những lời khen ấy là thực bụng, thì cũng đừng quên
họ nhìn Việt Nam về nhiều mặt đang là thị trường tốt nhất để đưa tới những
thứ họ đang không muốn có hay muốn loại bỏ ở nước họ, hoặc những thứ
các nơi đang thừa ế và muốn tống khứ! Vinashin, các dự án thép và xi-măng
khổng lồ là những ví dụ tiêu biểu, chưa nói đến hàng trăm sân golf….
Những năm 1994-1995 kinh tế nước ta bước vào cuộc khủng hoảng
đầu tiên sau 10 năm đổi mới. Nguyên nhân chính là lực đẩy đầu tiên của đổi
mới đã làm xong nhiệm vụ của nó, kinh tế bắt đầu có những mất cân đối
mới, đầu tư kém hiệu quả, tăng trưởng và xuất khẩu đều giảm, lạm phát tăng
cao. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 ở châu Á xảy ra chậm hơn và
không phải là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế 1994-1995 ở nước
ta (sự thật là nước ta kém nhạy bén nên không tận dụng được một số cơ hội
do cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ năm 1997 đem lại).
35 Cơ cấu dân số có tỷ lệ người trong tuổi lao động chiếm quá nửa hoặc gần gấp đôi số người
sống phụ thuộc.
39
Vào quý IV năm 2007, kinh tế nước ta bước vào cuộc khủng hoảng lớn
lần thứ 2 kể từ khi tiến hành đổi mới. Năm 2007 lạm phát nhảy vọt lên
12,6%, trong khi đó tốc độ tăng trưởng của năm là 8%; năm 2008 lạm phát
bùng lên 19,89% (22,8% theo WB và IMF), trong khi đó tốc độ tăng trưởng
kinh tế đạt 6,2%36, năm 2009 dự kiến lạm phát 9,4% và tăng trưởng GDP đạt
5,2% (nguồn: TCTK và Bộ KH&ĐT). Ngoài những nguyên nhân tương tự
như cuộc khủng hoảng 1994-1995, cuộc khủng hoảng hiện nay còn do tác
động nghiêm trọng của một số chính sách vỹ mô, trước hết trong lĩnh vực tài
chính tiền tệ. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bùng nổ tháng 9-2008
(nghĩa là chậm gần một năm so với ở nước ta) làm cho cuộc khủng hoảng
kinh tế của nước ta hiện nay trầm trọng thêm, chứ không phải là nguyên
nhân. (Tuy nhiên, giá đầu vào rẻ, nên mặt nào đó cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới cũng giúp cho kinh tế trong nước bớt căng thẳng, hầu hết các sản
phẩm xuất khẩu của nước ta vẫn tiếp tục giữ được tăng trưởng về khối lượng
và nhìn chung kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng trong năm 2008 và 2009).
Tình hình phát triển kinh tế 25 năm qua, đặc biệt là những tín hiệu
giống nhau của 2 cuộc khủng hoảng nối nhau liên tiếp cho thấy: Mô hình
phát triển kinh tế theo chiều rộng đã đi trọn vòng đời của nó, bắt buộc phải
chuyển sang mô hình khác.
2.Tính hiệu quả và chất lượng của phát triển kinh tế ngày càng
thấp.
Hiện tượng này thể hiện tập trung nhất ở chỉ số lạm phát và chỉ số
ICOR của nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây liên tục tăng cao và
thuộc loại cao nhất ở châu Á, đồng thời lạm phát vượt xa mức tăng trưởng.
Nói nôm na đấy là hiện tượng: Tiền của công sức bỏ ra ngày càng nhiều,
hiệu quả kinh tế thu được có tỷ lệ ngày càng thấp. Kéo dài tình trạng này sẽ
kiệt sức.
36 IMF và EIU đánh giá kinh tế Việt Nam năm 2008 lạm phát là 22,87%, tăng trưởng GDP là
6,23%. *IMF & EIU **Dự báo Nguồn: Tổng cục Thống kê
40
Biểu 1
Tăng trưởng GDP Tỷ lệ lạm phát Chỉ số ICOR
2006 8,17% 7,7% 5,0 lần
2007 8,48 12,6 5,2
2008 6,23 19,89 (22,97)* 6,9
2009** 5,2 9,4 8
Nguồn: Dự báo của Tổng cục Thống kê 9-2009
Theo thông báo của TCTK cuối tháng 12-2009 tăng trưởng GDP là 5,32%
và chỉ số lạm phát là 6.88%.
Chú ý: Chỉ số ICOR thời kỳ 2000 – 2006 của nước ta là 5,0. Một số
chuyên gia đánh giá chỉ số ICOR của Việt Nam năm 2008 cho toàn bộ nền
kinh tế nếu tính đủ là <7, và riêng cho khu vực nhà nước là <8 hoặc 2 con
số, trong khi đó của khu vực tư nhân là 3,2, của khu vực FDI là 5,2.
Các nước trong khu vực Đông Nam Á và Trung quốc chỉ số ICOR của
nhiều thập kỷ gần đây, phổ biến là 3 hoặc >3, nghĩa là chỉ số ICOR của
nước ta cao gấp rưỡi hoặc gấp đôi so với những nước này37.
Theo WB từ tháng 12-2007 đến tháng 6-2008 tài sản thị trường chứng
khoán Việt Nam giảm mất 17 tỷ USD – nghĩa là mất một nửa giá trị; lạm
phát trong 8 tháng đầu năm 2008 của Việt Nam là 28,3%.
Vân… vân…38
Tăng trưởng GDP và ICOR một số quốc gia Đông Á
Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) căn cứ vào 9 tiêu chí chủ yếu là
(1)thể chế kinh tế, (2)hệ thống cơ sở hạ tầng, (3)năng lực kinh tế vĩ mô,
37 Nguồn: http://community.tuanvietnam.net/2009-10-09-kham-suc-khoe-kinh-te-viet-tu-chi-soicor-?
print=1
38 Tham khảo thêm: Trần Đức Nguyên, “Khám sức khỏe kinh tế Việt từ chỉ số ICOR”
http://tuanvietnam.net/2009-10-09-kham-suc-khoe-kinh-te-viet-tu-chi-so-icor41
(4)hệ thống giáo dục và y tế phổ thông, (5)trình độ giáo dục đại học, (6)hiệu
quả vận hành của cơ chế thị trường, (7)mức độ sẵn sàng về công nghệ,
(8)mức độ hài lòng của doanh nghiệp, và (9)mức độ sáng tạo - để đánh giá
năng lực cạnh tranh của các quốc gia. Đánh giá của WEF cho thấy các năm
gần đây nhất là nước ta liên tiếp tụt thứ bậc trong bảng xếp hạng về năng
lực cạnh tranh của các quốc gia trên cả 3 phương diện quốc gia, sản phẩm
và doanh nghiệp.
Trong số các quốc gia được đem ra so sánh, năm 2006 nước ta xếp
hạng thứ 64, năm 2007 xếp hạng thứ 68, năm 2008 xếp hạng thứ 70; nếu so
sánh riêng trong khu vực Đông Á, Việt Nam chỉ đứng trên Philippines và
Campuchia (Myanmar chưa được xếp hạng)39. Đấy là các tín hiệu rõ nét
minh họa thêm tính hiệu quả của nền kinh tế nước ta ngày càng giảm sút.
Hiện nay Việt Nam được liệt vào danh sách các nước đứng đầu thế
giới về giá thuê trụ sở văn phòng cho các doanh nghiệp nước ngoài, về chi
phí trung gian, về tốn kém thời gian trong xử lí các dịch vụ phục vụ kinh
doanh... Bộ Công Thương nước ta cũng thừa nhận tình trạng sử dụng đất đai
và tài nguyên ở nước ta rất lãng phí, mức độ tiêu hao năng lượng cho một
sản phẩm mới trung bình cao gấp đôi so với Thái Lan, Malaysia...40
Các làng ung thư, các dòng sông chết - nhiều vùng kinh tế quan trọng
hầu như không còn một con sông nào được coi là không bị ô nhiễm, nạn
khan hiếm nước nước và nước sạch cũng như nhiều tệ nạn xã hội ngày càng
gia tăng và đang vượt khỏi khả năng kiểm soát của bộ máy nhà nước. Chất
lượng cuộc sống tiếp tục xuống cấp – thể hiện rõ nhất trên lĩnh vực giáo dục
và y tế, ách tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, tệ nạn quan liêu tham nhũng
gia tăng...
3. Càng phát triển, nền kinh tế càng tích tụ nhiều ách tắc hay mất
cân đối mới, thậm chí mất phương hướng phát triển
Những hiện tượng ách tắc này được đặt dưới cái tên gọi chung là
những thắt cổ chai. Đó là những mất cân đối ngày càng gay gắt
39 Tìm xem trên Vietnamnet - http://www.vietnamnet.vn/kinhte/2008/10/807594/
40 Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc năm 2005, tiêu thụ 01 kWh các nước Tây Âu làm ra trên 3
USD, Hàn Quốc: 2,2 USD, Philippines: 1,9 USD, Thái Lan: 1,5 USD, Trung Quốc: 1 USD, Việt
Nam chỉ có 0,87 USD.
42
 giữa khả năng đáp ứng của kết cấu hạ tầng và đòi hỏi phát triển
của nền kinh tế; giữa sự phát triển yếu kém nguồn nhân lực và
đòi hỏi của phát triển kinh tế - xã hội;
 giữa khả năng quản trị quốc gia và đòi hỏi phát triển của đất
nước trong quá trình công nghiệp hóa và hội nhập tình trạng
quan liêu và nạn tham nhũng rất nặng nề, khả năng thực thi
pháp luật yếu kém..;
 đặc biệt là tình trạng nhập siêu và tình trạng thâm hụt ngân sách
rất nghiêm trọng: Nhập siêu từ năm 2000 ngày càng lớn và
được coi là ở mức báo động. Kể từ năm 1995 đến 2005, nhập
siêu của Việt Nam luôn ở mức dưới 5 tỷ USD và ước khoảng
10% GDP; song đã tăng vọt lên trên 12 tỷ USD vào năm 2007
(gấp 2,4 lần so với năm 2006) và đến hết tháng 9/2008, tổng
mức nhập siêu đã lên tới con số 15,8 tỷ USD (ước khoảng trên
20% GDP/năm)... Nếu phân tích các quốc gia ta nhập siêu, sẽ
thấy bức tranh trầm trọng hơn (chủ yếu từ Trung Quốc và các
nước châu Á – là các quốc gia có công nghệ thấp). Thâm hụt
ngân sách từ năm 2000 trung bình là 5-6% GDP/năm, riêng
năm 2009 dự kiến là 8% GDP/năm.
 Mất cân đối giữa một bên là năng lực và chất lượng thấp trong
việc hoạch định chính sách, chiến lược, quy hoạch phát triển..,
và một bên là đòi hỏi phát triển mọi mặt đất nước. Tình trạng
hiện nay là càng phát triển càng rối và không đồng bộ. Quyết
định sáp nhập Hà Tây vào Thủ đô Hà Nội nhưng đến bây giờ
chưa có quy hoạch tổng thể thủ đô được mở rộng, quyết định
khai thác bauxite ở Tây Nguyên và quy trình triển khai lộn
ngược của 2 dự án khai thác bauxite ở Nhân Cơ và Tân Rai là
hai ví dụ điển hình của tình trạng rối ren này41…Còn nhiều
quyết định kinh tế hay dự án khác vội vã, kém chất lượng với
hệ quả khôn lường như vậy. Không thể không đặt câu hỏi: Tại
sao những chuyện như thế cứ lặp đi lặp lại qua các năm?
41 Đó là tình trạng chưa nghiên cứu đầy đủ các vấn đề theo Luật đòi hỏi; và chưa chuẩn bị xong
kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải, xử lý bùn đỏ nhiễm hoá chất độc hại..; tóm lại là còn rất nhiều
câu hỏi quan trọng chưa được giải đáp thoả đáng về tính khả thi của dự án, tính hiệu quả của dự
án, tác động lâu dài đối với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, an ninh quốc gia… mà đã
triển khai ngay dự án… - tìm đọc các phản biện rất phong phú về vấn đề này. Tham khảo thêm:
Nguyễn Trung, “Những bất lợi lớn trong khai thác bô-xít tại Tây Nguyên” – tham luận tại hội thảo
ngày 09-04-2009 về chuyên đề bô-xit do Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải chủ trì,
http://www.diendan.org/viet-nam/khai-thac-bo-xit-o-tay-nguyen-nhung-bat-loi-lon
43
 vân vân...
Hệ quả lớn nhất của tình trạng này là càng phát triển tích tụ ngày càng
nhiều ách tắc và mất cân đối lớn, phá vỡ mọi chiến lược hay chủ trương
phát triển có tính dài hạn.
4. Một số vấn đề lớn trong quá trình công nghiệp hóa 25 năm qua
4.1.Trên thực tế chưa có một chiến lược công nghiệp hóa?
Đọc lại các văn kiện các Đại hội Đảng VII, VIII, IX và X về công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, điều đáng chú ý là trong khi các văn kiện này
dành nhiều sự chú ý và nêu nhiều yêu cầu cụ thể cho quan hệ sản xuất định
hướng xã hội chủ nghĩa trong công nghiệp hóa, phần bàn về nội dung công
nghiệp hóa lại chỉ nêu: không công nghiệp hóa theo kiểu cũ, cần tận dụng
lợi thế so sánh, cần đẩy mạnh hướng về xuất khẩu nhưng chú ý đến thay thế
nhập khẩu các sản phẩm tự làm ra có lãi, chú ý thu hút FDI, các chỉ tiêu
tăng trưởng của từng kế hoạch 5 năm, và cái đích: vào năm 2020 trở thành
một nước công nghiệp hóa (gần đây điều chỉnh là: cơ bản trở thành một
nước công nghiệp hóa) theo hướng hiện đại.
Các nghị quyết viết như vậy cho phép rút ra kết luận: Đấy là những chỉ
tiêu số lượng cần đạt được của từng kế hoạch 5 năm, một số quan điểm và
cái đích mong muốn cho năm 2020, chứ không phải là một chiến lược công
nghiệp hóa.
Nhìn lại chặng đường 25 năm công nghiệp hóa, thực tế cho thấy:
(a) Rất khó nói rằng quá trình công nghiệp hóa của Việt Nam đã
nhất quán đi theo một chiến lược phát triển hay một quan điểm
chiến lược rõ rệt nào đã được xác lập, sẽ trở thành một nước
công nghiệp hóa ra làm sao? nước Việt Nam công nghiệp hóa
sẽ định chiếm chỗ đứng ở đâu trong thị trường kinh tế thế giới?
– (thời toàn cầu hóa kinh tế thế giới ngày nay không thể có một
quốc gia hay một nền kinh tế công nghiệp hóa mà không trả lời
chuẩn xác hai câu hỏi này; công nghiệp hóa của một quốc gia
ngày nay nhất thiết phải gắn liền với kinh tế thế giới). Thậm chí
có thể nói gần như thiếu hẳn một chiến lược công nghiệp hóa
44
thống nhất và xuyên xuốt các kỳ đại hội Đảng và các nhiệm kỳ
với một lộ trình rõ ràng, khiến cho không có được quá trình
thực hiện liên tục của một chiến lược, cái đích phải đạt được trở
nên mơ hồ, mâu thuẫn, mỗi Đại hội Đảng nói một khác (hiện
nay nói là: Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp
hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020!42).
(b) Việt Nam là nước đi sau, có rất nhiều cái bất lợi và cái lợi phải
xử lý thỏa đáng – điều này có nghĩa phải tìm ra con đường
riêng của mình để không phải lặp lại những sai lầm của các
nước đi trước, tránh các nguy cơ trở thành “bải thải công
nghiệp” của các nước khác, đồng thời tìm ra cho mình con
đường thuận lợi hơn. Thị trường thường chật cứng đối với nước
đi sau – vì vậy phải khai thác lợi thế nước đi sau trong việc
chiếm lĩnh các thị trường ngách (các “niches”), vào các chuỗi
cung - ứng trong thị trường thế giới.., mà muốn thế phải có các
chính sách giáo dục đào tạo, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa
và chính sách đối ngoại… cho phép liên kết, chiếm lĩnh những
khâu nào đó trên thị trường thế giới; hiển nhiên 25 năm qua
những đòi hỏi này không được đặt ra hoặc không được đặt ra
đúng tầm để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa của nước ta43.
(c) Thiếu hẳn chiến lược, kế hoạch và các quy hoạch cụ thể phát
triển kết cấu hạ tầng đi song song hoặc đi trước một bước mở
42 Rất khó định nghĩa hay định nghĩa thế nào cũng được khái niệm “cơ bản trở thành một
nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại”. Cụm từ cơ bản trở thành và cụm từ theo
hướng hiện đại vừa mơ hồ và co giãn tùy ý, vừa mâu thuẫn nhau. Song quan trọng hơn là toàn
bộ khái niệm này thiếu hẳn những tiêu chí và mục tiêu cần đạt được để làm rõ.
43 Quá trình công nghiệp hóa cho đến nay diễn ra hầu như dưới dạng một chuỗi các kế hoạch 5
năm của cấp trung ương (các ngành) và của cấp các tỉnh cộng lại. Rất khó nói rằng những kế
hoạch 5 năm này được thiết kế theo một quan điểm chiến lược công nghiệp hóa xuyên xuốt:
(1)Quá trình công nghiệp hóa diễn ra trong thực tế ở cấp trung ương là hoạt động của
các tập đoàn kinh tế nhà nước (phần lớn dưới dạng các tổng công ty 90 và 91) gần
như với tính cách mỗi tập đoàn là một “vương quốc” riêng lẻ.
(2) Quá trình công nghiệp hóa ở cấp tỉnh chủ yếu do “tư tưởng nhiệm kỳ” và quan
điểm “nền kinh tế GDP tỉnh” chi phối, tranh thủ làm được gì làm nấy, gặp gì làm
nấy, không ít tình trạng chồng chéo, trùng lặp, giẫm đạp lên nhau – tỉnh anh có xi
măng lò đứng, tỉnh tôi cũng có; tỉnh anh có nhà máy mía đường, tỉnh tôi không kém
tỉnh anh; tỉnh anh có khu công nghiệp, tỉnh tôi cũng không thua...
45
đường cho sự tiến triển của công nghiệp hóa với nội dung khai
thác thị trường ngách và chiếm thị trường mới.
(d) Thiếu hẳn chiến lược phát triển nguồn nhân lực mà sự nghiệp
công nghiệp hóa / hiện đại hóa đất nước đòi hỏi, thậm chí có thể
nói hệ thống giáo dục và chính sách phát triển nguồn nhân lực
hiện nay là hoàn toàn bất cập, trực tiếp gia tăng sự tụt hậu của
đất nước và để lại nhiều hệ quả lâu dài44.
(e) Chỉ đề ra yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế với nội dung thay
đổi tỷ trọng các khu vực kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp,
dịch vụ), song không kèm theo các chính sách vỹ mô thực hiện
thay đổi cơ cấu kinh tế về chất lượng; do đó về cơ bản toàn bộ
kinh tế vẫn tăng trưởng theo số lượng, hiệu quả và tính bền
vững nhìn chung thấp. Đại hội Đảng đều phê phán tình trạng
cơ cấu kinh tế chuyển đổi chậm, nhưng đến nay chưa có kế
sách gì đảo ngược tình hình này.
(f) Do chiến lược công nghiệp hóa không rõ ràng và do cách điều
hành kinh tế vỹ mô theo kiểu phân cấp (trên thực tế là phân tán
và manh mún), dẫn tới hình thành từ hàng chục năm nay “nền
kinh tế GDP tỉnh” với nhiều hệ quả trầm trọng. Trên thực tế
công nghiệp hóa ở nhiều tỉnh được hiểu là thi đua mở các khu
công nghiệp, khai thác tài nguyên không tái tạo được, phát triển
ồ ạt các sản phẩm thượng nguồn (trong đó phần lớn là nguyên
liệu thô). “Nền kinh tế GDP tỉnh” cùng với các tập đoàn kinh tế
nhà nước hoạt động theo kiểu độc quyền khiến cho quá trình
công nghiệp hóa bị phân khúc hay xé lẻ trên nhiều phương diện,
đồng thời đẻ ra nhiều hệ quả chính trị, xã hội, văn hóa rất khó
khắc phục.
(g) Đặc biệt nghiêm trọng là các Đại hội đều thừa nhận cải cách
chính trị không đi kịp với đòi hỏi của phát triển kinh tế và xã
hội, do đó chẳng những không thúc đẩy mạnh mẽ quá trình
công nghiệp hóa, không phát huy được cái mạnh và những
thuận lợi của đất nước, thậm chí làm cho quá trình này chậm
lại; công nghiệp hóa diễn ra trong bối cảnh quan liêu tham
nhũng ngày càng nặng nề. Tình hình đã tới mức sự bất cập và
44 Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, “Suy nghĩ về phát triển nguồn nhân lực ở nước ta”
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NTrung_GiaoDuc.htm
46
lạc hậu của thể chế chính trị trở thành rào cản chính của quá
trình công nghiệp hóa.
(h) vân... vân...
Tất cả những điều vừa trình bầy toát lên một sự thật: Nước ta sau 25
năm trên thực tế vẫn chưa có một chiến lược công nghiệp hóa đúng với cái
tên gọi của nó. Qrình công nghiệp hóa 25 năm qua trên thực tế chủ yếu do
sự lôi kéo, dẫn dắt tự thân của cuộc sống và tác động của đầu tư và dòng vốn
từ bên ngoài (nghĩa là mang tính cơ hội rất cao), nhiều hơn là do chủ động
thúc đẩy theo một hướng chiến lược được xác lập của thể chế chính trị và do
sự giác ngộ với tầm nhìn sắc bén của những người lãnh đạo. Cần nói ngay,
phát triển như thế đang ngày một gây ra ách tắc và rối loạn, dẫn tới sự lệ
thuộc ngày càng nguy hiểm. Gạt mọi chuyện lý lẽ sang một bên, điều đặc
biệt quan trọng là dù có hay không có chiến lược, mục tiêu hoàn thành công
nghiệp hóa vào năm 2020 là không khả thi.
4.2.Hai vấn đề lớn trong xu hướng công nghiệp hóa hiện nay của
đất nước
Một là: Vai trò con người trong công nghiệp hóa
Các Đại hội Đảng đều nhấn mạnh đến phát huy nội lực. Song quan
điểm đúng đắn này lại được hiểu theo một nghĩa rất hẹp: Cái gì tự làm được
thì cố làm bằng vốn liếng, sức lực của chính mình (trên thực tế rất gần với
nội dung “tự cung tự túc”). Trong khi đó 25 năm công nghiệp hóa qua chưa
đặt ra vấn đề phát huy nội lực trước hết có nghĩa là phát huy lợi thế và nguồn
lực lớn nhất của nước ta là con người Việt Nam.
Quan điểm chiến lược phát huy thế mạnh và nguồn lực lớn nhất của
đất nước là con người có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và quyết định nội dung
cho toàn bộ quá trình công nghiệp hóa của nước ta cho đến khi tới đích hoàn
thành công nghiệp hóa và cho các giai đoạn phát triển đất nước sau đó. Quan
điểm chiến lược này cho đến nay vẫn chưa hình thành. Chính vì lẽ này, đến
nay nước ta vẫn thiếu hẳn một chiến lược phát triển con người và chưa có
được một thể chế chính trị - xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển con người
để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa.
47
Các Đại hội Đảng nhấn mạnh coi con người là trung tâm, song lại hiểu
vấn đề này chủ yếu là đối tượng phục vụ - theo những khía cạnh phát triển
giáo dục, văn hóa, xã hội. Ngay quan điểm này cũng chưa làm được bao
nhiêu, chưa thể nói con người đã trở thành trung tâm phục vụ của mọi chính
sách phát triển kinh tế xã hội. Chưa đặt ra vấn đề phát triển con người thành
chủ thể, thành nguồn lực lớn nhất, và là động lực quyết định của quá trình
công nghiệp hóa. Càng chưa thể nói là con người với tính cách là công dân
của đất nước được phát triển thành người chủ của đất nước, của hệ thống
chính trị và bộ máy nhà nước. Trong khi đó nhiều quyền và quyền lợi của
người dân bị vi phạm, nhiều trường hợp bị vi phạm nghiêm trọng.
Xin nhấn mạnh (a)quan điểm coi con người là trung tâm như ghi trong
các nghị quyết của Đảng và (b)quan điểm phát huy con người với tính cách
là thế mạnh và nguồn lực lớn nhất của đất nước cho sự nghiệp công nghiệp
hóa như vừa trình bày trên là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
Các Đại hội Đảng VII và VIII nhấn mạnh không công nghiệp hóa theo
kiểu cũ. Song như đã trình bầy trên, trong thực tế công nghiệp hóa diễn ra 25
năm qua chủ yếu dựa trên 4 yếu tố (1) lao động rẻ, (2)khai thác tài nguyên
thiên nhiên, (3)đẩy mạnh tăng trưởng nhờ đầu tư, (4)sử dụng đất đai và tiêu
hao môi trường – thực chất đấy là công nghiệp hóa theo tư duy cũ và kiểu
cũ, bởi lẽ thế mạnh và nguồn lực lớn nhất của đất nước trong thời đại mới
ngày nay là con người hầu như không được tính đến thỏa đáng (chỉ mới chú
trọng đến lao động dư thừa và giá rẻ). Cũng vì lẽ này tiến bộ của khoa học
kỹ thuật và công nghệ vào nước ta rất chậm, mặc dù nước ta ngày nay đang
ở trong thời đại thông tin.
Hai là: Sa đà vào kinh tế thượng nguồn
Càng phát triển, quá trình công nghiệp hóa 25 năm qua có khuynh
hướng càng đi sâu vào kinh tế thượng nguồn: khai thác khoáng sản và các tài
nguyên thiên nhiên khác, phát triển sản phẩm thô, giá trị gia tăng rất thấp,
duy trì công nghệ lạc hậu, cái giá phải trả cho hủy hoại môi trường tự nhiên
và môi trường xã hội rất cao... Đặc biệt là trong các “nền kinh tế GDP tỉnh”,
hầu như tất cả các tỉnh có khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên thì đều coi
đấy là thế mạnh của mình và ra sức khai thác bừa bãi; có nơi Thủ tướng đã
phải ra lệnh đình chỉ.
48
Phát triển kinh tế thượng nguồn là điều khó tránh khỏi ban đầu đối với
một nước nghèo và lạc hậu. Song sai lầm là ở chỗ muốn lấy phát triển kinh
tế thượng nguồn làm cú hích và nguồn tích tụ vốn cho công nghiệp hóa,
thậm chí coi kinh tế thượng nguồn là một nội dung quan trọng, là thế mạnh
của công nghiệp hóa. Tại nhiều tỉnh trong nước đã và đang xảy ra phát triển
kinh tế thượng nguồn với bất kỳ giá nào, thậm chí có nơi chủ yếu là để gây
thành tích, phục vụ yêu cầu “giữ ghế” hay “chạy ghế”. Phát triển như vậy
còn là hệ quả của tư duy lười biếng, dốt nát, đẽo gọt đất nước – song trên
mặt nhiều báo cáo các kỳ đại hội các đảng bộ tỉnh được coi đây là thành
tích!
Sai lầm này 25 năm qua rất trầm trọng, vì tại nhiều nơi khoáng sản và
các tài nhiên thiên nhiên khác đã được khai thác đến cạn kiệt, hủy hoại môi
trường, chỉ để tiêu thụ lao động cơ bắp, có nơi chủ yếu để phục vụ xuất khẩu
nguyên liệu hay sản phẩm thô sang Trung Quốc.
Phát triển kinh tế thượng nguồn và các sản phẩm hàm lượng chế biến
thấp là điểm nổi bật nhất của mô hình phát triển theo chiều rộng 25 năm qua.
4.3. Sơ bộ đánh giá một số hệ quả
Để thấy rõ triển vọng nguy hiểm của công nghiệp hóa theo mô hình
phát triển theo chiều rộng, dưới đây xin nêu ra một số vấn đề:
 Các xí nghiệp xi-măng, luyện thép đã có, đang xây dựng, hoặc
đã được cấp phép xây dựng sẽ dẫn tới tình hình nước ta vào năm
2020 sẽ dư thừa khoảng một chục triệu tấn xi măng/năm và
khoảng hai chục triệu tấn thép/năm trong tình trạng đất nước
ngày càng thiếu năng lượng gay gắt. Phải chăng mục tiêu công
nghiệp hóa của nước ta như vậy là để trở thành cường quốc ximăng
và thép trong thế kỷ 21 này? Sắp tới còn xuất hiện công
nghiệp bô-xít để sơ chế ra nguyên liệu alumin trên Tây Nguyên
với nhiều hệ quả trầm trọng, bất chấp sự phản đối sâu rộng của
dư luân khắp nơi trong nước. Hoàn thành những dự án đã triển
khai hay đã được phê duyệt, đến năm 2020 tình hình hứa hẹn
cảnh quan môi trường tự nhiên nhiều vùng của đất nước sẽ bị
“mặt trăng hóa”; kinh tế nước ta sẽ đổ vỡ, vì bị chính xi-măng
và thép thô kém khả năng cạnh tranh của chúng ta đè bẹp; riêng
49
alumin sẽ đem lại cho đất nước không phải chỉ sự tàn phá Tây
Nguyên và các vùng chung quanh mà cả sự lệ thuộc mới...
Trong khi một số ngành quan trọng có hàm lượng công nghệ
cao như công nghiệp ô-tô, công nghiệp điện tử… có thể được
coi là thất bại, nước ta lại nhập về công nghiệp chế tạo cơ khí
nặng như đóng tầu đang thua lỗ… Công nghiệp hóa như vậy
nguy cơ trở thành bãi thải công nghiệp rất lớn.
 Vào năm 2015 trở đi, nước ta sẽ thiếu năng lượng trầm trọng và
phải nhập khẩu, trong khi đó xuất khẩu than và dầu của nước ta
xuốt 25 năm qua hầu như bỏ qua tương lai của đất nước! Năm
2012 đã tính đến phải nhập than với khối lượng rất lớn. Phát
triển thủy điện đã vượt qua cái ngưỡng cho phép và ngày càng
gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng45. Trong khi đó nhà nước lại
thiếu hẳn việc nghiêm khắc rà xoát, đánh giá lại chính sách năng
lượng quốc gia hiện nay, thiếu hẳn những nỗ lực xử lý nghiêm
khắc và khắc phục tình trạng lãng phí và thất thoát năng lượng
quá lớn đang diễn ra hàng chục năm nay. Gần đây trên phương
tiện truyền thông rộ lên dự án khai thác than bùn đồng bằng Bắc
Bộ thật hãi hùng! Đối mặt với tình trạng thiếu hụt năng lượng
ngày càng nghiêm trọng của đất nước, lãnh đạo quyết định xây
dựng một lúc hai nhà máy điện hạt nhân gồm 4 lò phản ứng ở
Ninh Thuận không phải loại công nghệ tiên tiến nhất (mặc dù
nước ta là nước đi sau), với nhiều rủi ro còn đang bàn cãi chưa
ngã ngũ46. Tình hình cho thấy vấn đề năng lượng của quốc gia
không thể giải quyết theo kiểu “ngứa đâu gãi nấy!”, “vớ được gì
làm nấy!” (một loại chủ nghĩa cơ hội và tác động của lobby?)...
45 Tham khảo thêm:
“Lại phải trả giá vì đầu tư thủy điện ồ ạt”
Tấn Đức
Thứ Năm, 12/11/2009, 10:05 (GMT+7)
http://www.thesaigontimes.vn/Home/thoisu/sukien/25213/
46 Tham khảo các bài viết và các tham luận của giáo sư Phạm duy Hiển về đề tài điện hạt nhân ở
Việt Nam;
bài: “Điện hạt nhân sẽ đắt gấp ba?”
Tác giả: TS Phùng Liên Đoàn
Bài đã được xuất bản.: 12/11/2009 05:00 GMT+7
http://www.tuanvietnam.net/2009-11-12-dien-hat-nhan-se-dat-gap-bavà
bài: “Điện hạt nhân: Không phải việc của riêng ngành điện”
Tác giả: Trần Sơn Lâm
http://www.tuanvietnam.net/2009-11-12-dien-hat-nhan-khong-phai-viec-cua-rieng-nganh-dien
50
Trên thực tế cho đến nay vẫn chưa có một chiến lược năng
lượng được cân nhắc thấu đáo.
 Nếu đánh giá nghiêm túc chi phí/lợi ích (cost/benefit), bao gồm
cả những chi phí bắt buộc cho khắc phục những tác động ngoại
vi của việc khai thác than, hoàn trả môi trưởng tự nhiên nơi khai
thác, sự thất thoát hàng chục triệu tấn than lậu/năm, sự tàn phá
môi trường tự nhiên trong vùng, đánh giá cái được và cái mất so
với đòi hỏi của chiến lược năng lượng quốc gia, vân… vân…
khó có thể coi việc khai thác mỗi năm khối lượng càng lớn than
ở Quảng Ninh là môt thành tựu kinh tế. Đúng hơn nên coi đó là
một thất bại kinh tế lớn và một sai lầm về chiến lược năng lượng
– không phải do chủ trương khai thác than, mà do năng lực quản
lý và hiệu quả kinh tế yếu kém; đặc biệt quan trọng là do thiếu
hẳn một chiến lược năng lượng quốc gia được xác định với
những luận cứ vững chắc làm cơ sở cho việc khai thác. Thậm
chí còn có thể coi việc khai thác than Quảng Ninh như vừa qua
trong khi đất nước ngày càng khan hiếm năng lượng là ví dụ
điển hình nhất trong nhiều ví dụ của tình trạng “bóc ngắn cắn
dài” tài nguyên quốc gia, các thế hệ tương lai sẽ phải trả giá!47
Trong cả nước còn có nhiều công trình khai thác titan, khai thác
đồng, khai thác các khoáng sản khác... hầu hết chỉ để cho xuất
khẩu nguyên liệu, với những hệ quả xấu tương tự.
 Rừng phòng hộ và rừng tự nhiên ngày càng bị trọc hóa và chỉ
còn lại rất ít; đặc biệt là rừng đầu nguồn đã rất ít mà còn đang
tiếp tục bị xâm phạm nghiêm trọng. Lũ lụt ngày càng trở nên
nghiêm trọng hơn và khó khắc phục hơn. Đất đai bị xói mòn và
sa mạc hóa cùng với tình trạng chất lượng thổ nhưỡng ngày càng
xuống cấp với tốc độ rất đáng lo ngại. Riêng cơn bão Ketsana
26-09-2009 vừa qua gây ra lũ lụt lớn nhiều nơi ở Tây Nguyên
còn là lời cảnh báo nghiêm khắc đối với việc khai thác bauxite ở
Tây Nguyên – nhất là đối với các hồ chứa chất thải bùn đỏ
nhiễm hóa chất độc dự kiến sẽ được xây dựng ở vùng này! Xin
hãy đến tận nơi các khu khai thác này, dù là titan ở dọc bờ biển
miền Trung, dù là những cánh rừng nham nhở do khai thác
47 Tham khảo bài:
Ngành than sau 15 năm phát triển: “được” 3, “mất” 7
Tác giả: TS. Nguyễn Thành Sơn
http://www.tuanvietnam.net/2009-11-14-nganh-than-sau-15-nam-phat-trien-duoc-3-mat-7-
51
quặng sắt ở Lào Cai để xuất khẩu sang Trung Quốc, các vùng
khai thác vàng bừa bãi ở Bắc Kạn, Quảng Nam, Bình Thuận... –
mà chủ yếu là khai thác lậu, những dòng sông chết, những con
sông bị đổi dòng và đôi bờ sụt lở do bán cát, những cánh đồng
hoang do các dự án treo... để nhìn tận mắt đất nước đang bị băm
vằm và ô nhiễm như thế nào!
 Xin hãy đối chiếu thực tế nêu trên với quan điểm ghi trong nghị
quyết Đại hội X: “Căn cứ vào nguồn lực và hiệu quả, Nhà nước
tập trung đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư để phát triển những sản phẩm
quan trọng của nền kinh tế như lọc hóa dầu, khai thác quặng và
luyện thép, phân bón, hóa chất, xi-măng, khai thác bô-xít và sản
xuất alumin, bột giấy gắn với trồng rừng và một số sản phẩm cơ
khí chế tạo” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc khóa X, trang
197-198)
 Vân... vân...
Nhìn dài hạn đến năm 2020, hoặc 2030.., có thể nói ngay từ bây giờ nếu
không có quyết tâm thay đổi hẳn tư duy về phát triển để hướng mạnh vào
phát triển bền vững chủ yếu dựa vào phát huy nguồn lực con người, nếu
không đảo ngược được xu thế phát triển như đang diễn ra, nếu cứ tiếp tục
phát triển theo hướng xâm phạm môi trường tự nhiên, bóc lột các nguồn tài
nguyên không tái tạo được một cách không thương tiếc, viễn cảnh của nước
ta thật rất đáng lo ngại! Các thế hệ con cháu chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt.
Trong khi đó tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu ngày một gay gắt, nhất
là đối với nước ta.
5. Vấn đề nông dân trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay
Nghị quyết 26 Hội nghị Trung ương 7 khóa X ban hành ngày 05-08-
2008 viết:
“Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Ðảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá
toàn diện và to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo
hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm
bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu
chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo
hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản
52
xuất tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ
mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Ðời sống vật chất và tinh thần của dân
cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm
nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và
tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được
nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng,
lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền
vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa
phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao
khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn
chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị
gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển
chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở
nông thôn. Các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hóa. Nông nghiệp và nông thôn phát triển
thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường
ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn
chế. Ðời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỷ lệ
hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch
giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh
nhiều vấn đề xã hội bức xúc.”
Đấy là bức tranh khái quát trong văn kiện chính thức của Đảng về tình
hình nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta hiện nay (theo cách nói
“tam nông”) - đương nhiên vẫn theo cách nhìn so ta bây giờ với ta trước đây
và còn bỏ qua nhiều vấn đề hệ trọng khác trong nông thôn.
Trước khi nêu một số vấn đề cụ thể cần đặc biệt quan tâm, xin nhấn
mạnh là nông nghiệp nước ta nói chung, đặc biệt là nông dân nước ta nói
riêng, đã góp phần cực kỳ quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước trên mọi phương diện: đảo ngược tình thế nguy hiểm của đất nước, mở
đầu và tạo đà cho toàn bộ công cuộc đổi mới phát triển, bảo đảm an ninh
lương thực và an ninh chính trị, tạo ra tiềm lực mới cho đất nước, mở rộng
thị trường kinh tế đối ngoại, tăng cường khả năng hội nhập của đất nước
trong giai đoạn đất nước còn nghèo và nền kinh tế còn chậm phát triển...
53
Đặc biệt cần nhấn mạnh sự đóng góp của nông dân có ý nghĩa rất to
lớn và vô cùng quan trọng. Chính những thành tựu này cho thấy vai trò của
nông dân và nông nghiệp trong quá trình phát triển đất nước – cụ thể ở đây
là trong quá trình công nghiệp hóa/hiện đại hóa và trong hội nhập kinh tế thế
giới chưa được nhận thức đúng tầm, dẫn đến những yếu kém và tồn tại lớn
như đã nêu trong NQTƯ 26 khóa X.
Nông dân là quân chủ lực của các cuộc kháng chiến đầy hy sinh gian
khổ, có những đóng góp có ý nghĩa rất to lớn và vô cùng quan trọng trong
suốt 25 năm đổi mới vừa qua như trên đã nói, nhưng hiện nay lại là thành
phần xã hội đang chịu nhiều thiệt thòi nhất trong quá trình công nghiệp hoá
và đô thị hoá và hội nhập kinh tế thế giới. Một bộ phận nông dân vượt qua
được tác động của quá trình này và tìm được con đường sản xuất kinh doanh
dẫn tới một cuộc sống khá giả hơn; song bộ phận này chỉ chiếm một tỷ lệ
khiêm tốn ở nông thôn.
Các chính sách hiện hành và việc thực thi chúng cho thấy không thể
ngăn chặn tình trạng bần cùng hoá vẫn tiếp tục diễn ra đối với bộ phận nông
dân bị tác động trực tiếp. Nhìn chung, khoảng cách thu nhập của nông dân –
đặc biệt là của của bộ phận nông dân bị tác động trực tiếp của quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hóa - đang gia tăng ngày càng nhanh, dẫn đến nhiều hệ
quả khác nhau của phân hóa xã hội. Chất lượng cuộc sống của họ, các quyền
lợi về giáo dục, y tế, các phúc lợi xã hội khác của họ trên thực tế ngày càng
giảm sút so với sự tăng trưởng và phát triển của kinh tế cả nước. Mặt khác
nông dân cũng là nạn nhân chính của thiên tai, dịch bệnh (cho người và cho
nông nghiệp), tình trạng môi trường tự nhiên bị tàn phá, nạn lạm phát và
nhiều tác động khác của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa cũng như của
tình trạng quan liêu tham nhũng nói chung (ở nông thôn rất nặng so với
thành thị)48.
48 Trên thực tế, tại một số vùng nông thôn người dân cho rằng đang xuất hiện “tầng lớp cường
hào mới”.
Các bản án ngày 13/11/2008 của Tòa án Nhân dân TP. Hà Đông (Hà Nội) 33 tháng tù cho 5
người đàn bà nông dân (http://www.vietnamnet.vn/xahoi/2009/07/857341/), bị phạt tiền do dám
chửi đường xấu ở Cà Mâu (http://tintuc.xalo.vn/05-
1495751346/ca_mau_bi_phat_tien_vi_dam_chui_duong_xau.html)... thực ra không thấm tháp gì
so với những hiện tượng nhũng nhiễu, hạch sách, lấn chiếm đất đai, ăn chặn tiền cứu đói, tiền
giúp đỡ đồng bào bị lũ lụt... và các khoản đóng góp của dân, v... v... xảy ra trong rất nhiều làng
xã...
54
Cần đặc biệt lưu ý là sự biến động của thị trường và giá cả (được mùa
rớt giá, được giá mất mùa..; hiện tượng nông dân bị ép mua ép bán <đầu
vào – đầu ra>, hiện tượng lúc phải chặt loại cây này, lúc phải bỏ chăn nuôi
kia với nhiều tổn thất lớn cho nông dân...) gần như trở thành thách thức
thường xuyên đối với nông dân. Họ hầu như không có khả năng gì đáng kể
để tự bảo hộ, để tự đối phó với những thách thức này. Có thế nói họ hầu như
bị bỏ mặc, trong khi đó sự bảo hộ và những hậu thuẫn từ phía nhà nước và
các cơ quan chức năng có thể xem như muối bỏ bể. Một ví dụ trong trăm
ngàn ví dụ: Hàng chục năm nay nông dân Nam bộ là chủ lực trong xuất khẩu
gạo, song đến nay vẫn chưa có cách gì thỏa đáng giảm thiểu sự thiệt hại khá
lớn trong thu hoạch mùa màng, thiếu nghiêm trọng các silo cất giữ lúa, đầu
vào và đầu ra cho sản xuất của họ bị tư thương và thậm chí của cả các công
ty quốc doanh ép giá... Trong khi đó các hiện tượng như ô nhiễm môi
trường, thiên tai dịch bệnh, các hệ quả của biến đổi khí hậu, cường độ canh
tác, việc sử dụng ngày càng nhiều hoá chất, sự khan hiếm nước và nguồn
nước sạch… ngày càng trầm trọng. Thực tế này khiến cho sản xuất nông
nghiệp và chăn nuôi ngày càng rủi ro, bấp bênh, làm nghiêm trọng thêm tình
trạng bần cùng hoá nông dân, cản trở sự phát triển nông nghiệp bền vững.
Cần lưu ý, tình trạng bần cùng hóa nông dân cùng với nhiều thiệt thòi
khác của nông thôn (nhìn chung còn rất lạc hậu) tự nó đang xâm hại nghiêm
trọng hay tước bỏ nhiều quyền của người nông dân. Đầu tiên phải kể đến:
học hành mở mang trí tuệ, tiếp cận với tri thức và công nghệ, quyền thụ
hưởng các phúc lợi xã hội khác... nhằm nâng cao đời sống kinh tế cũng như
nâng cao quyền năng của chính mình trong xã hội. Đấy là những điều kiện
hàng đầu để người nông dân tự bảo vệ được mình và tìm đường thoát khỏi
cái nghèo và lạc hậu. Song những điều kiện hàng đầu này thường xuyên bị
cái nghèo và bất công cướp đi, khiến cho cái nghèo và lạc hậu của họ trở
thành truyền kiếp. Sự thiếu vắng của xã hội dân sự và nhà nước pháp quyền
trong nông thôn làm cho tình trạng này của họ trầm trọng thêm. Tất cả giải
thích vì sao sau 25 năm công nghiệp hóa mà nông thôn nước ta nhìn chung
vẫn rất lạc hậu, chỉ cần bước chân ra khỏi thành phố là có thể thấy tận mắt.
Trong khi đó khoảng 70-80% các vụ khiếu kiện hàng năm trong cả nước
trước hết là của nông dân.
Thực tế vừa nói trên đặt ra nhiều thách thức mới trong tương lai – nhất
là trong tình hình nước ta ngày càng chật, người ngày càng đông: nước ta có
dân số đứng thứ 12 trên thế giới, mật độ dân số nước ta cao gần gấp 5 lần
mức của thế giới, gấp 2,5 lần các nước Đông Nam Á, gấp 2 lần Trung
Quốc... Trong khi đó nguy cơ sa mạc hóa trong đất liền, nguy cơ biển lấn
55
đất và nhiễm mặn, các thiên tai khác do hệ quả của hiệu ứng nhà kính và
biến đổi khí hậu ngày càng lớn.
Tại nhiều vùng nông nghiệp rộng lớn của nước ta cứ 1 ha đồng ruộng
bị chuyển đổi mục đích sử dụng cho công nghiệp hoá và đô thị hoá khiến
cho 20 – 30 nông dân mất việc làm và và 3 – 4 hộ mất kế sinh nhai. Trong
khi đó tốc độ chuyển dịch ngành nghề cho nông dân diễn ra rất chậm, sau 25
năm đổi mới và tiến hành công nghiệp hoá tỷ trọng lao động nông nghiệp
vẫn chiếm trên 60% lao động cả nước. Cho đến nay mới chỉ có 28% lao
động cả nước được đào tạo về nghề nghiệp, tỷ lệ này trong nông dân còn
thấp hơn nhiều lần. Thực tế này là nguồn gốc nhiều hiện tượng xã hội đau
lòng, trước hết là nạn thất nghiệp, các “chợ vợ” cho người nước ngoài, nạn
mãi dâm, tình trạng bán cả cơ nghiệp và tài sản tìm đường đi lao động ở
nước ngoài với nhiều cơ cực và bị lừa gạt… Tình trạng khiếu kiện đất đai
nóng bỏng từ hàng thập kỷ nay, sắp tới sẽ còn quyết liệt hơn khi phải dành
một diện tích đáng kể cho phát triển đường xá và các công trình kinh tế
khác. Trong khi đó thiếu hẳn một quy hoạch tổng thế cho cả nước có khả
năng đón đầu sự phát triển này và giảm bớt những tổn thất.
Nông dân các dân tộc ít người ở các vùng núi còn phải chịu đựng
nhiều thiệt thòi hơn, do rừng núi vốn là quê hương lâu đời, không gian sinh
tồn và không gian văn hoá của họ đang ngày càng bị lấn chiếm. Nạn phá
rừng bừa bãi của các công ty và lâm tặc, việc lấn đất lấn rừng, làm lâm
trường, làm kinh tế trang trại... cùng với tình trạng nhập cư ồ ạt đang uy hiếp
ngày càng nặng nề sự tồn tại và tương lai các tộc ít người ở nước ta. Còn quá
nhiều vấn đề tồn tại trong việc tái định cư và ổn định cuộc sống cho đồng
bào các tộc ít người phải di dời đi nơi khác do những công trình thủy điện đã
hoàn thành hoặc đang xây dựng... Nên đến tận nơi các công trình thủy điện
chi chít miền Trung để thấy tận mắt cảnh quan và môi trường tự nhiên,
những cánh ruộng và đất đai trồng trọt vô cùng quý giá tại đây, môi trường
xã hội, quê hương văn hóa bản địa... của đồng bào các tộc ít người ở đây bị
tàn phá, bị cướp đi như thế nào!
Nhìn chung, những nỗ lực bỏ ra cho việc cải thiện đời sống kinh tế -
văn hoá – xã hội đối với đồng bào các tộc ít người là to lớn so với tình hình
đất nước còn nghèo, song không đảo ngược được xu thế nói trên – trong đó
nguyên nhân chính lại là sự yếu kém về năng lực và phẩm chất của chính
quyền các cấp. Tình hình đang trở nên đặc biệt nghiêm trọng trong việc khai
thác bauxite ở Tây Nguyên. Nhà văn Nguyên Ngọc cảnh báo: “Chấp nhận
chương trình này (khai thác bauxite Tây Nguyên) là chúng ta chấp nhận không còn Tây
56
Nguyên, không còn cái mái nhà phải giữ cho kỳ được để đảm bảo phát triển bền vững,
không chỉ cho Tây Nguyên mà cho cả nước ; là chấp nhận phát triển bằng bất cứ giá
nào, chấp nhận hy sinh tương lai cho hôm nay. Cũng là không còn coi trọng sự tồn tại
của các tộc người bản địa như những thực thể văn hoá xã hội từng là chủ nhân của
vùng đất có ý nghĩa sinh tử này của tổ quốc ta.”
Làng nghề (nói cho đúng hơn ở nhiều nơi là nghề riêng của làng) và
kinh tế trang trại là hai hình thái kinh tế có khả năng lớn trong việc thu hút
lao động ở nông thôn, bao gồm cả việc chuyển đổi nghề nghiệp cho một bộ
phận nông dân nhất định. Hai hình thái kinh tế này trong những năm qua
phát triển mạnh, góp phần tích cực thay đổi bộ mặt nông thôn. Song sự phát
triển này chủ yếu do sự vận động tự thân của nông thôn tìm đường tự cứu
mình và phát triển chính mình. Chính sách của nhà nước và những khuyến
khích hay hậu thuẫn cần thiết phải có cho hai hình thái kinh tế này tuy đã
làm được một số việc rất khiêm tốn, nhưng vẫn còn nhiều bất cập, thậm chí
nhiều địa phương còn tồn tại một số rào cản – có nghĩa trên thực tế là không
khuyến khích.
Một vấn nạn chưa có giải pháp là tổn thất lớn hàng năm về người và
của, về môi trường đất đai do thiên tai gây ra, lặp đi lặp lại trong một số
vùng nhất định. Thực tế này cho thấy đang thiếu hẳn một chủ trương chiến
lược giảm thiểu dần những tổn thất và hậu quả của thiên tai – bao gồm cả
việc di dời hoặc quy định lại những vùng dân cư nhất định mà thiên tai
thường xuyên lặp lại, từng bước kiên cố hóa lâu dài, hay hiện đại hóa một
số những công trình nhất định thuộc hệ thống phòng chống thiên tai... Hiện
nay vẫn chưa hình thành được những quan điểm hay chủ trương chiến lược
dự phòng, các công việc phải triển khai ngay từ bây giờ trở đi cho tình
huống vào những năm 2030, 2050…
Nước ta là một nước nông nghiệp, nhưng cho đến nay thực sự đang
thiếu hẳn một chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững và hài hoà với quá
trình công nghiệp hoá, đô thị hoá. Thực tế đang diễn ra một quá trình công
nghiệp hoá và đô thị hoá – kể cả hiện tượng xây dựng bừa bãi các sân golf49
– ngày càng gây ra nhiều gánh nặng mới cho nông dân và nông thôn.
49 Cả nước hiện có 166 sân golf, (có tài liệu nói là trên 140 sân!), nhiều gấp 3 lần mức bình quân
của thế giới, diện tích trung bình 200 – 300 ha/sân. Không ít dự án xây dựng sân golf trở thành
một phần các dự án địa ốc trá hình. Hệ quả của việc nông dân mất đất cho sân golf rất nhiều
mặt, và tác động môi trường của sân golf rất lớn.
57
Nông nghiệp bền vững
Vận dụng kinh nghiệm của các nước đi trước, có thể nói:
Nông nghiệp bền vững nhìn về nhiều phương diện thực chất là một cuộc cách
mạng nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, là một bộ phận hữu cơ của quá
trình công nghiệp hóa.
Là nước đi sau, hướng tới một nền nông nghiệp bền vững là hướng tới việc từng
bước đưa vào nông nghiệp những thành tựu mới nhất của tiến bộ khoa học kỹ thuật
và công nghệ, những thành tựu mới của văn minh nhân loại - kể cả trong lĩnh vực tổ
chức, quản lý việc canh tác, kinh doanh.., - là quy hoạch lại phát triển nông nghiệp,
xắp xếp lại nông thôn, tổ chức lại quản lý nông thôn, xây dựng đời sống tinh thần và
văn hóa mới trong xã hội nông thôn... -,.., tất cả nhằm tạo ra lợi thế phát triển tối ưu
chung cho toàn bộ nền kinh tế của đất nước...
Cốt lõi của phát triển nông nghiệp bền vững là (1)phát triển được nguồn lực con
người trong nông nghiệp, (2)tạo ra được nền nông nghiệp có năng xuất và hiệu quả
kinh tế cao, (3)nền nông nghiệp có khả năng gìn giữ và tái tạo được độ phì nhiêu của
đất đai, (4)nền nông nghiệp có khả năng góp phần quyết định gìn giữ môi trường tự
nhiên của quốc gia, (5)nền nông nghiệp có khả năng đóng góp tốt nhất vào phát huy
lợi thế so sánh của quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu hóa của thế giới...
Một nền nông nghiệp cao như thế, có nhiều hàm lượng khoa học, kỹ thuật và công
nghệ như thế, sẽ làm mờ đi ranh giới giữa nông nghiệp và công nghiệp, và vì lẽ này
nó trở thành một bộ phận hữu cơ của toàn bộ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Lợi thế về nông nghiệp của nước ta rất lớn, song rất cần một chiến
lược phát triển nông nghiệp bền vững như thế để phát huy, để góp phần tăng thêm
thế mạnh cho đất nước. Đặt vấn đề như vậy rồi đối chiếu với chính sách hiện hành
và các việc đang làm, sẽ thấy nhiều việc phải làm khác đi, nhất là sẽ thấy tính bức
xúc của việc xây dựng chiến lược phát triền nông nghiệp bền vững.
Hướng về một nền nông nghiệp bền vững như thế là nhiệm vụ quốc gia phải phấn
đấu xuốt cả một thế hệ con người, hoặc thậm chí của vài thế hệ, và hoàn toàn không
thể tiếp cận bằng những quan điểm “giai cấp”, “quan hệ sản xuất”, “ý thức hệ”... đang
chi phối đường lối chính sách hiện hành đối với phát triển nông nghiệp.
Còn phải chờ xem những chủ trương chính sách mới đề ra gần đây cho
về vấn đề “tam nông” (Nghị quyết 26, tháng 08-2008) sẽ được thực hiện ra
sao50, mặc dù như thế là chậm. Cái đúng được đề ra trong nghị quyết 26 là
coi giải quyết những vấn đề của nông dân và nông nghiệp là một nhiệm vụ
có vị trí chiến lược trong công nghiệp hóa và trong sự nghiệp bảo vệ đất
nước, là trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội. Tuy nhiên, điều
quyết định là sẽ có những biện pháp thực hiện cụ thể như thế nào?
Tồn tại lớn nhất là cho đến nay vẫn chưa tìm ra được con đường phát
triển một nền nông nghiệp bền vững, hiện đại, gắn liền với việc chuyển dịch
50 Tìm đọc và so sánh với Nhị quyết Trung ương số 26 ban hành ngày 05-08-2008 về nông
nghiệp, nông dân và nông thôn.
58
một bộ phận ngày càng lớn lao động nông nghiệp sang các ngành nghề khác.
Tất cả các Luật và các chính sách hiện hành không đáp ứng được đòi hỏi
này. Tất cả những nỗ lực cụ thể loay hoay chung quanh việc cải tiến mô hình
hợp tác xã cũng không giải quyết được vấn đề.
Không giải quyết thành công vấn đề nông dân, sẽ không có một nước
Việt Nam công nghiệp hóa. Nâng cao dân trí, khả năng tiếp cận công nghệ
mới, việc làm, phát triển nông phẩm và thực phẩm sạch và cao cấp, đặc biệt
là phát triển nông nghiệp dựa trên công nghệ sinh học và gìn giữ môi trường
sinh thái, ngày càng mở rộng thị trường trong nước và bên ngoài cho sản
phẩm cao cấp của mình, sự hậu thuẫn và bảo hộ không thể thiếu của nhà
nước... đó là những đòi hỏi nóng bỏng của nông dân và của nền nông nghiệp
Việt Nam, Nhà nước và toàn xã hội có nghĩa vụ phải đáp ứng tốt nhất.
Rất nên tận dụng lợi thế nước đi sau, tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện
đại và hội nhập kinh tế thế giới tính đến phát triển nông phẩm và thực phẩm
cao cấp có giá trị gia tăng cao, coi đây là một nội dung quan trọng trong
công nghiệp hóa của nước ta, phát huy tôi đa lợi thế so sánh mọi mặt của
nước ta.
Chú ý: có lẽ không nên dùng khái niệm “tam nông”, vì có hơi hướng
học mót, không sáng tạo. Trên hết cả, khái niệm “tam nông” không nói lên
được mọi vấn của vấn đề nông nghiệp trong tổng thể hữu cơ của quá trình
công nghiệp hóa. Ngay ở Trung Quốc đã bắt đầu phải nói đến “tứ nông”.
Chẳng lẽ rồi đây ta cũng sẽ lại nói theo “tứ nông”? Phát triển nông nghiệp
bền vững đòi hỏi phải ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ,
phải có sự hỗ trợ và kết hợp rất quan trọng của công nghiệp. Vì lẽ này phát
triển nông nghiệp bền vững phải là một thành phần chiến lược trong toàn bộ
chiến lược công nghiệp hóa. Nói ngắn gọn, muốn phát triển nông nghiệp bền
vững phải thay đổi cơ bản quan niệm và quá trình công nghiệp hóa / đô thị
hóa đang diễn ra hiện nay ở nước ta. Không phát triển thành công nông
nghiệp bền vững, quá trình công nghiệp hóa ở nước ta có nguy cơ sẽ chỉ
mang lại một bãi thải công nghiệp toàn quốc! Chính vì lẽ này, công nghiệp
hóa thực sự là một quá trình quy hoạch, xắp xếp lại giang san đất nước.
6. Chuyển sang giai đoạn phát triển mới - giai đoạn phát triển theo
chiều sâu - trở thành đòi hỏi tất yếu của đất nước
Tất cả những vấn đề đất nước phải đối mặt như đã trình bầy trong các
điểm từ 1-5 bên trên khẳng định tất yếu này.
59
Phải nói việc chuyển giai đoạn phát triển một cách có ý thức như vậy
là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn và gian khổ. Hơn lúc nào hết phải huy
động (a)trí tuệ cả nước, (b)kinh nghiệm của thế giới, (c)sự quyết tâm một
lòng một dạ của toàn dân, và (d)sự tận tụy, trung thành tuyệt đối của hệ
thống chính trị và bộ máy nhà nước đối với lợi ích quốc gia (xin đặc biệt
nhấn mạnh yếu tố này), để có thể thực hiện thành công nhiệm vụ sinh tử này
với cái giá phải trả thấp nhất. Làm thế nào để Việt Nam hội đủ được 4 điều
kiện này? Một lần nữa tình hình cho thấy tầm nhìn của lãnh đạo và chất
lượng của hệ thống chính trị trở thành yếu tố quyết định.
Dưới đây xin trình bầy một vài gợi ý ban đầu.
(1)Nói chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu, trước hết là
nói đến phát triển chủ yếu dựa trên cơ sơ phát huy lợi thế và nguồn lực lớn
nhất của đất nước là con người, là phát triển rất chú trọng đến chất lượng.
Đặt vấn đề như vậy, có nghĩa là thay đổi căn bản quan điểm hiện có về
chiến lược phát triển.
Con người được nói tới ở đây vừa là chủ của chính bản thân mình, là
chủ của đất nước, vừa chính mình trực tiếp là lực lượng sản xuất quyết
định nhất. Câu hỏi đặt ra ngay tức khắc là thể chế chính trị, luật pháp nào,
hệ thống giáo dục nào, khung khổ xã hội nào, và những chính sách phát triển
kinh tế - chính trị - xã hội nào cần phải có để có thể tạo ra được và tiếp tục
phát triển được con người như thế. Bao chùm lên tất cả là còn phải duy
dưỡng và xây dựng những giá trị văn hóa nào làm nền tảng đạo đức, tinh
thần và tâm hồn của con người với tính cách như thế - con người của hành
động theo tư duy của tự do và sáng tạo, chứ không phải là con người công
cụ.
Câu trả lời nếu tìm được, trước hết sẽ có nghĩa phải sẵn sàng và chấp
nhận triệt để nhiều thay đổi căn bản trong thể chế chính trị và trong hệ thống
quản lý đất nước, trong tư duy cũng như trong tìm tòi và thiết kế các chính
sách phát triển đất nước, trong việc tuyên chiến với mọi cái hủ bại, trong
việc duy dưỡng và xây dựng những giá trị tốt đẹp, đặc biệt là đổi mới và
phát triển nền giáo dục nước nhà...
Nói bao nhiêu cũng không xuể về chủ đề con người, song nhất thiết
cần nhấn mạnh chế độ chính trị của đất nước phải như thế nào để người dân
60
gắn kết sống chết với nó bằng tất cả nhiệt huyết yêu nước của mình. Xây
dựng một chế độ chính trị được người dân cảm nhận nó gần như đồng
nghĩa với tổ quốc là rất khó, song nhất thiết phải hướng tới. Không có
điều kiện này, ước mơ trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện
đại ganh đua được với thiên hạ sẽ chỉ là ước mơ, càng khó bảo vệ bờ cõi đất
nước. Đơn giản, người dân có thể nói: Tôi không thể hết lòng vì đất nước
trong một chế độ tham nhũng!
(2)Đặt vấn đề như nêu trong điểm (1) là khởi điểm và đồng thời cũng
là nền tảng để đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ của thời đại ngày
nay trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Quan điểm này không mới, chiếm vị trí quan trọng trong rất nhiều nghị
quyết và chính sách của Đảng và Nhà nước, nhưng khó trở thành hiện thực
vì không có thể chế phát huy được con người. Suốt 25 năm qua không ít
công sức và ngân sách bỏ ra cho mục tiêu đưa tiến bộ khọc kỹ thuật và công
nghệ vào sự nghiệp phát triển đất nước. Song kết quả cuối là chỉ đạt được
hàm lượng khoa học và công nghệ thấp hoặc thậm chí rất thấp trong sản
phẩm làm ra, trong chất lượng các chủ trương chính sách, trong luật pháp,
trong quy hoạch phát triển, trong các quyết định chiến lược, quyết sách..,
cũng như trong bộ máy làm việc của toàn bộ hệ thống chính trị nói chung và
của hệ thống nhà nước nói riêng, trong xây dựng và phát triển xã hội mới...
Kết quả cuối cùng còn là sự lãng phí rất to lớn về tiền của, công sức, cơ hội
và thời gian. Tham nhũng trong đầu tư cho khoa học và công nghệ không thể
nói là nhỏ, càng không nhỏ đối với một nước nghèo như nước ta.
Nhiều phê bình trong nước và từ nước ngoài nói khâu “R&D” (“nghiên
cứu & triển khai) của nước ta rất kém. Nhận xét này đúng nhưng không đủ,
bởi vì nhận xét này không nói lên được nguyên nhân chính của tình trạng
này là chưa có con người và thể chế phải có; thậm chí nhận xét này còn bị
hiểu thiên lệch là ta làm “R&D” chưa giỏi và vì ta nghèo!
Tình trạng “hàm lượng công nghệ thấp” như vừa nêu trên còn do một
nguyên nhân khác rất quan trọng: Đó là chính trị (đúng hơn trong nhiều
trường hợp phải nói là ý đồ chính trị) chứ không phải khoa học và chân lý
có tiếng nói quyết định. Sắp tới cần làm sao cho dân chủ và người tài chưa
có chỗ đứng phải có trong sự nghiệp phát triển đất nước.
61
(3)Chuyển sang giai đoạn phát triển mới nhất thiết phải cải cách hệ
thống giáo dục và đào tạo.
Đòi hỏi phải cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo hầu như được sự
nhất trí rộng rãi trong cả nước. Vấn đề còn đang tranh cãi là cải cách theo
hướng nào, tiêu chí nào. Đề nghị trực tiếp tham khảo ý kiến các bên hữu
quan để có sự đánh giá riêng của mỗi người và cùng nhau tranh luận cho sự
lựa chọn phương án tối ưu nhất cho đất nước.
Phương án cải cách định lựa chọn nhất thiết phải tuân thủ mục tiêu đào
tạo, đó là: hình thành và phát huy con người hành động theo tư duy của tự
do và sáng tạo, không phải là con người công cụ.
Sự nghiệp cải cách này cũng phải tiến hành từng bước và liên tục với
một kế hoạch được thiết kế sao cho có thể vừa đáp ứng ngay những đòi hỏi
bức xúc của phát triển và vừa phục vụ cho sự phát triển lâu dài và bền vững
của đất nước. Cải cách như thế sẽ là sự nghiệp của cả thập kỷ 2020 và sau
nữa, phải rất triệt để, nhưng cũng không thể nóng vội được.
Chỉ xin lưu ý, nhiệm vụ này là của cả nước chứ không thể chỉ là của
riêng ngành giáo dục và đào tạo, bởi vì tính chất cải cách giáo dục và đào tạo
bao gồm và liên quan trực tiếp đến nhiều lĩnh vực khác của toàn bộ đời sống
đất nước. Nói một ví dụ đơn giản là không thể tiến hành cải cách này trong
tình hình còn đầy rãy những hiện tượng bằng thật không ăn nhằm gì. Hiện
nay có quá nhiều trường hợp bằng thật bị thải loại và thua bằng giả. Thực tế
tại các quốc gia cũng cho thấy không thể tiến hành cải cách giáo dục một
cách đích thực nếu thể chế chính trị và xã hội của quốc gia ấy không nghiêm
khắc chống lại những giá trị trái ngược với những mục tiêu một nền giáo dục
tiên tiến phải theo đuổi.
Điều xin đặc biệt nhấn mạnh là cải cách giáo dục và đào tạo thành
công trong thập kỷ 2011-2020, sẽ quyết định tương lai của đất nước trong
thế kỷ 21, chứ không phải sự nghiệp công nghiệp hóa như đang làm. Thậm
chí còn phải nói sự nghiệp cải cách giáo dục và đào tạo cần bắt đầu từ một
điểm sơ khởi: không nói dối!
(4)Phải đánh giá lại, quy hoạch và thiết kế lại kết cầu hạ tầng vật
chất, kỹ thuật, pháp chế và xã hội; riêng phát triển kết cấu hạ tầng vật chất
kỹ thuật cần phải đi song song hoặc cố đi trước một bước quá trình phát
triển của đất nước; tất cả phải đạt được bước trước chuẩn bị cho bước sau.
62
Có thể nói các “thắt cổ chai” đã trầm trọng tới mức những năm gần
đây bắt đầu đẩy lùi sự phát triển kinh tế - nhất là về chất lượng và tính hiệu
quả của nó, nhìn chung là đẩy lùi sự phát triển của đất nước. Kinh tế, sơn hà
xã tắc của một quốc gia nhất thiết phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng vật
chất kỹ thuật và một thể chế luôn luôn được hoàn thiện làm giá đỡ.
Không thể không rùng mình nếu đối chiếu, so sánh đòi hỏi này với
thực trạng hiện nay của đất nước. Trong đời sống hàng ngày đầy rãy những
hiện tượng từ bất cập51, tác trách, đến sa đọa... Về một số phương diện nhất
định, chính thể và xã hội nước ta thực sự đang xuống cấp nghiêm trọng!
Ngày càng nhiều hiện tượng tha hóa đến mức đồi bại, đối với bên trong thì
làm mất kỷ cương phép nước, lòng dân ly tán; đối với bên ngoài thì không
giữ được thể diện quốc gia và làm yếu vị thế đất nước, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia bị xâm phạm.
Trong cuộc sống đất nước năm này qua năm khác có biết bao nhiêu sự
việc khác nhau gây bức xúc lớn như thế, dồn nén lại thành câu hỏi: Chế độ
Đảng đang xây dựng cho đất nước thực chất là chế độ gì?!
Đảng Cộng Sản Việt Nam nắm giữ vai trò lãnh đạo đất nước nhất thiết
cũng phải tự hỏi mình như vậy, để nhìn lại tất cả, nhất là để qua đó nhận biết
khoảng cách giữa những gì Đảng đã cam kết với đất nước và thực tế đang
diễn ra trong cuộc sống.
(5)Phải đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Đây là một quá trình đau
đớn, gian khổ, nhưng tất yếu phải làm.
Chữ nói về câu chuyện này đã mòn, song phải thừa nhận chưa có
chuyển biến. Những vấn đề nêu trong các điểm từ 1-5 bên trên đã nêu ra
51 Hiện nay dư luận cả nước đang xôn xao việc xả lũ công trình thủy điện ở miền Trung trong
cơn bão số 11 vừa qua, đặt vấn đề: quy hoạch các công trình thủy điện, chất lượng thiết kế hồ
trữ nước và việc xả lũ có phải là nguyên nhân làm cho lũ trầm trọng thêm khiến cho nhiều sinh
mạng bị cướp đi?
Xem thêm bài:
(1)“Trên cả sự vô cảm” – Sài gòn Tiếp thị, ngày 09.11.2009 Giờ 08:12
http://www.sgtt.com.vn/Detail23.aspx?ColumnId=23&newsid=59155&fld=HTMG/2009/1108/5915
5 (
2) “Ai cũng hiểu chỉ một người không hiểu”
(Năm nhận xét về phát biểu của PTT Hoàng Trung Hải trên Tuổi Trẻ)
[http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=347044&ChannelID=3]
63
được một số nguyên nhân, nhưng chắc chắn chưa đủ. Cần nghiên cứu công
phu để tìm ra giải pháp.
Trước mắt nên bỏ cách tư duy “kinh tế GDP” tỉnh, tạm thời đặt sang
một bên vấn đề tỷ trọng các khu vực kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, dịch
vụ) trong phạm vi tỉnh để đánh giá tỉnh đó tiến bộ hay thụt lùi, mà nên đo
lường bằng kết quả thu nhập của người dân, chất lượng cuộc sống của họ,
khả năng cạnh tranh đích thực của các sản phẩm của tỉnh, kết quả cạnh tranh
đạt được, chuyển đổi cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung vào các sản phẩm
tỉnh có lợi thế nhất, chuẩn bị cho những sản phẩm mới tỉnh có lợi thế lớn
theo cách nhìn dài hạn... Cấp quốc gia cũng phải làm như vậy.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải ưu tiên nâng cao khả năng cạnh tranh
nhằm chiếm lĩnh và mở rộng thị trường nội địa còn rất rộng của nước ta cho
sản phẩm của ta, đảo ngược hẳn tình hình thị trường nội địa nước ta hiện
đang bị sản phẩm nước ngoài nắm giữ phần lớn. Đòi hỏi này hoàn toàn
không có gì liên quan đến tư duy “tự cung tự cấp” hoặc “thay thế nhập
khẩu”, bởi lẽ nước ta đã hội nhập kinh tế thế giới và thị trường nước ta là thị
trường mở.
Để thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế, có thể tạm thời chấp nhận chỉ
số tăng trưởng thấp trong một số năm nhất định, nếu bước đi này đem lại
chất lượng tăng trưởng tốt hơn và mở đường cho sự phát triển năng động
mới tiếp theo.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta trong thập kỷ 2011-2020 nhất
thiết phải tính đến thực tế ngay sát nước ta, tại khu Buong Thatluong liền kề
con đường Kaysone Phomvihane ở Vientiane đã manh nha dự án một China
Town 1600 ha – (có tin nói nhân dân Lào đang phản đối), ở Campuchia cũng
có tình hình tương tự, rồi đến các dự án thủy điện trên sông Mekong – (có
tin đồn bao gồm cả mục đích nhằm luyện nhôm cho việc khai thác bô-xít ở
Lào)… Ngay trên đất nước ta cũng đang xuất hiện khu công nghiệp 800ha
do Thâm Quyến xây dựng tại An Dương – Hải Phòng và bao nhiêu vấn đề
khác nữa do cái “công xưởng thế giây ra trực tiếp đối với nước ta, hàng vạn
người Trung Quốc dưới dạng lao động đi theo công trình đang thâm nhập
khắp nơi vào nước ta, kể cả trên Tây Nguyên... Giả thiết rằng những dự án
này sẽ được thực hiện, kinh tế và an ninh của nước ta sẽ đứng trước những
vấn đề gì? Đối sách của nước ta?
64
Trên hết cả, chuyển dịch cơ cấu kinh tế với mục tiêu mở đường đi vào
một giai đoạn phát triển mới trong bối cảnh quốc tế mới cần được xem là
xắp xếp lại giang sơn đất nước! Nhiệm vụ này bao gồm nhiều việc hệ trọng
phải làm. Chẳng những phải sớm hình thành được ý đồ chiến lược phát triển,
mà còn phải quy hoạch được các quá trình phát triển các lĩnh vực, trong đó
đặc biệt quan trọng là chiến lược và quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng với
chức năng mở đường và làm nền tảng cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Những lúng túng hiện nay trong quy hoạch phát triển năng lượng là một
trong nhiều ví dụ cho thấy việc quy hoạch phát triển các lĩnh vực khó và yếu
kém như thế nào! Ngay trước mắt, trong vòng 10 - 20 năm tới sẽ phải dành
thêm khoảng 15 – 20% đất đai cho phát triển hệ thống giao thông vận tải và
giải quyết vấn đề đô thị hóa; công việc này không quy hoạch có luận cứ xác
đáng và xúc tiến từ bây giờ, hệ quả sẽ ra sao? Chắc chắn không thể tiến hành
theo kiểu xáp nhập Hà Tây vào Hà Nội và tư duy nhiệm kỳ.
Ngay trước mắt là việc cần loại bỏ các tập đoàn và doanh nghiệp thua
lỗ. Cơ cấu lại và chỉ cần giữ một số tập đoàn kinh tế nhà nước thiết yếu với
nguyên tắc không được kinh doanh trái nghề52. Nhà nước manh mẽ hậu
thuẫn phát huy thế mạnh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đổi mới cơ cấu
kinh tế nhất thiết phải tìm cách vô hiệu hóa sự câu kết giữa quyền lực kinh tế
và quyền lực chính trị, thực hiện công khai minh bạch53.
Có lẽ không nên bám lấy mục tiêu hoàn thành công nghiệp hóa vào
năm 2020 với bất cứ giá nào, vì điều này vừa không hiện thực, vừa trở nên
không quan trọng nữa. Thậm chí làm theo các kế hoạch công nghiệp hóa
hiện hành nếu dẫn đến kết cục năm 2020 nước ta sẽ trở thành cường quốc ximăng,
thép thô và bô-xít thì sẽ đồng nghĩa với tự sát. Nhất thiết cần tìm cách
đảo ngược xu thế phát triển kinh tế thượng nguồn. Mục tiêu chiến lược nên
chọn là vào năm 2020 sẽ hoàn thành việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nước ta sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu như đã trình bầy trên,
gắn với đổi mới thể chế chính trị, để từ đó mở ra cho nước ta một giai
đoạn phát triển mới.
52 Vì tập đoàn kinh tế nhà nước được phép dành tới 30% tổng vốn của mình (nghĩa là rất lớn)
cho kinh doanh các sản phẩm trái nghề nên không hoàn thành việc thực hiện các sản phẩm
chính của tập đoàn, lỗ biến thành lãi, phát sinh nhiều tiêu cực, đồng thời lấn át khu vực kinh tế tư
nhân – nhất là các xí nghiệp nhỏ và vừa. Cần bãi bỏ quy định này.
53 Mặc dù có sự giải thích, thanh minh.., song dư luận trong nước vẫn vô cùng bức xúc về các vụ
CPI, Securency, vụ án Nông trường Sông Hậu, tập đoàn Vinashin…
65
Nếu trong vòng 10 năm, từ nay đến năm 2020, mà thực hiện được mục
tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế như vậy, thì đó là một thành tựu kì diệu có
tính bước ngoặt như đổi mới năm 1986 – vì điều này sẽ chặn đứng khả năng
nước ta rơi vào tình trạng lạc hậu, lệ thuộc, ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ và bị
nô dịch, mở ra cho đất nước ta con đường đi vào một giai đoạn phát triển
mới.
*
Lời kết
Nhìn lại, yếu tố nổi bật nhất của 25 năm đổi mới là dân chủ. Có thể
nói thừa nhận đổi mới là kết quả của thừa nhận dân chủ. Thành tựu đạt được
của đổi mới trước hết là nhờ dân chủ: trí tuệ và nguồn lực được cởi trói,
được phát huy – từ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường.
Hiển nhiên ai cũng thấy mức độ dân chủ đạt được ở đây còn khiêm
tốn và chủ yếu mới chỉ trong lĩnh vực kinh tế. Song cái dân chủ còn khiêm
tốn ấy đã đủ sức gần như trong một đêm54 xóa bỏ cơ chế kinh tế bao cấp rất
nặng nề ở nước ta hồi ấy và bứng đi không ít cái thể chế ăn theo với nó, đảo
ngược được tình hình nguy khốn của đất nước lúc đó, mở đường cho đi tới
hôm nay.
Vì vậy, còn có thể nói dân chủ - dù là ở mức độ còn khiêm tốn ấy –
là thành tựu bậc nhất của 25 năm đổi mới. Và trong giai đoạn phát triển
mới của đất nước,dân chủ sẽ là chìa khóa mở cửa giải phóng con người với
tính cách vừa là chủ bản thân, là chủ đất nước, vừa là nguồn lực lớn nhất của
đất nước cho một Việt Nam cường thịnh.
Song có một sự thật khác: Thành tựu bậc nhất ấy của 25 năm đổi mới
còn bị xem là một nguy cơ diễn biến hòa bình, vì thế 25 năm qua có không ít
việc làm ngăn cấm, kìm hãm, trấn áp dân chủ, làm chậm bước tiến của đất
nước, bỏ lỡ nhiều cơ hội lớn. Đi vào giai đoạn phát triển mới của đất nước,
phải thẳng thắn đối mặt với sự thật này.
54 Năm 1987 nước ta còn thiếu đói lương thực, năm 1989 nước ta đã xuất khẩu lương thực!
66
Ngày nay chỉ có giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ mới có thể tạo
ra nền tảng thực hiện được đoàn kết, hòa hợp và hòa giải dân tộc. Đấy chính
là con đường mở mang dân trí, phát huy con người Việt Nam, là nguồn sức
mạnh và sáng tạo vô tận, để làm nên một Việt Nam hạnh phúc, phồn vinh.
Đó chính là phương hướng xây dựng một chế độ chính trị mà người dân có
thể cảm nhận nó gần như đồng nghĩa với Tổ quốc, tạo dựng một nền nội trị
vững chãi bất khả xâm phạm của đất nước, khơi dậy hào khí dân tộc. Chỉ
một khi người dân cảm nhận được chế độ chính trị này là của mình, vì mình,
là lực hậu thuẫn vô song cho sự phấn đấu của mình, là người gắn kết toàn
dân tộc và khơi dậy mọi tinh hoa gìn giữ và làm rạng rỡ giang sơn gấm vóc,
là người đưa đất nước dấn thân vào trào lưu tiến bộ chung của nhân loại, là
niềm tự hào vì nó mà mình phấn đấu, là điều thiêng liêng vì nó mà mình sẵn
sàng xả thân gìn giữ, là niềm tự hào của nước Việt Nam… - chỉ khi xây
dựng được một chế độ chính trị làm nên những giá trị như thế nó mới hòa
nhập được vào làm một với tổ quốc, nó mới được người dân cảm nhận gần
như đồng nghĩa với tổ quốc. Một quốc gia có chế độ chính trị và tổ quốc là
một, quốc gia ấy là vô địch! Không một chủ nghĩa nào có thể thay thế được
sức sống của sự hòa nhập làm một như vậy của chế độ chính trị và tổ quốc!
Một chế độ chính trị như thế sẽ giải phóng mạnh mẽ nhất trí tuệ và nghị lực
Việt Nam. Một chế độ chính trị như thế - đến lượt nó – sẽ nâng lên giá trị và
sự thiêng liêng của tổ quốc, nâng lên vị thế của quốc gia trong cộng đồng thế
giới. Hơn lúc nào hết dân tộc Việt Nam ta cần có sức sống này! Tinh thần
yêu nước của người Việt Nam ta ngày nay phải được xây dựng từ lẽ sống
này! Văn hóa và giáo dục Việt Nam cần hướng vào xây dựng cái đích này.
Ngày nay kho tàng trí tuệ của nhân loại và của dân tộc mình hoàn toàn cho
phép chúng ta khai phá con đường xây dựng cho đất nước một chế độ chính
trị như thế. Rất đáng để thế hệ này sang thế hệ khác ngay từ bây giờ tiếp nối
nhau xây dựng nên cho tổ quốc của chúng ta một chế độ chính trị như thế.
Giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ như thế, nước ta có thể chung
sống hòa bình và hợp tác hữu nghị được với Trung Quốc, bảo vệ được bờ
cõi và gìn giữ được ta là ta trong tình thế mới, đối phó được với những thách
thức mới trong bối cảnh thế giới ngày nay. Giương cao ngọn cờ dân tộc dân
chủ như thế, Việt Nam sẽ có bạn bè là cả thế giới tiến bộ - kể cả trong lòng
nhân dân Trung Quốc – hậu thuẫn cho mình trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước. Giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ như thế, Việt Nam
đồng thời sẽ có khả năng cùng tiến bước trong trào lưu chung của nhân loại
tiến bộ, dấn thân làm tròn trách nhiệm là thành viên bình đẳng trong cộng
đồng các quốc gia trên thế giới.
67
Giai đoạn phát triển mới này của đất nước đòi hỏi Đảng Cộng Sản
Việt nam phải tự đổi mới chính mình, giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ
lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ đất nước, trừ phi Đảng muốn tự mình
vứt bỏ vai trò lãnh đạo của mình để trở thành đảng cai trị!
Tập đoàn kinh tế nhà nước, nền “kinh tế GDP tỉnh” và tư tưởng
nhiệm kỳ là 3 sản phẩm và là hệ quả của hệ thống chính trị hiện thời. 3 sản
phẩm này cộng sinh và công hưởng với nhau đang ngày càng trở thành cơ sở
kinh tế, chính trị, văn hóa của hệ thống chính trị - xã hội nước ta. Tham
nhũng, chạy chức chạy quyền và nhóm lợi ích và mọi tha hóa khác chủ yếu
từ đây mà ra. Quốc nạn nội xâm này lũng đoạn nghiêm trọng đời sống mọi
mặt của đất nước còn đáng sợ hơn ngoại xâm. Sự phát triển của đất nước
đòi hỏi sớm khắc phục tình trạng này. Có làm được hay không? – Đấy là
câu hỏi sống còn đối với vận mệnh đất nước.
Các nhiệm vụ phải thực hiện trong thập kỷ thứ hai của thế kỷ này
đạt kết quả ra sao, sẽ quyết định: Việt Nam hoặc sẽ dấn sâu hơn nữa vào con
đường trở thành một quốc gia nghèo hèn, lệ thuộc, hay là sẽ bước hẳn vào
ngả đường mới, sẽ trở thành một nước phát triển đúng với tinh thần nước
mạnh dân giầu, xã hội dân chủ công bằng văn minh.
Tình hình và nhiệm vụ đất nước phải đối mặt trong thập kỷ tới này đặt
ra vấn đề cải cách chính trị và có con người trong hệ thống chính trị ngang
tầm trở thành điều kiện tiên quyết cho việc mở ra giai đoạn phát triển mới.
Cải cách chính trị trở thành chìa khóa của mọi giải pháp. Nội dung cơ bản
của cải cách chính trị là khai phá con đường xây dựng nên một chế độ chính
trị mà người dân cảm nhận được nó gần như đồng nghĩa với Tổ quốc như đã
trình bầy trên, là cố sao thực hiện được những bước đi đầu tiên trên con
đường này, để trong vòng thập kỷ thứ hai của thế kỷ này đất nước vượt qua
được mọi thách thức, tạo ra sức mạnh đi vào giai đoạn phát triển mới. Mọi
việc chỉ có thể bắt đầu từ quá trình dân chủ hóa. Tên gọi chính xác của quá
trình cải cách chính trị này cũng là dân chủ hóa.
Xin đặc biệt nhấn mạnh, để quá trình dân chủ hóa được thực thi có kết
quả, tiết kiệm xương máu và dứt khoát không dẫn đến đổ vỡ, đòi hỏi phải có
trí tuệ và kỷ cương rất cao với tinh thần dám hy sinh mọi lợi ích riêng, dám
vượt lên mọi yếu kém riêng, để hoàn toàn một lòng vì dân vì nước của đội
68
ngũ lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước. Trước hết, nếu có ý chí như
vậy, đội ngũ lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước sẽ phát huy được trí
tuệ và ý chí trong Đảng và của cả nước, nhờ đó sẽ có đủ trí tuệ và mọi điều
kiện cần thiết trong tay để hoàn thành nhiệm vụ cực kỳ khó khăn này. Đảng
đang nắm quyền lãnh đạo đất nước, cho nên đội ngũ lãnh đạo cao nhất của
Đảng và Nhà nước mang trên vai mình trách nhiệm không thể thoái thác về
thành / bại của quá trình dân chủ hóa này.
Dân chủ hóa là nguồn lực tạo ra nội lực bất khả xâm phạm cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước và tập hợp sự hậu thuẫn của cả thế giới
tiến bộ cho sự nghiệp này. Dân chủ hóa vì vậy là dân tộc tất thắng, là đất
nước tất thắng!
Cho nên, nếu đặt vấn đề dân chủ hóa là điều kiện sống còn và phát
triển của đất nước, tập thể lãnh đạo Đảng và Nhà nước sẽ tìm được câu trả
lời và các giải pháp. Nói đơn giản: Dân chủ hóa như vậy thực sự là một cuộc
cách mạng từ trên xuống rất đáng mong muốn, là con đường an toàn nhất và
cũng khả thi nhất cho nước ta tại bước ngoặt lịch sử hiện nay, là bước đi đầu
tiên trên con đường xây dựng chế độ chính trị gần như đồng nghĩa với tổ
quốc. Vì những lẽ vừa trình bầy, rất đáng dành cho quá trình dân chủ hóa đất
nước trí tuệ và tâm huyết nhiệt thành nhất của mỗi người Việt Nam yêu
nước, trước hết là của các công dân mang thẻ đảng viên Đảng Cộng Sản Việt
Nam.
Thách thức lớn nhất của dân chủ hóa không phải là diễn biến hòa
bình, mà là cám dỗ chính trị rất lớn của quyền lực và lợi ích cá nhân; lịch sử
hiếm hoi ghi lại được các chiến công đánh bại cám dỗ này. Nhưng cũng xin
nói ngay: Ngu dốt, vô đạo đức, cuồng tín hay bảo thủ thì chỉ có một đường
dẫn đến đổ vỡ mà thôi! Vậy chỉ còn cách đừng quay lưng lại phía mặt trời để
vượt qua cái bóng của chính mình55.
Đất nước ta và dân tộc ta đứng trước bước ngoặt lịch sử trong bối
cảnh thế giới đi vào đa cực. Nên nhìn nhận đấy là thế giới cho ta cơ hội độc
lập tự chủ vươn lên, không cần và không phải đi với một bên, chống một
bên! Độc lập tự chủ cả trong tư duy về con đường đi lên của đất nước, lấy
lợi ích quốc gia là tối thượng và là mục đích duy nhất, vứt bỏ mọi nô dịch về
55 Tham khảo: Nguyễn Trung, “Thời cơ vàng”.
69
giáo lý. Mặt khác, cục diện thế giới như đang diễn ra sẽ giằng xé gay gắt
nước ta trên mọi phương diện, nhiều nguy cơ đang trực tiếp uy hiếp toàn vẹn
lãnh thổ , chủ quyền quốc gia, tương lai phát triển của đất nước. Trước tình
hình như vậy không có nội lực bắt nguồn từ trí tuệ, bản lĩnh và thực lực của
cả nước một lòng không ngửng mặt lên được. Dân chủ là cội nguồn của nội
lực này. Vì thế sự lựa chọn của đất nước ta chỉ có thể là vượt lên mọi thách
thức, nắm lấy mọi cơ hội phát triển thực lực của mình để trở thành đối tác
được tất cả các bên tôn trọng. Muốn được như vậy, nước ta cần phấn đấu trở
thành cầu nối của các nền kinh tế lớn.
Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng Sản Việt Nam có trách
nhiệm rất lớn đối với đất nước.
Hà Nội, tháng 10 và tháng 11 - 2009
Hết
Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
Cộng Sản Việt Nam.
2. P Krugman: “How Did Economists Get It So Wrong”
http://www.nytimes.com/2009/09/06/magazine/06Econo
mic-t.html?_r=2&pagewanted=all
3. Francis Fukuyama & Seth Colby: What Were They
Thinking?
The Role of Economists in the Financial Debacle
4. “Obama urged to fix policy vacuum” – Financial Times ,
By Edward Luce in Washington - Published: November
9 2009 20:06 | Last updated: November 9 2009 20:06
70
5. FEER: The Erosion of U.S. Power in Asia
http://www.feer.com/essays/2009/may/the-erosion-ofu.
s.-power-in-asia
6. Phát biểu của Scot Marciel và Robert Scher, Bộ quốc
phòng Mỹ, tại cuộc điều trần trước Thượng viện ngày
15-09-2009:
http://www.newsmax.com/headlines/webb_china_seap
ower/2009/07/16/236456.html và phát biểu của thượng
nghị sỹ Jim Webb tại cuộc điều trần này
http://webb.senate.gov/newsroom/record.cfm?id=315847&
7. Diễn văn của ngoại trưởng H. Clinton tại hội nghị các
ngoại trưởng ASEAN - ARF
http://www.voanews.com/english/2009-07-23-voa16.cfm
8. Diễn văn của Tổng thống Obama tại phiên họp đầu tiên
“Đối thoại chiến lược Mỹ - Trung và Thương mại”,
http://www.whitehouse.gov/the_press_office/Remarksby-
the-President-at-the-US/China-Strategic-and-
Economic-Dialogue/ và Washington, 27-07-2009:
http://http//www.whitehouse.gov/blog/A-Dialogue-with-
China
9. Major H.A. Hynes: China: the Emerging Superpower
http://www.fas.org/nuke/guide/china/doctrine/0046.htm
10. Beijing Learns to be a Superpower, Far Eastern
Economic Review, May 2009
http://feer.com/essays/2009/may/beijing-learns-to-be-asuperpower
11. John Tkacik:và nhiều tác giả khác về siêu cường
Trung Quốc:
http://edgeweb.heritage.org/Research/AsiaandthePacific/upload/wm_
1762.pdfhttp://edgeweb.heritage.org/Research/AsiaandthePacific/upl
oad/96070_1.pdf
http://www.gees.org/documentos/Documen-994.pdf
https://www.policyarchive.org/bitstream/handle/10207/12192/wm_138
9.pdf
71
http://www.usnews.com/money/businesseconomy/
articles/2007/11/05/now-from-china-the-worlds-biggestcompany.
html
12.China’s Beleaguered Intellectuals của Merle Goldman,
đăng trong Current History: A Journal of Contemporary
World Affairs, số đặc biệt China and East Asia tháng 9
năm
2009http://www.currenthistory.com/Article.php?ID=702
13.Cao Huy Thu􀀀n: “An ninh”
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai17/200917_CaoHuyTh
uan.htm
14. “China Proposes to the US - Split the PacificWith Us” của
tạp chí Strategy Page - USA
http://www.strategypage.com/militaryforums/69-
28963.aspx
15. “Chiến lược hải quân của Trung Quốc và hàm ý
của nó đối với khu vực Biển Đông” của Ngô Vĩnh
Long,
Đại học Maine,Orono, Maine,
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai11/200711_NgoVinhL
ong.htm
16. Willy Lam, China's Quasi-Superpower
Diplomacy: Prospects and Pitfalls, September 2,
2009,
http://www.jamestown.org/programs/books/single/?tx_ttn
ews[tt_news]=35453&tx_ttnews[backPid]=7&cHash=c64788
1d48)
17. “Quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ”, bài nói chuyện của
Thượng Nghị sỹ John McCain tại Học viện Ngoại giao
Việt Nam, Hà Nội 07/04/2009.
18. Trần Quang Cơ – “Hồi ức và suy nghĩ”
http://74.125.153.132/search?q=cache:e1BycmfYpe4J:
www.diendan.org/tai-lieu/ho-so/hoi-ky-tran-quangco/
hoiky-tqc-ch72
19.Dr. Evan A. Feigenbaum - China's Military Posture and the
New Economic-geopolitics
http://www.rice.edu/energy/publications/docs/AsianEnergy
Security_ChinaMilitaryPosture.pdf
20.Trần Đức Nguyên, “Khám sức khỏe kinh tế Việt từ chỉ
số ICOR” http://tuanvietnam.net/2009-10-09-kham-suckhoe-
kinh-te-viet-tu-chi-so-icor-xem trên Vietnamnet -
http://www.vietnamnet.vn/kinhte/2008/10/807594/
21. Tấn Đức : “Lại phải trả giá vì đầu tư thủy điện ồ
ạt”Thứ Năm, 12/11/2009, 10:05 (GMT+7)
http://www.thesaigontimes.vn/Home/thoisu/sukien/25213/
22. Nguyễn Thành Sơn: Ngành than sau 15 năm
phát triển: “được” 3, “mất” 7
http://www.tuanvietnam.net/2009-11-14-nganh-thansau-
15-nam-phat-trien-duoc-3-mat-7-
23.Vũ Quang Việt “Khủng hoảng kinh tế Việt Nam 2008:
sự sai lầm về chính sách
và vai trò của tập đoàn kinh tế quốc doanh*”
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai17/200917_VuQuangViet.htm
24. Nguyễn Trung: “Mô hình tập đoàn nhà nước và mối
lo vượt tầm kiểm soát” http://www.tuanvietnam.net/mohinh-
tap-doan-nha-nuoc-va-moi-lo-vuot-tam-kiem-soat

Cải cách tập đoàn nhà nước và một chữ "Dám"
http://www.tuanvietnam.net/cai-cach-tap-doan-nha-nuoc-va-mot-chudam
25. Nguyễn Trung, “Biển Đông hòa bình hay nổi sóng?”
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai17/200917_NguyenTrung.htm
http://tuanvietnam.net/2009-12-03-bien-dong-hoa-binh-hay-noi-song
26. Nguyễn Trung, “Suy nghĩ về phát triển nguồn nhân
lực ở nước ta”
73
http://www.vietstudies.
info/NguyenTrung/NTrung_GiaoDuc.htm
27. Nguyễn Trung, “Thân phận công dân thế giới hạng
hai” (21-08-2007)
http://www.vietstudies.
info/NguyenTrung/NguyenTrung_CongNhanTh
eGioiHangHai.htm,
28. Nguyễn Trung, “Ngã ba 2007”
http://www.vietstudies.
info/NguyenTrung/NguyenTrung_NgaBa2007.ht
m
Và một số tài liệu khác./.
Hết

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét