30 năm ngày cuộc chiến tranh 17-02-1979
Nguyễn Trung
Từ nhiều tháng nay không hiếm trên nhiều mạng Trung Quốc các bài về cuộc chiến
tranh biên giới Việt –Trung tháng 2 năm 1979. Đương nhiên mỗi bài một cách nhìn
về sự kiện đen tối nhất này trong lịch sử ngoại giao Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam – Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Qua lời dịch của bạn bè, tôi được biết
những bài này có nhiều nội dung, ý tứ khác nhau. Nếu hỏi tôi nghĩ gì về những
bài này, câu trả lời của tôi sẽ là: Rất cần có những nỗ lực nghiêm túc để cả
hai bên cùng nhau thực sự khép lại quá khứ, hướng về tương lai.
Mọi
người còn nhớ, vào ngày 17 tháng hai cách đây 30 năm, đại binh Trung Quốc gồm 9
quân đoàn chủ lực và 3 sư đoàn độc lập ầm ầm tiến vào đánh phá đồng loạt toàn
bộ 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước ta – cuộc chiến tranh quy mô lớn nhất của
Trung Quốc kể từ cuộc chiến tranh Triều Tiên. Tham chiến cùng với đạo quân 60
vạn bộ binh Trung Quốc này có hàng trăm xe tăng, hàng nghìn pháo, súng cối, dàn
hỏa tiễn – ngoài ra hạm đội Nam Hải trực ngoài biển và không quân Trung Quốc
sẵn sàng ứng phó.
Chiến sự diễn ra đẫm máu vào sâu 6 tỉnh nói trên, giao tranh ác liệt với phía
Việt Nam cho đến ngày 18 tháng ba năm 1979; sau đó quân Trung Quốc rút về chốt
các điểm trên biên giới hai nước để tiếp tục các cuộc bắn phá tranh giành biên
giới. Xung đột biên giới kéo dài cho đến gần hết năm 1988 mới chấm dứt, sau đó
là thời kỳ thương lượng bình thường hóa quan hệ.
Đạo
quân Trung Quốc tàn sát và gây thương vong lớn tại chỗ, phá hủy nặng nề tại các
nơi có chiến sự. Các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn và một số thị
trấn khác bị san phẳng. Các cuộc bắn phá tranh giành biên giới tiếp theo rộ lên
ác liệt nhất trong các năm 1984-1985 - điển hình là các cuộc chiến xảy ra tại
Núi Đất thuộc xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, Hà Giang, nơi quân hai bên có
nhiều trận huyết chiến giáp lá cà, có trận quân số mỗi bên tham gia là hàng
nghìn người, phía Trung Quốc có những trận pháo kích ròng rã ngày đêm vào trận
địa này, có khi suốt cả tuần lễ không nghỉ.
Nguyên
nhân xa gần về cuộc chiến tranh trên đất Việt Nam này có rất nhiều. Phía Trung
Quốc hồi đó tuyên bố công khai với lời lẽ vô tiền khoáng hậu trong lịch sử quan
hệ quốc tế là nhằm “Dạy cho Việt Nam bài học”. Ngoài ra năm này qua năm khác
Trung Quốc giải thích trong nội bộ: đây là cuộc chiến tranh tự vệ, chống
Việt Nam phản bội.
Rồi
đây các thế hệ thiện chí hiện nay và sau này của cả hai nước Việt Nam và Trung
Quốc sẽ còn phải mất nhiều công sức tìm hiểu rạch ròi các nguyên nhân dẫn tới
việc Trung Quốc tiến hành cuộc chiến tranh này và rút ra những kết luận xác
đáng, có lợi cho việc phát triển quan hệ tốt giữa hai nước. Lẽ đơn giản là muốn
tránh những sự cố đau đớn cho hiện tại và trong tương lai, muốn duy trì và phát
triển những thành quả của mối quan hệ láng giềng tốt mà nhân dân hai nước đang
cố gắng khép lại quá khứ để hướng tới, thì không được quay lưng lại với lịch
sử.
Hãy
để cho các công trình nghiên cứu khoa học dẫn đến các đánh giá, kết luận đúng
đắn. Tuy nhiên, phải nói 30 năm đã trôi qua, nhưng vẫn nóng bỏng câu hỏi: Vì
sao từ chỗ ủng hộ và viện trợ to lớn cho Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống
Mỹ, Trung Quốc lại phát động cuộc chiến tranh quy mô lớn và tàn bạo như vậy?
Nhìn
lại các chuỗi sự kiện rối rắm, ai cũng thấy quan hệ núi liền núi sông liền
sông Việt-Trung rạn nứt từ những năm đầu thập kỷ 1960, đổ vỡ từ sự kiện
Kissinger đi thăm Trung Quốc, Thông cáo chung Thượng Hải hai nước Trung Quốc
và Mỹ năm 1972, sau đó là bình thường hóa quan hệ Trung- Mỹ. Giữa
lúc này cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam đi vào thời kỳ quyết
định. Trong thời kỳ này quan điểm của Trung Quốc về cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước của nhân dân ta có sự thay đổi, đại ý là: chổi ngắn không quét được
rác xa, Việt Nam nên coi thống nhất đất nước là sự nghiệp hàng trăm năm.
Sau
ngày giải phóng miền Nam Việt Nam 30 tháng tư năm 1975 quan hệ Việt-Trung tiếp
tục xấu đi, nhất là từ khi lực lượng Khmer đỏ triển khai hàng loạt cuộc tấn
công quân sự vào lãnh thổ Việt Nam, mở đầu là cuộc đột kích vào đảo Phú Quốc
ngày 4-7-1975, rồi vào đảo Thổ Chu ngày 10-7-1975... Rồi đến các cuộc tấn công
mang tính tàn sát man rợ của Khmer đỏ tháng 4 và tháng 7 năm 1977 vào sâu 10 km
trong lãnh thổ Việt Nam tại các tỉnh An Giang và Tây Ninh.
Nhớ
lại, hồi đó không ít người đặt câu hỏi: Vì sao Khmer đỏ dám liều lĩnh tấn
công kẻ đã thắng Mỹ - sự hận thù quá sâu sắc? được khích lệ? hay là vì cả
hai?... Những câu hỏi này cộm lên, bởi vì sau ngày 30-04-1975 những cuộc
đánh phá, giết chóc của Khmer đỏ ở phía Nam Việt Nam diễn ra rất sớm và
ngày càng tăng. Đồng thời tình hình trên biên giới Việt-Trung trở nên căng
thẳng, nhất là tại khu vực 300 mét nối ray đoạn đường sắt Hữu nghị quan.
Một vài năm sau đó xảy ra vấn đề “nạn kiều” trong toàn Việt Nam - tương tự như
“vấn đề người Hoa” ở Indonesia trước đó...
Quan
hệ Việt-Trung trở nên căng thẳng tột độ khi quân đội Việt Nam sau 12 tháng 7
ngày đã quét sạch Khmer đỏ ra khỏi Phnompenh ngày 7-1-1979 và cứu nhân
dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. 40 ngày sau đó là cuộc chiến tranh quy
mô lớn của Trung Quốc vào toàn bộ biên giới phía Bắc của Việt Nam.
Quãng
thời gian 1972 -1979 cũng là thời kỳ cao điểm của chiến tranh lạnh và đồng thời
cũng là thời kỳ tranh giành ảnh hưởng quyết liệt với nhau giữa 3 nước lớn chi
phối bàn cờ thế giới hồi ấy là Liên Xô, Trung Quốc và Mỹ, tác động đến toàn thế
giới, trong đó có Việt Nam. Sau đó là một chặng đường dài gian khổ không
ít máu và nước mắt, kể từ cuộc chiến tranh này đi tới bình thường trở lại quan
hệ giữa hai nước Việt-Trung, và hôm nay là quá trình gian khổ xây dựng lại mối
quan hệ hòa bình, hợp tác, hữu nghị, vì lợi ích của nhân dân hai nước. Thực tế
chặng đường này cho thấy: Hướng về tương lai có nghĩa là phải làm mọi việc hàn
gắn những đổ vỡ trong quá khứ, càng không thể tái diễn những sai lầm cũ, và
trên hết cả là phải làm mọi việc xây dựng sự hợp tác hữu nghị trên cơ sở bình
đẳng và tôn trọng lẫn nhau.
Thế
giới hôm nay đã hoàn toàn thay đổi so với cách đây 30 năm, vừa tạo ra cho hai
nước những thuận lợi to lớn cho xây dựng mối quan hệ láng giềng cả nhân dân hai
nước đều mong muốn, vừa đặt ra cho hai nước nghĩa vụ thông qua sự phát triển
tốt đẹp của mối quan hệ này góp phần mình vào hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp
tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Thêm
bớt hay viết lại lịch sử chỉ nuôi dưỡng hiềm khích, khoét sâu thêm quá khứ. Trí
nhớ có thể phai mờ, lịch sử thì không. Còn muốn khép lại quá khứ và hướng về
tương lai, nhất thiết phải sòng phẳng với lịch sử, tất cả để vượt qua mọi bất
đồng và để tăng cường sự tin cậy lẫn nhau – nền tảng cho mối quan hệ láng giềng
giữa hai nước. Hơn nữa lịch sử có thể và luôn luôn là người thầy tốt cho thiện
chí. Đã đến lúc các nhà nghiên cứu của hai quốc gia nên gặp gỡ nhau hội thảo
khoa học, trao đổi ý kiến cởi mở, tiếp tục cổ vũ cho những nỗ lực xây dựng mối
quan hệ bền vững giữa hai nước./.
viet - studies
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét