Sự lựa chọn nào dành cho Việt Nam đây?
(Ghi lại tâm sự với người bạn già chí cốt)
Nguyễn Trung
Hỏi: Cái thế giới này xoay như chong chóng, cứ theo gió lúc
ngược, lúc xuôi, chẳng biết đằng nào mà lần, theo anh làm sao bây giờ?
Trả lời:
Anh không bắt thế giới ngừng xoay được, lại càng không thể bắt nó xoay theo ý
mình. Vậy chỉ còn một cách: Tạo ra được cái nhìn xác thực sự vận động không
ngừng của địa kinh tế và địa chính trị toàn cầu luôn luôn như một đòi hỏi tất
yếu. Để không thụ động rơi vào nguy cơ, không bị lạc lõng trên trường
quốc tế, và đặc biệt quan trọng là để tìm ra khả năng biến nguy cơ hoặc thách
thức thành thời cơ, nhất thiết phải hiểu rõ từng giai đoạn vận động của thế
giới.
Hỏi: Đi vào chuyện cụ thể thì những cái gì là duyên
cớ chính yếu của những thay đổi trên thế giới hiện nay?
Đáp: Có
thể là 5 nguyên nhân chính sau đây:
(i) Điểm nổi bật nhất của cục diện thế giới hiện nay
là siêu cường Mỹ nói riêng và thế giới phương Tây nói chung xuất hiện những suy
yếu mới, sự suy yếu tương đối so với thời kỳ trước trong mối tương quan toàn
cầu. Có không ít sách báo còn nói về “ngày tàn” của Mỹ, vân vân…
(Sẽ bàn lúc nào đó chuyện có “tàn” hay không tàn? và “tàn như thế nào?”…) Nguyên nhân hàng đầu của sự suy yếu tương đối nói trên là
sau khi những quốc gia này hầu như đã tận dụng được mọi yếu tố của quá trình
toàn cầu hóa ở giai đoạn này, bản thân cấu trúc nền kinh tế và thể chế vận hành
nó của những quốc gia này tất yếu nẩy sinh nhiều vấn đề mới, có nhiều vấn đề
ngày trở nên không thích hợp, và các nước đều đứng trước những đòi hỏi phát
triển và thách thức mới.
Bản thân sự phát triển của kinh tế thế giới và các mối quan
hệ quốc tế trong thời kỳ này cũng thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế
giới đi vào thời kỳ phát triển mới, với những hệ quả chính trị mới ở phạm vi
từng khu vực cũng như toàn cầu, với nhiều vấn đề mới chưa có lời giải. Tựu trung
đó cũng là quy luật của phát triển.
(ii) Trong khi đó vai trò các cường quốc khu vực ngày
càng nổi lên trong thị trường kinh tế thế giới cũng như trên bàn cờ chính trị
quốc tế. Đặc biệt là Trung Quốc đang đi những bước quyết liệt trên con đường
thực hiện ý đồ trở thành siêu cường thế giới – hiện nay đã là nền kinh tế lớn
thứ hai trên thế giới và đang được dự báo sẽ là nền kinh tế có khối lượng GDP
số 1 thế giới vào khoảng gần giữa thế kỷ này hoặc sớm hơn. Sự nổi lên của một
Trung Quốc trên con đường trở thành siêu cường cùng với vai trò ngày càng có
thêm nhiều trọng lượng và ảnh hưởng mới của những cường quốc khác như Nga, Ấn
Độ và một số nước phát triển năng động khác… là những nhân tố quan trọng mới,
góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự hình thành cục diện quốc tế mới hiện nay, tạm gọi
đó là cục diện thế giới một siêu đa cường.
(iii) Như một hệ quả tất yếu, sự phát triển nêu trong
điểm (i) và (ii) một mặt làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế và
chính trị mới ngay trong lòng mỗi quốc gia cường quốc này, từ chuyện cấu trúc
kinh tế ngày càng nhiều bất cập mới; ngày càng phân hóa giầu nghèo; nạn thất
nghiệp tăng; những bất cập mới về kết cấu hạ tầng kinh tế và thể chế; các cuộc
khủng hoảng kinh tế, chính trị quyện vào nhau; ngày càng nảy sinh càng nhiều
vấn đề mới – ví dụ như: di chuyển lao động, nhập cư, cấu trúc ngành nghề, môi
trường và thiên tai, Rồi còn biết bao nhiêu các thách thức phi truyền thống
khác... Những biến động như vậy tất yếu tạo ra những thay đổi lớn
trong địa kinh tế cũng như trong địa chính trị ở các khu vực cũng như trong
phạm vi toàn cầu. Trên thế giới xuất hiện những mâu thuẫn mới, những hình thức
hợp tác hay tập hợp lực lượng mới trên cả hai phương diện kinh tế và chính trị. (Một
ví dụ đáng lưu ý: Một thời cao điểm của toàn cầu hóa trong thời kỳ hậu chiến
tranh lạnh, “win – win” được coi như một chuẩn mực và xu thế chủ đạo chi phối
các mối quan hệ quốc tế; song gần đây nhiều ý kiến cho rằng thế giới hiện nay
có quá nhiều thay đổi khiến cho “zero sum game” lại trở nên lấn át).
(iv) Hàng loạt vấn đề mới xuất hiện trong kinh tế thế
giới – thể hiện qua những cuộc khủng hoảng kinh tế, thương mại, tài chính tiền
tệ và thể chế ở phạm vi khu vực hoặc hoặc phạm vi toàn cầu kể từ thập kỷ 1990
đến nay, mà cao điểm là cuộc khoảng hoảng sâu sắc của kinh tế các nước phương
Tây hiện nay - bắt đầu từ khủng hoảng kinh tế năm 2008 ở Mỹ rồi lan sang các
nước khác. Tổng hợp lại, những cuộc khủng hoảng này ngày càng đậm nét
trên cả 3 phương diện: cấu trúc kinh tế, thể chế vận hành, quan hệ kinh tế toàn
cầu. Hệ quả rõ rệt nhất của các cuộc khủng hoảng này là hầu hết
các quốc gia, trước hết là các nước phát triển phải (a) xem lại cơ cấu kinh tế
của mình – chủ yếu theo hướng tăng cường sức sống của thị trường nội địa; (b)
đồng thời phải xem xét lại và cải cách các thể chế hiện hành – đặc biệt là sự
vận động của hệ thống tài chính tiền tệ và vấn đề nợ công, (c)xem lại chỗ đứng
của mình trong thế giới hôm nay, vân vân…
(v) Trong
một thế giới đầy biến động năng động như vậy, các nước đang phát triển một mặt
ít nhiều khai thác được những thuận lợi của quá trình toàn cầu hóa -
trong chừng mực những nước này thông qua thúc đảy quá trình dân chủ hóa trong
nước tạo ra được cho mình khả năng thích nghi cần thiết, một số nước đạt được
những tiến bộ đang thay đổi thân phận của mình – như Indonesia, Kazakhstan,
Brasil, Nam Phi, Thổ-nhĩ-kỳ... Song mặt khác không ít các nước thuộc nhóm này
lâm vào khủng hoảng kinh tế - chính trị mới, rõ nét nhất là các cuộc khủng
hoảng kinh tế, chính trị kéo dài của nhiều nước châu Phi, một số nước thuộc
Liên Xô cũ tách khỏi Liên bang Nga, một số nước ở châu Mỹ Latinh... Riêng một
số nước Bắc Phi còn xảy ra biến động thay đổi chế độ chính trị như Tuy-ni-di,
Ai- Cập, Ly-bi; hiện nay đang diễn ra ở Sy-ri… Tuy
nhiên, có thể nói trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh và trong tiến trình chuyển
sang cục diện thế giới mới hiện nay, nhìn tổng
thể, các nước đang phát triển có sức nặng kinh tế và ảnh hưởng chính trị ngày
càng lớn trên trường quốc tế. Xu thế này vấn tiếp tục phát triển.
Hỏi: Có gì đáng lưu ý trong những diễn biến thế giới nói trên?
Đáp: Có lẽ có thể tóm vào 5 điểm dưới đây:
(1) Khác với khi cục diện thế giới chuyển vào thời kỳ chiến tranh lạnh –
kéo dài hơn 4 thập kỷ, rất căng thẳng, tiêu biểu là hình thành trận tuyến 2 phe
(một thời còn được gọi là “2 phe 4 mâu thuẫn”); rồi đến thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, kéo
dài hơn một thập kỷ – mở đầu với sự kiện hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa sụp
đổ cuối những năm 1980, xảy ra không tiếng súng, nhưng trong sự ngỡ ngàng và
xôn xao của cả thế giới; ngày nay thế giới đang trong tiến trình chuyển sang thời kỳ của cục diện một siêu đa cường – trong tình hình kinh tế thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng
sâu sắc cả về cơ cấu và thể chế điều hành. Cuộc khủng
hoảng hiện nay tuy không tàn phá như cuộc đại suy thoái 1929-1933 nhưng tác
động sâu rộng hơn nhều, hầu như không loại trừ bất kỳ quốc gia nào, đặt ra đòi
hỏi chưa từng có là mọi quốc gia phải thay đổi để tìm đường mở ra một thời kỳ
phát triển mới cho chính mình. Vị thế các nước phương Tây – trước
hết là Mỹ suy giảm tương đối so với trước, chiến tranh Iraq và chiến tranh
Afghanistan đi vào thời kỳ kết thúc, vị thế các cường quốc khác có nhiều thay
đổi lớn dẫn đến những mâu thuẫn mới và những hình thức liên kết, hợp tác hay
tập hợp lực lượng mới trong các khu vực và trên thế giới.
Rõ ràng thế giới hiện nay chuyển từ thời kỳ này sang thời kỳ
khác với tốc độ nhanh hơn; hình thức vận động và các vấn đề đặt ra trong sự vận
động này đều mới so với tất cả các thời kỳ trước đó; nhận thức của con người
nhiều khi theo không kịp.
Có thể nói ngắn gọn: Kinh tế và
chính trị thế giới đi vào một thời kỳ mới – nhận biết điều này là vô cùng
quan trọng. Đồng thời sự vận động của mối quan hệ Mỹ - Trung giữ vai trò đặc
biệt, chi phối sâu sắc cục diện quốc tế một siêu đa cường đang hình thành.
Không nhận ra sự vận động này chẳng khác tự lừa dối và tự sát bao nhiêu!
(2) Ở phạm vi toàn cầu, sau hơn nửa thế kỷ phát triển của
quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới, đặc biệt là sau thời kỳ phát triển cao
điểm của quá trình này trong khoảng 2 thập kỷ vừa qua, cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới hiện nay cả về cấu trúc và thể chế điều hành là hệ quả tất yếu của sự
vận động của sự vật. Kinh tế thế giới trong quá trình này đã tạo ra nhiều thay
đổi mới, đòi hỏi phải chuyển sang một thời kỳ phát triển mới và đặt ra nhiều
thách thức mới.
Sẽ là một sai lầm nguy hiểm không cứu vãn được nếu nhìn nhận
sự vận động khách quan này của sự vật với nhãn quan của ý thức hệ - ví dụ theo
cách nghĩ: coi sự suy yếu tương đối hiện nay của phương Tây, trước hết là Mỹ,
là chủ nghĩa tư bản đang giãy chết.., coi những kết quả trong quá trình “trỗi
dậy hòa bình” của Trung Quốc là thắng lợi của tính ưu việt của chủ nghĩa xã
hội, vân vân… (Sự thật là từ khi tiến hành cải cách 1978 Trung Quốc đã chuyển
sang phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa đặc săc Trung Quốc, với hệ
thống chính trị toàn trị một đảng – vấn đề này lúc nào đó sẽ được đề cập kỹ
hơn). Sự thật khách quan là trên thế giới trong suốt thời kỳ hậu chiến tranh
lạnh và hiện nay không còn chuyện so sánh sự phát triển ưu việt hay không ưu
việt giữa kinh tế tư bản chủ nghĩa và cái gọi là kinh tế xã hội chủ nghĩa nữa;
mà chỉ còn lại sự so sánh ai vận dụng giỏi hơn ai các quy luật phát triển khách
quan của kinh tế trong bối cảnh thế giới hiện tại, con người cùng với cộng đồng
của nó ở phạm vi quốc gia, khu vực hay toàn cầu được hưởng gì hay phải trả giá
như thế nào cho sự phát triển đạt được ấy.
Nắm vững sự vận động khách quan này của sự vật, tạo ra cho
mình khả năng thích nghi và vượt trội để phát triển trong sự vận động tổng thể
chung của kinh tế thế giới và trong cục diện chính trị quốc tế một siêu đa
cường đang hình thành là đòi hỏi sống còn. Điều này có ý nghĩa quyết định sự
phát triển thành/bại của mỗi quốc gia.
(3) Dưới góc nhìn toàn cầu, sự thay đổi cấu trúc kinh tế thế
giới thể hiện rõ rệt nhất là hiện tượng Châu Á – Thái Bình Dương ngày nay trở
thành khu vực phát triển năng động nhất trên thế giới về mọi phương diện, đặc
biệt là ở châu Á.
Gắn liền với hiện tượng nêu trên là sự việc Trung Quốc trở
thành nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới – một mặt có những tác động quan
trọng cả tốt và xấu đối với phát triển kinh tế thế giới hiện nay, mặt khác đang
gây ra nhiều thách thức mới ở châu Á và với mức độ nhất định ở phạm vi toàn
cầu.
Diễn tiến của tình hình châu Á như vậy là một trong những
nguyên nhân chính khiến Mỹ thay đổi chiến lược toàn cầu, đặt trọng tâm chiến
lược vào châu Á với cả 2 mục tiêu: Kinh tế và chính trị. Về kinh tế, Mỹ coi đẩy
mạnh tham gia vào khu vực phát triển kinh tế năng động nhất này của thế giới là
cứu cánh của sự phát triển thịnh vượng của mỹ. Về chiến lược toàn cầu, Mỹ coi
châu Á là khu vực hàm chứa lợi ích cốt lõi của Mỹ để tiếp tục duy trì vai trò
siêu cường số 1 hiện nay. Sự thay đổi chiến lược của Mỹ hướng vào châu Á
còn nhằm đối phó với đối tượng thách thức lớn nhất của Mỹ bây giờ là Trung
Quốc.
Trong bối cảnh như vậy. cùng với sự phát triển ngày càng
năng động hơn của Nga và Ấn Độ, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là
châu Á, trở thành nơi hội tụ sức phát triển năng động nhất của kinh tế thế
giới, đồng thời cũng là địa bàn tranh chấp hay “sân chơi” rất phức tạp của siêu
cường Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ, Liên minh Châu Âu và nhiều nước
khác có tiềm lực. Rồi đây, nếu Biển Đông đúng là kho dầu khổng lồ mới của thế giới
như đang đoán định, tình hình khu vực Đông Nam Á sẽ còn phức tạp hơn nhiều –
nhất là đối với nước ta.
(4) Trong cục diện mới đang hình thành của thế giới một siêu
đa cường, các xu thế tiến bộ vốn đã hình thành trong quá trình phát triển của
thế giới cũng như trong các mối quan hệ quốc tế ngày nay càng được củng cố và
phát triển thêm. Nguyên nhân của tình hình này một phần do kết quả trực tiếp
của sự phát triển kinh tế, phần quan trọng không kém là là những tác động tích
cực của những tiến bộ khoa học kỹ thuật và sự giác ngộ chính trị ngày càng cao
của nhân dân các nước trên thế giới.
Đáng chú ý là giao lưu kinh tế ngày càng sâu rộng ở phạm vi
toàn cầu và khả năng lan toả mạnh mẽ của thông tin do công nghệ tin học đã củng cố và phát triển nhiều giá trị chung của văn minh
nhân loại ngày nay, đặc biệt là các giá trị như: hòa bình, hợp tác cùng phát triển, tự do, dân chủ, quyền con
người, thân thiện và bảo vệ môi trường. Cứ thường nói xu thế tất yếu hay trào
lưu nọ kia của nhân loại.., mà trong hiện tại – ít nhất là trong thế kỷ này –
nếu không coi những giá
trị cơ bản này như là những nhân tố quyết định đang thúc đẩy sự vận
động của thế giới đi lên phía trước, hoặc nguy hơn nữa coi đấy là “các vũ khí
diễn biến hòa bình”, thì cũng có nghĩa tự huyễn hoặc, và tự mình tìm một hướng
đi khác với hướng đi chung của nhân loại; đấy là lạc lõng.
(5) Hơn nữa, trên thế giới ngày càng nhiều vấn đề hay thách
thức truyền thống hoặc phi truyền thống đòi hỏi phải có nỗ lực giải quyết chung
của cộng đồng các quốc gia trong phạm vi khu vực hoặc toàn cầu, việc chia sẻ
những giá trị chung của nhân loại ngày càng trở nên nhu cầu bức thiết. Lạc lõng
đồng nghĩa với tự chết!
Tất cả đang làm cho những giá trị chung của nhân loại ngày
càng phát triển và tự khẳng định vững chắc, chi phối ngày càng mạnh mẽ xu thế
phát triển của thế giới ngày nay.
Trào lưu tiến bộ này tiếp tục chi phối ngày càng sâu rộng các lĩnh vực của đời
sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở phạm vi quốc gia cũng như toàn cầu.
Vậy: Phát triển theo trào lưu tiến bộ này của thế giới, cũng như
vận dụng trào lưu tiến bộ này cho sự phát triển của chính nước mình, sẽ tạo nên
hoặc tăng thêm sức mạnh phát triển của một quốc gia. Trái lại, đi ngược với
trào lưu này một mặt là tự cô lập với bên ngoài, mặt khác là tự kìm hãm sức
phát triển năng động của bên trong, và ở mức độ nhất định vừa là tự mời
chào sự can thiệp từ bên ngoài, và đồng thời sẽ tự dẫn đến sụp đổ bên trong,
như đã xảy ra ở nhiều quốc gia trong mấy thập kỷ vừa qua.
Hỏi: Vì sao vai trò quan hệ Mỹ - Trung lại có ý nghĩa quan trọng
như thế đối với cục diện quốc tế mới đang hình thành?
Đáp: Có nhiều nguyên nhân, có thể diễn giải như sau:
So sánh các mối tương
quan toàn cầu, trong cục diện thế giới hiện nay Mỹ tiếp tục suy yếu tương đối
với tốc độ nhanh hơn so với các thập kỷ trước. Hiện nay, các dự báo lạc quan
cũng cho rằng phải cần tới dăm năm hoặc lâu hơn nữa Mỹ mới có thể ra khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế đang lâm vào để đi vào một thời kỳ phát triển mới. Sau khi
đưa cuộc chiến tranh Iraq và cuộc chiến tranh Afghanistan vào giai đoạn kết
thúc mà không đạt được bao nhiêu mục tiêu chiến lược đề ra, Mỹ phải trả giá
đắt. Bây giờ Mỹ phải thay đổi chiến lược toàn cầu theo chiều hướng: giảm bớt sư
can dự vào một số khu vực, dồn sức tập trung vào châu Á, củng cố sự có mặt của
mình tại khu vực phát triển năng động nhất của thế giới, và đồng thời để tập
trung đối phó đối thủ chính của Mỹ ngày nay là Trung Quốc.
Có lẽ trong vòng một
thập kỷ nay chưa bao giờ ngay ở Mỹ có nhiều sách, nhiều bài viết phân tích về
“tình hình sức khỏe và ảnh hưởng” của siêu cường Mỹ trên thế giới ngày nay ra
sao, với khá nhiều ý kiến trái ngược nhau từ cực nọ đến cực kia. Song kết luận
thỏa đáng nhất có thể là: Trong những thập kỷ tới, về nhiều mặt, Mỹ vẫn còn
tiếp tục giữ được vai trò và ảnh hưởng của mình với tính cách là cường quốc số
một, song ảnh hưởng giảm dần. Hàng ngũ đồng minh các nước phương Tây dẫn đầu là
Mỹ nhìn chung không có thay đổi lớn.
Tuy nhiên, điều khiến Mỹ
và cả thế giới phương Tây lo lắng là sự suy yếu của cộng đồng EU và đồng Euro
đang đặt ra nhiều vấn đề mới cho khối này với nhiều hệ lụy cho cả thế giới
phương Tây; Nhật vừa mới ra khỏi được những thập kỷ suy thoái kéo dài thì lại
bị thiên tai chưa từng có tàn phá (sự kiện Fukusima cách đây một năm). Toàn bộ
tình hình này khiến Mỹ càng phải thận trọng hơn trong đương đầu với những
thách thức mới. Tình hình còn trở nên phức tạp hơn ở chỗ EU nói chung, đặc biệt
là Đức, Pháp.., cũng phải tìm cách tăng cường những mối quan hệ mới với Trung
Quốc và Nga. – chủ yếu là quan hệ kinh tế, để giải quyết những khó khăn và
những đòi hỏi phát triển mới (thị trường, nguyên nhiên liệu.., thậm chí đã có
lúc EU phải tính đến cả khả năng tham gia của Trung Quốc cứu đồng Euro thoát
khỏi cuộc khủng hoảng nợ công của một số quốc gia thành viên). Một hiện tượng
nữa là Nhật trong khi vẫn tiếp tục duy trì và phát triển các mối quan hệ truyền
thống với Mỹ, phải chuyển sang dành nhiều công sức và mối quan tâm hơn nữa cho
việc củng cố vị thế của Nhật ở châu Á để tự bổ sung sức hỗ trợ không còn được
như trước của Mỹ, trước hết là Nhật đẩy mạnh những nỗ lực cải thiện quan hệ với
Nga, tăng cường các mối quan hệ mọi mặt với các nước châu Á khác, tất cả
nhằm tăng cường vị thế của Nhật ở châu Á, đồng thời tăng khả năng đối phó tại
chỗ của Nhật với những thách thức đến từ Trung Quốc – có cánh tay nối dài là
Bắc Triều Tiên.
Trong khi đó vấn đề tên
lửa tầm xa và vũ khí hạt nhân của Bắc Triều tiên, nguy cơ Iran sẽ có khả năng
chế tạo vũ khí hạt nhân, vấn đề nạn khủng bố al-Qeada và vai trò Pakistan chứa đựng
nhiều yếu tố bất thường – đặc biệt là trong những vấn đề liên quan đến mối quan
hệ tay ba Mỹ - Ấn Độ - Trung Quốc, vấn đề Syria, vấn đề Palestin – Israel, vấn
đề Iran – Israel… Đấy là những điểm nóng thường trực, chứa đựng nhiều nguy cơ
bùng nổ khó kiểm soát. Trong không ít những vấn đề nhạy cảm này có hiện tượng
Nga và Trung Quốc giữ một lập trường riêng khác hẳn với đa số trong Hội đồng
Bảo An cũng như các nước thành viên trong Liên minh các Quốc gia Ả-rập, rõ nhất là trong vấn đề Syria.
Một số học giả trên thế
giới tỏ ý rất nghi ngại vai trò của Trung Quốc trong những vấn đề nóng của thế
giới. Thực tế này làm cho cục diện thế giới một siêu đa cường đang hình thành
chứa đựng những quan hệ chồng chéo, giằng xé hay đan xen nhau rất phức tạp; mặc
dù sân chơi chính của các cường quốc bây giờ là khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương, trước hết là châu Á.
Hiện tượng Trung Quốc
trở thành nền kinh tế có khối lượng GDP lớn thứ 2 trên thế giới và là chủ nợ
lớn nhất thế giới với dự trữ ngoại tế hiện nay lên tới 2300 tỷ USD không phải là nguyên nhân chính khiến cho Mỹ coi Trung Quốc là đối thủ và là
thách thức số 1. Tôi nghĩ như vậy.
Cho dù đến một thời điểm
nào đó, vào khoảng gần giữa thế kỷ này hoặc sớm hơn, kinh tế Trung Quốc có thể
sẽ có khối lượng GDP vượt Mỹ, song khoảng cách phát triển giữa Mỹ và Trung Quốc
vẫn là rất lớn. Hiện nay, nếu tính theo mức GDP đầu người thì Mỹ vẫn cao hơn
Trung Quốc khoảng 5 lần; Mỹ vẫn đi trước Trung Quốc một khoảng cách khá xa về
khoa học kỹ thuật – kể cả trong lĩnh vực quân sự. Ảnh hưởng kinh tế, chính trị,
văn hóa của Mỹ hiện nay trên thế giới, nhất là ảnh hưởng của Mỹ đối với xu thế
phát triển của thế giới vẫn là một thế mạnh mà Trung Quốc trong một thời gian
dài nữa (thậm chí có thể là rất dài, hoặc không bao giờ) khó lòng với tới hay
vượt qua được. Dù là Mỹ hiện nay suy yếu tương đối so với trước, song hầu như
chắc chắn trong nhiều thập kỷ tới, (trong tranh luận sôi nổi, có ý kiến cho
rằng có thể trong thế kỷ này) không có khả năng Trung Quốc có thể giành
lấy vai trò siêu cường số 1 của Mỹ hiện nay trên bàn cờ thế giới.
Hỏi: Cứ cho là như thế, nhưng
vẫn chưa rõ lắm những nguyên nhân gì khiến Mỹ coi Trung Quốc là đối thủ chính
và làm cho quan hệ Mỹ - Trung trở thành nét chính của bức tranh địa chính trị
thế giới ngày nay, nhất là ở châu Á?
Đáp: Trước khi tìm câu trả lời, cần nhắc lại rằng từ thời Bush
(con), Clinton, song càng rõ nét hơn nữa là từ thời Obama, Mỹ nói riêng và cùng
với Mỹ là cả thế giới phương Tây ý thức rõ ràng tính phức tạp của sự phát triển
dưới cái vỏ bọc “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc trên con đường
trở thành siêu cường. Từ rất sớm Mỹ và các nước phương Tây chủ trương hướng sự
phát triển của Trung Quốc vào nguyên tắc “phát triển gắn với gánh
vác trách nhiệm đối với cộng đồng quốc tế”. Đi xa hơn nữa, khi lên làm
tổng thống, Obama đã có những nỗ lực lớn cố tạo ra một thể chế “G2”, với hy
vọng Mỹ và Trung Quốc cùng nhau chia sẻ trách nhiệm của mình và góp phần của
mình đối với cộng đồng quốc tế.
Bây giờ Mỹ công khai
thừa nhận những nỗ lực nêu trên đã thất bại.
Vấn đề càng trở nên rắc
rối ở chỗ, dù muốn hay không, sự phát triển kinh tế của Trung Quốc với tầm vóc
là nền kinh tế sô 2 thế giới liên quan mật thiết, tốt hoặc xấu, đến sự phát
triển kinh tế của châu Á nói riêng và của cả thế giới nói chung. Nghĩa là: Dù hay hay dở, khốn khó hay thuận lợi thế nào đi nữa, không có
cách gì có thể cô lập sự phát triển của kinh tế Trung Quốc ra khỏi sự phát
triển của kinh tế thế giới nói chung. Vậy cách tốt nhất vẫn là làm sao cho
Trung Quốc giữ một quỹ đạo phát triển chung với cả thế giới. Nhưng đến nay điều
này vẫn chưa xảy ra. Chưa nói đến nguy cơ một khi kinh tế Trung Quốc có những
“nổ bong bóng” dẫn tới khủng hoảng lớn, thậm chí có những đổ vỡ, liệu sẽ xảy ra
điều gì trên thế giới, nhất là nước ta đứng sát nách Trung Quốc!
Có thể nói, kể từ
khi tiến hành cải cách năm 1978, trong vòng gần 5 thập kỷ vừa qua Trung Quốc đã
đi được chặng đường mà về nhiều mặt các nước tư bản trước kia phải đi mất
khoảng 2 thế kỷ. Tận dụng lợi thế rất lớn về quy mô kinh tế của mình, Trung Quốc
là nước thành công bậc nhất trong việc nắm bắt những đặc điểm của xu thế phát
triển kinh tế của thế giới trong quá toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, đã tiến
hành những biện pháp quyết liệt, nhiều khi rất tàn bạo đối với trong nước, và
thực dụng một cách đáng sợ đối với bên ngoài, tất cả để giành lợi thế cho Trung
Quốc.
Tất cả đã làm cho Trung
Quốc trở thành “công xưởng của thế giới” gần như với bất kỳ giá nào, với nhiều
tác động đối với toàn thế giới. Có ý kiến đã coi Trung Quốc là quả bom nổ chậm
về môi sinh chưa biết hệ quả sẽ ra sao không chỉ đối với riêng Trung Quốc. Đấy
chính là những thành quả không ít máu và nước mắt của chủ nghĩa tư bản nhà nước
trong thể chế chính trị toàn trị một đảng có tên gọi là chủ nghĩa xã hội đặc
sắc Trung Quốc.
Hiện nay, trước hàng
loạt vấn đề của Mãn – Mông – Hồi – Tạng, trước hàng loạt vấn đề nóng trong kinh
tế như các hiện tượng sản xuất dư thừa quá lớn trong nhiều ngành so với khả
năng tiêu thụ trong xuất khẩu, các hiện tượng trong đối nội loại “sự kiện
Ô-khảm”, rồi đến tình hiếu chiến đang tăng lên của phái quân sự, bây giờ lai
thêm “sự kiện Bạc Hy Lai”.., liệu Trung Quốc sẽ lại “chĩa” ra bên ngoài thế nào
đây để “xì hơi” áp lực bên trong? Cuộc chiến tranh tháng 2-1979 đánh biên giới
phía Bắc của Việt Nam là một trong nhiều ví dụ của hiện tượng của Trung Quốc
“chĩa” ra bên ngoài như thế. Việt Nam sát nách Trung Quốc nên không thể thờ ơ.
Bằng mọi thủ đoạn của
quyền lực rắn và quyền lực mềm, trên thực tế đến nay Trung Quốc đã tạo ra được
một thứ quan hệ thiên triều - chư hầu
kiểu mới dành cho một vài nước lệ
thuộc.
Với quan điểm mục tiêu
biện minh cho biện pháp, quyền lực mềm của Trung Quốc không quan tâm đến các
giá trị, hành động theo nguyên lý cái gì không làm được thì để cho tiền làm, cái gì tiền không làm được thì nhiều tiền hơn nữa sẽ làm
được; cái gì một
năm chưa làm được thì hai năm, ba năm, một thập kỷ, vài thập kỷ sẽ làm được… Tại cả 5 châu lục trên thế giới, nhất là tại châu Phi, một
số nước châu Mỹ La-tinh.., có thể nói Trung Quốc đã thực hiện được ở mức đáng
kể việc “mua” các thứ như quyền lực, ảnh hưởng, quan hệ, cơ hội,
nguyên liệu, hàng hóa… Các Chinatowns mới
đang mọc lên tại khắp nơi. Đồng thời Trung Quốc cũng bán được
rất nhiều thứ, bao gồm từ hàng rẻ - hữu hình hoặc vô hình - không hiếm
hàng độc hại với cả nghĩa đen và nghĩa bóng, trong đó có sản phẩm mang tên là
“chống diễn biến hòa bình”, “chống can thiệp vào nội bộ”… Trung Quốc có quan hệ chính trị tốt với hầu hết các chế độ
diệt chủng ở châu Phi, gây ra được sự lũng đoạn chính trị nghiêm trọng ở nhiều
quốc gia, kể cả ở một vài nước phát triển (tới mức một vài chính khách của vài
nước này phải ra đi vì mắc bãy tham nhũng của Trung Quốc). Nhiều học giả trên
thế giới thừa nhận Trung Quốc ngày nay thành công vượt xa chủ nghĩa thực dân
mới của thế giới phương Tây trước đây trong việc vơ vét tài nguyên, mở rông
“quan hệ” bằng mọi cách, và bành trướng ảnh hưởng của mình[1].
Đặc biệt nghiêm trọng là Trung Quốc
trở thành thách thức quân sự trực tiếp và có những tranh chấp biên giới đối với
hầu hết các nước láng giềng (kể cả Nga và Ấn Độ) – gần đây nhất là các vụ đụng
độ (2010 và 2011) với hải quân Nhật Bản liên quan đến tranh chấp đảo Senkaku,
vai trò của Trung Quốc thế nào trong việc Bắc Triều Tiên bắn chìm tầu Cheonan
của Hàn Quốc tháng 5-2010?; trong hiện tại đang nóng bỏng tham vọng “đường lưỡi
bò 9 vạch” của Trung Quốc ở Biển Đông…
Trung Quốc đang vươn lên
thành siêu cường không cần tuân thủ những giá trị cơ bản là các thành tố của
trật tự quốc tế hiện hành, mà chỉ cần bằng mọi cách đạt được mục tiêu nó muốn.
Làm như vậy, Trung
Quốc hiển nhiên không theo đuổi mục đích, hay không quan tâm bao nhiêu đến mục
đích thúc đẩy xu thế phát triển chung của thế giới là hòa bình, hợp tác cùng phát triển, tự do, dân
chủ, quyền con người, gìn giữ và bảo vệ môi trường.
Phương thức phát triển
“mục tiêu biện minh cho biện háp” của Trung Quốc trên thực tế đã lũng đoạn ở
mức độ nhất định trật tự thế giới hiện tại.Một thực tế khách quan khác phải
được xem xét, đó là trên thế giới hiện có không ít những lực trái chiều; trong những điều kiện nhất định và những vấn
đề nhất định, những
lực trái chiều này
có thể bị lực Trung Quốc hấp dẫn, hoặc cùng phụ họa với lực Trung Quốc tạo ra
các nguy cơ mới hay gia tăng các nguy cơ hiện có lũng đoạn trật tự thế giới
hiện hành. Ví dụ thời sự nóng hổi
nhất hiện nay là sự bất lực không vượt qua được bao lâu nay của Hội đồng Bảo an
Liên hiệp quốc trong vấn đề Syria (cuối cùng cả Nga và Trung Quốc cũng phải thuận
theo ý kiến chung sau chuyến đi Syria của nguyên Tổng thư ký LHQ Kofi Annan).
Thực tế này góp phần giải thích vì sao Trung Quốc đã khai thác được đáng kể
tình hình Mỹ bị sa lầy tại Trung Đông và trong chiến tranh ở Afghanistan, thâm
nhập tới mức nguy hiểm vào nhiều nền kinh tế, kể cả ở các nước phát triển…
Trong tình huống nhất định nếu không kiểm soát được, thậm chí có thể xảy ra
xung đột trực tiếp Mỹ - Trung Quốc.
Học giả Minxin Pei đã
phải kết luận: Trung Quốc là cường quốc
đơn độc nhất thế giới! Nhiều học giả Mỹ khác
nói: Trung Quốc không vứt bỏ trật tự quốc tế hiện
hành, Trung Quốc chơi một trò chơi khác hẳn!.. Tất cả những sự việc này cho thấy Trung
Quốc trở thành vấn đề của cả thế giới.
Đã nhiều lần phía Trung
Quốc phải tìm cách thanh minh. Gần đây nhất, tháng 6-2011, Trung Quốc ra bạch
thư để trấn an dư luận, giữa lúc Trung Quốc đẩy nhanh việc đưa hàng không mẫu
hạm của mình vào hoạt động cùng với việc chuẩn bị đưa dàn khoan khủng đi
vào Biển Đông!.. Tại kỳ họp Quốc hội Trung Quốc tháng 3-2012 thông qua ngân
sách quốc phòng đạt 100 tỷ USD, Ôn Gia Bảo giải thích lý do: Trung Quốc cần
đánh thắng các cuộc chiến tranh cục bộ.
Mỹ và phương Tây đều lo
ngại để cho xu thế phát triển nói trên của Trung Quốc tiếp tục thoát khỏi tầm
kiểm soát có hiệu quả, sẽ có thể là hiểm họa khó lường. Giới nghiên cứu Mỹ công
khai thừa nhận trong khi Mỹ sa lầy vào chiến tranh Iraq và Afghanistan, Trung
Quốc đã lấn sân quá xa, thừa nhận Mỹ đã phản ứng đối phó chậm, và đặt ra nhiều
nghi vấn về vai trò của Trung Quốc trong một loạt vấn đề nóng bỏng của thế
giới…
Cả Mỹ và phương Tây đã
vỡ mộng: Sự phát triển kinh tế của Trung Quốc cũng như việc khuyến khích Trung
Quốc hội nhập vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế không làm cho dân chủ ở Trung
Quốc phát triển, cũng không thúc đẩy được Trung Quốc gánh vác và chia sẻ trách
nhiệm quốc tế của mình, mà chỉ mang lại cho Trung Quốc khả năng lợi dụng những
thể chế hiện có và khai thác những cơ hội diễn ra trong quá trình hội nhập này.
Như vậy có thể kết luận: Khối lượng GDP lớn thứ hai trên thế giới
và 2300 tỷ USD dự trữ ngoại tệ không làm nên thách thức trực tiếp của Trung
Quốc đối với Mỹ và thế giới phương Tây.
Thách thức của Trung
Quốc đối với Mỹ và thế giới phương Tây đến từ phương thức phát triển của Trung Quốc dưới cái tên
gọi “trỗi dậy hòa bình” – bằng mọi phương tiện kinh tế, chính trị, ngoại giao,
quyền lực mềm, khi cần thiết và trong những điều kiện nhất định bao gồm cả bằng
uy hiếp vũ trang, các bạo lực khác kết hợp cả quyền lực rắn và quyền lực mềm,
với phương thức vận dụng là “mục tiêu biện minh cho biện pháp”.
Tóm lại: thách thức của
Trung Quốc đối với Mỹ và phương Tây – có lẽ phải nói đối với cả thế giới nữa –
đến từ việc Trung Quốc lựa chọn cho mình một hướng đi ngược hẳn với những giá
trị cơ bản đang làm nên xu thế vận động chung hiện nay của thế giới.
Cần trỉnh táo và rất nên
tránh miệt thị Trung Quốc, vì suy nghĩ cảm tính như vậy nếu không làm tình hình
xấu thêm thì cũng chẳng giúp ích gì cho việc tìm các giải pháp. Song mọi sự
việc Trung Quốc đã và đang làm cần được gọi đúng tên của nó để hiểu đúng và tìm
đối sách.
Hỏi: Đối sách của Mỹ với đối thủ chính của mình
như thế nào?
Đáp: Câu trả lời đã được xác định của Mỹ đối với Trung Quốc là tránh đối đầu trong chừng mực có thể, nhưng
không tránh đối đầu trong đối ngoại, thông qua tập hợp cả thế giới tìm cách giữ
Trung Quốc trong quỹ đạo chung của xu thế phát triển trong khuôn khổ trật tự
thế giới hiện nay, bao gồm cả những biện pháp ngăn chặn Trung Quốc bành trướng
bằng vũ lực. Lợi ích phát triển của
Mỹ và của thế giới phương Tây cũng như của rất nhiều nước khác trên thế giới
cũng đòi hỏi như vậy. Phương Tây nhìn chung đi với Mỹ trong đối sách này.
Hơn nữa, trên thực tế
khả năng này là hiện thực, bởi vì càng phát triển, Trung Quốc càng không thể
thoát ly được sự phát triển chung của thế giới. Chưa nói đến kinh tế Trung Quốc
hiện nay cũng đang đày rãy những vấn đề nan giải, nguy cơ rơi vào khủng hoảng
lớn là thường trực; có nhiều vấn đề không đơn giản – thậm chí có những điểm
nguy hiểm – kể cả trong ổn định nội bộ. Sắp tới cuộc tranh chấp thị trường và
tranh chấp nguyên nhiên liệu trên thế giới sẽ còn quyết liệt hơn nữa, sẽ đặt
Trung Quốc trước nhiều khó khăn mới…
Về nhiều mặt, dù một khi
trở thành nền kinh tế có quy mô GDP lớn nhất thế giới, Trung Quốc vẫn hoàn toàn
không có khả năng trở thành một đế chế trong thế giới ngày nay. Thời đại một đế
chế chi phối sự phát triển của cả thế giới đã vĩnh viễn lùi vào quá khứ. Trong
khi đó sự chia sẻ các giá trị chung của văn minh nhân loại đã trở thành xu thế
tất yếu và đang ngày càng phát triển. Xu thế này cũng đang ngày một mạnh lên cùng với sự phát triển kinh
tế ngay trong lòng xã hội Trung Quốc, bất chấp chế độ toàn trị của quốc gia
này. Là một nước lớn có nền
văn minh cổ đại rực rỡ, Trung Quốc có nhiều đóng góp lớn vào văn minh nhân loại.
Tuy nhiên, các giá trị của văn minh Đại Hán một thời từng giữ thế thượng phong
một vùng của trái đất đã bị thế giới vượt qua từ nhiều thế kỷ nay rồi (song
phải thừa nhận các giá trị này để lại một di sản văn hóa vẫn đang còn tác động
đáng kể đến đời sống kinh tế và chính trị Trung Quốc hôm nay).
Bằng lời nói và hành
động, Mỹ khẳng định rõ ràng việc quay trở lại châu Á, nguyên nhân hàng đầu là
để đối phó với đối thủ chủ yếu là Trung Quốc, song đó còn là một trong những
phương thức quan trọng Mỹ tìm cách tiếp tục duy trì và phát triển sức mạnh vai
trò siêu cường số một của mình hiện nay.
Trên thực tế Mỹ đang làm
tất cả - từ việc khắc phục những yếu kém, đổi mới cơ cấu kinh tế, phát triển
kết cấu hạ tầng mới, đẩy mạnh cải cách giáo dục, nỗ lực tạo công ăn việc làm
mới, điều chỉnh lại hệ thống tài chính tiền tệ, bố trí lại lực lượng quân sự và
tiếp tục hiện đại hóa khả năng chiến đấu – đặc biệt ở khu vực châu Á – bất chấp
việc phải cắt giảm ngân sách, đổi mới chiến lược đối ngoại, trong đó tập trung
hơn nữa vào châu Á – Thái Bình Dương.., tất cả để làm chủ tình hình (tham khảo
thêm bài nói ngày 05-01-2012 của Obama tại Lầu Năm Góc về chiến lược quân sự
mới của Mỹ, và thông điệp đầu năm tại Nhà Trắng của Obama ngày 24-01-2012).
Trong những nỗ lực nêu
trên, Mỹ đặc biệt quan tâm thúc đẩy xu thế của trào lưu phát triển chung trên
thế giới trong trật tự quốc tế hiện nay (như đã trình bày trên) một cách có lợi
nhất cho việc duy trì vị thế dẫn đầu, vị thế số một thế giới hiện Mỹ đang nắm
giữ. Cần thấy rõ điều này để hiểu rằng một số vấn đề như các giá trị về tự do, dân chủ, quyền con người, môi trường… Mỹ thường nêu lên trong chính sách đối ngoại của
mình không đơn thuần chỉ là một thứ “vũ khí diễn biến hòa bình”
như một số người muốn diễn giải theo cách này. Thật ra, quan trọng hơn thế
nhiều, những giá trị này là các thành tố không thể
thiếu trong quốc sách đối
ngoại của Mỹ, làm nên thế mạnh của Mỹ. Thậm chí đấy là một thứ “vũ khí” – nếu
thích dùng cách gọi này - của Mỹ là chính sách tập hợp lực lượng theo cách ngược hẳn với cách
làm của Trung Quốc, chính sách này là một trong những đối sách quan trọng của
Mỹ đối với Trung Quốc. Đơn giản là: Muốn dẫn
đầu thế giới, Mỹ phải tìm cách đi đầu trong trào lưu phát triển của thế giới,
trước hết vì chính lợi ích sống còn của Mỹ.
Hơn thế nữa các vấn đề
tự do, dân chủ, quyền con người, môi trường… còn là những giá trị cơ bản của
nền chính trị Mỹ hiện tại, đang làm nên nước Mỹ hôm nay, là nguồn gốc sức mạnh Mỹ hiện tại mà cả nước Mỹ đang phải tiếp
tục phấn đấu để giảm bớt đà suy yếu của mình, là động lực phát triển thường
trực của chính nước Mỹ, là xu thế phát triển của Mỹ. Nói một cách khác, để
những giá trị này mai một, bản thân nước Mỹ cũng sẽ suy yếu nhanh chóng hơn
nữa, trong khi nước Mỹ không phải là hiếm những khó khăn đối nội.
Tuy nhiên, cũng xin đừng
lúc nào quên: Mỹ làm gì đi nữa thì
trước hết là vì Mỹ, rồi mới đến vì những người khác, vì nước khác, đó là lẽ tất
yếu. Trong đối phó với Trung Quốc không hiếm khi trong tình huống nào đó Mỹ đã
có những “thỏa hiệp” – bản thân Việt Nam đã từng được nếm mùi sự “thỏa hiệp”
rất đáng nhớ năm 1972 mà đầu bếp là Henry Kisinger. Nước lớn nào không hành xử
như vậy? Và đây không phải là bài học “thỏa hiệp” duy nhất trong quan hệ Mỹ -
Trung.
Như vậy càng rõ, không phải mối nguy Trung Quốc có thể cướp mất
vị thế quốc tế số một của Mỹ là nguyên nhân của hiện tượng Trung Quốc trở thành
đối thủ chính của Mỹ. Có tiềm tàng mối nguy
này, nhưng nó chưa phải là vấn đề thời sự nóng bỏng, hoặc còn rất lâu mới có
thể trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng.
Có thế kết luận, hai xu thế phát triển hoàn toàn ngược nhau như
vậy với những hệ lụy toàn cầu giữa Mỹ và Trung Quốc là nguyên nhân chủ yếu làm
cho 2 quốc gia này trở thành đối thủ chính của nhau trong cục diện thế giới mới
hiện nay, nhất là ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Thực tế này cũng là nét chính của bức tranh
địa chính trị thế giới hiện tại, việc tập hợp lực lượng trên thế giới đang được
xắp xếp lại. Muốn hay không, ai đi với ai? trong cục diện thế giới mới này, sẽ ít hoặc nhiều, trực tiếp hay gián
tiếp cũng có thể hé ra ai lựa chọn xu thế nào? cho sự phát triển của quốc gia mình.
Thách thức từ một Trung
Quốc đang trên đường trở thành siêu cường với phương thức phát triển “mục
tiêu biện minh cho biện pháp” theo kiểu tư duy “mèo trắng –
mèo đen” là những thách thức nguy hiểm, thậm chí rất nguy hiểm đối với
các nước nhỏ yếu và lệ thuộc. Tuy nhiên, thổi phồng hay đánh giá thấp những
thách thức này cũng nguy hiểm không kém.
Hỏi: Vậy nên nhìn nhận Trung
Quốc trên đường trở thành siêu cường như thế nào?
Đáp: Trước hết cần lưu ý không phải chỉ có tư tưởng bành trướng Đại
Hán là động lực thúc đẩy Trung Quốc vươn lên trở thành siêu cường. Ít nhiều có
thể có nguyên nhân này như là một di sản của văn hóa và lịch sử. Song quan
trọng hơn thế nhiều, thậm chí phải nói động lực chính của sự vươn lên này là
đòi hỏi phát triển tự thân của Trung Quốc. Sự thật là đòi hỏi này của nước đông
dân nhất thế giới bức thiết đến mức “tồn tại hay không tồn tại?”
(to be or not to be?). Trở thành siêu cường số một thế giới được Trung Quốc đưa
lên thành động lực thúc đẩy (triebkraft) và đồng thời cũng là biện pháp thực hiện để “giải quyết” đòi hỏi này.
Vấn đề cốt lõi ở đây
chính là phương thức Trung Quốc giải quyết đòi hỏi bức thiết này của mình.
Đó là phương thức “mục
tiêu biện minh cho biện pháp” như đang tiến hành. Hiển nhiên về nhiều mặt
phương thức này đang gây nhiều mối nguy lớn cho thế giới.
Đây chính là vấn đề.
Nếu như Trung Quốc giải
quyết đòi hỏi bức thiết của mình theo phương thức cùng phát triển trong quỹ đạo
phát triển chung của cả thế giới, đồng thời lấy sự phát triển của mình góp phần
hay thúc đẩy sự phát triển chung của cả thế giới, thì còn gì bằng! Thực hiện
phương thức phát triển gắn với trách
nhiệm như vậy, câu chuyện
Trung Quốc sẽ đi hẳn một hướng khác, chắc chắn sẽ được cả thế giới hoan nghênh,
vai trò cường quốc của Trung Quốc càng được nâng cao. Song nếu làm theo phương
thức này, Trung Quốc có lẽ phải thay đổi nghiêm trọng đường lối đối nội của
mình, một điều hầu như không hiện thực hiện nay và gắn với nguy cơ tan
rã Trung Quốc. Tính quyết liệt của vấn đề Trung Quốc là ở chỗ này.
Hiểu đúng sự thật khách
quan “đòi hỏi bức thiết này” và “phương thức thực hiện nó” của Trung Quốc, mới
có thể hiểu được thấu đáo tính quyết liệt của cái gọi là “vấn đề Trung Quốc” trong
đời sống chính trị quốc tế hôm nay.
Thật ra trong thời đại
toàn cầu hóa kinh tế thế giới ở trình độ phát triển ngày nay, mở rộng thị
trường, mở rộng không gian phát triển của mình ra phạm vi toàn thế giới vừa là
một khả năng, vừa là một đòi hỏi bức thiếtcho sự phát triển và lớn mạnh của mỗi quốc gia,
dù lớn hay nhỏ.
Thực tế cho đến hôm nay
cho thấy: Trung Quốc đang thực hiện phương thức hiện hành, và sẽ còn tiếp tục
làm như thế chừng nào Trung Quốc còn
giành được mọi điều kiện cần thiết cho phép tiếp tục duy trì phương thức hiện
hành.
Không một sự thông minh,
thiện chí, lòng hảo tâm, hay ý thức hệ xã hội chủ nghĩa nào có thể có được từ
phía Trung Quốc khiến cho quốc gia này tự thay đổi phương thức phát triển hiện
nay của nó, ngoại trừ một khi sự
xuất hiện tình hình quốc tế cùng với sự xuất hiện những yêu cầu mới của dân chủ
và phát triển ngay trong lòng Trung Quốc buộc Trung Quốc phải thay đổi phương
thức phát triển hiện nay, thì sự thay đổi phương thức mới xảy ra.
Xin lưu ý: Hiện nay một
nửa số dân Trung Quốc (51%) sống tại đô thị, mức sống và trình độ dân trí ngày
càng cao, ảnh hưởng của tầng lớp trung lưu ngày càng sâu rộng trong xã hội
Trung Quốc, khiến cho đòi hỏi về phát triển hài hòa và về dân chủ trong lòng xã
hội Trung Quốc ngày càng lớn. Song cũng còn một thực tế khác: Kinh tế càng phát
triển, xã hội Trung Quốc càng nẩy sinh nhiều vấn đề mới – trước hết do khoảng
cách giàu nghèo càng rộng ra; bất cập, bất công và phân hóa xã hội ngày càng
nhiều. Gần đây chính thủ tướng Ôn Gia Bảo đã phát biểu phái sớm đẩy nhanh cải
cách chính trị, nếu không sẽ có nguy cơ xảy ra cuộc cách mạng văn hóa mới theo
hướng chủ nghĩa Mao ngày xưa. Nội bộ lãnh đạo Trung Quốc có một số vấn đề lớn
(hay nghiêm trọng? – ví dụ vấn đề Bạc Hy Lai hiện nay) là tất yếu trong hệ
thống chính trị một đảng khép kín, đã và đang diễn ra trong suốt lịch sử nước
CHNDTH. Đương nhiên những vấn đề nội bộ như thế cũng góp phần tăng thêm tính quyết liệt của vấn đề Trung Quốc.
Mặt khác các mâu thuẫn
quốc tế với phương thức phát triển của Trung Quốc như hiện nay ngày càng tăng,
nhiều quốc gia – bao gồm một số nước đang phát triển – buộc phải xem lại mối
quan hệ kinh tế với Trung Quốc. Trung Quốc vươn lên siêu cường trong tình hình
các hướng đi khác đều bị án ngữ khó lòng vượt qua hay đều đã có chủ, do đó bành
trướng quyền lực qua Biển Đông xuống phía Nam để mở đường ra đại dương trở
thành hướng đi khả dĩ nhất và duy nhất. Như vậy, địa lý tự nhiên trớ trêu ốp
vào Việt Nam số phận là chướng ngại vật đầu tiên đối với Trung Quốc trên con
đường độc đạo này. Đương nhiên Trung Quốc sẽ tìm mọi cách khắc phục chướng ngại
vật này.
Sự thật là trong suốt
chiều dài lịch sử quan hệ Việt – Trung sự trêu ngươi này của lịch sử đối với
nước ta diễn đi diễn lại nhiều lần, không hề đặt ra cho nước ta khả năng tránh
né nào, mà chỉ thách thức nước ta lựa chọn câu trả lời như thế nào mà thôi.
Cũng phải nói thêm, trong suốt chiều dài lịch sử ấy, chưa một lần nào Việt Nam
tự mình đứng ra diễn vai “châu chấu đá xe” thách thức Trung Quốc.
Một khía cạnh khác của
vấn đề cần xem xét là: “Siêu cường tương lai Trung Quốc” sinh sau đẻ muộn trong
một thế giới có sẵn một trật tự như hiện nay, tự nhiên Trung Quốc đứng trước
yêu cầu phải tạo dựng ra cho mình các nước vệ tinh làm rào chắn trên độc đạo
hướng phía Nam còn để ngỏ, lý tưởng là làm sao có được các nước vệ tinh theo mối quan hệ thiên triều – chư
hầu kiểu mới cho
mục đích này, lý tưởng nhất là tạo ra được một nước bàn đạp hay nhiều nước bàn đạp trên hướng đi này. Không phải vô cớ Trung Quốc
đã công khai bày tỏ sự không bằng lòng với Myanmar về những diễn biến hiện nay
của quốc gia này.
Chắc chắn Trung Quốc
trong phạm vi có thể cũng sẽ không từ một biện pháp hay thủ đoạn nào ngăn cản
sự xuất hiện một quốc gia nào đó sát nách mình ở hướng Nam này trở thành một “tiền
đồn của dân chủ hay của thế giới phương Tây”. Bởi vì tự thân Trung Quốc
đã có quá nhiều việc để làm với các vấn đề dân chủ và quyền con người ngay
trong lòng đất nước họ (đây là gót chân Achilles của chế độ toàn trị của quốc
gia này), Trung Quốc lại càng không muốn có thêm cửa ngõ lan truyền hay thâm
nhập những giá trị này vào nội địa của họ.
Tổng kết quan hệ Việt –
Trung kể từ khi thực hiện bình thường hóa trở lại quan hệ hai nước từ năm 1990
đến nay, có thể thấy Trung Quốc theo đuổi 2 kịch bản chính trong đối sách với
Việt Nam:
- Thượng sách là giương cao 16 chữ để tiếp tục thâm nhâp, lũng đoạn, nhằm thúc
đảy quá trình tạo ra một Việt Nam èo uột và lệ thuộc; bằng mọi cách không để
cho chế độ èo uột của Việt nam sụp đổ để Trung Quốc dễ bề tiện dụng phù hợp với
cái vỏ bọc “trỗi dậy hòa bình” của mình. Trung Quốc chủ trương cô lập Việt Nam
trên thế giới bằng những biện pháp khôn ngoan như một mặt phân hóa các đồng minh láng giềng sống còn của Việt Nam, nhấn mạnh
Việt Nam phải gìn giữ đại cục quan hệ Trung – Việt để tăng sức ép, đồng thời mặt khác lại dượng dẹ và lôi kéo Việt Nam đi với Trung
Quốc trong những vấn đề khác. Đặc biệt quan trọng là Trung Quốc vận dụng quyền
lực mềm tác động nặng nề vào phát triển kinh tế của Việt Nam, khuyến khích
giương cao ngọn cờ “chống diễn biến hòa bình” để ngăn cản những nỗ lực cải cách
chính trị của Việt Nam. Trung Quốc tận dụng mọi cơ hội tiếp tục uy hiếp biển -
đảo, vừa nhằm tạo điều kiện cho những bước lấn chiếm tiếp theo, vừa giữ Việt
Nam trong quỹ đạo của mình… Có thể nhận định: Trung Quốc đã đi được một chặng
đường dài trong thực hiện thượng sách này.
- Hạ sách là: đẩy mạnh các biện pháp đã và đang thực hiện
của thượng sách, chấp nhận hiện trạng một Việt Nam “tranh tối tranh sáng”, nếu
không ngăn cản được cải cách ở Việt Nam thì tìm mọi cách kìm hãm công cuộc cải
cách này, gia tăng các sức ép của quyền lực rắn và quyền lực mềm để gia tăng
thực trạng èo uột của Việt Nam, đảy mạnh phân hóa bên trong, tăng các biện pháp
lũng đoạn hay trừng phạt kinh tế, khi cần thiết lại có thể “cho một bài học”
kiểu chiến tranh biên giới tháng 2-1979 hay theo kịch bản đánh chiếm một số đảo
Trường Sa tháng 3-1988. “Bài học” lần này nếu xảy ra, có nhiều khả năng
sẽ là trên Biển Đông; sắp tới có thể có những biện pháp ngang nhiên thăm dò và
khai thác Biển Đông phần thuộc hải phận của nước ta, vân vân...
- Lưu ý 1: Trong mọi trường hợp,
Biển Đông chỉ là một mặt trận nóng, thậm chí có khi rất nóng trong đối xử của
Trung Quốc đối với Việt Nam. Tuy nhiên, mặt trận chính yếu của Trung Quốc là
nhằm vào đối nội của Việt nam, trên cả hai phương diện nội trị và kinh tế, với
mục đích khoét sâu những khả năng Việt Nam dễ bị chấn thương. Thắng trên mặt
trận chính yếu này, Trung Quốc hy vọng sẽ thắng trên các mặt trận khác.
- Lưu ý 2: Tuy nhiên, thực tế thời gian qua, nhất là trong
các năm 2010 và 2011, cho thấy không phải Trung Quốc muốn làm gì với Việt Nam
cũng được. Trung Quốc rất ngại có những bước đi đụng chạm vào tinh thần yêu
nước của nhân dân Việt Nam và thức tỉnh dư luận thế giới.
Đối mặt thành công với
một Trung Quốc như vậy là một thách thức, thậm chí là thách thức đối ngoại quan
trọng nhất đối với nước ta hôm nay.
Hỏi: Thái độ của cộng đồng các quốc
gia trên thế giới như thế nào trước tình hình quan hệ Việt – Trung như vậy?
Đáp: Bàn cờ thế giới hôm nay đặt ra cho nước ta tình
huống: Ngoại trừ Trung Quốc, ngày nay hầu như phần lớn các quốc gia còn lại
không muốn thấy trên bản đồ thế giới có một Việt Nam èo uột, phải dưa vào hay
phải sống trong vòng tay ôm ấp của Trung Quốc.
Ngoại trừ Trung Quốc,
hầu như tất cả những quốc gia này đều mong muốn có một Việt Nam giầu mạnh, phát
triển, đứng vững trên đôi chân của mình và đảm đương tốt vai trò là nhân tố
quan trọng thúc đẩy hỏa bình, hữu nghi, hợp tác và phát triển tại khu vực này
và trên thế giới. Có lẽ cũng không có một đầu óc tỉnh táo nào trong những quốc
gia này nuôi ảo tưởng biến Việt Nam thành lính xung kích chống lại Trung Quốc
tại địa bàn này.
Địa chính trị thế giới
và khu vực hôm nay tự nó tất yếu tạo ra cho nước ta bối cảnh và tình hình
quốc tế như vậy. Thực tế khách quan này có nghĩa chưa bao giờ nước ta lại có nhiều đồng minh tự
nhiên hầu như khắp cả thế giới như bậy giờ - một thực tế gần như là một sự đền bù của tự
nhiên cho cái thế sự trêu ngươi Việt Nam là chướng ngại vật tự nhiên trên đường
đi lên siêu cường của Trung Quốc. Chẳng có ý thức hệ nào hay lòng tốt nào ở đây cả, mà chỉ có xu thế
phát triển của thế giới hiện nay xắp xếp ra cho nước ta cái bối cảnh khách quan
như vậy ở phạm vi khu vực và quốc tế. Chừng nào Trung Quốc không thay đổi
phương thức hiện hành, các đồng minh tự nhiên của nước ta có lẽ vẫn đông như
vậy, ngọai trừ những những tình huống ngoại lệ rất đặc biệt nếu xảy ra. Đúng là một cơ hội lớn chưa từng có dành cho nước ta! Mọi chuyện bây giờ chỉ phụ thuộc vào sự lựa chọn
cách ứng xử của nước ta.
Hỏi: Vậy ta nên làm gì?
Đáp: Trước khi bàn chuyện nước ta nên làm gì, cần nhớ
lại vài kinh nghiệm cũ, để dựa vào đó cân nhắc chuyện hôm nay.
Trên phương diện đối
ngoại, nhìn ra được và đi cùng
được với trào lưu tiến bộ của thế giới là một trong những yếu tố quyết định đã
từng làm nên thế mạnh của đất nước ta; hầu như chắc chắn hiện tại và tương lai cũng sẽ như vậy. Ví dụ, cả
thế giới biết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam do Đảng Cộng Sản
Việt Nam lãnh đạo; song thực tế này không cản trở việc xuất hiện một phong trào
rộng khắp thế giới, ngay cả trong lòng nước Mỹ, ủng hộ cuộc kháng chiến chống
Mỹ xâm lược của ta. Phong trào này là một nhân tố góp phần vô cùng quan trọng
vào thắng lợi của kháng chiến. Không hề có chuyện phong
trào này là sự ủng hộ của thế giới dành cho ý thức hệ xã hội chủ nghĩa hay là
cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.Nguyên nhân đích thực của phong trào đoàn kết ủng hộ này là trong
thời đại ngày nay độc lập và quyền tự quyết của các dân tộc là một trong những
giá trị cơ bản của trào lưu tiến bộ trên thế giới, được cả thế giới thừa nhận
và tôn trọng.
Trước hết cần lưu ý,
bằng sự nghiệp đấu tranh giải phóng, giành lại độc lập và thống nhất đất nước
của mình Việt Nam đã có những đóng góp không nhỏ vào phong trào độc lập dân tộc
trên thế giới trong những thập kỷ đầu sau thế chiến II. Bằng đường lối đối
ngoại hòa bình, hữu nghị và hợp tác, bằng việc phát triển những mối giao
lưu kinh tế ngày càng gia tăng, lại có với vị trí chiến lược quan trọng trong
khu vực Đông Nam Á, Việt Nam là một quốc gia hiện nay được thế giới tính đến.
Tất cả đã làm nên một quốc gia có vị thế quốc tế về cơ bản là rất thuận lợi cho
chính mình và có một tiếng nói đáng kể trên trường quốc tế.
Tuy nhiên nhìn chung, từ
khi đất nước độc lập thống nhất cho đến nay, trên thực tế Việt Nam trong quan
hệ quốc tế của mình chưa thành công nhiều trong việc tạo ra cho mình các đối
tác chiến lược (cho đến nay hầu như nước ta mới chỉ đạt được tuyên bố thiện chí
của một số quốc gia: coi nhau là đối tác chiến lược). Vị trí thực của Việt Nam
trong chính sách đối ngoại của những quốc gia quan trọng trên bàn cờ thế giới
hôm nay nói chung thấp so với (a) vị thế của đất nước ta lẽ ra phải giành được,
(b) so với đòi hỏi của an ninh và phát triển của nước ta, (c) cũng như so với
khả năng và cơ hội lẽ ra có thể đạt được của nước ta. Nguyên nhân chính của
thực trạng này là quan hệ của ta với những quốc gia trọng yếu còn nghèo nàn, do
những hạn chế trong đối nội, và do những yếu kém trong chính sách đối ngoại của
ta là chủ yếu, chứ không phải do nước ta nghèo.
Về những yếu kém và hạn
chế, cần thẳng thắn thừa nhận không hiếm trường hợp và trong những hoàn cảnh
nhất định, trong những vấn đề nhất định, Việt Nam đã có lúc không tránh được
những đòn hiểm của Trung Quốc (nổi cộm trong quá khứ và đã bộc lộ công khai ra
bên ngoài là vấn đề Campuchia, chiến tranh xâm lược biên giới phía Bắc nước ta
tháng 02-1979, Hội nghị Thành Đô 1990, đánh chiếm thêm các đảo ở Trường
Sa tháng 03-1988… …). Đã có lúc nước ta rơi vào tình trạng bị bao vây cô
lập…
Không hiếm trường hợp
nước ta bị động, do đó tự gây ra các khó khăn không đáng có cho chính mình
trong các mối quan hệ quốc tế, ví dụ trong các vấn đề di tản, vấn đề nhân
quyền, vấn đề khép lại quá khứ, vân vân…. Quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN,
bình thường hóa quan hệ với Mỹ, quá trình gia nhập WTO dã diễn ra một cách chật
vật và kéo dài không đáng có… Trong 37 năm đất nước độc lập thống nhất đã bỏ lỡ
nhiều cơ hội lớn và quan trọng đối với vận mệnh đất nước, kể cả những cơ hội
thuận lợi cho những vấn đối nội sống còn của đất nước như thống nhất và hòa hợp
dân tộc, cải cách thể chế chính trị, lựa chọn con đường phát triển, vân vân…
Không thể đổ lỗi thực
trạng này cho thực lực hạn chế của nước ta.
Cần thẳng thắn nhìn nhận
nguyên nhân chủ yếu của thực trạng này là những yếu kém và bất cập của nước ta
– cụ thể ở đây là của những người lãnh đạo – trong việc không nhận thức đúng
cục diện thế giới, cũng như trong việc không đề ra được cho đất nước những
quyết sách phù hợp với xu thế phát triển của thế giới và những đòi hỏi của đất
nước, chưa tạo ra được cho mình vị thế là một thành viên tích cực trong trào
lưu tiến bộ của cộng đồng quốc tế... Trong khi đó tính ỷ lại trông chờ vào giúp
nọ giúp kia rất nặng nề (ODA, viện trợ nhân đạo, viện trợ khoa học kỹ thuật…),
vô cùng vụng về trong thu hút FDI vì có quá nhiều yếu kém về nội trị và tiêu
cực, vân vân...
Những kết quả đã
giành được trong xây dựng và phát triển các mối quan hệ quốc tế 37 năm qua, bao
gồm cả kinh tế đối ngoại, vì có những yếu kém này nên đã bị hạn chế rất nhiều
so với khả năng của đất nước và so với tình hình cho phép. Thực tế này cản trở
phát huy cái mạnh của đất nước, làm trì trệ hay khoét sâu thêm cái yếu
kém...
Sau 37 năm phát triển,
Việt Nam hôm nay so với tầm vóc của mình, lẽ ra phải có một thực lực kinh tế,
chính trị, văn hóa và tầm ảnh hưởng hoàn toàn khác, với một vai trò là một
thành viên chủ động, xây dựng, tích cực trong trào lưu phát triển của cộng đồng
thế giới.
Là nước đông dân thứ 13
trên thế giới, giữ vị trí chiến lược quan trọng tại Đông Nam Á, song nước ta
chưa giành lấy được vai trò là một thành viên năng động và có khả năng đóng góp
trách nhiệm quan trọng lẽ ra phải có đối với cộng đồng trong khu vực cũng như
trên thế giới; qua thực tế này độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh
quốc gia chưa được củng cố vững chắc và hiện nay đang phải đối phó với không ít
uy hiếp.
Nói ngắn gọn: 37 năm qua ta chưa chiếm lĩnh được vị thế tối
ưu lẽ ra có được trong địa chính trị thế giới và khu vực, thậm chí không hiếm
trường hơp là lạc lõng trong cái trận đồ bát quái của đia chính trị thế giới kể
từ khi hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa sụp đổ - sự lạc lõng quan trọng nhất
với nhiều hậu quả lâu dài xảy ra ở Hội nghị Thành Đô năm 1990 để bình thường
hóa quan hệ Việt – Trung, khi cục diện thế giới tạo ra cho nước ta thuận lợi
hiếm có để củng cố hơn bao giờ hết thế độc lập tự chủ của nước ta trên trường
quốc tế: thế ta là ta, đi với cả thế giới, không cần thiên lệch hay dựa vào bất
kỳ ai! Nguyên nhân của mọi
nguyên nhân của thực trạng này có lẽ là tư duy ý thức hệ đã dẫn tới nhận thức
sai về thế giới chúng ta đang sống; vì lý do này trên thực tế đã thiếu sự giác
ngộ đầy đủ về lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc của nước ta trong những tình
huống quốc tế phức tạp. Sự phát triển của đường lối đối nội của ta trên cơ sở ý
thức hệ này đã hạn chế nghiêm trọng khả năng tận dụng những lợi thế trên lĩnh
vực đối ngoại.
Đã đến lúc phải nuốt mọi
cay đắng nhìn nhận lại tất cả.
Ngày nay, thế giới đang
chuyển vào một thời kỳ phát triển mới làm thay đổi rất nhiều vấn đề căn bản,
tạo ra một cục diện quốc tế với một địa chính trị mới ở tầm thế giới cũng như
trong từng khu vực. Tất cả quốc gia, trong đó có nước ta, đứng trước đòi hỏi
phải tìm ra vị thế tối ưu mới cho mình trong địa chính trị mới của thế giới hôm
nay. Còn hơn thế, sau 37 năm phát triển, nước ta bây giờ bắt buộc phải chuyển
sang một thời kỳ phát triển mới cao hơn, chất lượng hơn, phù hợp với sự vận
động của thế giới trong thời kỳ mới này, cho phép tạo ra chỗ đứng nhất thiết
phải chiếm lĩnh được trong địa chính trị của thế giới hôm nay.
Phải lựa chọn gì? Phải
làm như thế nào?
Trước khi trả lời những
câu hỏi trên, việc làm đầu tiên là cần tỉnh táo nhìn nhận lại đúng đắn thế giới
chúng ta đang sống, trên cơ sở đó nhìn nhận lại mọi vấn đề đối đối nội và đối
ngoại với quan điểm lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc của nước ta trên hết.
Trên cơ sở đánh giá lại như vậy, thẳng thắn phân tích tất cả những sai lầm, yếu
kém của nước ta trong ứng xử với thế giới suốt 37 năm qua. Cần học hỏi, vận
dụng mọi trí tuệ mới nhất của văn minh nhân loại để nhìn nhận thấu xuốt những
yếu kém nước ta đã mắc phải trong xuốt thời gian này, từ đó rút ra những kết
luận cần thiết cho hôm nay.
Lịch sử không làm lại
được, cũng không vẽ ra được, nhưng trung thực với lịch sử thì sẽ tìm được ở
lịch sử người thầy không thể thiếu được cho vận mệnh của đất nước hôm nay và
tương lai.
Đánh giá thấu đáo những
vấn đề rút ra được từ thực tiễn 37 năm qua rồi hãy tính đến việc lựa chọn gì
trong địa chính trị thế giới hôm nay, từ đó nghĩ tới làm như thế nào thực hiện
sự lựa chọn ấy. Kinh nghiệm lớn nhất của
mọi thắng lợi đã đạt được là giương cao ngọn cờ dân tộc – dân chủ trên cả 2
phương diện đối nội và đối ngoại. Kinh nghiệm tốn xương máu và mất cơ hội và của mọi thất bại cũng là những trường hợp
để mất ngọn cờ này!.
Nhất thiết phải dành đủ
tâm sức, trí tuệ và thời gian cho công việc nghiêm túc này. Các phần đã trình
bầy bên trên mới chỉ xới lên một số ý kiến và kết luận sơ bộ.
Hỏi: Trước sau vẫn phải đi tới kết luận hay
khuyến nghị Việt Nam nên lựa chọn chỗ đứng nào trong thế giới hôm nay chứ?
Đáp: Vâng. Song câu hỏi này quá lớn, phải dày công
sức suy nghĩ tiếp. Tạm thời xin xới xáo đôi điều như dưới đây.
Hiển nhiên, dân tộc ta
trong suốt chiều dài lịch sử của mình có những lúc thua thì chịu tạm thời mất
nước rồi tính đường đánh keo khác, nhưng chưa bao giờ, và ngày nay càng không
bao giờ chấp nhận thân phận một nước chư hầu - dù là chư hầu cho ai. Chưa bao
giờ và bây giờ càng không bao giờ nước ta muốn thách thức một trong hai
hoặc cả hai đối tượng chủ chốt của địa chính trị thế giới hôm nay là Mỹ và
Trung Quốc, dù rằng lúc này lúc khác đối sách của ta với 2 gã khổng lồ này
nhiều lúc chưa đủ khôn ngoan.
Mặt khác, lịch sử cận
đại Việt Nam đã từng nếm đủ mọi điều cay đắng khi đất nước chúng ta trở thành
trận địa tranh hùng của các thế lực lớn trên thế giới. (Trong tiểu thuyết Dòng đời – 2006 – tôi đã nêu lên nhận xét của mình là:
Cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược của nước ta trên thực tế chứa đựng trong nó
5 - 6 cuộc chiến tranh hay còn hơn nữa; thực tế này cắt nghĩa tính quyết liệt ở
quy mô quốc tế của cuộc kháng chiến này. Sau khi kết thúc, xảy ra tình huống
cuộc kháng chiến này đẻ ra nhiều vấn đề phức tạp khôn lường, thậm chí những hệ
lụy của nó còn đẻ thêm 2 cuộc chiến tranh mới nữa. Tôi nghĩ đến ngày hôm nay ta
vẫn chưa lường hết được mọi hậu quả đâu; trong Dòng đời tôi cũng cố nói rõ ý này.. Vân vân…).
Đồng thời cũng phải
thẳng thắn thừa nhận cho đến nay nước ta chưa thành công bao nhiêu trong việc
làm cho cả 2 quốc gia đóng vai trò trọng yếu trong địa chính trị thế giới hôm
nay là Mỹ và Trung Quốc trở thành đối tác chiến lược của nước ta – mà chính đòi
hỏi này lại là điều nước ta cần nhất. đáng mong muốn cho mình nhất trong địa
chính trị thế giới hôm nay.
Quan trọng hơn nữa, phải
chăng cục diện mới của thế giới hôm nay đang mang lại cho nước ta những điều
kiện cho phép thực hiện một sự lựa chọn vị thế quốc tế như thế trong địa chính
trị mới của thế giới – nghĩa là những điều kiện cho phép nước ta vươn lên vị
thế trở thành đối tác chiến lược của cả hai quốc gia trọng yếu này?
Có thể lắm. Trước hết
bởi vì, dù là đối thủ chủ yếu của nhau trong địa chính trị thế giới hôm nay,
song hiển nhiên cả Mỹ và Trung Quốc đều không muốn lựa chọn vị thế đối đầu nhau
trong chừng mực họ không bất khả kháng phải làm như vậy. Hơn nữa như đã nói
trên: Chưa bao giờ nước ta có nhiều đồng minh tự nhiên như hiện nay, cho phép
nước ta đi với cả thế giới để có điều kiện trở thành đối tác chiến lược của cả
Mỹ và Trung Quốc – để bảo vệ tốt nhất lợi ích an ninh và lợi ích phát triển của
nước ta, đồng thời để gánh vác tốt nhất nghĩa vụ quốc tế nhất thiết nước ta
phải dấn thân thực hiện (xin hiểu cho trong thế giới chúng ta đang sống không
có “free lunch”!).
Xin nhắc lại một lần
nữa, lịch sử cận đại của chính nước ta cảnh báo Việt Nam phải tránh bằng được
số phận trở thành trận địa giằng xé, tranh hùng của 2 thế lực lớn này trên thế
giới. Lựa chọn vị thế quốc tế trở thành đối tác chiến lược của cả Mỹ và Trung
Quốc như thế, hầu như chắc chắn nước ta sẽ cùng đi được với cả thế giới trong
xu thế phát triển khách quan của nó – một đòi hỏi không thể thiếu đối với nước
ta trong việc tạo dựng ra thế mạnh cho đất nước. Và rất biện chứng: Cũng chỉ
với thế mạnh này, nước ta mới có điều kiện được cả Mỹ và Trung Quốc thừa nhận
là đối tác chiến lược.
Suy nghĩ như trên, có
thể loại bỏ ý kiến cho rằng sự lựa chọn vị thế quốc tế của nước ta như thế chỉ
là một mong muốn chủ quan, viển vông.
Thậm chí đến đây có thể
khẳng định dứt khoát: Đó là sự lựa chọn chiến lược có ý nghĩa sống còn, nhất
thiết nước ta phải thực hiện bằng được – sống hay là chết!
Muốn trung thành với lập
trường nguyên tắc ta phải là chính ta, của ta, vì ta và vì lẽ phải. Muốn không
là công cụ hay đồn lũy cho bất kỳ ai, muốn không bị một quốc gia nào khuất
phục, cũng như muốn thực hiện triệt để lập trường nguyên tắc của ta là không đi
với một bên để chống một bên, muốn cho mọi quốc gia phải tôn trọng và đối xử
bình đẳng với nước ta.., tất yếu phải chọn cho nước ta vị thế nước ta phải trở
thành đối tác chiến lược của Mỹ và của Trung Quốc.
Tất cả chỉ còn lại câu
hỏi: Làm thế nào để Việt
Nam có thực lực, bản lĩnh và trí tuệ để có thể vươn lên trở thành đối tác chiến
lược của Mỹ, đối tác chiến lược của Trung Quốc? Làm thế nào để được cả Mỹ và
Trung Quốc chấp nhận thừa nhận nước ta là một đối tác chiến lược như thế của
họ?
Xin đừng lúc nào quên
trở thành đối tác chiến lược của Trung Quốc, một quốc gia có quá nhiều vấn đề
đối với nước ta trong lịch sử và trong hiện tại, hoàn toàn không dễ. Song nếu
không muốn là “thần dân”, “thần” quốc của Trung Quốc, nhất thiết nước ta phải
phải vươn lên xây dựng cho mình vị thế đối tác như vậy trong quan hệ với Trung
Quốc. Bởi vì một Việt Nam độc lập tự chủ và là bạn của mọi quốc gia trên thế
giới không có sự lựa chọn nào khác, nhất là bởi vì tư duy đối ngoại của Đại
Trung Hoa không có ý niệm “hòa hiếu”. Hơn bao giờ hết trong suốt chiều dài lịch
sử của dân tộc, bây giờ là lúc trước hết và đầu tiên ta phải là chính ta trong
cái thế giới này thì mới có thể tính đến chuyện thế giới!
Một vị thế quốc tế như
vừa trình bày trên không giành cho một Việt Nam trung lập, ngõ hầu có thể đứng
ngoài tình hình phức tạp và quyết liệt của thế giới hôm nay. Tự Việt Nam không
đủ năng lực giành được cho mình một vị thế trung lập như thế đã đành, các “lực”
trên thế giới giằng xé nhau cũng chẳng để cho Việt Nam yên thân trung lập để có
thể biệt lập dung thân khỏi cái thế giới này. Thế sự cho thấy nghĩ như vậy mới
là viển vông, không tưởng!
Vậy chỉ còn lại câu hỏi:
Có làm được không? Và Việt Nam làm như thế nào để có thể trở thành đối tác
chiến lược của cả Mỹ và Trung Quốc, để cùng đi được với cả thế giới?
Hiển nhiên, trong cuộc
sống không ai muốn chọn anh ăn mày hay kẻ khố rách áo ôm làm đối tác chiến lược
của mình cả; những người có quyền thế trong xã hội của cái thế giới hôm nay lại
càng không làm như vậy.
Cũng hiển nhiên như thế,
một đối tác chiến lược vừa là của Mỹ, vừa là của cả Trung Quốc với tính cách họ
là 2 đối thủ chính của nhau, nước ta không thể theo đuổi và thực hiện một thứ
ngoại giao 2 mặt, ngoại giao nước đôi, ngoại giao đóng kịch, ngoại giao trung
gian, vân vân… Tất cả những thứ mẹo vặt rẻ tiền này không thể qua mặt được Mỹ
và Trung Quốc. Hơn nữa họ cũng không cần những thứ đó, và những thứ đó cũng
không thể là sản phẩm của một đối tác chiến lược được cả Mỹ và Trung Quốc muốn
nhìn nhận.
Vậy chỉ còn một con
đường: Để trở thành một đối tác chiến lược như thế, nước ta phải đủ bản lĩnh và
trí tuệ để trước hết ta phải là chính ta, để từ đó nước ta vừa là một nhân tố
tích cực, vừa đóng góp có thực chất vào những vấn đề song phương, đa phương ở
phạm vi khu vực cũng như ở tầm quốc tế mà cuộc sống đòi hỏi. Nước ta phải dấn
thân để có vai trò mà cả Mỹ và Trung Quốc đều thấy là cần thiết, là có ích, và
đều chấp nhận, nhất là ở khu vực Đông Nam Á này. Song một vai trò, một sự đóng
góp thiết thực và được chấp nhận như thế chỉ có thể là sản phẩm của một quốc
gia có những khả năng giành được vai trò và tạo ra được sự đóng góp ấy – sản
phẩm của một nền ngoại giao có sức sống thực chất trên nền tảng của một quốc
gia có những phẩm chất làm nên nền ngoại giao ấy. Điều này có nghĩa đòi hỏi
nước ta phải phấn đấu vươn lên quyết liệt để trưởng thành về mọi mặt. Hiển
nhiên một đòi hỏi như thế là không thể đối với một quốc gia èo uột, dựa dẫm.
Hỏi: Làm thế nào bây giờ để hễ là người
Việt Nam tất yếu phải thấu hiểu đòi hỏi nói trên của đất nước?
Đáp: Phải làm cho đòi hỏi này trở thành sự nghiệp của toàn thể
dân tộc.
Muốn thế, phải có một
thể chế chính trị nào và một triển vọng phát triển nào của đất nước, để có thể
cổ vũ, khuyến khích từng người Việt Nam dấn thân cho đòi hỏi này của đất nước.
Khỏi phải nói tới trách nhiệm ràng buộc còn hơn cả pháp lý của Đảng Cộng Sản
Việt Nam với tính cách là đảng cầm quyền duy nhất trong hệ thống chính trị nước
ta hiện nay đối với đòi hỏi sống còn này của đất nước. Tôi đã cố trình bầy cặn
kẽ điều này trong bài “Trách nhiệm lịch sử” (tháng 7-2010) khi
góp ý trong quá trình chuẩn bị Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Chắc anh không lạ gì dòng suy nghĩ của tôi, vì trước đó anh cũng đã đọc các bài
“Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21” (3-2010)
và bài “Nỗi lo chệch hướng” (4-2010).
Nếu đặt đòi hỏi, đặt
việc lựa chọn nói trên như thế là cái đích có ý nghĩa sống còn nhất thiết nước
ta phải thực hiện, thực sự nước ta sẽ phải
thay đổi tất cả: thể chế chính trị,
đường lối phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội, trước hết là đường lối giáo
dục và phát triển con người, chính sách đối ngoại; tất cả phải thay đổi theo
các chuẩn mực truyền thống văn hóa và lịch sử vẻ vang của đất nước, phải thay
đổi theo các giá trị đã tích tụ được của văn minh nhân loại ngày nay; tất cả để
trở thành một nước phát triển với 3 trụ cột là kinh tế thị trường, nhà nước
pháp quyền, xã hội dân sự.
Tất cả phải thay đổi với
mục đích làm cho ở nước ta tự do, dân chủ, quyền con người trở thành nguồn lực
vô tận và sáng tạo cho sự thịnh vượng của quốc gia và cho hạnh phúc của dân.
Tất cả phải thay đổi, để
làm cho nước ta trở thành một quốc gia có ảnh hưởng lan tỏa ngày càng rộng rãi
có lợi cho xu thế phát triển vả những tiến bộ của văn minh thế giới.
Không phải chờ đến lúc
nước ta giầu có, mới hy vọng trở thành và được công nhận là một đối tác chiến
lược và có vai trò như thế trên bàn cờ quốc tế. Mà ngay từ bây giờ, ý chí thay
đổi, quyết tâm thực hiện, bản lĩnh quốc gia và bản lĩnh dân tộc, sự lựa chọn
kiên định đi với trào lưu tiến bộ của cả thế giới với tinh thần dấn thân… –
toàn bộ quá trình này tự nó ngay từ bây giờ sẽ làm nên và cổ vũ nước ta trở
thành và được nhìn nhân là một đối tác chiến lược như thế. Indonesia hiện nay
tuy vẫn là một nước nghèo, nhưng đang mang lại một ví dụ đáng học hỏi để chúng
ta phấn đấu vì sự nghiệp này.
Nước ta, muốn hay không,
sau 37 năm phát triển, nay bắt buộc phải chuyển sang một thời kỳ phát triển
mới, nhất thiết phải lấy nội dung sự thay đổi vừa trình bầy trên làm nội dung
phải thực hiện cho thời kỳ phát triển mới này của đất nước. Không phải ngẫu
nhiên trong quá trình chuẩn bị Đại hội XI tôi đã nêu kiến nghị cải cách thể chế
chính trị là tiền đề tất yếu và hàng đầu để thực hiện được những đòi hỏi của
đất nước trong thời kỳ phát triển mới này.
Trong loạt bài viết dưới
cái tựa đề chung là “Viễn tưởng” (4 bài) đã gửi anh đọc, tôi mạo muội trình bầy một số
suy nghĩ có thể tham khảo cho việc tìm kiếm, xây dựng những ý tưởng thực hiện
sự thay đổi này. Tôi hình dung đấy sẽ là một sự thay đổi mang tính đổi đời đất
nước và thân phận mỗi người Việt Nam chúng ta. Toàn bộ sự nghiệp có ý nghĩa
sống còn này đối với đất nước đang ở phía trước, đang chờ đợi ý chí và nghị lực
của từng người dân, của toàn thể dân tộc ta – với nhận thức đúng đắn về cục
diện thế giới, và với sự giác ngộ sâu sắc về lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc.
Hỏi: Trong lựa chọn như thế, nhỡ xảy chân
nghiêng về một bên thì sao? Đã thế, trong nước bây giờ có nhiều ý kiến “pro”
Mỹ?
Đáp: Đúng, xảy chân một bước, hận nghìn thu.
Để xảy ra “nghiêng” về
Trung Quốc, nguy cơ đầu tiên và lớn nhất là dân sẽ ngày càng mất lòng tin và
càng xa lánh Đảng. Xảy ra như thế, sớm muộn sẽ thua ngay trên mặt trận chính
yếu và quyết định tất cả là đối nội; phần thắng sau đó thuộc về Trung Quốc. Để
xảy ra như thế hệ quả sẽ có thể là đến lúc nào đó phải làm lại từ đầu tất cả.
Để xảy ra “nghiêng” về
Mỹ, hầu như chắc chắn Trung Quốc sẽ huy động mọi thứ của quyền lực rắn và quyền
lực mềm nhằm đối phó với cái “nghiêng” này. Hệ quả nhãn tiền là có nguy cơ rơi
vào vết xe cũ với nhiều bài học đau đớn: Nước ta có thể lại trở thành trận địa
giằng xé nhau giữa các thế lực.
Khỏi phải nói, bây giờ
cả lãnh đạo đất nước và toàn dân đều phải có trí tuệ, tỉnh táo và khôn ngoan.
Thật sự đất nước bây giờ đang đòi hỏi phải có sự lãnh đạo trác việt.
Là một đối tác chiến
lược như thế, hoàn toàn không thể là dỹ hòa vi quý, mà phải là dân chủ trong
đối nội, thẳng thắn đối đầu trong đối ngoại khi lợi ích và chủ quyền quốc gia
bị xâm phạm, trong khi nỗ lực tối đa gìn giữ hòa bình. Tất cả những điều này
chẳng liên quan gì đến việc Trung Quốc luôn luôn ép ta “gìn giữ đại cục”. Thậm
chí muốn vô hiệu hóa áp lực “đại cục” như thế của Trung Quốc, nhất thiết nước
ta phải thực hiện những điều này.
Việc phải làm trước tiên
là người dân và tất cả đảng viên phải được thông tin trung thực và đầy đủ, phải
được trang bị mọi hiểu biết cần thiết. Về lâu dài, phải xây dựng bằng được cho
đất nước một nền giáo dục chân chính và hiện đại, để từng người dân giác ngộ
vận mệnh đất nước và có phẩm chất lấy sự giác ngộ này làm ý chí làm người, để
toàn xã hội chỉ thừa nhận sự giác ngộ và ý chí này như một giá trị gốc của đất
nước hôm nay.
Phải làm tất cả mọi
việc, để cả dân tộc chỉ có một ý chí.
Phải làm tất cả để có
thể tập hợp dư luận tiến bộ trên toàn thế giới đứng về phía mình.
Phải tin, dựa vào dân để
làm được tất cả mọi việc phải làm như vậy.
Sợ dân, đánh giá thấp
giác ngộ chính trị của dân, thậm chí chỉ vì cái “sợ” đầy sai trái này thực hiện
bưng bít thông tin và ngu dân.., những việc làm như thế chẳng khác gì tự tay
mình tích tụ mọi khả năng để cuối cùng sẽ dẫn đến tình thế thất bại, đầu
hàng.
Trong cục diện mới hôm
nay của thế giới, đã đến lúc từng người dân nước ta, trước hết là những đảng
viên ĐCSVN, phải hiểu rõ bất kỳ sự chậm trễ nào đều vẫy gọi nguy cơ đen tối từ
khắp nơi. Trong cục diện thế giới mới này kẻ thù nguy hiểm nhất của ta là những
yếu kém của chính ta. Từng người phải khép lại quá khứ của chính mình, để cùng
nhau chiến thắng những yếu kém của chính mình trước đã – bằng cách vượt lên nỗi
sợ của chính mình để chiến thắng, để bắt đầu.
Việt Nam đã độc lập
thống nhất, song trong địa chính trị thế giới hôm nay nếu ta không là chính ta,
nếu nước ta không phấn đấu tự vươn lên trở thành đối tác chiến lược của Mỹ và
Trung Quốc, không phấn đấu vươn lên cùng đi với cả thế giới, ắt phải cam chịu
thân phận là một quốc gia èo uột và bị nô dịch.
Có đáng không?
- ???…
- …
Hết
Khách đến chơi nhà ngày 16-03-2012 - Võng Thị.
[1] Để minh họa, có thể nêu ra một vài ví dụ: (1) Trung Quốc có
quan hệ mật thiết với chính phủ quân sự Myanmar, cung cấp cho chính phủ này
nhiều tỷ USD viện trợ, nhưng đồng thời là người tiếp tế vũ khí – báo chí nói có
các những thiết bị cho đại bác 130 ly, hỏa tiễn phòng không cầm tay… - cho các
lực lượng vũ trang của hàng chục sắc tộc người thiểu số ở Myanmar có khuynh
hướng ly khai và chống lại chính quyền trung ương, thực tế này khiến cho các
cuộc chiến tranh sắc tộc trong lòng Myanmar kéo dài hàng chục năm nay mà vẫn
chưa có khả năng kết thúc, ngoài ra còn có những hợp tác buôn lậu ma túy. Với
hàng vạn lao động thâm nhập vào nội địa Myanmar, TQ đầu tư rất nhiều vào hầm
mỏ, thủy điện, ký trực tiếp với sắc tộc người thiểu số thuê dài hạn 30
năm hàng chục ngàn hecta rừng để lấy gỗ và trồng cao su.., tất cả chỉ với mục
đích vơ vét tài nguyên và năng lượng; gần đây nhất tổng thống dân sự Thein Sein
đã phải hủy hợp đồng ký với Trung Quốc xây đập thủy điện Myitsone 3,6 tỷ USD vì
những hệ quả môi trường không thể cứu vãn được… Có thể nói, sự can thiệp của
Trung Quốc vào Myanmar là nguyên nhân đối ngoại hàng đầu từ nhiều thập kỷ nay
gây mất ổn định và kìm hãm sự phát triển của quốc gia này. (2) Trong
chuyến đi thăm Mỹ tháng 2-2012 của Tập Cận Bình, Obama đã nói thẳng Mỹ không
thể chấp nhận những vi phạm trong thương mại song phương và đa phương của Trung
Quốc và việc Trung Quốc cố ý duy trì tỷ giá đồng Nhân dân tệ như hiện nay để
kiếm lợi không công bằng, yêu cầu phía Trung Quốc phải tuân thủ đầy đủ các quy
chuẩn trong tham gia vào hệ thống kinh tế thế giới… (3) Ngay các nước Việt Nam,
Lào, Campuchia cũng có quá nhiều ví dụ nghiêm trọng và cay đắng nói lên mối
nguy hiểm này… Vân vân…
Tác
giả gửi cho viet-studies ngày 30-3-12
Lời bình về bài viết của anh Nguyễn Trung
Ở một mức độ nào đó cách suy nghĩ cũng
khá giống ý kiến thiết lập VN như một nước trung lập của GS Vũ Quốc Thúc
trên diễn đàn này. Ông Nguyễn Trung cho rằng phải rời bỏ ý thức hệ, giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc, dân chủ, đi cùng với trào lưu tiến bộ của thế giới, và là
đối tác chiến lược của cả TQ lẫn Mỹ.
Tuy nhiên hai cách
nghĩ trên cần phải phát triển sâu.
Ngày xưa, trong
chiến tranh lạnh, Mỹ muốn tìm đồng minh để ngăn chặn TQ. Trong thế chiến lược
ấy, một số nước chọn lựa trung lập: đó có thể là con đường ngoại giao tốt đẹp
nhất. Nhưng họ là những nước độc lập. Rất tiếc lúc đó, VN không thật sự có độc
lập; miền Nam
thì dựa vào Pháp với Mỹ để ngăn chặn cộng sản, còn miền Bắc thì dựa vào TQ và
Liên Xô. Ngày nay không còn hai phe nên cần nhìn vấn đề khác đi.
Còn ông Nguyễn Trung
cho rằng phải chơi với cả hai. Việc ông ấy nêu quan điểm đối tác chiến lược với
cả TQ và Mỹ thì hoặc là hơi xa vời hoặc là phải làm thật rõ mục đích chiến lược
mà VN có thể chia sẻ với cả hai.
Mục đích chiến
lược hiện nay của TQ là vừa lôi kéo vừa ép buộc VN trở thành đồng minh của họ,
dùng sức mạnh quân sự đòi hỏi VN và các nước khác chấp nhận chủ quyền của họ
trên biển Đông, nhằm đẩy Mỹ ra khỏi khu vực (ít ra đây là chiến lược hiện nay
của TQ). Nếu VN chỉ đi với TQ thì rõ ràng là thiệt vì sẽ mất hết các
đồng minh trên thế giới. Với chiến lược này của TQ, VN không thể là đối tác.
Ngược lại, Mỹ chỉ
nhằm giữa ổn định ở khu vực, nhằm bảo vệ lợi ích của Mỹ và đồng minh ở biển
Đông Nam Á và Bắc Á, không để TQ trở thành bá chủ khu vực đe dọa các nước khác.
Lợi ích của VN và các nước Đông Nam Á là rất gần nhau. Vì lợi ích này, VN và
các nước ĐNA cần đền sự hiện diện của Mỹ.
Cho nên, giả dụ
nếu như bị đẩy tới phải làm 1 quyết định duy nhất để tồn tại thì VN phải lựa
chọn đối tác chiến lược là Mỹ.
Nhưng những gì xảy
ra mới đây về phía TQ đã mở ra một hướng mới mà tôi nghĩ chúng ta cần thảo
luận. Đó là ý tưởng chiến lược đoàn kết thành một khối đồng minh giữa các
nước Bắc Á (Nam Hàn và Nhật) và các nước Đông Nam Á nhằm đòi hỏi việc thực hiện
đúng đắn luật biển, để giảm các yếu tố đe dọa chiến tranh. Một
trong các yếu tố có thể đưa đến chiến tranh là việc TQ đòi hỏi quá đáng tư
quyền quốc gia (sovereign rights) đối với hải sản và tài nguyên dưới đáy
biển do yêu cầu quá lố về Vùng Đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa ở cả Bắc Á và
ĐNA.
Điều mới xảy ra nói ở trên là như thế này. Do bị đặt vào thế bị động, bị phê bình làm luật rừng, không tuân theo luật Biển quốc tế, TQ đã phải chính thức tuyên bố năm ngoái (2011) với Ủy ban phân giới Thềm lục địa của LHQ là: các đảo các đá (ở Biển Đông) thuộc TQ và chúng có Vùng Đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa. Với tuyên bố này, TQ có thể làm chủ một vùng biển Đông rộng lớn không kém đường chữ U (chưa ai đo lường rõ, nhưng khoảng cách từ VN tới Hoàng Sa khoảng trên 150 hải lý và tới Trường sa khoảng 300 hải lý, trong khi thềm lục địa có thể kéo dài tời 350 hải lý). Theo nghiên cứu của anh Tài và tôi, các nước có thể đồng minh kiện TQ về yêu cầu này, và có thể cho rằng đá chỉ được 12 hải lý, và không có cái nào đang trong vòng tranh chấp đáng gọi là đảo. (Dù có là đảo thì vì quá nhỏ so với lục địa nên quyền về khai thác tài sản cũng phải bị hạn chế). Vụ kiện như thế liên quan đến giải thích ý nghĩa của Luật Biển là thuộc thẩm quyền của Tòa án luật biển, mà TQ không thể từ chối tham gia. Chỉ cần một nước tranh chấp đưa ra kiện là đủ điều kiện. Không thể kiện yêu sách đường chữ U của TQ với Tòa án Luật biển vì đó là yêu sách liên quan đến chủ quyền (biển lịch sử, không có trong Luật Biển); nó thuộc thẩm quyền của Tòa án Công lý Quốc tế (đòi hỏi sự chấp nhận của tất cả các nước có tranh chấp).
Kiện là nằm trong
mục tiêu chiến lược nhằm giảm thiểu vùng tranh chấp, mở rộng vùng tự do đi lại
của quốc tế, mở rộng vùng đặc quyền kinh tế cho các nước như VN, Phi, v.v. mà
không đi vào việc giải quyết tranh chấp chủ quyền.
Tôi chỉ tóm tắt
vài điểm và đề nghị các bác đọc các tài liệu chúng tôi đã gửi.
Mục tiêu trên có thể tạo được thế đồng minh. Đồng minh này có khả năng rất lớn nếu không nói là chắc chắn được Mỹ và các nước Tây âu ủng hộ. Đồng minh này không loại trừ TQ, nếu như họ cũng muốn cùng ngồi xuống để bàn bạc giải quyết hòa bình và hợp lý vấn đề biển đông.
Mục tiêu trên có
thể đòi hỏi Nhật phải từ bỏ yêu sách quá lố hiện nay về vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa mà họ nắm đối với đảo bé tí là Điếu ngư. Ngược lại TQ cũng phải
bị áp lực từ bỏ yêu sách như trên trong tranh chấp đảo với Nam Hàn.
Chiến lược trên
mang tính tổng diện cả vùng Bắc và Đông Nam Á, nhưng có thể bắt đầu ở vùng Đông
Nam Á trước.
Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét