Những bất lợi lớn trong
các dự án
khai thác bô-xít ở
Tây Nguyên
Tham luận tai hội thảo ngày 09-04-2009 về
chuyên đề bô-xite
do Phó Thủ tướng
Hoàng Trung Hải chủ trì,
(embargo tới
ngày 10-04-2009)
Nguyễn Trung
Trong
bài “Mất và được trong khai thác bô-xít ở Tây
Nguyên”
và bài “Triển vọng khai thác bô-xít ở Tây
Nguyên – Tìm hiểu tại chỗ”[1], tôi đã trình bầy
các khía cạnh “lợi và bất lợi”, “nên hay không nên” trong việc khai thác bô-xít
ở Tây Nguyên qua hai dự án TKV đang triển khai là Nhân Cơ (Đắc Nông) và Tân Rai
(Lâm Đồng) nói riêng và bình luận chương trình tổng thể khai thác Tây Nguyên đến
năm 2025.
Trước tình hình dư luận có nhiều ý
kiến lo lắng và phản đối, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã quyết định tổ chức cuộc
hội thảo hôm nay để tập hợp các ý kiến và đánh giá. Tôi hoan nghênh và đánh giá
cao quyết định đúng đắn này. Xin trình bầy một số vấn đề dưới đây.
Một
là: Hiện nay nước ta chưa hội đủ các điều kiện cho phép khai thác bô-xít ở Tây
Nguyên có lợi cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Đúc kết kinh nghiệm về phát triển công
nghiệp nhôm khắp thế giới cho đến nay, các nhà kinh tế và các nhà khoa học đã
rút ra kết luận chỉ nên khai thác bô-xít khi có những điều kiện sau đây – xếp
theo thứ tự tầm quan trọng:
1.
có nguồn điện dồi dào,
2.
có
nguồn nước dồi dào,
3.
nơi
khai thác có vị trí hoang vắng (xa khu dân cư hay vùng kinh tế) và địa thế
thích hợp (thấp, trong thung lũng, không phải vùng đầu nguồn các sông suối...) thuận
lợi cho giải quyết thỏa đáng vấn đề bảo vệ môi trường (nước thải và bùn đỏ nhiễm
hóa chất...),
4.
có
khả năng giảm xuống mức thấp nhất chi phí vận tải,
5.
có
trữ lượng bauxite dồi dào với hàm lượng cho phép đạt chuẩn 4/2/1 (4 tấn quặng
làm ra 2 tấn alumina rồi từ đó ra 1 tấn nhôm để có khả năng cạnh tranh trên thị
trường),
6.
có
nguồn lao động rẻ hoặc được cơ giới hóa cao độ khâu khai thác.
Ngoài ra thực tế
công nghiệp nhôm hiện nay trên thế giới còn cho thấy phần lớn các nước phát triển
(Nhật, Tây Âu...) từ hai thập kỷ nay đã liên tục giảm hoặc có nước phải bỏ hẳn
công nghiệp điện phân nhôm, vì lý do môi trường và năng lượng (tốn quá nhiều điện).
Tây Nguyên chỉ
có 2 điều kiện cuối cùng và cũng là 2 điều kiện thấp nhất trong 6 điều kiện cần
phải có cho việc khai thác bô-xít trong thời đại kinh tế toàn cầu hóa ngày nay,
đó là (a)nguồn tài nguyên dồi dào và (b)lao động giá rẻ.
Do thiếu 4 điều
kiện đầu (từ số 1 đến số 4), nên giá thành sản phẩm alumina hoặc nhôm ở Tây
Nguyên sẽ rất cao. Vấn đề xử lý ô nhiễm môi trường rất tốn kém, hoặc thậm chí
không khả thi trong những điều kiện nhất định (quy mô khai thác, tình hình thời
tiết...). Nếu cũng với nguồn vốn như vậy bỏ ra thay vì cho khai thác bô-xít ở
Tây Nguyên, đem đầu tư cho phát triển một Tây Nguyên xanh, chắc chắn lợi ích
các mặt kinh tế, xã hội, văn hóa... sẽ lớn
hơn nhiều.
Việc triển khai sản
xuất khoảng 1,2 triệu tấn alumina/năm, rồi sẽ nâng lên khoảng 6 – 8 triệu tấn/năm
trong tình hình chỉ có 2 điều kiện cuối cùng trong 6 điều kiện phải có, và được tiến hành theo cách vừa khai thác vừa
tìm các giải pháp cho nhiều vấn đề còn tồn tại thuộc các điều kiện chưa có hoặc
không có – được đánh số từ 1 – 4 như vừa nêu trên. Việc xây dựng 2 nhà máy sản
xuất tinh quặng alumina Nhân Cơ và Tân
Rai đã được triển khai từ gần một năm nay (hoàn tất việc ký hợp đồng,
san mặt bằng...), nhưng bây giờ vẫn còn đang tính và đang tìm các phương án xử
lý các vấn đề thuộc kết cấu hạ tầng (giao thông vẫn tải, điện, nước...); còn nhiều
vấn đề kinh tế cực kỳ hệ trọng vẫn còn để ngỏ: Có sản xuất nhôm không? Nếu “có”, lấy điện ở đâu? có phải là tối ưu
không? Nếu “không”, làm ra alumina sẽ chỉ để xuất khẩu trong tình hình phát triển
của nước ta và trong tình hình kinh tế thế giới sau cuộc khủng hoảng toàn cầu
hiện nay là nên hay không nên? Ngoài khai thác bô-xít để bán tinh quặng, còn sự
lựa chọn nào khác cho phát triển năng động và bền vững của Tây Nguyên nói riêng
và của cả nước nói chung hay không? Toàn bộ vấn đề khai thác bô-xít như vậy
thúc đẩy hay kìm hãm chiến lược công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước theo hướng phát triển bền vững? Nước ta sẽ
tiến lên, hay tụt hậu thêm, sẽ giữ được ổn định hay tiềm ẩn thêm những nguy cơ
đe dọa mới đối với an ninh quốc phòng do việc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên? Vân
vân...
Hai là: 2 dự án Nhân Cơ và Tân Rai (và
nói chung là chương trình khai thác bô-xít Tây Nguyên) được tiến hành với một
quy trình lộn ngược, có thể “rẻ biến thành đắt”, với những hiểm họa lớn cho Tây
Nguyên và cho các vùng chung quanh, có nguy cơ đẩy đất nước đi sâu vào một chiến
lược kinh tế sai lầm.
Việc
triển khai 2 dự án Nhân Cơ và Tân Rai trong điều kiện chưa nghiên cứu xong,
chưa chuẩn bị xong các điều kiện kết cấu hạ tầng và chưa tính toán thỏa đáng vấn
đề “đầu ra” (output), có thể ví đấy là quy trình: xây cái nhà trước khi có thiết kế
móng và xây móng. Trong khi
đó TKV còn dự định triển khai thêm 03 nhà máy nữa ở Đăk Nông và một số nhà máy
nữa ở Gia Lai và Bình Phước...
Hãy tính toán: Để sản
xuất alumina với khối lượng từ 5 – 6 triệu tấn/năm trở lên sẽ rất khó khăn
trong việc cân đối nguồn nước và xử lý chất thải. Để sản xuất nhôm thì thiếu
nguồn điện, chỉ sản xuất ra tinh quặng alumina thì hiệu quả kinh tế rất thấp,
thậm chí lỗ. Nếu là alumina thì hầu như chỉ có một khả năng duy nhất là bán cho
Trung Quốc, sẽ tạo ra sự lệ thuộc nguy hiểm; bởi vì trong vùng Đông Á và Đông
Nam Á ngoài Trung Quốc không nước nào nhập alumina, đi xa nữa bauxite của ta
không chịu nổi cước phí vận tải và khó cạnh tranh, nên hầu như cũng không có
người mua.
Như mọi người đều
biết, toàn bộ các vấn đề nước, điện, giao thông vận tải cần thiết cho hai dự án
làm alumina đã bắt đầu triển khai trước mắt chủ yếu dựa trên những điều kiện có
sẵn, hoặc là vừa làm vừa tính toán tiếp (vì còn đang lựa chọn, chưa ngã ngũ một
phương án nhất định nào).
Dưới đây xin nêu
lên từng vấn đề để xem xét:
Về vận tải: Hai dự án Tân
Rai và Nhân Cơ tuy đã triển khai (ký kết xong hợp đồng, san mặt bằng, đang đảy
xúc tiến đền bù giải tỏa nơi khai mỏ...) nhưng đến nay vẫn chưa có lời giải dứt
khoát cho vấn đề giao thông vận tải, bao gồm nguyên vật liệu các loại cho quá
trình chưng tách quặng (là than, hóa chất...) và cho sản phẩm alumina
làm ra. Hơn nữa than, hóa chất, alumina... đòi hỏi phải có các phương tiện vận
tải chuyên dụng khác nhau, trên một chiều dài khoảng 250 - 300km đường núi, đi ngược chiều nhau, nghĩa là lượt lên
núi có hàng (than, hóa chất...), lượt xuống núi không tải; hoặc ngược lại: lượt
xuống núi có hàng (alumina), lượt trở lại núi là không tải; hệ quả sẽ rất tốn
kém (tiến sỹ Nguyễn Văn Ban).
-
Theo
chương trình của TKV, trong một vài năm đầu tiên, sẽ phải vận chuyển cho cả hai
chiều một khối lượng tổng cộng là 3 - 5
triệu tấn/năm, sau đó tăng dần lên khoảng 10 - 15 triệu tấn/năm vào khoảng
2015, tăng dần đến năm 2025 sẽ lên tới khoảng trên 30 triệu tấn/năm hoặc hơn nữa.
Đi bằng đường nào?
Có thể hình dung kịch bản: Theo chương trình của TKV, khoảng năm
2011 – 2015 sản xuất alumina sẽ hoàn thành giai đoạn I với công xuất khoảng 6 –
8 triệu tấn/năm, tổng khối lượng vận tải cả hai chiều đi và về từ nhà máy đến cảng
phải thực hiện ước tính sẽ khoảng 15 – 16 triệu tấn/năm. Song nếu có tiền và
quyết tâm xây dựng đường xá bến cảng trong điều kiện của ta hiện nay, thì cũng
phải vào năm 2020 mới thực hiện được khối lượng đường xá này. Có câu hỏi: Làm
gì với 5 hay 6 năm vênh nhau này?
-
Hiện
nay còn đang tính xem sẽ là đường sắt, đường bộ, hay là đường ống? Đã có dự kiến sẽ làm đường sắt. Song với độ cao 800m,
cự ly ngắn, địa thế núi non hiểm trở.., con đường sắt này phải thiết kế như thế
nào? Khảo sát và xây dựng bao giờ xong?.. Nếu là đường chuyên dụng thì rất tốn
kém; nếu là kết hợp với kinh tế dân sinh cũng rất phi kinh tế vì đường sắt sẽ
chỉ đi qua những nơi hoang vắng dân cư và phải kéo dài thêm nhiều. Dự trù của
TKV cho đường sắt là 1,3 tỷ USD, nhưng thực tế có thể lên tới 3 tỷ USD, cho đến
nay tất cả các đối tác nước ngoài muốn khai thác bô-xít đều từ chối hạng mục
này trong đầu tư vào alumina Tây Nguyên, nói đây là nhiệm vụ của nước chủ nhà. Như
vậy chỉ còn cách nhà nước bỏ tiền ngân sách hoặc đi vay để đầu tư vào giải quyết
những vấn đề này nhằm phục vụ các dự án bô-xít? Đường sắt làm nhanh cũng phải 5
– 7 năm!
-
Các
hệ thống đường bộ hiện có ở vùng này hoàn toàn không có khả năng cáng đáng thêm
lưu lượng vận tải (đi và về) cho sản xuất alumina này – dù chỉ là trong một thời
gian ngắn.
-
Đến
nay cũng chưa có cảng để xuất khẩu (địa điểm dự định là cảng Kê Gà, nhưng đang
có nhiều vấn đề gây tranh cãi, trước hết vì tác động vào du lịch miền Trung).
-
Trước
tình hình có nhiều ý kiến lo lắng về vận tải, nguồn nước và môi trường nếu sản
xuất alumina ở Tây Nguyên, có ý kiến đề xuất làm đường ống đưa bô-xít xuống núi
và đặt nhà máy chưng tách tại Bình Thuận, tống thải bùn đỏ ra vùng gần biển.
Song đây mới chỉ là một ý tưởng, chưa hề có sự nghiên cứu, khảo sát chi tiết và
sự chuẩn bị nào.
-
Vân
vân...
Xin lưu ý: Nước ta nghèo, đất chật người đông,
không cho phép lấy đâu ra vốn và đất đai xây dựng một hệ thống đường sắt hay đường
bộ chuyên dụng chỉ để phục vụ cho một mục đích duy nhất là đào bô-xít chưng
tách thành quặng sơ chế alumina đem đi bán cho nước ngoài. Trong tình hình đường
xá như hiện nay, chỉ riêng tính đủ chi phí vận tải – bao gồm cả chi phí duy tu
đường xá, hạch toán giá thành sản phẩm theo giá FOB (giá tại cảng) chắc chắn sẽ
cao hơn giá thị trường thế giới rất nhiều[2].
Về công
nghệ:
Hiện nay, nhà máy đầu tiên ở Bảo Lâm, Lâm Đồng đã được khởi công xây dựng. Tập
đoàn CHALIECO (Trung Quốc) đã trúng thầu gói thầu và ký hợp đồng chìa khóa trao
tay (EPC – Enginering - Procurement – Construction) xây dựng nhà máy với giá trị
466 triệu USD, đã bắt đầu trao tiền. Nhà máy còn lại ở Đăk Nông hợp đồng EPC ký
với CHALECO làm nhà máy chưng tách alumina ở Nhân Cơ đã được phê duyệt. Như thế, cả hai nhà máy alumina đầu tiên ở Việt
Nam
đều do Trung Quốc trúng thầu và sử dụng công nghệ Trung Quốc.
-
Chúng
ta đã có quá nhiều bài học với công nghệ của Trung Quốc trong các công trình đầu
tư vào Việt Nam (các nhà máy mía đường, xi-măng lò đứng, đồng Sinh Quyền,
chrome Cổ Định, các nhà máy điện...). Song các bản thuyết trình của Tập đoàn Than & khoáng sản Việt Nam (TKV)
lại luôn luôn giải trình là sẽ áp dụng công nghệ tiên tiên nhất trên thế giới.
Vậy sự thật 2 dự án này sẽ áp dụng công nghệ nào? Có ý kiến của giới chuyên môn lưu ý chúng ta:
Trung Quốc không phải là nước có công nghệ nguồn trong sản xuất alumina và luyện
nhôm. Hơn nữa, cho đến nay công nghệ trong các nhà máy sản xuất alumina của
Trung Quốc là dùng để chế biến quặng bauxite diaspo (hydrat đơn hay quặng 1 nước)
- giống như nhà máy ở Bình Quả thuộc tỉnh Quảng Tây (nơi gần đây Bộ Công Thương
và tập đoàn TKV vừa tổ chức tham quan cho đại diện các ban ngành Trung Ương).
Trong khi đó, bauxite ở Tây Nguyên là quặng bauxite gipsit (hydrat 3 hay quặng
3 nước), đòi hỏi sự khác biệt về công nghệ; vậy công nghệ của hai nhà máy Tân
Rai và Nhân Cơ thích ứng cho loại quặng nào? Vấn đề này liên quan đến chất lượng
sản phẩm và giá thành.
Một vấn đề đáng tiếc khác là TKV ký hợp đồng dưới dạng
chìa khóa trao tay (EPC), loại bỏ ngay từ đầu khả năng của ta lựa chọn công nghệ
và thiết bị; phải mua các thứ nhập của Trung Quốc từ A – Z cho việc xây dựng và
lắp ráp hoàn chỉnh nhà máy, trong khi đó có nhiều thứ nước ta có thể cung cấp –
từ nguyên vật liệu, những thiết bị nhất định, nhân lực...; phải để cho Trung Quốc
đưa một khối lượng lớn công nhân xây dựng và láp ráp Trung Quốc vào Tây Nguyên
(TKV cho biết khoảng 1500 công nhân TQ cho việc xây dựng và lắp ráp một nhà
máy) mà phía ta hoàn toàn có khả năng cung cấp, ngọai trừ một số rất ít các
chuyên gia và kỹ thuật viên chuyên về alumina ta có thể chưa có. Việc tuyển dụng
một số lớn lao động nước ngoài như đang diễn ra ở Tân Rai vi phạm nhiều điều
khoản trong Nghị định số [3]
-
Cần
lưu ý sau 25 năm phát triển đất nước trong đổi mới và thu hút FDI, ngày nay đã
qua rồi thời kỳ Việt Nam phải mua nhà máy kiểu chìa khóa trao tay (EPC) với nhiều
thua thiệt và bị động nhiều mặt như 2 hợp đồng TKV đã ký với CHALIECO. Ngày nay
trình độ phát triển mọi mặt của đất nước – kể cả về nhân lực, tài chính và kỹ
thuật chuyên môn, công nghệ, năng lực quản lý, khả năng cung ứng trong nước...
– Việt Nam hoàn toàn có đủ khả năng xây dựng hai nhà máy alumina Nhân Cơ và Tân
Rai dưới dạng hợp đồng liên doanh (EPCM), qua đó giành được nhiều điểm nước chủ
nhà nhất thiết phải nắm lấy.
Về môi trường: Vấn đề bùn đỏ
là vấn đề môi trường cần được quan tâm trong quá trình sản xuất alumina. Cách thức phổ biến về xử lý bùn đỏ trên thế giới là
xây hồ chứa hoặc chôn cất bùn đỏ ở nơi hoang vắng, xa các vùng đầu nguồn các
sông suối và các mạch nước ngầm.., nơi bằng phẳng, không trôi dạt đi nơi khác, nền
hồ không bị thẩm thấu, không bị phong hóa qua thời gian...
-
Trong
phòng thí nghiệm, về mặt khoa học kỹ thuật thuần túy, công nghệ hiện đại ngày
nay trên thế giới về cơ bản có thể xử lý các vấn đề bùn đỏ và nước bùn đỏ nhiễm
hóa chất trong quá trình sản xuất alumina. Tuy nhiên trong ứng dụng, tại nhiều
nước vẫn còn phát sinh nhiều vấn đề mới chưa có các biện pháp xử lý thỏa đáng
(tại Úc và Mỹ đã xẩy ra một số trường hợp phải đình chỉ tạm thời một số công
nghệ xử lý môi trường đang ứng dụng để nghiên cứu tiếp).
-
Cho
đến nay ở nước ta chưa có nghiên cứu nào của giới khoa học đánh giá mọi mặt và
khuyến nghị nên lựa chọn công nghệ hiện đại nào hiện có trên thế giới là phù hợp
với điều kiện địa lý tự hiên và khí hậu ở Tây Nguyên, chi phí như thế
nào? tác động vào giá thành ra sao? vân vân... Chỉ riêng vấn đề hồ chứa
chất thải là bùn đỏ nhiễm hóa chất ở Tây Nguyên sẽ rất khác so với nhiều nước
trên thế giới: hồ ở trên cao, vùng đất có độ dốc lớn, đất có độ thẩm thấu
cao, nơi đầu nguồn các sông suối quan trọng và nhiều mạch nước ngầm, thời tiết khắc
nghiệt, bản thân Tây Nguyên hiện nay đã là vùng đông dân cư và đồng thời tiếp
giáp với nhiều vùng dân cư lớn khác ở Đông Nam Bộ và Trung Bộ, vân vân... Tất cả
dẫn đến hệ quả là hồ chứa chất thải bùn đỏ nhiễm hóa chất ở Tây Nguyên khó xử
lý hơn và đắt hơn, tiềm tàng nhiều mối nguy lớn nhất là kể từ thời kỳ hậu
khai thác (vì bùn đỏ nhiễm hóa chất tồn lại mãi mãi trong hồ). Nhà nước ta
chật vật mãi vẫn xử lý chưa xong vụ Vedan, vậy có nên tự mình cho phép thai
nghén một vụ Vedan mới khổng lồ và nguy hiểm hơn nhiều lần đối với toàn bộ vùng
hạ lưu sông Đồng Nai và miền Đông Nam Bộ hay không?
-
Ngoài
ra còn nhiều vấn đề khác đặc biệt khó xử lý ở Tây Nguyên, như bụi đỏ, nước bùn
đỏ lúc rửa quặng vùng gió nhiều và rất thiếu nước trong 6 tháng mùa khô, vân...
vân...
-
Xin
đặc biệt lưu ý: Những hiểm họa về môi trường tự nhiên cho dù xem xét trên
phương diện công nghệ và khoa học kỹ thuật là có thể khống chế được, song rất tốn
kém và cũng sẽ chồng chất thêm những gánh nặng mới về kinh tế, cuối cùng sẽ là
tăng thêm sự thua lỗ. Hơn nữa kiểm soát vấn đề môi trường còn phụ thuộc rất nhiều
về khả năng quản lý, khả năng thực thi luật pháp - nhất là trong thời kỳ hậu
khai thác. Riêng vấn đề xói mòn tại vùng cao Tây Nguyên do lớp vỏ cứng là
bô-xít bị bóc đi, lại là nơi có mưa gió rất khắc nghiệt, nên sẽ để gây ra hệ quả
khôn lường, không tính toán hết được (giáo sư Nguyễn Đình Hòe).
Về hoàn thổ: Hàng nghìn
hecta rừng và đất trồng trọt tiêu, chè, cà-phê, điều... bị bóc đi sẽ không dễ
dàng phục hồi như TKV giải trình. Ở nước ta, ngoài kinh nghiệm hoàn thổ thất bại
tại những nơi khai thác than tại Quảng Ninh, kinh nghiệm ở Úc, Mỹ cho thấy việc
hoàn thổ các mỏ bô-xit nếu làm tốt cũng phải mất 20 năm mới có thể tạo thành đất
trồng trọt, song chủ yếu cũng sẽ chỉ thích hợp cho loại cây làm nguyên liệu,
không thích hợp cho các loại cây làm ra thực phẩm - vì đất mới hoàn thổ nhiễm
nhiều khoáng chất mới độc hại con người không thể hấp thụ được.
-
Cần
lưu ý, trữ lượng bô-xít ở Tây Nguyên được đánh giá là lớn, song hàm lượng quặng
là loại trung bình hay trung bình thấp (khoảng 0,4 đến 0,5; trong khi đó ở Úc
và nhiều nơi khác là 0,6). Vỉa quặng ở Tây Nguyên nhìn chung mỏng, nhiều khi
phân bổ không tập trung theo kiểu da báo, các tài liệu của TKV thừa nhận: ở Tây
Nguyên để có được một lượng bô-xít tương đương thì diện tích lớp đất trầm tích
trên bề mặt phải bóc đi để khai mỏ sẽ lớn gấp 3 đến 4 lần, thậm chí nhiều chỗ
là 5 lần so với khai thác bô-xít ở Úc, Brasil. Điều này có nghĩa diện tích lớp
đất bề mặt phải bóc đi và sau đó phải hoàn
thổ đều tăng lên ít nhất gấp 3 – 4 lần so với các nước nói trên, do đó mức tàn
phá môi trường tự nhiên sẽ lớn hơn nhiều, cảnh quan bị hủy hoại nặng vì sự phân
bổ quặng theo kiểu da báo; giá thành và những tác động ngoại vi (externalities)
cũng sẽ tăng lên nhiều.
-
Ngoài
ra nhiều nhà khoa học trên thế giới đã cảnh báo những nguy cơ thường xảy ra ở những vùng đất đã hoàn thổ
sau khi khai thác quặng: xuất hiện những cây lạ khó diệt (ví dụ: nhóm cây
mimosa pigra rất độc), nguy cơ sạt lở đất... (giáo sư Nguyễn Đình Hòe).
Về điện: Điện phân để có
được 1 tấn nhôm từ alumina cần tiêu thụ khoảng 14.500 đến 15.500 kwh (tương
đương với lượng điện của một hộ gia đình bình thường ở nước ta tiêu thụ ở mức
100 kwh/tháng trong 15 năm!). Nói thô thiển, cứ sản xuất (điện phân) 100 nghìn
tấn nhôm/năm, cần phải có một nhà máy điện với công suất là 300 - 350 Mw - tương
đương với nhà máy thủy điện Trị An. Ngoài
ra phải đầu tư cho nhà máy điện phân nhôm, ước tính 4500 – 5500 USD/tấn công suất.
Giả định rằng muốn trở thành một quốc gia xuất khẩu nhôm, tối thiểu nước ta phải
làm ra khoảng 0,5 triệu tấn nhôm/năm, nghĩa là cần phải có thêm một lượng điện
tương đương với 5 nhà máy thủy điện Trị An cộng lại và phải đầu tư thêm 2,5 tỷ
USD cho nhà máy điện phân nhôm. Lấy đâu ra nguồn lực này? Song nếu làm được
thì cũng phải vào khoảng 2020 – 2025 mới có nhôm, không thể sớm hơn được; mà
như vậy thì chỉ vừa đủ đáp ứng nhu cầu trong nước vào thời gian đó (hiện nay nước
ta tiêu thụ khoảng 100 – 150 nghìn tấn nhôm/năm); trong khi đó thế giới hiện
nay sản xuất khoảng 70 - 90 triệu tấn/năm, thị trường dư thừa, ta có thể nhập dễ
dàng. Vậy có nên làm nhôm để tự túc một cách tốn kém như vậy không? Làm nhôm để xuất khẩu càng lực bất tòng tâm.
-
Hiện
nay nước ta đang thiếu điện và ngày càng thiếu trầm trọng, đang phải tính đến tăng
giá điện và nhập điện. Trong tương lai rất gần sẽ phải nhập than và dầu, đã phải
tính đến điện từ năng lượng hạt nhân. Trong tình hình như vậy, dành điện cho điện
phân nhôm ở nước ta là phi kinh tế và không khả thi, chí ít là cho đến năm
2025. Điều này cũng có nghĩa từ nay đến năm 2025 Tây Nguyên chỉ có thể sản xuất
được alumina mà thôi. Quyết định khai thác bô-xít ở quy mô lớn mà cuối cùng chỉ
là để bán alumina sẽ gần giống như tự sát. Có nên không?
-
TKV
giải trình sẽ xúc tiến thủy điện Đồng Nai 5 với công suất 300 MW. Song nhà máy
thủy điện (dự kiến) Đồng Nai 5 còn thiếu những tính toán cân đối nguồn nước,
quy hoạch, thiết kế và vốn. Trên thực tế nhà máy thủy điện Đồng Nai 5 đã được
Chính phủ giao cho TKV cách đây nhiều năm, nhưng cho đến nay vẫn chưa khởi công
được. TKV nói dự kiến sẽ xây thêm 3 nhà máy nhiệt điện (để tạo ra hơi nóng, phục
vụ sản xuất alumina) với công suất 30MW/1 nhà máy. Giả thiết là làm được tất cả
4 nhà máy điện này, cũng chỉ đủ điện phân khoảng 80.000 tấn / năm, hiệu quả
kinh tế sẽ rất thấp, nếu như không muốn nói là lỗ. Bây giờ mới dự kiến? Đấy là
chưa nói đến việc nếu có thêm điện thì dùng làm gì trong nền kinh tế đang đói
điện của nước ta là có lợi nhất![4]
-
Một
bài toán kinh tế khác: Để có thể cạnh tranh, TKV thừa nhận giá điện dành cho điện
phân nhôm không được quá 4 – 4,5 cent USD/1kwh, ở nhiều nước sản xuất nhôm với
giá điện chỉ là 3,5 cent USD/1kwh; thế nhưng giá điện ở nước ta hiện nay là 6 -
7 cent USD và dự kiến sẽ tăng nữa, như vậy ở nước ta nếu làm điện phân nhôm thì
mỗi tấn nhôm sẽ phải bù lỗ trung bình
300 - 350 USD riêng cho điện, có nên không? Xin lưu ý: Xuất khẩu nhôm trên thực
tế là xuất khẩu điện. Ngày nay ngoài Mỹ và Trung Quốc là hai nền kinh tế lớn
với nhiều đặc thù không đâu có, trên thế giới hầu như không còn quốc gia nào nhập
năng lượng mà lại dám sản xuất nhôm.
Nước: Để sản xuất 1 tấn alumina thời kỳ đầu cần khoảng
30m3/1 tấn alumina,
khi có thể sử dụng lại nước tuần hoàn cần bổ sung thêm 12m3/1 tấn alumina. Vài
năm đầu tiên hai dự án Tân Rai và Nhân
Cơ dự kiến đạt tổng sản lượng khoảng 1,2
triệu tấn alumina/năm, cần phải có khoảng 24 triệu m3 nước/năm. Đến năm 2015 dự
kiến tăng công suất lên gấp đôi, và cùng với các nhà máy khác sẽ được xây dựng
trên Tây Nguyên nhằm đạt công suất khoảng 6 đến 8 triệu tấn alumina/ năm, nghĩa
là cũng cần phải có một lượng nước khoảng 160 triệu m3/năm, lấy ở đâu?
-
Thế
nhưng việc cân đối nguồn nước ở Tây Nguyên cho việc sản xuất 6 – 8 triệu tấn
alumina/năm hiện nay là nan giải, rất tốn kém, khó khả thi. Chính vì nguồn nước mặt ở Tây Nguyên rất khan
hiếm, trồng trọt ngày càng phụ thuộc vào nước ngầm. Việc khai thác nước ngầm ở
Tây Nguyên hiện nay đã tới mức báo động, nhiều nơi mực nước ngầm đã hạ thấp khoảng
5 – 13m so với thập kỷ trước). Tây Nguyên rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng
nan: lấy nước cho alumina thì lại mất nước
cho thủy điện và cho trồng trọt, hoặc ngược lại dành nước cho thủy điện và trồng
trọt thì lại không có hay rất thiếu nước cho alumina. Quy mô sản xuất alumia
càng lớn, tình trạng thiếu nước sẽ càng gay gắt. Nước cần cho 16 – 18 triệu tấn
alumina/năm hầu như không cân dối được nguồn.
-
...
-
Vân vân...
Có
thể nói trong hầu hết mọi vấn đề – từ công nghệ đến môi trường, đền bù và sử dụng
đất đai, vấn đề hoàn thổ, điện, nước, hệ thống xử lý chất thải, hệ thống giao
thông vận tải, vân vân.., trên thực tế cho đến nay là vẫn còn quá nhiều vấn
đề để ngỏ, nghĩa là chưa có tính toán chi tiết và kết luận rõ ràng, chưa có
sự lựa chọn nào dứt khoát với những quyết định cụ thể, còn nhiều vấn đề thiếu
các luận chứng kinh tế, kỹ thuật khả thi và được phê duyệt bởi các cơ quan
chuyên môn có năng lực.
TKV dự kiến vào
khoảng năm 2015 Tây Nguyên có thể sản xuất ra 6 – 8 triệu tấn alumina/năm để xuất
khẩu, và thị trường thế giới cho thấy chỉ có thể đem bán được cho một đối tác
duy nhất là Trung Quốc. Làm như vậy, câu chuyện sẽ chẳng khác gì mua dây thắt
thòng lọng rồi nhờ người đặt vào cổ mình.
Xin đừng quên những bài học trong những năm trước và ngay hiện nay: cao su, hoa quả
và nhiều hàng hóa khác của ta xếp hàng nằm thối, mốc ở biên giới Việt – Trung
không xuất sang được Trung Quốc, cuối cùng phải hủy bỏ, vì phía Trung Quốc gây
sức ép khi thấy cần thiết.
Chú
ý: Giải trình của ban Nhôm của TKV tháng 2-2009 với Hội
đồng quản trị Tập đoàn TKV đã lưu
ý: Nếu sản phẩm alumina của dự án nhà máy Nhân Cơ không bán được với giá 310
USD/tấn thì sẽ lỗ. Song hiện nay trong quý I/2009 giá
alumina ở thị trường Úc trong dao động ở mức dưới 300 USD/tấn, giá thị trường
thế giới hiện nay là 280 USD/tấn (giá fob).
Đề nghị các
chuyên gia kinh tế hãy thử dựa vào tình hình dao động giá cả alumina trên thị
trường thế giới đang diễn ra và dự báo cho những năm tới để làm một vài con
tính tổng quát đánh giá xem nên hay không
nên khai thác bauxite ở Tây Nguyên?
Thuyết trình của
TKV cho rằng tỷ lệ hoàn vốn nội tai (IRR) của alumina ở Tây Nguyên khoảng 10,4
- 11%. Song cách hạch toán này là chính xác? Đã tính đủ toàn
bộ chi phí đầu tư các hạng mục thuộc các vấn đề nước, điện, giao thông vận tải từ khu mỏ cho đến cảng biển, các chi phí
khác cho môi trường và cho những tác động ngoại vi hiển thị (lộ ra rõ ràng, thấy
được) và không hiển thị (tiềm ẩn, không thấy được) (explicit and implicit externalities)..?
Không thể không
đặt ra vấn đề so sánh: Nếu đem toàn bộ các nguồn lực chi cho khai thác bô-xít
Tây Nguyên vào việc phát triển Tây Nguyên theo một hướng khác, ví dụ một Tây
Nguyên xanh, lợi hại sẽ ra sao? Rất cần một đánh giá toàn diện như vậy theo
phương thức “cost-benefit analysis” cho hai dự án bô-xít này nói riêng, bao gồm
cả phân tích chi tiết về tài chính mà nền
kinh tế của cả nước phải gánh chịu để có được alumina cập bến xuất khẩu, và cho
toàn bộ chương trình khai thác bô-xít Tây Nguyên 2010-2025 nói chung.
Xin
thử hình dung: Giả thiết rằng trong 5 năm đầu tiên (vào khoảng
năm 2015) Tây Nguyên xuất khẩu trung bình được 3 - 4 triệu tấn alumina/năm, sẽ
thu được khoảng 1 – 1,2 tỷ USD/năm; nghĩa là với lượng vốn đầu tư rất lớn, chiếm
dụng đất đai rất lớn, gây ô nhiễm môi trường nặng nề và tác động nghiêm trọng đến
nhiều vùng lân cận, tạo ra ít việc làm, cái giá phải trả cho các vấn đề môi trường
xã hội và an ninh quốc gia rất cao, cũng chỉ có thể đạt được bằng kim ngạch xuất khẩu cao su hiện nay (1
-1,2 tỷ USD/năm). Nếu vào khoảng 2016 – 2025 muốn đưa sản xuất alumina lên khoảng 12 - 18 triệu tấn/năm như TKV dự kiến thì lại
thiếu nước, điện, năng lực vận tải.., và vì thế khó khả thi! Đấy là chưa tính đến
những thiệt hại kinh tế khác do lại thêm hàng nghìn ha vườn cây các loại và rừng
bị bóc đi cùng với số việc làm bị mất theo, như vậy đã cầm chắc trong tay “lỗ
đơn”, “lỗ kép”! Tác động của khai thác bauxite vào các ngành kinh tế khác như
du lịch, các sản phẩm nông nghiệp khác... ở ngay Tây Nguyên và trong các vùng
chung quanh. Nghiên cứu theo hướng này, chắc chắn các chuyên gia kinh tế và các
nhà khoa học còn có thể đưa ra nhiều bài toán cảnh báo khắc nghiệt khác.
Có thể nói công
nghiệp bô-xít – alumina ở Tây Nguyên như đang triển khai rất nhậy cảm trên nhiều
phương diện, có nguy cơ đẻ ra nhiều hệ quả xấu và nguy hiểm cho quốc gia, nhưng
cách làm rất vội vã, theo một quy trình lộn ngược, thiếu những khảo sát, điều tra, tính toán vỹ mô đủ
tin cậy. Mặt khác, vì còn quá nhiều hạng mục kết cấu hạ tầng cho hai dự án
alumina đang triển khai mới chỉ là dự kiến, vừa làm vừa tính tiếp, nên rất dễ xảy
ra những bất cập ngay trong quá trình sản xuất và dễ dẫn đến những thua lỗ, đổ
vỡ, tốn kém lẽ ra không đáng có (do những mất cân đối giữa các khâu đầu vào đầu
ra, tiến độ xây dựng các hạng mục lệch pha...), nhất là trong tình hình nước ta
hiện nay có không ít công trình xây dựng kéo dài hay là dở dang “xuyên thế kỷ”.
Giải
trình của TKV cam kết đầu tư khai thác bauxite ở Tây Nguyên sẽ gắn với trách
nhiệm phát triển kinh tế bền vững, xóa đói giảm nghèo, trí thức hóa cộng đồng
dân tộc tại chỗ... (Đoàn Văn Kiển, tại Hội nghị báo cáo viên các tỉnh và thành phố
trực thuộc Trung ương ngày 25-12-2008, TPHCM, do Ban Tuyên giáo TƯ tổ
chức). Thực tế ở nước ta cho thấy cho đến nay hầu như chưa có một khu mỏ hay
khu công nghiệp chế biến khoáng sản nào trong cả nước có thể làm được 3 nhiệm vụ
này, dù chỉ là một phần nhỏ. Vấn đề nước ngầm bị ô nhiễm nặng nề và các bãi thải như núi tại nhiều
nơi khai thác than ở Quảng Ninh cho đến nay chưa có cách gì xử lý được chỉ ra một
thực tế khác. Như vậy, cam kết của TKV tại hội nghị này là hiện thực?
Còn hai vấn đề cực kỳ quan trọng khác trong
khai thác bô-xít ở Tây Nguyên không thể bỏ qua, đó là: (a)vấn đề an ninh quốc
gia, và (b)tác động đối với quê hương nơi sinh tồn của đồng bào các dân tộc ít
người. Đã có nhiều ý kiến phản biện rất xác đáng, nêu lên tầm quan trọng chiến
lược của Tây Nguyên đối với an ninh của cả nước. Những bài này cho thấy khai
thác bô-xít như TKV đang triển khai có những sơ hở vi phạm nguyên tắc phải kết
hợp kinh tế với an ninh quốc phòng, đồng thời có nguy cơ xáo trộn nguy hiểm đời
sống mọi mặt của các cộng đồng dân tộc ít người tại đây.
Nói khai thác
bô-xít sẽ mang lại việc làm, giàu có và văn minh cho đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên như trong các giải trình của TKV phải chăng là quá văn hoa! Xin nhớ lại:
Trong 34 năm vừa qua, với sự nỗ lực của cả nước, đã có không biết bao nhiêu
chương trình quốc gia, bao nhiêu chính sách phát triển Tây Nguyên bền vững, với
đủ mọi kinh phí các loại (từ ngân sách nhà nước, đầu tư trong nước, ODA, FDI...),
tổng cộng lên tới hàng chục tỷ USD, song cho đến nay vẫn chưa giải quyết xong vấn
đề phát triển Tây Nguyên như mong muốn. Xáo trộn dân cư hiện nay vẫn tiếp diễn một
cách nguy hiểm, rừng Tây Nguyên tiếp tục bị phá và nghèo kiệt. Khai thác bô-xít của TKV
sẽ tạo ra sự phát triển bền vững ở Tây Nguyên mà 34 năm qua chúng ta với nỗ lực
của cả nước chưa làm được? Xin đặt một câu hỏi khác: Hơn 60 năm khai thác than ở
Quảng Ninh đã đóng góp được gì vào giầu có văn minh của đất nước? Triển vọng hiện
thực hơn của các mỏ bô-xít như cách đang
triển khai trong bối cảnh nền kinh tế và tình hình phát triển đất nước hiện nay
chỉ có thể là: Sẽ tạo thêm một sự hủy hoại mới về mọi mặt ở Tây Nguyên không cứu
chữa được.
Chỉ xin nêu lên
một nhận xét khái quát: Trong vấn đề an ninh quốc gia và trong vấn đề gìn giữ
quê hương các dân tộc anh em, nếu để xảy ra sơ xuất, có thể sẽ mang trọng tội
đối với đất nước. Thời nào cũng vậy, giữ lòng dân bao giờ cũng là đòi hỏi quan
trọng hàng đầu đối với an ninh quốc gia.
Có thể kết luận: Hai dự án khai
thác bô-xít như TKV đang triển khai không
tuân thủ quan điểm thăm dò, khai thác và
chế biến quặng bô-xít như đã nêu trong quyết định số 167/2007/QĐ-TTg ngày 01 tháng 11 năm 2007 của Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng (điểm 1, phần Quan điểm), không đúng với chủ
trương Đại hội X của Đảng về việc hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô.
Ba là: Các ý tưởng và lộ trình triển
khai công nghiệp bô-xít và luyện nhôm đang được TKV tiến hành theo quy trình lộn
ngược, mới chỉ dựa trên cơ sở tài nguyên
bô-xít dồi dào của đất nước có thể khai thác, nhưng lại thiếu hẳn sự cân đối
các mặt năng lượng, giao thông vận tải, khả năng xử lý môi trường, hạch toán
kinh tế. Đặc biệt đáng lo ngại là còn nhiều bài toán kinh tế vỹ mô khác liên
quan đến chiến lược phát triển đất nước chưa được đề cập tới. Khai thác bô-xít
Tây Nguyên như đang tiến hành là phiêu lưu và là sự lựa chọn kéo dài sự tụt hậu
của đất nước.
Toàn bộ ý tưởng và chương trình phát triển
công nghiệp bauxite – nhôm như TKV đang triển khai được thiết kế theo lối
tư duy: Đất nước giầu tài nguyên bô-xit thì đặt vấn đề khai thác tài nguyên này
để tận dụng, thiếu hẳn sự phân tích thấu đáo mất/được mọi mặt. Đấy là cách tư
duy kinh tế làm cái gì ta có, không xuất phát từ tư duy làm
cái gì thị trường cần mà nước
ta có khả năng đáp ứng tối ưu nhất cho sự nghiêp phát triển đất nước, không được
đặt trong bối cảnh Việt Nam là nước đi sau và đã hội nhập toàn diện
vào nền kinh tế thế giới toàn cầu hóa, có khả năng huy động nguồn lực từ mọi
nơi và đồng thời phải cạnh tranh quyết liệt và toàn diện với mọi nơi, không coi
Việt Nam là một bộ phận của kinh tế thế giới.
Cách tiếp cận
công nghiệp bauxite – nhôm như TKV đang làm là cách tiếp cận cổ điển ở đầu thế
kỷ trước, lạc hậu so với tư duy khai thác lợi thế so sánh, lợi
thế cạnh tranh và lợi thế nước đi sau trong bối cảnh tiến bộ khoa học kỹ
thuật đã đạt được ở thời đại ngày nay, lạc hậu so với trình độ quốc tế hóa và
toàn cầu hóa của nền kinh tế thế giới trong hiện tại.
Trong thế giới
hiện tại, không có một quốc gia nào có thể trở thành nước công nghiệp tiên tiến
và phát triển nhờ khai thác tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được để đem
bán cho nước ngoài (cứ nhìn các quốc gia Ả-rập hay nhiểu nước khác sống chủ yếu
bằng thu nhập từ dầu lửa thì thấy rõ điều này; Nga hiện nay là nước xuất khẩu
tài nguyên rất lớn, nhưng kinh tế vẫn nghèo và lạc hậu hơn Hàn Quốc, v... v...).
Thậm chí quốc gia nào ngày nay càng lún sâu vào khai thác tài nguyên thiên
nhiên không tái tạo được thì càng chìm sâu vào lạc hậu hoặc trở nên tụt hậu. Trong
khi đó trên thế giới hôm nay ngày càng nhiều quốc gia trở nên giầu có và phát
triển nhờ có nền kinh tế “carbon thấp”, kinh tế có nhiều hàm
lượng công nghệ và chất xám, kinh tế trí thức.
Nước ta đất chật
người đông, nguồn tài nguyên hay nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất và hợp với xu
thế thời đại nhất để phát triển đất nước là con người và khả năng phát triển kỹ
năng lao động và chất xám của nó. Đấy còn là nguồn lực thích hợp nhất, tối ưu
nhất để phát triển đất nước trong thế giới hiện tại, phù hợp với xu thế phát
triển của thế giới, đồng thời cũng là con đường từng bước đưa nước ta vào hàng
ngũ các nước phát triển tiên tiến trên thế giới.
Nguồn lực to lớn
thứ hai của nước ta sau nguồn lực con người là quỹ đất đai không thể nói là giầu
có của đất nước, nếu nhìn dưới góc độ mật độ dân số của nước ta cao hơn mật độ
dân số của thế giới, của châu Á và của Trung Quốc!
Vị trí địa kinh
tế và địa chính trị của nước ta càng đòi hỏi phải sớm dứt khoát lựa chọn con đường
phát triển dựa trên phát huy tối ưu nguồn lực con người. Dồn sức đầu tư vào
phát triển nguồn lực con người, và phát triển kết cấu hạ tầng (bao gồm kết cấu
hạ tầng vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội), cải cách thể chế để thực
hiện được phát huy nguồn lực con người, đó mới là lối ra cho nước ta thoát khỏi
số phận nước nghèo và lạc hậu.
Trong khi đó
khai thác bauxite như đang triển khai thực tế là con đường bán tài nguyên thiên
nhiên không tái tạo được, bán sức lao động cơ bắp, bán không gian sống và bán
môi trường. Đấy là sự tiếp tục con đường trở thành đất nước của những người đi làm
thuê và đất nước cho thuê bãi thải công nghiệp. Con đường này đang kìm
hãm sự phát triển năng động của đất nước, đẩy đất nước dấn sâu thêm vào tụt hậu.
Giả định rằng nước
ta đã tìm ra được kết luận đúng đắn, chủ trương vào lúc nào đó và bằng cách nào
đó sẽ phát triển công nghiệp bauxite – nhôm, thì kết luận này chỉ được phép hình
thành: (a)sau khi nghiên cứu đầy đủ lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, lợi thế
nước
đi sau của nước ta trong nền kinh tế thế giới toàn cầu hóa ngày nay, đã
xây dựng xong chương trình phát triển công nghiệp nhôm trong khuôn khổ chiến lược
phát triển chung của quốc gia, (b)sau khi đã tính xong và quy hoạch xong phát
triển kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực cần thiết cho việc triển khai ngành
công nghiệp bẩn và giá trị gia tăng thấp này. Thậm chí việc đi vào triển khai
công nghiệp này cần phải đi sau một bước sự chuẩn bị mọi mặt về kết cấu hạ tầng,
nguồn nhân lực, công nghệ và luật pháp có liên quan –sự chuẩn bị này phải chia
thành các bước, bước một, bước hai, vân vân... Nói việc khai thác bauxite sẽ được
làm như thế nào? và sẽ triển
khai vào khi nào? là có lợi nhất
cho quốc gia, chính là nói theo tinh thần này.
Là nước đi sau, đồng
thời là một bộ phận của kinh tế thế giới với tất cả những lợi và bất lợi do vị
thế địa kinh tế và địa chính trị của nước đem lại, nước ta cần tìm câu trả lời
thỏa đáng: Phát triển sản phẩm thượng nguồn, nói rộng ra nữa là phát triển kinh tế
thượng nguồn như thế nào, vào lúc nào, và đến mức nào là tối ưu nhất? Công
nghiệp bauxite - alumina – nhôm như TKV đang tiến hành không đếm xỉa đến
câu hỏi này.
Nhôm chưa bao giờ
là mặt hàng khan hiếm trên thế giới, một vài thập kỷ tới chắc chắn cũng sẽ như
vậy. Thậm chí một số nước châu Âu và Mỹ hiện nay đang phải giảm sản xuất nhôm
vì trên thị trường thế giới cung vượt cầu, và vì các lý do năng lượng, môi trường.
Một số nước phải bỏ hẳn cả công nghiệp điện phân nhôm, mặc dù họ đã làm chủ được
công nghệ cao. Toàn bộ khối lượng nhôm nước ta tiêu thụ hàng năm hiện nay chỉ khoảng 100 – 150 nghìn
tấn. Nếu trong vòng một hai thập kỷ tới mức tiêu thụ này tăng lên tới ba bốn
trăm nghìn hay nửa triệu tấn cũng không thấm tháp gì so với khả năng cung ứng của
thị trường thế giới, hiện nay là khoảng 70 - 90 triệu tấn. Thực tế này cho phép
nước ta từ nay cho đến 2025 – 2030 có thể thỏa sức phát triển các ngành hay các
sản phẩm công nghiệp có sử dụng nhôm mà không cần tính tới việc phải khai thác
bauxite ở nước ta để tự túc. Công nghiệp nhôm ở khâu thượng nguồn như TKV đang
triển khai cần được đặt cho cái tên gọi chính xác là công nghiệp alumina
đầy rủi ro.
Trong tình hình
nguồn cung nhôm hiện nay trên thị trường thế giới còn dồi dào một thời gian dài,
nước ta dù đang ở trình độ thấp, song sau 25 năm phát triển trong đổi mới đã hội
đủ mọi khả năng và những điều kiện cơ bản để lựa chọn ngay từ bây giờ con đường
tiếp cân công nghiệp nhôm ở khâu hạ nguồn, vừa tạo ra được sự phát triển bền vững,
đồng thời làm ra nhiều hơn giá trị gia tăng, không phải chờ và cũng không cần
phải bắt đầu từ việc mở ra công nghiệp alumina trong nước.
Câu chuyện còn lại
ở nước ta chỉ là tầm nhìn, ý chí và sự lựa
chọn chiến lược.
Hàn Quốc cho đến
hôm nay vẫn không làm ra nổi lấy một tấn alumina, nhưng họ đang có một loạt các
loại sản phẩm công nghiệp có sử dụng nhôm chỉ đứng sau Mỹ, Nhật... Cũng xin đừng
quên trong xu thế phát triển công nghiệp hiện nay trên thế giới, nguyên liệu
nhôm đang dần dần phải nhường chỗ cho nhiều nguyên liệu thay thế khác, đồng thời
mặt khác xuất hiện ngày càng nhiều loại hợp kim quý có nhôm – vì vậy, sớm tìm
đường đi thẳng vào công nghiệp hạ nguồn
ngày càng trở thành vấn đề sống còn đối với các nước đi sau.
Trung Quốc, với nghĩa nào đó cũng là một nước đi sau trong công nghiệp
nhôm. Song với 1,3 tỷ dân, tự thân Trung Quốc là một nền kinh tế hoàn chỉnh với
nghĩa bắt buộc phải phát triển mọi dạng nguyên liệu. Trung Quốc hiện nay nước
thứ hai trên thế giới về sản xuất nhôm (ước 16 triệu tấn/năm). Tuy vậy, Trung
Quốc làm nhôm chủ yếu không phải là để có nhôm hay dành cho xuất khẩu, mà trước
hết là để phục vụ các ngành công nghiệp sử dụng nhôm, nhất là những ngành công
nghiệp cao cấp mà Trung Quốc đang quyết tâm giành lấy như máy bay, ô-tô vv...
Các nước Tây Âu, Nhật... ngày nay gần như bỏ hẳn công nghiệp điện phân
nhôm, để chuyên sâu vào công nghiệp luyện nhôm tinh khiết và hợp kim nhôm cao cấp
cần thiết cho công nghiệp hiện đại. Nghĩa là họ ngày càng đi sâu vào công nghiệp
các sản phẩm hạ nguồn.
Bốn là: cần đặt vấn đề khai thác bô-xít
trong bối cảnh chung của cả nền kinh tế nước ta hiện nay và những đòi hỏi phát
triển của đất nước.
Ngày
04-02-2009, phát biểu với báo chí Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu rõ: Nền kinh tế nước ta đứng tước đòi hỏi đẩy nhanh quá
trình cải cách và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, từ mô hình tăng trưởng chủ
yếu là dựa vào các yếu tố theo chiều rộng sang mô hình tăng trưởng theo chiều
sâu trên cơ sở phát huy nguồn lực và tính năng động của khu vực dân doanh, khai
thác lợi thế so sánh, tăng đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp nhằm tạo ra
năng lực cạnh tranh mới trong từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế (xem Vietnamnet 04-02-2009).
Hiển nhiên các dự án bô-xít ở Tây
Nguyên đang triển khai hoàn toàn đi ngược lại quan điểm nói trên của Thủ tướng!
Thực tế đời sống
kinh tế đất nước cũng cho thấy xu thế phát triển theo chiều rộng đã đạt tới cái
ngưỡng không được phép vượt qua[5].
Tuy nhiên bên cạnh vấn đề bô-xít, còn nhiều biểu hiện cho thấy quá trình cải
cách và chuyển đổi mô hình tăng trưởng này chưa diễn ra, nếu không muốn nói rằng
xu thế phát triển theo chiều rộng vẫn đang lấn lướt như một quán tính.
Ví dụ, theo báo
chí, với 23 dự án thép trong quy hoạch và với 32 dự án ngoài quy hoạch đã được
cấp giấy phép, và nếu chúng sẽ được xây dựng đúng như ký kết, cộng lại tất cả vào
khoảng năm 2020 hoặc sớm hơn một chút nước ta sẽ sản xuất ra 40 triệu tấn
thép/năm (có bài báo nói là 60 triệu tấn), nghĩa là bằng 4/5 sản lượng thép
hàng năm của nước Đức (hiện nay sản xuất khoảng 47 triệu tấn/năm) và bằng khoảng
45% sản lượng thép hàng năm của Nhật (hiện nay sản xuất khoảng 90 triệu tấn/năm).
Hiện nay nước ta tiêu thụ mỗi năm khoảng 3 – 4 triệu tấn, vào năm 2020 ước tính
tối đa sẽ lên tới 10 - 15 triệu tấn/ năm, giả thiết rằng trong khoảng thời gian
từ nay đến năm 2020 tiêu thụ thép ở nước ta có tốc độ tăng trưởng gấp 2 – 3 lần
tốc độ tăng trưởng GDP. Như vậy sẽ dôi ra trên 20 triệu tấn/năm. Việt Nam định trở
thành cường quốc xuất khẩu thép?[6]
Xin lưu ý: Sát
nách ta, Trung Quốc trong những năm gần đây sản xuất khoảng 400 - 450 triệu tấn
thép/năm, trong đó dành cho xuất khẩu khoảng 45 – 55 triệu tấn/năm. Từ vài năm
nay thép nước ta ế và lỗ vì không cạnh tranh nổi với thép Trung Quốc ngay trên
thị trường nước ta. Hiện nay Trung Quốc đang giảm sản lượng và tổ chức lại
ngành thép (dẹp bỏ số lượng quá nhiều các nhà máy hay công ty nhỏ để chuyển
sang các lò luyện lớn và những tập đoàn lớn để nâng cao hiệu quả kinh tế). Ngay
từ bây giờ đã nhìn thấy trước Chương
trình 40 triệu tấn thép/năm của nước
ta đang được triển khai sẽ đứng trước tình huống:
Kịch bản 1: Cứ cho con số
40 triệu tấn thép/năm ở nước ta vào khoảng năm 2020 là hiện thực, có thể hình
dung thép Việt Nam vào thời điểm ấy (2020) sẽ phải cạnh tranh gay gắt như thế
nào. Đến nay chưa một quốc gia trên thế giới có thể thắng nổi sản phẩm giá rẻ của
Trung Quốc! Kể cả trong tình huống có ngoại thương lành mạnh. Vậy điều gì sẽ chờ
đợi đối với thép của nước ta? Song có điều là kịch bản 1 này hầu như chắc
chắn là không thể diễn ra – vì khá nhiều dự án thép đã ký chắc sẽ chỉ nằm trên
giấy.
Kịch bản 2: Nếu con số 40
triệu tấn/năm trong quá trình thực hiện từ nay đến năm 2020 là không hiện thực
(kịch
bản 1 phá sản), nghĩa là nhiều dự án bỏ dở, chỉ là “xí chỗ”...,
thì hậu quả xẩy ra cũng sẽ nặng nề không
kém, vì những tổn thất khó lường hết được do tình trạng dang dở của các dự án
này gây ra cho nước ta. Kịch bản 2 này hầu như chắc chắn sẽ
xảy ra; với kết quả lạc quan nhất cũng
chỉ có thể đạt được một hai chục triệu tấn thép/năm, lôm côm mọi chủng loại, thép
thô là chủ yếu, giá thành cao, ô nhiễm môi trường nặng, lãng phí ghê gớm về mọi
mặt do quy hoạch dở dang, vào năm 2020 thép nước ta sẽ vừa thừa, vừa thiếu, vừa
ế... Cứ nhìn vào Trung Quốc hiện nay đang nai lưng dẹp bỏ không thương tiếc
hàng trăm xí nghiệp sản xuất và chế biến thép loại lạc hậu trong cả nước để hiện
đại hóa ngành thép của mình thì dự báo như vậy về kịch bản 2 của thép nước
ta không phải là hoang tưởng.
Con số “40 triệu
tấn thép/năm” như vậy cho thấy: Với cách làm thép như đang tiến hành, dù kịch bản
nào xảy ra cũng chỉ đem lại một mầu xám cho đất nước. Tình hình này đặt ra nhiều
vấn đề phải suy nghĩ. Một khi đã lao sâu vào công nghiệp thép, việc xoay trở để
chuyển hướng sang ngành khác sẽ vô cùng chật vật và tốn kém. Một lần nữa lại có
câu hỏi: Nước Việt Nam
công nghiệp hóa không thể thiếu thép, nhưng phải có thép và làm thép như thế nào?
Đi sâu vào công nghiệp thượng nguồn như
cách đang tiến hành, nền kinh tế đất nước từ nay đến năm 2020 rơi vào tính
huống: Cả hai ngành “alumina” và “thép” sẽ giành giật nhau căng thẳng mọi nguồn
lực khan hiếm của đất nước (vốn, năng lượng, kết cấu hạ tầng, nhân lực, các dịch
vụ về thể chế, năng lực quản lý quốc gia, vân vân...); đồng thời cả 2 ngành
công nghiệp này sẽ cùng nhau hành hạ nền kinh tế đất nước bằng cách đẩy đất nước
vào những căng thẳng mới, những mất cân đối lớn, tăng thêm gánh nặng cho môi
trường, đồng thời giảm thiểu lợi thế cạnh tranh của ta.
Hiển nhiên, nền
kinh tế nước ta đi theo cách này sẽ không chỉ có một vài gánh nặng khác toát mồ
hôi như alumina và thép. Ngay hiện nay đã có không ít những công trình hiệu quả
kinh tế thấp. Ví dụ:
-
Vinashin
có vốn vay rất lớn, nhưng tỷ suất lợi nhuận 2008 chỉ vào khoảng 0,5%, thậm chí
đứng trước nguy cơ lớn – (tham khảo: TB Kinh tế Sài Gòn, 05-02-2009).
-
Số
lượng quá lớn các sân golf cho một nước nghèo đông dân vẫn còn tới 70% dân số
trong lĩnh vực nông nghiệp.
-
Sự
thiệt hại chưa có điều tra của phần vốn nhà nước tham gia vào thị trường chứng
khoán và thị trường bất động sản - cả hai thị trường này trong năm 2008 mất vào
khoảng 50 - 60% giá trị.
-
Sắp
tới nước ta còn là nhà xuất khẩu lớn về xi-măng, giấy.., mặc dù thiếu năng lượng,
nghĩa là tiếp tục đi sâu vào xu thế phát triển công nghiệp sử dụng tài nguyên
không tái tạo được, không thân thiện với môi trường, giá trị gia tăng thấp.
-
Vân
vân... Chưa nói đến những tổn thất do biết bao nhiêu cái bất cập khác (dự án
treo, quy hoạch sai...) và do tình trạng quan liêu tham nhũng gây ra.
Tất cả những
gánh nặng nêu trên đang kìm hãm sự phát triển năng động của nền kinh tế quốc
gia, làm gay gắt thêm tình trạng “thắt cổ
chai” – (3 bất cập lớn về kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, năng lực quản trị quốc
gia trong nền kinh tế quốc gia), lại đang thời kỳ suy thoái. Vì thế, càng nên từ
bối cảnh toàn cục hiện tại của nền kinh tế cả nước xem xét lại vấn đề khai thác
bauxite Tây Nguyên, nhất là vào lúc này công việc mới ở thời kỳ bắt đầu, còn kịp
dừng lại để tránh những tổn thất lớn gấp bội có thể xảy ra.
Trong khi đó nền
kinh tế nước ta một mặt vẫn còn quá nhiều sản phẩm ở dạng thô, sơ chế, hàm lượng
chế biến và hàm lượng giá trị gia tăng đều thấp, yêu cầu phải tái cơ cấu lại nền
kinh tế ngày càng trở nên gay gắt. Tình hình kinh tế đất nước hiện nay đòi hỏi
phải quan tâm dồn nguồn lực mọi mặt cho tăng thêm sản phẩm “tinh”, để nâng cao
hàm lựơng chế biến và hàm lượng giá trị gia tăng của các sản phẩm trong mọi
lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Một thực tế khác là nguồn lực
dành cho phát triển kết cấu hạ tầng để có tăng trưởng kinh tế năng động, bền vững,
chất lượng cao và mở đường cho những bước phát triển thiếp theo lại càng khan
hiếm! Nguyên nhân hàng đầu của những cái “khan hiếm”, cái “thiếu” này trước hết
là sự
phân bổ không hợp lý mọi nguồn lực đất nước có trong tay, do tầm nhìn
và sự lựa chọn chiến lược phát triển không đúng. Không thể một bề đổ lỗi cho
cái nghèo, càng không thể đổ lỗi cho thiếu FDI, ODA hay bất kỳ cái gì khác.
Càng tăng thêm đầu tư theo kiểu alumina
Tây Nguyên và 40 triệu tấn thép,
càng tăng thêm những ách tắc khó cứu vãn.
“Như tôi đã nêu, điều quan trọng đối với
nước ta hiện nay là phải đẩy nhanh quá
trình cải cách, đổi mới đưa nền kinh tế nước ta hiện nay từ khai thác tài
nguyên, sử dụng nhiều lao động sang mô hình phát triển theo chiều sâu...”
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng,
Hà Nội ngày 04-02-2009
Đầu tư vào bô-xít cần được xem xét dưới góc độ:
Lúc này thêm một gánh nặng mới trong bối cảnh khó khăn như hiện nay của
đất nước có thể đồng nghĩa như đánh thêm một đòn chí tử vào cả nền kinh tế.
Song bớt một gánh nặng cho kinh tế đất nước vào lúc này, có thể đồng nghĩa tăng
thêm một cơ may đi vào phục hồi.
Xin đừng quên
trong những năm gần đây thiên tai, dịch bệnh ngày một nhiều và tăng thêm những
gánh nặng mới cho đất nước. Những yếu kém xảy ra trong quá trình công nghiệp
hóa ngày càng nhiều và đang góp phần làm gay gắt thêm tình hình này. Vì vậy, mọi
quyết định kinh tế càng phải nhìn dài hạn và đắn đo nhiều chiều, phải nỗ lực giảm
thiểu từng khó khăn nhỏ, tiết kiệm để nuôi dưỡng sức phát triển, càng không nên
tự mình gây thêm khó khăn mới.
Cái may duy nhất
trong cái rủi lớn của công nghiệp alumina Tây Nguyên đang triển khai là: Những
nguy cơ của nó đang thúc giục phải nhìn lại toàn bộ thực trạng nền kinh tế đất
nước để tìm đường chuyển hướng sang một mô hình, một giai đoạn phát triển mới:
bền vững hơn, thân thiện với môi trường hơn, cạnh tranh tốt hơn, và nhiều giá
trị gia tăng hơn[7]: con
đường phát triển theo chiều sâu.
Kết luận
Nguồn tài nguyên
bauxite Tây Nguyên rất lớn, song lúc này nước ta chưa hội đủ các điều kiện để
khai thác một cách tối ưu nhất; chương trình khai thác bauxite đến năm 2025
đang triển khai thiếu hẳn một chiến lược tổng thể phát triển Tây Nguyên làm nền
tảng, nên chứa đựng nhiều nguy hiểm; hai dự án sản xuất alumina Nhân Cơ và Tân
Rai do tiến hành theo quy trình lộn ngược nên còn quá nhiều vấn đề chưa được
làm rõ và mang tính phiêu lưu cao; còn nhiều hệ quả kinh tế, văn hóa, xã hội,
an ninh, quốc phòng chưa được tính toán hết, lại vào thời điểm giá alumina trên
thế giới xuống thấp khoảng -30 – -50% so với trước khi xảy ra khủng hoảng kinh
tế thế giới hiện nay, vì vậy cần được dừng lại để nghiên cứu tiếp.
Câu hỏi lớn đặt
ra cho quốc gia để nghiên cứu tiếp là bô-xít Tây Nguyên cần được khai thác lúc
nào và cách nào là có lợi nhất. Cái được nào cũng phải có sự đánh đổi, phải chấp
nhận như vậy. Song quyết định kinh tế nào cũng phải tuân thủ nguyên tắc được
nhiều hơn mất.
So sánh mọi mặt
thiệt/hơn, cả trên phương diện quốc gia và quốc tế, chương trình khai thác bô-xít ở
Tây Nguyên như TKV đang triển khai sẽ đẩy đất nước tiếp tục phát triển theo chiều
rộng một cách nguy hiểm, kéo dài sự tụt hậu của đất nước với nhiều rủi ro mới
trên cả 4 phương diện: phát triển kinh tế, môi trường, an ninh quốc phòng, văn
hóa xã hội, khiến lòng dân không yên. Khai thác bô-xít một cách thiếu tính toán
chi li như vậy sẽ mang lại cho đất nước một sự lệ thuộc mới nguy hiểm, có nguy
cơ thua lỗ, giữa lúc kinh tế thế giới đang chuyển hướng rất bất lợi cho các quốc
gia dựa quá nhiều vào khai thác tài nguyên thiên nhiên để bán.
Vì vậy, dứt khoát lúc này không nên đặt vấn đề
xuất khẩu alumina. Còn sau này, nếu tính toán kỹ mọi mặt định sản xuất và xuất
khẩu nhôm để phát huy nguồn tài nguyên bauxite của đất nước, thì phải chuẩn bị
mọi điều kiện, lựa chọn cách làm khác (bước một, bước hai...) và thời gian
thích hợp.
Hơn nữa, nhìn
vào bức tranh kinh tế chung của cả nước, chỉ số ICOR ở nước ta cao nhất trong
vùng châu Á – các năm vừa qua là >5, riêng trong năm 2008 vọt lên 6.9 (tính
chi li chỉ số này năm 2009 có thể là 9 – 10) – nghĩa là ở mức nguy hiểm không
thể chấp nhận được[8], lại
trong tình hình kinh tế nước ta đang suy thoái trầm trọng, yêu cầu phải tạo ra
một mô hình phát triển, một cơ cấu kinh tế khác hiệu quả hơn, chất lượng hơn đối
với nước ta ngày càng trở nên bức xúc. Lợi ích quốc gia đòi hỏi phải tìm đường
sớm thoát khỏi nền kinh tế lao động cơ bắp,
bán tài nguyên, bán môi trường, chứ không phải là ngày một dấn sâu thêm vào
con đường này!
Vì lợi ích sống
còn nền kinh tế cả nước, xin kiến nghị:
1. Bám sát quan điểm
nêu trong quyết định 167 (điểm 1) của Thủ tướng Chính phủ, nghiên cứu lại
chương trình bauxite – alumina – nhôm 2025 trong cả nước, tập trung xoay
quanh câu hỏi: Làm như thế nào và lúc
nào là có lợi nhất?
2.
Khảo
sát và đánh giá lại 2 dự án alumina Nhân Cơ (Đắc Nông) và Tân Rai (Lâm Đồng)
đang triển khai.
3.
Huy
động lực lượng chất xám trong cả nước làm tốt 2 việc nói trên, nếu cần có thể
thuê thêm chuyên gia nước ngoài cho những công việc nhất định. Tổ chức tranh luận
và thẩm định công khai để rút ra những nhận định, kết luận xác đáng nhất, có lợi
nhất cho đất nước.
4.
Tạm
dừng triển khai cả hai dự án alumina nói trên ở Tây Nguyên cho đến khi có kết
luận rõ ràng và có các kiến nghị xử lý khả dĩ nhất được Nhà nước chấp thuận về
hai dự án này.
5.
Vạn
bất đắc dĩ chỉ triển khai sản xuất alumina theo kiểu làm “pilot” một dự án, để
đánh giá và đối chứng các kết quả nghiên cứu, phục vụ cho mục đích xây dựng quyết
định cuối cùng về vấn đề khai thác bô-xít ở Tây Nguyên.
6.
Tổ
chức điều tra nghiên cứu trả lời câu hỏi: Nếu không lựa chọn bô-xít cho Tây
Nguyên, nên lựa chọn sản phẩm gì? phương thức phát triển? So sánh với phương án
bô-xít.
7.
Nghiên
cứu xây dựng chiến lược tổng thể phát triển kinh tế Tây Nguyên làm nền tảng cho
mọi quyết định kinh tế liên quan đến Tây Nguyên.
Có ý kiến quan
ngại rằng đã cam kết sâu với Trung Quốc, bây giờ rút lui sẽ ảnh hưởng đến đại cục
quan hệ hai nước. Giải pháp tối ưu nhất
có lẽ là: Giải thích thẳng thắn với phía Trung Quốc những khó khăn hiện nay Việt
Nam
chưa xử lý được, nguy cơ thua lỗ lớn, cần tạm dừng để nghiên cứu các phương án
khả thi khác, sẵn sàng bàn với phía Trung Quốc phương án làm “pilot” để phục vụ
cho việc tìm các giải pháp
Trước khi kết
thúc tham luận này xin lưu ý hai điều:
Một là: Nước ta có dân
số đứng thứ 12 trên thế giới, mật độ dân số nước ta cao gần gấp 5 lần của thế
giới, gấp 2,5 lần các nước Đông Nam Á, gấp 2 lần Trung Quốc. Nguy cơ biến đổi
khí hậu sẽ còn làm cho nước ta mất thêm nhiều đất, không gian sinh sống sẽ còn
bị thu hẹp nữa. Vì vậy ngay từ bây giờ phải trân trọng từng thước vuông đất của
quốc gia, gìn giữ cảnh quan và môi trường sống, không được để lại hậu họa cho các
thế hệ con cháu chúng ta. Đào bô-xít lên đem bán sẽ được bao nhiêu tiền? Tiêu
được bao lâu? Nhưng môi trường sống bị hủy hoại và cảnh quan hoang tàn sẽ còn lại đời đời. Ai sẽ phải chịu
trách nhiệm?
Hai là: Cách đây đúng
151 năm, năm 1858, thực dân Tây Ban Nha và thực dân Pháp nã súng đánh thành Đà
Nẵng, dẫn đến 80 năm mất nước, dân tộc ta phải chịu ách nô lệ. Nguyên nhân chủ
yếu không phải vì dân tộc ta và triều Nguyễn hồi đó yêu nước kém ngày nay, chiến
đâu kém dũng cảm hơn ngày nay! Muôn ngàn lần không phải như vậy! Song mất nước
có thể coi như là tất yếu, bởi lẽ nước ta so với kẻ địch tụt hậu hẳn một giai
đoạn phát triển. Ngày nay, kinh tế nước ta nếu tiếp tục đi sâu vào cơ cấu sản
phảm thượng nguồn như đang làm bô-xít, sớm muộn sẽ rơi vào nguy cơ thành bãi thải
công nghiêp. Đồng thời nước ta đang phải đối phó với 3 nguy cơ khác nữa; đó là:
sự o ép từ bên ngoài, sự xâm lăng về văn
hóa, sự tàn phá của môi trường tự nhiên do không được bảo vệ thỏa đáng. Cả 4
nguy cơ này có thể dấn nước ta vào một tình trạng tụt hậu nguy hiểm, đến lúc
nào đó có thể sẽ tạo ra cho nước ta một sự nô dịch mới – sự nô dịch của nghèo
nàn và lạc hậu, của lệ thuộc, sự nô dịch không có chủ nghĩa thực dân. Đừng để
cho việc khai thác bô-xít góp phần làm tăng thêm những nguy cơ này./.
Hết
Hà Nội, 27-01-2009,
Tết Kỷ Sửu.
[1] Tìm xem trên VietnamNet – trang “Thông tin đa chiều” 02-12-2008 và
07-01-2009
[2] Cước phí vận tải
bằng ô-tô trên đường bộ miền Trung dao động giữa 2000 – 3000 VNĐ
cho 1km/tấn, như vậy riêng tiền vận tải bằng ô-tô để đưa được 1 tấn
alumina khoảng 200 - 300 km từ mỏ tới cảng biển miền Trung (bao gồm cả chi phí
hai chiều: lượt lên núi mang nguyên liệu phục vụ sản xuất alumina, lượt xuống
núi chở sản phẩm alumina) ước tính tối thiều khoảng 50 – 60 USD, không
thấy khoản chi phí này trong hạch toán giá thành! TKV còn giải trình sẽ dự trù vấn đề giao thông
vận tại cho cả vùng bauxite ở Campuchia (và có thể cho cả Nam Lào). Cần có cái
nhìn như vậy, tuy nhiên trong khi đó TKV chưa giải quyết xong vấn đề giao thông
vận tải cho alumina của chính mình ở Tây Nguyên!
[4] Tham khảo thêm bài “Giải bài toán về an ninh năng lượng quốc gia”, báo điện tử Tạp chí Cộng Sản ngày
31-01-2009.
[5]
Tham khảo thêm bài “Ngã ba 2007”,
trong cuốn “Bàn về công tác kế hoạch hóa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới”,
do Bộ Kế hoạch & Đầu tư xuất bản, Hà Nội 07-2008, trang 288 – 320.
[7]
Tham khảo thêm bài “Ngã ba
2007”, Nguyễn Trung, trong cuốn “Bàn về công tác kế hoạch hóa ở nước ta trong
thời kỳ mới”, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư xuất bản, Hà nội tháng 7-2008.
[8] Tham khảo thêm bài “Ngã ba 2007”,
sách đã dẫn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét