Hiền tài là nguyên
khí quốc gia
Vì sao không sử dụng
được người tài?
Nguyễn
Trung
Hà
Nội, tháng 07-2011
Mục lục:
I. Tầm vóc câu hỏi đặt ra…………………………………..tr.
2
I.1. Thực trạng đất nước hiện nay……………………………….tr.
2
- Bức tranh tổng thể ….……………………………………...tr.
9
- Kết luận về tham
nhũng.…………………………………...tr. 9
- Hòa giải hòa hợp đoàn kết dân tộc là điều
kiện tiên quyết...tr. 9
- Về tham nhũng……………………………………………..tr. 10
I. 2. Đất nước ta đang đứng trước một bước ngoặt quyết định….tr.10
1.2.1.
Đứng cạnh Trung Quốc đang ngoi lên siêu cường……......tr.10
I.2.2. Đòi hỏi duy tân đất
nước……………………………….......tr.11
II. Đánh vật
với câu hỏi “Vì sao?”: Một chế độ chính trị đồng nghĩa với quốc gia………………………………………...tr.15
Suy luận rút
ra…………………………………………………...tr. 20
III.
Tìm hiểu một số vấn đề hóc búa…………………………...tr.
21
III.1.
Cơ chế “đảng hóa” ngày nay và hệ lụy…………………...tr. 21
III.2.
Lối ra: Đảng phải thôi làm vua……………………………tr. 26
III.3.:
Ngọn cờ dân tộc dân chủ…………………………………tr. 29
III.4.: Dân chủ - điều kiện tiên
quyết của hòa giải hòa hợp
đoàn kết dân tộc………………………………………… tr.
30
Ba thách thức đương đại -
thay cho kết luận…………………tr. 32
Tài liệu tham khảo……………………………………………...tr.
34
***
I. Tầm vóc câu hỏi đặt ra
Tham gia nghiên cứu vấn đề sử
dụng người tài ở nước ta, tôi được yêu cầu nêu lên những suy nghĩ của
mình chung quanh câu hỏi: “Vì sao chế độ nước ta hiện nay không sử dụng
được người tài?”
Đây
là một câu hỏi khó và nhạy cảm.
Câu
hỏi nêu trên hàm ý rõ ràng: Chế độ chính trị nước ta đã một thời phát huy cao độ
vai trò vô cùng quan trọng của người tài, thể hiện rõ nhất trong Cách mạng
Tháng Tám và trong 4 cuộc chiến tranh ái quốc. Nhưng sau khi đã hoàn thành sự
nghiệp giành lại độc lập thống nhất quốc gia để đi vào thời kỳ xây dựng đất nước,
chế độ chính trị nước ta ngày càng có nhiều bất cập trong việc sử dụng người
tài.
Vậy sẽ phải hỏi thêm: Tại sao cùng trong một chế độ
chính trị, mà lại có hai thời kỳ khác nhau như vậy?
Thiết
nghĩ rất đáng huy động trí tuệ và ý chí của cả nước trả lời những câu hỏi này.
Bởi vì làm được việc này, sẽ có thể mang lại cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước một cách nhìn khác, và sẽ có thể dấy lên một sức sống mới của cả nước. Người
viết bài này mới chỉ đủ khả năng xới xáo một vài vấn đề thô thiển từ cảm nhận
trực quan, rất mong trí tuệ và lương tri cả nước suy nghĩ rốt ráo vấn đề hệ trọng
này.
Lý
lẽ rất đơn giản: Cuộc sống đất nước ta đang đặt ra hàng loạt vấn đề bức xúc.
I.1 Thực trạng đất nước hiện nay
Đo
đếm lại chặng đường đầu tiên của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời
bình, GDP danh nghĩa bình quân tính theo đầu người của nước ta (GDP p.c.) sau
25 năm đổi mới tăng khoảng 5 – 6 lần (từ
180 USD năm 1986, đạt 1115 USD năm 2010). Ta hôm nay sống tốt hơn so với ta trước
đổi mới là rất đáng mừng. Nhưng ta so với thế giới quanh ta hôm nay và so với
những thách thức đang đặt ra cho nước ta ngay trước mắt thì vẫn là đáng lo.
Hãy
xem xét, để nâng cao gấp 5 – 6 lần tăng trưởng TSPQN tính theo đầu người (GDP
p.c.) như vừa trình bầy, nước ta cần 25 năm.
Song trước đây (cũng tính từ điểm xuất phát có mức GDP p.c khoảng trên
dưới 200 USD), các nước như Trung Quốc,
Thái Lan, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaisia.., chỉ cần một khoảng thời gian từ 10 đến
15 năm hoặc ít hơn để hoàn thành chặng đường như thế (đạt GDP p.c. khoảng 1000
USD). Quan trọng hơn nữa là chặng đường đat “GDP p.c. 1000 USD” ấy của
những quốc gia này mở ra cho họ sự phát triển rất năng động cho chặng đường tiếp
theo. Còn ở nước ta từ vài năm nay bắt đầu đi vào khủng hoảng kinh tế mang tính
cơ cấu, đang phải tìm lối ra.
Một
cách so sánh nữa: Năm 1995 GDP p.c của ta kém Trung Quốc (tính theo số
tròn) 600 USD, kém Thái Lan 2400 USD, kém Hàn Quốc 9600 USD, kém Đài Loan
12.000 USD. 15 năm sau, cụ thể ở đây là năm 2010, các chỉ số này lần
lượt là: 3208 USD, 3818 USD, 19.417 USD và 17.284 USD (nguồn Wikipedia). Rõ
ràng ta ngày càng tụt hậu xa. Như thế có đáng lo không?
Riêng
từ năm 2007 đến nay (ngoại trừ năm 2009) lạm phát liên tục ở mức hai con số. Năm
2011 tiếp tục lạm phát hai con số ở mức cao hơn, tăng trưởng kinh tế chậm lại và
đình đốn (stagflation)[1]. Hiệu quả
kinh tế ngày càng thấp so với tiền của và công sức bỏ ra, thể hiện rõ nét nhất ở
chỉ số ICOR[2] từ
nhiều năm nay là trên 6 (trong khi đó
các nước trong khu vực chỉ số này là 2 – 3!). Kinh tế hiện nay tăng trưởng chủ
yếu dựa vào đầu tư mới, lao động chất lượng thấp, khai thác đến cạn kiệt tài
nguyên và môi trường, tổn thất và thất thoát nhiều.
Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay làm xong nhiệm vụ tạo ra
sự phát triển khởi đầu cho một quốc gia trong thế giới ngày nay, bây giờ không
còn phù hợp cho việc đi vào giai đoạn phát triển mớị.
Quan
trong hơn nữa, tình hình thế giới hiện nay có 4 đặc điểm là (a)cấu trúc kinh tế
thế giới đang thay đổi sâu sắc với nhiều biến động mới khó lường, (b)sự suy yếu
tương đối của Mỹ và phương Tây, (c)sự xuất hiện của Trung Quốc trên con đường
trở thành siêu cường, đồng thời Nga và Ấn Độ ngày càng khẳng định xu thế đang
lên của mình, (d) trên thế giới xuất hiện nhiều biến động chính trị sâu sắc với
tính cách là hệ quả tất yếu của 3 đặc điểm trên. Đó chính là khủng hoảng kinh tế
và chính trị rất sâu sắc của thế giới, một mặt làm thay đổi xu thế phát triển của
quá trình toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, mặt khác đẩy nhanh hơn nữa quá trình
phân cực và liên kết mới trên bàn cờ thế giới; trào lưu thế giới vì hòa bình,
dân chủ, nhân quyền và bảo vệ môi trường trở thành một xu thế chính trị - xã hội
ngày càng mạnh. Trên thế giới xuất hiện nhiều thách thức mới và cơ hội mới chưa
từng có.
Trong
bối cảnh quốc tế mới như vậy, nếu nước ta tiếp tục con đường phát triển như hiện
nay, chiến lược công nghiệp hóa – hiện đại hóa đến năm 2020 của nước ta chắc chắn
thất bại, vì khả năng cạnh tranh thua kém, và vì không thể thích nghi được với
tình hình mới. Chiến lược đối ngoại nước ta hiện nay đang theo đuổi (bao gồm cả
kinh tế đối ngoại) không còn phù hợp với những thay đổi trong xu thế phát triển
của quá trình toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, đồng thời cũng khó thích nghi được
với quá trình phân cực và liên kết mới đang diễn ra trong bàn cờ thế giới. Cùng
với sự tụt hậu của thể chế chính trị so với đòi hỏi phát triển của đất nước
cũng như so với trào lưu tiến bộ trên thế giới, tiếp tục chiến lược phát triển
đất nước như hiện nay, về đối nội cũng như đối ngoại, nước ta sẽ khó tránh khỏi
bế tắc và đổ vỡ. Nước ta đứng trước đòi hỏi tất yếu phải tìm ra một chiến lược
mới, với cách nhìn hoàn toàn mới.
Sự
thật là sau mấy chục năm phát triển kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, bên cạnh những thành tích đạt được, đã và đang nảy sinh ngày càng nhiều
hiện tượng nguy hiểm có tính chất loại bỏ tiêu chí dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh. Đó là những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực xảy ra
trên các phương diện quan trọng như: (a)hình thái tích tụ / phân bổ của cải
trong xã hội, (b)hình thái chiếm hữu/ sử dụng tài nguyên quý báu nhất của quốc
gia là ruộng đất, (c)hệ thống luật pháp và năng lực thực thi pháp luật.., (d)thực
thi các quyền tự do dân chủ của nhân dân, vân vân. Rất đáng lo ngai là sự xuất
hiện các nhóm lợi ích và các nhóm quyền lực đang lũng đoạn pháp luật, sự xuất
hiện những giai tầng mới đang trở thành nguồn gốc của những bất công mới trong
xã hội.., tất yếu dẫn tới hệ quả đang tích tụ ngày càng nhiều những mâu thuẫn mới
trong xã hội – bao gồm cả những mâu thuẫn lúc này lúc khác giữa nhân dân và
chính quyền…
Từ
nhiều năm nay nước ta sống trong một nghịch lý: Tổng sản phẩm quốc nội tính
theo đầu người càng cao, những ách tắc, bất cập, tham nhũng và các vấn nạn xã hội
ngày càng tăng, chất lượng cuộc sống của nhân dân xuống cấp, niềm tin của nhân
dân giảm sút! Đó chính là những biểu hiện
phát triển của chủ nghĩa tư bản hoang dã. Đường lối của Đảng không chủ trương
như vậy, nhưng từ nghị quyết đi đến cuộc sống nó lại hình thành ra như vậy.
Tình hình này không đáng lo?
Thử tìm
hiểu thêm một vài lĩnh vực hệ trọng khác để xác minh.
Ví dụ:
1.1.1.:
Trong lĩnh vực giáo dục: Có thể nói dân ta vốn hiếu học, thuộc loại đứng đầu thế
giới trong việc thắt lưng buộc bụng chi cho giáo dục so với thu nhập của mình,
thế nhưng so sánh dưới góc độ kết quả/chi phí bỏ ra thì phải nói
(a)kết quả và chất lượng nền giáo dục nước ta đạt được thời chiến tốt hơn thời
bình, (b)nền giáo dục nước ta hôm nay về cơ bản vẫn là một nền giáo dục lạc hậu
trên thế giới, so với nhiều nước ASEAN cũng vậy. Chất lượng nguồn nhân lực nước
ta còn thấp so với khả năng cho phép, chưa xây dựng được và chưa phát huy được
con người của tự do, của sáng tạo. Lao động cơ bắp và lao động trình độ thấp,
tâm lý làm thuê… vẫn là nét chủ yếu của nguồn nhân lực nước ta. Đây là nguyên
nhân cơ bản khiến nước ta lạc hậu mãi như hôm nay. Với thực trạng kinh tế -
chính trị - văn hóa - xã hội như hiện nay của đất nước, nền giáo dục của nước
ta tự nó cũng đang góp phần xứng đáng của nó vào việc làm hỏng đất nước với nhiều
hệ quả lâu dài, chưa biết sẽ làm sao khắc phục được. Vì sao như vậy?
1.1.2.:
Từ bắt đầu đổi mới năm 1986 đến nay có hiện tượng: Bộ máy ngày càng phình to,
nhưng chất lượng Đảng, hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước, phẩm chất cán bộ,
cứ sau mỗi Đại hội Đảng lại xuống cấp một ít, xuống cấp so với chính nó ở Đại hội
trước, và càng xuống cấp rõ hơn so với tình hình phát triển của đất nước đòi hỏi.
Ở đây chẳng những Đảng, hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước có những vấn đề bất
cập, mà còn có nhiều vấn đề thực sự là “lực bất tòng tâm”, bởi vì nhiều cái
đúng, cái tốt đã viết ra được, đã trở thành đường lối, nghị quyết và luật pháp,
thế nhưng thực thi không được bao nhiêu, hoặc thậm chí không hiếm trường hợp chỉ
còn lại là các văn kiện, văn bản – nghĩa là nằm trên giấy… Cứ nhìn vào tình
hình đất nước 10 năm vừa qua so với 10 năm trước đó sẽ rõ…
1.1.3.:
Hiến pháp nước ta ghi rõ ràng: Nhà nước của ta là nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Bất chấp mọi nỗ lực tiền của, thời gian, chất xám bỏ ra rất rất nhiều cho
xây dựng một nhà nước như thế, nhưng tại
sao cho đến hôm nay cái chất của dân, do
dân, vì dân của nó vẫn rất thấp? Thấp so với công sức bỏ ra đã đành,
càng thấp hơn so với đòi hỏi phát triển của đất nước. Có thể thấy ngay cái thấp,
cái bất cập này ở sự phát triển hầu như không thể kiểm soát nổi của nạn tham
nhũng, ở môi trường tự nhiên đang bị tàn phá và môi trường xã hội đang xuống cấp
trầm trọng, ở những ách tắc và bất cập ngay trong phát triển kinh tế, cũng như
trong xử lý những vấn đề của phát triển như y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội,
trong thực thi luật pháp; nhiều quyền tự do dân chủ của nhân dân đã ghi trong
Hiến pháp bị xâm phạm nghiêm trọng… Cái thấp này còn thấy rất rõ ở mức độ nền
dân chủ và sự công khai minh bạch của nước ta rất thấp so với những nước có GDP
p.c. tương tự như nước ta – ví dụ như Ấn Độ... Vì sao vậy?
1.1.4.:
Mới đây nhất tại Hà Nội (18-07-2011) xảy ra hiện tượng công an bắt và đạp vào mặt
người đi biểu tình bảo vệ chủ quyền quốc gia trên Biển Đông. Cùng với cách xử vụ
án Cù Huy Hà Vũ, sự việc này là diễn tiến mới của quá trình chế độ chính trị nước
ta sử dụng công cụ chuyên chính trực tiếp đàn áp việc làm yêu nước, phản ánh một
xu thế phát triển nguy hiểm cho mối quan hệ giữa nhân dân và chế độ chính trị. Đáng
lo hơn nữa là sự im lặng gần như điếc hẳn của toàn bộ khoảng 700 báo giấy và
các mạng truyền thông của cả nước về các cuộc biểu tình liên tiếp trong nước và
của nhiều người Việt đang sống tại nhiều nơi trên thế giới.
Giáo
sư Phạm Duy Hiển viết lên bức xúc của mình như thế này: “Mấy ngày hè nóng bỏng
vừa qua, một số người đã xuống đường (biểu tình). Con số ít lắm, vài trăm không
hơn. Lại cũng chỉ là một ép xi lôn (ε) so với dân số Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.
Nhưng những hình ảnh từ đây đã để lại bao nhiêu cảm xúc dâng trào cho hàng
triệu người Việt ở khắp nơi trên thế giới. Nhiều người đã khóc. Ngay đến bản
thân tôi, nước mắt tưởng đã ráo hoảnh từ lâu rồi, mà sao vẫn cứ tuôn trào. Thế
thì tại sao trên 700 tờ báo cách mạng không có lấy một dòng nào? Tại sao không
có lấy một vị Tổng biên tập nào dám hy sinh một ép si lôn (ε) đi để vừa được
yêu nước như các vị thường rao giảng trên các trang báo của mình, lại vừa khơi
dòng chảy thông tin tưới tắm cho đất nước? Hóa ra giờ đây chỉ cần một tý ép xi
lôn (ε) đó đủ để làm cho bạn hóa thân thành anh hùng dân tộc. Khó hiểu quá! Tôi
xin thề rằng trong cuộc đời làm khoa học của mình tôi chưa bao giờ được trải
nghiệm một nghịch lý quá bí hiểm như thế này…”
Đặt
sự “im
lặng” nêu trên bên cạnh việc cơ quan quản lý nhà nước ở Lạng Sơn, ở Nghệ
An phế bỏ những tấm bia của lịch sử yêu nước, chúng ta nghĩ gì?[3]…
1.1.5.:
Gần đây nhiều người không sao hiểu nổi chuyện xuất hiện “Trường Thành” dài khoảng
300m với dòng chữ “Bất đáo Trường Thành phi đáo Hán” ngay tại Đà Lạt… Đặc biệt kết
quả đau lòng của môn sử trong kỳ thi đại học năm nay (2011) làm cho những ai
quan tâm đến nền giáo dục nước nhà không thể bình tâm[4].
Tình hình chính trị - văn hóa - xã hội của nước ta như thế này thì nguy quá!
1.1.6.:
Sau 4 cuộc kháng chiến tự vệ đẫm máu, nhân dân ta rất thiết tha với hòa bình, mong
muốn làm bạn với mọi người, càng không muốn gây gổ với ai.., thế mà hôm nay nước
ta vẫn bị chèn ép nhiều bề, chưa dành được vị thế quốc tế đáng có và cần phải
có cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Trí tuệ nào và bản lĩnh nào mà lại
để cho đất nước rơi vào tình thế như vậy? Trên bàn cờ quốc tế, thật khó mà nói
được ta đã trở thành bạn tin cậy của ai, dù là ta muốn lắm; và cũng khó nói lắm
ai là bạn tin cậy của ta, dù là ta cần lắm. Đến hôm nay, ta vẫn chưa thể nói được
là đã thành phường thành hội với ai trên thị trường thế giới, đấy là bạn kinh tế.
Bạn chính trị càng mong manh hơn nữa. Vì sao chứ? Chính ta cũng phải tự hỏi
mình: Ta như thế này, không biết thiên hạ có thích làm bạn với nước ta không nhỉ?
Làm sao ăn ngon ngủ yên được nếu ta tự chất vấn: Nước ta đang đứng ở đâu trong
cái thế giới ngày càng quyết liệt này?
Vân vân…
1.1.7.:
Chưa
hết, còn một vấn đề vô cùng quan trọng, chi phối và sẽ quyết định
mãi mãi số phận của đất nước, đó là: Sau 36 năm độc lập thống nhất, xây dựng và
bảo vệ đất nước trong thời bình, vết thương dân tộc từ hai cuộc kháng chiến đầu
tiên sau Cách mạng Tháng Tám đến nay vẫn tiếp tục rỉ máu; sự nghiệp thu phục nhân
tâm về một mối vì sự yên ấm và cường thịnh của Tổ quốc vẫn còn xa vời phía trước.
Không hàn gắn được vết thương dân tộc vẫn đang rỉ máu này, mục tiêu của Cách mạng
Tháng Tám và của 3 cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc sẽ không còn mấy ý nghĩa.
Ở
đây không phải chỉ có những hệ quả không sao tránh khỏi thuộc vấn đề Nam/Bắc do
hai cuộc kháng chiến để lại, và cho đến nay cả khoa học và chính trị chính thống
của chế độ chính trị nước ta đều tìm cách lẩn tránh. Trên bàn thờ của hàng triệu
hàng triệu gia đình người Việt ta từ Bắc chí Nam, bên này hay bên kia, năm này
qua năm khác vẫn nghi ngút khói hương của đau thương, mất mát. Điều này có
nghĩa còn lẩn tránh, thì vấn đề này vẫn còn đấy, tương lai đất nước sẽ còn nhiều
trắc trở, không thời gian nào xóa được. Đơn giản vì lịch sử chẳng quên điều gì,
mỗi chúng ta cũng không được phép quên điều gì. Hơn nữa, xin đừng lúc nào quên
hơn 3 triệu người Việt hiện đang sống ở nước ngoài là máu thịt của cộng đồng
dân tộc Việt Nam ta, trong quá khứ, trong hiện tại và trong tương lai mãi mãi
là máu thịt của cộng đồng dân tộc Việt Nam ta, với tất cả mọi ký ức đau thương không
gì xóa được.
Lịch
sử quốc gia không chỉ là những việc đã xảy ra không làm lại khác được, mà còn để
lại những hệ quả. Hiện tại và tương lai của nước ta trong bối cảnh thế giới quyết
liệt ngày nay phụ thuộc sâu sắc vào việc chúng ta khắc phục những hệ quả này
như thế nào. Đấy là thực tế khách quan, không có cách gì phủ nhận hay tránh né
được.
Bàn
về sự thống nhất dân tộc, ở đây còn phải nói đến tình trạng khoảng cách giầu
nghèo ngày càng lớn đang không ngừng làm sâu sắc những phân hóa mới ngay trong
lòng xã hội nước ta. Lại thêm sự hoành hành của tham nhũng, của các nhóm đặc
quyền đặc lợi, sự xuất hiện các giai tầng xã hội mới với những bất công mới… Tất
cả những hiện tượng này khiến lòng dân không yên., Khẩu hiệu
Đảng đưa ra “Độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa xã hội”, “Chủ nghĩa xã hội là sự
lựa chọn của nhân dân ta!” trong bối cảnh cuộc sống thực như đã trình bầy
trên làm sao thuyết phục được nhân dân? làm sao gắn bó được nhân dân lại triệu
người như một?
Cho
nên, thu nhân tâm về một mối, thực hiện hòa hợp hòa giải đoàn kết dân tộc, để
không bao giờ tái diễn cảnh nồi da xáo thịt, để mãi mãi toàn dân tộc chung sức
chung lòng vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, dứt khoát không thể thực hiện
được chỉ bằng khẩu hiệu hay các việc nửa vời. Chính vì lý do này, đất nước đã
thống nhất, nhưng cho đến hôm nay vẫn chưa thể nói được lòng người đã thống nhất!
Cuộc
sống cũng chỉ ra: Nhiệm vụ trọng đại thu nhân tâm về một mối trước hết là vấn đề
của thực hiện dân chủ: thực hiện quyền làm chủ đất nước cuả người dân trong
toàn thể cộng đồng dân tộc ta[5].
Hòa hợp hòa giải đoàn kết dân tộc với tinh thần như vậy là điều kiện tiên quyết
mãi mãi cho một Việt nam hạnh phúc và cường thịnh.
Trở
lại câu chuyện hiền tài, không thể không đặt ra câu hỏi: Đã 36 năm rồi, nước ta
đang đứng ở đâu trong việc thực hiện điều kiện tiên quyết này? Trí tuệ và bản
lĩnh Việt Nam để ở đâu mà đến nay vẫn chưa thực hiện được bao nhiêu nhiệm vụ
thu nhân tâm về một mối như vậy? Chẳng lẽ dân tộc ta chỉ có khả năng thống nhất
khi chống ngoại xâm, nhưng không thể có thống nhất trong thời bình vì sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc?[6]
Bức
tranh tổng thể ngày nay của đất nước là: làm ăn thu được kết quả không tương xứng
với công sức bỏ ra, không tương xứng với những cái giá phải trả; thành tích nhiều
và tăng trưởng nhiều nhưng không bền vững và chất lượng thấp, bước phát triển
trước thường không chuẩn bị tốt được mà có khi gây thêm khó khăn cho bước phát
triển sau. So với thiên hạ, nước ta vẫn thua em kém chị nhiều mặt, khiến cho nước
ta đến nay vẫn chưa có được chỗ đứng xứng đáng trong cộng đồng quốc tế. Nhìn về
thời cơ và thách thức đang đặt ra cho đất nước thì còn đau đầu hơn nữa… Trong
những cái đạt được có không ít cái giả dối,
cái phô diễn, cái hình thức, chẳng những
gây tốn kém, mà còn mầm mống cho những khó khăn mới. Chính những cái “giả,
diễn, hão” này đang trở thành nguồn sống của tất cả những ký sinh làm
hao mòn sức sống của đất nước[7].
Chế độ chính trị tha hóa tới mức đang cản trở sự phát triển năng động của đất
nước[8].
Tình
trạng tha hóa của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước đến mức phải rút ra kết
luận: Tham nhũng là kẻ bóc lột
ghê tởm nhất trong chế độ ta, băng hoại mọi giá trị và đạo đức xã hội, làm nhụt
nhuệ khí của nhân dân, một mặt tìm cách thâu tóm quyền lực, mặt khác lại tạo trận
địa cho bàn tay của bên ngoài lũng đoạn. Có thể nói, ngày nay tham nhũng đang
làm cho đất nước nghèo đi và yếu hèn, đối kháng quyết liệt đối với mọi nỗ lực
vì dân chủ và tiến bộ xã hội, có nguy cơ cướp mất cơ hội phát triển mới của đất
nước. Vì những lẽ này, tham nhũng trở thành kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất
đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta!
I.
2. Đất nước
ta đang đứng trước một bước ngoặt quyết định
1.2.1.: Đứng cạnh Trung Quốc đang ngoi
lên siêu cường
Là nước láng giềng có vị trí địa lý nằm
án ngữ con đường độc đạo của Trung Quốc đang ngoi lên thành siêu cường, tạo hóa ác ý biến Việt Nam ta thành chướng ngại vật số
một mà Trung Quốc cần khuất phục bằng mọi cách, hòa bình hay không hòa bình. Tự
thân cuộc sống đặt ra cho nước ta vấn đề sống còn như thế, không quan tâm đến
việc nước ta chấp nhận đối mặt hay chạy trốn[9].
Trung Quốc quyết liệt như thế nào để trở thành siêu cường, thì mức độ đối xử của
họ đối với cái chướng ngại vật tự nhiên có
tên gọi là Việt Nam này sẽ quyết liệt như thế, dù ta có quỳ xuống van xin để được
yên thân cũng không thoát. Thực tế này là một áp đặt bất khả kháng, không cho nước
ta lựa chọn, mà chỉ đặt ra câu hỏi quyết liệt như một định mệnh:
Là láng giềng sát nách một siêu cường Trung
Quốc đang lên như thế, Việt Nam lựa chọn cho mình một chiến lược thích nghi và
phát triển như thế nào để vẫn giữ được độc lập chủ quyền quốc gia, đồng thời là
một đối tác được tôn trọng?
Thật ra bây giờ mới đặt ra cho cả nước,
cho toàn dân tộc câu hỏi này là quá muộn, bởi lẽ tham vọng trở thành siêu cường
của Trung Quốc không phải do người Trung Quốc đêm hôm qua quá chén chợt nghĩ
ra. Nếu quan tâm đến những ý kiến cảnh báo của cố Tổng bí thư Lê Duẩn, đặt ra
câu hỏi này trước và sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975 cũng không phải là sớm[10].
Nhưng cho đến hôm nay, thực sự nước ta vẫn chưa có câu trả lời.
Ngày nay, chừng nào nước ta – từ người lãnh đạo cao nhất đến từng người dân –
còn chưa nghiêm túc đặt ra cho mình câu hỏi nêu trên thì vẫn chưa thể có câu trả
lời.
Trung Quốc bây giờ không còn chỉ nói
nữa, họ đang leo thang trong hành động. Gần đây nhất, sau sự kiện
Bình Minh 02 và sự kiện Vicking II, ngày 16-06-2011 Trung Quốc lại cử tầu tuần
tra, thực chất là một chiến hạm, mang tên Haisun số 31, có trọng tải 3000 tấn
và mang theo trực thăng, nhằm đơn phương xác quyết đường lưỡi bò 9 vạch, kết
hợp với đi thăm chính thức Singpore! Đồng thời hiện nay Trung Quốc vẫn tiếp tục
đuổi bắt thuyền đánh cá của ngư dân ta, tiến hành những hoạt động xâm phạm vùng
biển nước ta, Mọi kịch bản “xử lý” cái chướng ngại vật này từ thấp đến cao đã
được soạn thảo. Trên báo chí tiếp tục ngôn ngữ bá chủ, trấn an, mạt sát, xuyên
tạc nước ta... Mọi phương án đã sẵn
sàng!
Nếu chúng ta theo dõi chặt chẽ những động
thái xảy ra trong đời sống hàng ngày ở khắp mọi miền đất nước ta, qua đó xem
xét cặn kẽ sự thâm nhập, sự lũng đoạn của quyền lực mềm Trung Quốc vào toàn bộ
đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nước ta, vào các vấn đề có
liên quan đến an ninh và quốc phòng của ta.., có thể nhận định: Tình hình rất nguy hiểm, Trung Quốc đã đi được
những bước quan trọng trên con đường theo đuổi ý đồ chiến lược là tạo ra một Việt
Nam lệ thuộc, èo uột, để dễ bề khuất phục[11].
Lại một lần nữa liên quan đến câu hỏi
“Vì
sao..?”: Trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam hôm nay ứng xử ra sao trước những
thách thức như thế của siêu cường Trung Quốc đang lên? Chúng ta ngày nay đã và
đang làm gì so với tổ tiên và các bậc tiền bối của chúng ta trong suốt lịch sử
hơn 2000 năm dựng nước và giữ nước?
…
Toàn bộ
câu chuyện được trình bầy trong phần mở đầu này của bài viết đã phác hoạ ra bối
cảnh của đất nước và tầm vóc những bức xúc đặt ra cho câu hỏi: “Vì sao
chế độ chính trị hiện nay không sử dụng được người tài?”
Hy vọng là thế.
Bởi vì trả lời
hai chữ “vì sao..?” hóc búa này, chúng ta không thể tùy tiện tư duy theo nhận
thức chủ quan hay ước vọng của chúng ta trong một thế giới hư không được, mà phải
bám sát những vấn đề, những thách thức phía trước đang đặt ra cho đất nước ta
trong bối cảnh quốc tế hôm nay.
I.2.2.: Đòi
hỏi duy tân đất nước
Có thể khái
quát như thế này:
(a)Kinh tế nước
ta đã trải qua thời kỳ phát triển ban đầu, hiện nay đang đứng trước yêu cầu nhất
thiết phải chuyển đổi cơ cấu để đi vào thời kỳ phát triển bền vững. Vì đòi hỏi
khách quan này không đáp ứng được, nên sau khi các biện pháp của đổi mới đã làm
xong nhiệm vụ của nó và hết đà, kinh tế nước ta từ năm 2008 lâm vào cuộc khủng
hoảng kéo dài và sâu sắc nhất kể từ khi tiến hành đổi mới. Nguyên nhân từ bên
ngoài đến sau và tác động thêm vào.
(b)Đồng thời
nước ta phải đối mặt với cục diện quốc tế đầy những thách thức mới do xuất hiện
một Trung Quốc đang ngoi lên thành siêu cường, lại trong bối cảnh kinh tế và
chính trị thế giới đang có nhiều biến động lớn.
(c)Thể chế
chính trị nước ta ngày càng tụt hậu so với sự phát triển của đất nước cũng như
so với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong bối cảnh quốc tế mới. Thực tế
này đòi hỏi phải cải cách triệt để thể chế chính trị nước ta để có thể đáp ứng
được những nhiệm vụ mới đã nêu trong hai điểm (a) và (b) nói trên.
Ba vấn đề vừa
nêu cho thấy: Những biện pháp trong tiến hành đổi mới như vừa qua đã thực hiện xong,
nhưng bây giờ là không đủ, và trước bước
ngoặt định mệnh của đất nước hôm nay là không còn thích hợp nữa! Tất cả phải
xem lại, phải thay đổi, để mở ra cho đất nước một thời kỳ phát triển mới.
Trong cục diện mới
của thế giới với Trung Quốc đang ngoi lên thành siêu cường, sự tồn tại và phát
triển của nước ta đặt ra đòi hỏi khách quan là phải tìm ra một con đường mới, một
chiến lược phát triển mới thích nghi được với cục diện mới này. Đây là vấn đề
chiến lược có ý nghĩa sinh tử đối với đất nước, nêu ra bây giờ đã là muộn nhưng
chưa phải là quá muộn. Cốt lõi của vấn đề này là làm sao tạo ra được cho nước
ta sức
mạnh kinh tế, nội trị và đối ngoại để có thể “trụ” được - với nghĩa là không đánh mất mình - và phát
triển được bên cạnh một siêu cường đang “nóng” như thế.
Câu trả lời chỉ
có thể là: phải có một thể chế chính trị có khả năng phát huy được nguồn lực lớn
nhất của đất nước là con người Việt Nam, để xây dựng và thực hiện được một chiến
lược phát triển kinh tế, nội trị và đối ngoại tạo ra cho Việt Nam có sức
mạnh thích nghi với cục diện mới của thế giới.
Có thể nói tới mức:
Đặt vấn đề như vậy, có nghĩa là chúng ta phải thay đổi tất cả, từ tư duy đến
hành động, từ chiến lược mới phải đề ra cho đến mục tiêu phải đạt được… Xem xét
như vậy, có thể nói ngay: Chiến lược công nghiệp hóa – hiện đại hóa đến năm
2020 như đang tiến hành chẳng những sẽ là không thực hiện được mà còn trở nên lỗi
thời, thậm chí sẽ phá sản bên cạnh “cái công xưởng của thế giới” là siêu
cường TQ đang lên như vậy – đơn giản vì không cạnh tranh nổi, và ngày càng lệ
thuộc. Xem xét các lĩnh vực khác cũng phải rút ra những nhận xét tương tự… Hơn
nữa, cục diện chính trị thế giới đang thay đổi sâu sắc trong quá trình phân cực mới.
Khi đất nước bi
xâm lược, tất cả phải tập trung vào nhiệm vụ đánh giặc cứu nước. Bây giờ đất nước
đứng trước bước ngoặt quyết liệt như một định mệnh, tất cả phải vì sự nghiệp
duy tân đất nước.
Vì vậy, tất cả phải
được nhìn nhận lại. Tất cả phải thay đổi! Đòi hỏi này đã quá chín muồi, cần được
nêu ra cho toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam ta xem xét và quyết định – một
nhiệm vụ vô cùng quan trọng không thể thoái thác của ĐCSVN với tính cách là đảng
lãnh đạo, trừ phi ĐCSVN muốn tự hạ thấp mình xuống đảng cầm quyền hay đảng cai
trị!
Hiển
nhiên, dấy lên một phong trào duy tân đất nước ngày nay trở thành lẽ sống còn.
Ba
đòi hỏi vừa nêu trên cho thấy mỗi người dân Việt ta phải sớm rũ bỏ mọi yếu kém và các thói hư tật xấu,
phải gạt sang một bên mọi giáo điều, để tìm ra bằng được câu trả lời phải có
cho đất nước trước bước ngoặt định mệnh này. Cả nước cần một lòng, một ý chí tạo
dựng nên một nước Việt Nam là một đối tác đứng được trên đôi chân của mình và
được cả thế giới tôn trọng.
Tôi chưa tìm
ra được tên gọi vừa với ý mình cho đoạn đường mới phía trước đất nước phải vạch
ra do bước ngoặt này. Nhưng tôi cảm nhận được sự bức súc: Để nước ta tiếp tục
đi lên trong thế giới ngày nay có siêu cường Trung Quốc sát nách đang xuất hiện,
lại trong một thế giới đang diễn ra nhiều thay đổi quyết liệt, nước ta rất cần
một phong
trào duy tân, duy tân triệt để, đại thể có tầm
vóc vực dậy đất nước đứng lên khỏi trạng thái èo uột và bị uy hiếp như hiện
nay, một sự nghiệp vực dậy như đã từng diễn ra và làm nên cường quốc kinh tế Nhật Bản hôm nay sau
chiến tranh thế giới II, hay đại thể như đã từng diễn ra ở Nam Triều Tiên sau
chiến tranh để từ đó làm nên nước công nghiệp Hàn Quốc có nền kinh tế hiện nay
đứng thứ 9 thứ 10 thế giới… Thiết nghĩ đòi hỏi duy tân đất nước ngày nay có lẽ
còn thúc bách hơn nhiều lần so với thời Phan Châu Trinh – vì đòi hỏi phát triển
của chính nước ta, vì yêu cầu phải cùng với cả cộng đồng các quốc gia trên thế giới dấn thân cho hòa bình,
dân chủ, quyền con người và bảo vệ môi trường. Song ngày nay sự nghiệp duy tân
đất nước ta cũng hiện thực hơn trước nhiều lần.
Một thời kỳ phát
triển duy tân như thế cho đất nước sẽ được hình dung, được phác thảo như
thế nào, xin dành cho những dịp khác khi được bàn tới. Nhưng ngay trong bài viết
này tôi muốn nhấn mạnh: Một đòi hỏi về duy tân đất nước như thế, thiết nghĩ
nó phải được cảm nhận sâu sắc trong hơi thở, trong ý nghĩ, trong mọi câu trả lời
cho mọi câu hỏi đất nước đang đặt ra cho chúng ta hôm nay. Một nền dân chủ đích thực cho đất nước, một
nền giáo dục tiên tiến, sàng lọc và rèn luyện để tạo lập nên một tầng lớp tinh
hoa lèo lái con thuyền quốc gia trong đại dương thế giới hôm nay – thiết nghĩ đấy là 3 mục tiêu cụ thể của phong
trào duy tân này, cần thực hiện bằng được.
Ba mục tiêu
này có lẽ sẽ mãi mãi là 3 cột trụ của sự phát triển bền vững
cho một Việt Nam hạnh phúc, cường thịnh. Bởi vì Việt Nam không thể vươn ra đại dương thế giới bằng con tầu ọp ẹp do
thiếu vắng nền dân chủ đích thực và nền giáo dục tiên tiến. Con tầu Việt Nam
không thể thiếu vắng đội ngũ tinh hoa tiên tiến của dân tộc vận hành nó trên đại
dương đầy sóng gió. Ba cột trụ này của sự phát triển là những điều kiện tiên
quyết để xây dựng thành công cấu trúc giường cột của một quốc gia phát triển dựa
trên kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự. Tôi tin vững chắc
vào điều này.
Hãy mở đầu việc
phấn đấu thực hiện phong trào duy tân
này bằng thực hiện sự công khai minh bạch trong mọi lĩnh vực của cuộc sống
đất nước, trước hết thực hiện sự công khai minh bạch mang lại sự thuyết phục
cao nhất và sự đồng tâm nhất trí cao nhất về đòi hỏi tất yếu phải xây dựng bằng
được 3
cột trụ này của sự phát triển cho đất nước chúng ta. Tôi hy vọng đã diễn
tả được những ước muốn khát khao của mình về một phong trào duy tân cần dấy lên
này cho đất nước ta.
Tự đáy lòng
mình, tôi thực sự muốn nói: Cả dân tộc Việt Nam ta lúc này hơn bao giờ hết cần
mau chóng thức dậy khỏi cơn mê muội đất nước èo uột hiện nay, vì sự nghiệp duy
tân này! Toàn thể dân tộc ta cần xả thân cho sự nghiệp duy tân này – với tinh
thần: Sống hay là chết! Trí tuệ và người tài của đất nước cần đi đầu
dấn thân cho phong trào duy tân này, với tất cả tinh thần: Sống hay là chết!
ĐCSVN hiện nay nếu muốn tiếp tục vai trò lãnh đạo đang
giữ trong tay và nếu muốn đi hẳn với dân tộc, nhất thiết phải bằng mọi giá
tạo ra cho mình phẩm chất và khả năng dấy lên và đi đầu một phong trào duy tân
đất nước như thế của dân tộc. Quyết định này đối với ĐCSVN chí ít cũng đầy đủ ý
nghĩa với tất cả sự quyết liệt: Sống hay là chết! Còn hay không còn sự tồn tại
của ĐCSVN với tính cách là một đảng cách mạng – đảng lãnh đạo! Không có
bất kỳ duy ý chí nào buộc ĐCSVN phải làm như vậy, mà chỉ có bước ngoặt định mệnh
phía trước của đất nước áp đặt lên Đảng phải lựa chọn quyết định sống còn này
mà thôi[12].
Lẽ dĩ nhiên, chỉ có đảng cầm quyền, đảng cai trị thì chẳng cần và cũng chẳng muốn
sự lựa chọn này!
II. Đánh vật với câu hỏi “Vì sao..?”: Một chế độ chính trị đồng nghĩa với
quốc gia
Khi nhóm nghiên cứu giúp cựu Thủ tướng
Võ Văn Kiệt (lúc này đồng chí Võ Văn Kiệt đã nghỉ hưu) bàn về vấn đề đổi mới
công tác xây dựng Đảng, tìm hiểu những nguyên nhân nào dẫn đến sự thành công của
ĐCSVN trong Cách mạng Tháng Tám và trong 4 cuộc chiến tranh ái quốc, tôi cho rằng
có 4 nguyên nhân chính:
1. Đảng giác ngộ đươc sâu sắc sự nghiệp giành lại độc lập
thống nhất đất nước.
2. Để ra được chủ trương đường lối và những quyết sách thực
hiện được sự nghiệp này.
3. Đảng phát huy được sức mạnh của nhân dân thực hiện sự
nghiệp này và tranh thủ được sự hậu thuẫn của trào lưu thế giới tiến bộ.
4. Đảng viên và toàn bộ hệ thống chính trị của Đảng đi đầu
hy sinh phấn đấu cho sự nghiệp này.
Trong 4 nguyên nhân nêu trên, hiển
nhiên trí tuệ và ý chí là yếu tố nổi bật, là nền tảng của đạo đức cách mạng, là
chính phẩm chất cách mạng.
Tôi chủ định không viện dẫn bất kỳ chủ
nghĩa hay tư tưởng nào trong 4 nguyên nhân nêu trên, vì cho rằng mọi thứ chủ
nghĩa hay tư tưởng nếu đúng và nếu được thực hiện đúng, thì cũng chỉ là phương
tiện thực hiện những nhiệm vụ cụ thể của sự nghiệp giành lại độc lập thống nhất
đất nước trong từng thời kỳ và trong bối cảnh nhất định, và cũng chỉ đem lại một
số kết quả nhất định mà thôi. Không nên biến những thứ này thành kinh thánh, hoặc
quy luật cho muôn đời. Đấy là chưa nói đến những thứ chủ nghĩa và tư tưởng này
trong những phương diện và hoàn cảnh nhất định đã gây ra không ít tác hại cho đất
nước ta trên con đường đấu tranh tự giải phóng mình và vươn lên. Vì thế còn phải
nói: Không có 4 nguyên nhân này, nói khái quát hơn nữa, không có phẩm chất này,
chủ nghĩa hay tư tưởng nào cũng không dùng được.
Nếu có gì đáng nói về
ý thức hệ, hay gọi một cách suy nghĩ nào đó là ý thức hệ phải tuyệt đối trung
thành, thì đó chỉ có thể là ý thức và tinh thần: Tổ quốc Việt Nam trên hết! Lợi
ích quốc gia Việt Nam trên hết!
Suy nghĩ như vậy, xin tha thứ và xin đừng
quy kết là ngạo mạn khi tôi cho rằng: Ý thức hệ này của dân tộc ta nói chung ngày
nay còn nhiều mặt yếu kém so với đòi hỏi khách quan của thế giới đặt ra. Ở những người nắm trong tay địa vị lãnh đạo, yếu kém này
càng lớn so với trách nhiệm của họ đối với đất nước – dù họ là ai, bên này hay
bên kia; bởi vì lợi ích quốc gia, sự tôn nghiêm và danh dự của đất nước chỉ có
một sự phán xét chung không phân biệt đối sử dành cho mọi công dân của nó! Đặc điểm lớn nhất của yếu kém này có lẽ là những
hạn chế trong xác lập tầm nhìn thế giới cho phép định vị chính xác chỗ đứng phải
lựa chọn và lợi ích của quốc gia mình trong mọi tình huống biến động của thế giới.
Sự yếu kém này có lẽ là nguyên nhân chủ yếu,
hoặc là một trong những nguyên nhân chủ yếu, khiến cho về đối nội
đã góp phần không nhỏ đẩy đất nước rơi vào nhiều vòng đau thương, và cho đến
hôm nay vẫn chưa tạo ra được sự đồng thuận và sự thống nhất ý chí dân tộc mà vận
mệnh và sự nghiệp của đất nước luôn luôn đòi hỏi. Về đối ngoại, yếu
kém này không ít lần xô đẩy đất nước, hoặc không cứu được đất nước ra khỏi sự
xô đẩy của các cơn bão trên bàn cờ quốc tế. Là môt nước nhỏ cạnh nước lớn “rất
nóng”, lại là môt nước luôn luôn có vị trí địa chính trị là nơi tranh chấp của
các lực lượng khác nhau trên thế giới, ý thức hệ này – nói chuẩn xác hơn là sự
giác ngộ này về chỗ đứng đất nước phải lựa chọn và về lợi ích quốc gia trong bối
cảnh quốc tế – là đòi hỏi sống còn giữ cho đất nước thoát khỏi cảnh
trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết, là
không thể thiếu để chủ động làm thất bại mọi ý đồ muốn biến đất nước ta thành một
bình phong hay một quân tốt trên một bàn cờ nào đó.
Trên hết cả, là một đất nước luôn luôn phải
đứng chính diện trên điểm nóng bỏng thường trực của địa kinh tế và địa chính trị
thế giới gần 2 thế kỷ nay, sự giác ngộ này về chỗ đứng đất nước phải lựa chọn và về lợi
ích quốc gia trong bối cảnh quốc tế là điều kiện tiên quyết để nước ta
có ý chí và có khả năng tạo ra được cho mình con đường giành lấy vị thế quốc tế
xứng đáng.
Không phải ngẫu nhiên trong giới nghiên cứu
đã có người phải kêu lên: Việt Nam luôn
luôn là nạn nhân của sự tàn bạo của địa lý! Viêt Nam mắc phải “lời nguyền” địa
lý… Hiển nhiên không một thứ “chủ nghĩa” hay “tư tưởng” nào có thể giúp nước ta thay đổi tình huống này. Thử hỏi,
chính người Việt chúng ta ngày nay đã giác ngộ đầy đủ thực tế địa lý bạo ngược
này áp đặt lên đất nước ta? Xin hãy tỉnh lại đi! Chúng ta phải tỉnh lại để dứt
khoát bứt ra khỏi sự mê hoặc của bất kỳ cái gì gọi là “chủ nghĩa” và “tư tưởng”!
Giữa một bên là đòi hỏi của đất nước về sự
giác ngộ này, một bên là trí tuệ và cái tâm của chúng ta, rõ ràng là có khoảng
cách lớn. Trong thế giới quyết liệt ngày nay, sự giác ngộ này là điều mỗi người Việt Nam chúng ta đang cần
nhất, để tự quyết định vận mệnh của mình và của đất nước. Nhìn chung trong cả
nước, sự giác ngộ này còn đứng cách xa những đòi hỏi và thách thức của đất nước
ngày nay.
Xin được bàn sâu về chủ đề này trong một dịp
thuận tiện.
Liên quan đến câu hỏi “vì sao?”
của hội thảo này, phải chăng chính vì có phẩm chất như đã trình bày trên, nên
chế độ chính trị nước ta suốt thời kỳ
này – 1945-1975 – về cơ bản đã làm tốt được nhiệm vụ phát huy và sử dụng người
tài?
Có rất nhiều dẫn chứng làm cơ sở cho
nhận định trên. Mọi người chắc hẳn còn nhớ tiếng gọi của non sông đất nước hồi ấy
đã thức tỉnh toàn dân đứng lên làm Cách mạng Tháng Tám, toàn dân quyết tâm
kháng chiến cứu nước với tất cả tinh thần ai có súng dùng súng, ai không có
súng thì dùng gươm giáo gậy gộc… Tiếng gọi non sông đất nước lúc ấy chính là tiếng
gọi của Đảng hồi ấy. Các chiến sỹ tiên phong trong cuộc chiến đấu này chính là
các đảng viên một lòng vì dân vì nước… Đảng lúc bấy giờ còn ít lắm, với chỉ khoảng
50 nghìn đảng viên, Đảng không thể có mặt ở khắp mọi nơi, nhưng Đảng là linh hồn
của cuộc Cách mạng này, của kháng chiến… Đảng lúc ấy đã làm cho cuộc Cách mạng
này, và cuộc kháng chiến sau đó trở thành sự nghiệp của toàn dân, do chính nhân
dân thực hiện, vì khát vọng cao cả nhất của nhân dân: Chấm dứt kiếp nô lệ, giành lại độc
lập và quyền của người dân làm chủ đất nước…
Sử dụng người tài trong thời kỳ này, ở
góc độ bình dị nhất là phát huy tài năng, trí sáng tạo, quyết tâm của từng
người dân tham gia kháng chiến. Rất dễ hiểu, đánh lại kẻ giặc mạnh hơn mình
rất nhiều, với tay không, hoặc chỉ với vũ khí thô sơ, mà không có trí tuệ sáng
tạo, không có những kỹ năng tối thiểu cần thiết, thì rõ ràng không thể giành thắng
lợi.
Đáng lưu ý: Trong quá trình cách mạng
này, có không biết bao nhiêu người dân bình thường – dù thuộc thành phần xã hội
nào và ở trình độ trí thức nào, kể từ những người khố rách áo ôm với đúng nghĩa đen của cụm từ này, những người thất
học, cho đến những người ở các tầng lớp xã hội khác, có học vấn cao thấp khác
nhau, đã trở thành các tướng tài, các chỉ huy giỏi, các cán bộ kiệt xuất, là
giường cột của sự nghiệp cách mạng… Thắng lợi của cách mạng, của kháng chiến
không thể thiếu những tài năng và những người tài như thế. Cũng còn phải nói,
cách mạng và kháng chiến đã làm nên những tài năng và những người tài như thế!
Sử dụng người tài trong thời kỳ này ở
góc độ phát huy vai trò các nhân sỹ, nhân tài của dân tộc, lịch sử nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa có biết bao nhiêu sự kiện lay động lòng người về đoàn kết
hòa hợp dân tộc trên tinh thần dân chủ, và còn mãi mãi ấn tượng sâu sắc đến hôm
nay và mai sau. Có lẽ chưa một thời kỳ nào có nhiều nhân sỹ và nhân tài tham
gia Chính phủ lâm thời, Chính phủ VNDCCH, tham gia kháng chiến và tham gia
chính sự đất nước như thời kỳ này, đóng góp vô cùng quan trọng vào thành công của
Cách mạng – nhất là trong khi Cách mạng ở thời kỳ trứng nước và trong nhiều vấn
đề quan trọng khác – ví dụ như sự nghiệp phát triển giáo dục, sự nghiệp phát
triển y tế, xây dựng nhà nước pháp quyền… Ngày nay mọi người còn nhắc đến “thế hệ
vàng” là các trí thức và nhân sỹ lớn đã đem hết tâm huyết và trí tuệ phụng
sự đất nước, góp phần làm nên những thành quả có tính cách đặt nền móng cho sự
nghiệp phát triển các lĩnh vực khác nhau của đất nước sau này.
Vậy phải chăng có thể sơ bộ kết luận,
suốt thời kỳ này người tài được trọng dụng và phát huy cao độ vì các lẽ:
1)
Chế độ chính trị
được lãnh đạo bởi tầng lớp có trí tuệ và ý chí cách mạng kiên định – tiêu biểu
là các nhân vật lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và công cuộc kháng chiến.
2)
Hệ thống chính trị
và bộ máy nhà nước được xây dựng gồm những con người gắn bó với nhân dân, trung
thành với sự nghiệp cách mạng, được rèn luyện và lựa chọn thông qua thử thách
trong quá trình cách mạng.
3)
Nhờ nguyên nhân 1
và 2 (cơ bản vẫn là những nguyên nhân con người, nguyên nhân có người tài[13]
trong hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước) hệ thống chính trị và bộ máy nhà
nước một mặt có khả năng lớn thực thi các nhiệm vụ cách mang đề ra, nói được là
làm được; mặt khác nó gắn bó mật thiết với nhân dân; bản thân hệ thống chính trị
không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân và của sự nghiệp mạng.
4)
Trong thời chiến
không thể có thiết chế dân chủ giống như trong thời bình với mục đích tạo ra sự
đồng thuận xã hội cao nhất cho mọi vấn đề, mọi nhiệm vụ đất nước đặt ra. Thế
nhưng bản chất và khả năng của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước thời ấy
như đã nêu trong điểm 3 cho phép tạo ra sự đồng thuận lớn nhất của nhân dân cho
nhiệm vụ cách mạng, tạo ra sức mạnh to lớn hoàn thành nhiệm vụ cách mạng (nghĩa
là trong bối cảnh kháng chiến và vì nhiệm vụ chính trị là kháng chiến, có thể
nói chế độ chính trị nước ta thời ấy là rất dân chủ).
5)
Tuy các thiết chế
luật pháp thời kỳ này còn rất sơ sài, song hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước cùng với những con người của
nó chịu sự thử thách, sàng lọc rất nghiêm khắc của bản thân cuộc kháng
chiến, của tinh thần tự giác cao ở từng con người phụng sự trong hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước, của cả xã hội
kháng chiến cứu nước. Lẽ đơn giản bất kể sự tha hóa nào trong chiến tranh, dù
là của tổ chức hay của cá nhân, đều ngay tức khắc gây ra thất bại và đều ngay tức
khắc bị chiến tranh sát phạt nghiêm khắc, nhiều khi phải trả xương máu rất đắt.
Thực tế này là cơ chế sàng lọc, đào thải
không thương tiếc mọi tha hóa và bất cập của hệ thống cũng như của từng con người
trong hệ thống, không dung tha chủ nghĩa cơ hội[14].
6)
Hệ thống chính trị
và bộ máy nhà nước – nói gọn là chế độ chính trị - của thời kỳ này phát huy được
và tạo ra được những giá trị cao đẹp làm nền tảng vững chắc cho một môi trường
xã hội lành mạnh của những đức tính cao quý: sống vì sự nghiệp chung, tự do
phát huy hết khả năng mình cống hiến cho sự nghiệp chung, bình đẳng trong trách
nhiệm và trong cống hiến… Sự bình đẳng ấy cũng có nghĩa là dân chủ. Đó là một
môi trường giải phóng mọi khả năng cống hiến và không dung dưỡng mọi tha hóa. Đấy
cũng là tự do và dân chủ có thực chất trong bối cảnh thời chiến thiếu vắng
các thiết chế chính quyền và pháp luật cần thiết cho tự do và dân chủ. Chính
không khí tự do và dân chủ trong bối cảnh thời chiến như vậy, trong thước đo
giá trị của toàn xã hội thời đó là như vậy, nên đã tạo ra và phát huy được người
tài, trọng dụng người tài, tôn vinh người tài.
Nếu phải tóm tắt cả 6 nguyên nhân nêu
trên trong một nhận xét khái quát, thì đó chính là thời kỳ đất nước ta có được một
chế độ chính trị đối với người dân gần như đồng nghĩa với tổ quốc.
Diễn đạt nôm na: Người dân yêu chế độ
chính trị này của đất nước mình, tự hào về nó, thấy đáng sống và đáng chết vì
nó, sẵn sàng hy sinh chiến đấu bảo vệ nó như tổ quốc. Dưới chế độ chính trị
này, nếu người dân không có được tự do và dân chủ trong bối cảnh thời chiến như
vậy, không cảm nhận được sự đồng nghĩa của chế độ chính trị gần như đồng nghĩa
với tổ quốc như vậy, làm sao người dân có thế tự giác đánh giặc cứu nước? làm
sao chế độ chính trị này có thể phát huy tinh thần, nghị lực sáng tạo và sức
chiến đấu của họ?
Đó cũng là chế độ chính trị đã thu hẹp
được đến mức tối đa – nghĩa là thu hẹp đến mức hầu như không còn khoảng cách
phân biệt giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo, thời kỳ ý chí và quyền lợi của lãnh đạo
và của bị lãnh đạo đồng nhất với nhau làm một: Tất cả cho kháng chiến thắng lợi!
Và chính thực tế này đã phát huy cao độ tự do và dân chủ của lãnh đạo và
của cả bị lãnh đạo trong bối cảnh của thời chiến - vì những mục đích chung, lãnh
đạo và bị lãnh đạo đều cùng nhau chia sẻ, đều cùng nhau gánh vác, cùng nhau chịu
trách nhiệm, để phụng sự sự nghiệp của cách mạng.
Nếu ôn lại không biết bao nhiêu cuộc
chiến phải hy sinh đẫm máu của nhân dân để bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ cán bộ,
bao nhiêu gương đấu tranh khác của nhân dân vì sự nghiệp cách mạng.., thì nhận
xét khái quát này hoàn toàn thích hợp cả về ngôn ngữ cũng như về mặt tinh thần
và nội dung. Chính trong bối cảnh ấy
nhân tài rộ nở, được phát huy, được trọng dụng, được tôn vinh, được sản sinh
thêm mãi.
Đến đây có lẽ được phép suy luận: Chế độ
chính trị hiện nay không sử dụng được người tài, bởi vì tính chất của nó “gần
như đồng nghĩa với tổ quốc” trong quan hệ với người dân đang ngày càng sa sút
hoặc thậm chí ngày nay đã bị đánh mất. Chế độ chính trị này mặc dù ngày nay có
không ít các thiết chế luật pháp và hành chính dành cho tự do và dân chủ, song vì
không thực thi được, nên nó chưa mang lại, hoặc không mang lại được bao nhiêu tự
do và dân chủ có thực chất cho người dân. Về nhiều phương diện nó đang diễn biến
thành chế độ cai trị!
Phải chăng là như vậy?
Đấy là chưa nói, sáng tạo đích thực bao giờ cũng là sản phẩm của giải
phóng, là sản phẩm của tự do và dân chủ. Phát huy tài năng đích thực lại càng phải
có tự do và dân chủ. Chế độ chính trị muốn dùng được nhân tài lại càng cần phải
có tự do, dân chủ - đây chính là ách tắc mấu chốt trong chế độ chính trị nước ta
ngày nay.
III.
Tìm hiểu một số vấn đề hóc búa
III.1.: Cơ chế “đảng hóa” ngày nay và hệ
lụy
Cơ chế đề kháng tha hóa đã thiết lập được cho chế độ chính trị thời chiến
ngày nay không còn hữu hiệu trong thời bình; hệ thống chính trị - xã hội và bộ
máy nhà nước trong thời bình đang bị hiện tượng “đảng hóa”, hiện tượng “cơ cấu”
biến tướng trầm trọng thành hệ thống “đảng
trị”, mọi nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền trên thực tế chỉ đang hình thành
được nhà nước nhân trị, nhà nước “đảng trị”, với nhiều hệ quả nặng nề đầy nguy
hiểm cho đất nước.
Có thể nói, với tính cách là đảng cầm quyền, cho đến hôm nay ĐCSVN đã bỏ
ra những nỗ lực rất lớn, để chuyển chế độ về cơ bản là chế độ chỉ huy cai quản
đất nước trong thời chiến, sang chế độ pháp trị cai quản đất nước trong thời
bình. Đảng cầm quyền đến hôm nay đã xây dựng nên được một hệ thống chính trị -
xã hội và bộ máy nhà nước hoàn chỉnh,
theo nghĩa là có đầy đủ đầu mình và chân tay của một hệ thống nhà nước pháp trị,
có hệ thống kinh tế quốc doanh là chủ đạo làm nền tảng, có hệ thống MTTQVN là mối
liên hệ kết nối trong xã hội. Nhà nước mà Đảng xây dựng ra cho dân được ghi rõ
trong Hiến pháp là nhà nước của dân, do dân, vì dân… Tuy vậy, cái cốt lõi, cái
linh hồn của hệ thống mới này hôm nay, về cơ bản vẫn là cái cốt lõi và cái linh
hồn của hệ thống nhân trị của chế độ một đảng hôm qua trong thời chiến: Đảng
quyết định tất cả. Hơn thế nữa, đảng cầm quyền hôm nay chủ yếu chỉ làm
cái việc Đảng quyết định tất cả, nhưng lại không chịu trách nhiệm về tất cả,
và không làm hay không còn làm được bao nhiêu nữa vai trò lãnh đạo với đúng
nghĩa của khái niệm lãnh đạo.
Tình trạng mất dân chủ trong Đảng càng
gia tăng, thì cái cốt lõi, cái linh hồn “cũ” thời cách mạng vinh quang đáng tự
hào xưa bây giờ ngày càng biến tướng, càng tha hóa trong thời bình. Hôm nay, cái
tha hóa này nhẩy lên thống soái ngay trong Đảng, đồng thời nó thống soái mọi mặt
phát triển và vận mệnh của đất nước. Chính thực trạng này đã và đang ngày càng
làm méo mó hoặc vô hiệu hóa từng bộ phận cái chế độ nhà nước pháp trị mà Đảng đang
ra sức xây dựng dưới cái tên nhà nước
pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính cái tính thống soái này –
thể hiện dưới cái tên gọi chính thức của nó trong các văn kiện chính thức là “tính
quán triệt” – đang trực tiếp và
hàng ngày không ngừng xô đẩy Đảng từ vị thế người lãnh đạo trong thời chiến
sang vị thế người cai trị trong thời bình. Ngày nay Đảng đang bước tiếp trên
con đường: Kẻ thắng trở thành ông vua. Hiện tượng này rõ nét nhất ở chủ trương
“đảng
hóa”[15] từ
A đến Z toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội và bộ máy nhà nước, được thực hiện
thông qua cái gọi là “cơ cấu” – nhân danh bảo vệ vai trò
lãnh đạo của Đảng, nhân danh thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng.
Cái nhân
danh này đang sinh sôi nảy nở hiện tượng cha truyền con nối tập thể, với không ít phê phán ngay trong Đảng
và trong nhân dân.
Cái “đảng hóa” này vận động chủ
yếu theo kiểu sống lâu lên lão làng, con vua thì lại làm vua, một người làm quan cả họ
được nhờ, được tiến hành theo cái gọi là chính sách cơ cấu.
Đấy là chính sách dùng người chủ yếu theo cơ cấu hay phân bổ cán bộ muốn đạt được, cán bộ có cương vị Đảng
phân công gì cũng được… - nghĩa là không theo việc mà dùng người. Vì thế đặc
tính này của hệ thống loại bỏ ngay từ đầu hoặc hạn chế nghiêm trọng khả năng thay
máu, khả năng đưa vào hệ thống chính trị những sinh lực mới, chất xám mới,
khả năng đưa vào hệ thống chính trị những nhân tài hoặc khả năng tuyển chọn nhân
tài mới... Một hệ thống chính trị - xã hội và bộ máy nhà nước bị “đảng hóa” và
“cơ cấu” như thế, chẳng những khiến nó không làm được chức năng được giao của
nó – chức năng xây dựng và thực thi nhà nước pháp quyền, mà chính hiện tượng “đảng
hóa” này lại trở thành nguồn gốc mới, nguồn gốc quan trọng nhất
trong thời bình của mọi tha hóa và mọi tệ nạn quan liêu tham nhũng
đang phát sinh.
Đồng thời, hiện tượng “đảng hóa” đẻ ra
và thúc đẩy yêu cầu phải trang trí bộ mặt của nó – bộ mặt của hệ thống, để cho nó
có vẻ dân chủ, có vẻ là nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa… Cho
nên, trong những việc đã làm được, cái “giả”, cái “diễn” cứ liên tục phát
triển, đẻ ra hàng loạt thứ “giả” thứ “diễn” tiếp theo trong mọi
mặt của đời sống đất nước, những cái “hão” trong đời sống đất nước vì thế sinh
sôi nảy nở… Tiêu biểu nhất cho những cái “giả - diễn – hão” này là nhiều quyền
công dân đã được ghi trong Hiến pháp chỉ là lý thuyết hoặc không được thực thi
nghiêm túc, không ít chủ trương chính sách đúng chỉ có giá trị là văn bản… Có lẽ
hiện tượng “giả - diễn - hão” này tồn tại trong Đảng giải thích rõ nét nhất vì sao Đảng ngày càng yếu
đi ở Đại hội sau so với Đại hội trước, Đảng càng đông sức chiến đấu của Đảng
càng giảm sút! Hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước ngày càng yếu kém song
hành với các hiện tượng như số người có bằng cấp và học vị cao ngày càng gia
tăng, hiện tượng “chạy ghế” ngày càng phổ biến, biên chế phình lên ngày càng lớn...
Nguy hiểm hơn nữa những cái “giả
- diễn
- hão”,
cái bưng bít sự thật hay cái sự thật bị cắt xén.., thoạt đầu chỉ xuất phát từ
yêu cầu trang trí, yêu cầu giữ gìn bộ mặt, giữ gìn thể diện, sự ổn định, yêu cầu
an dân... Song đất nước càng phát triển lên nấc thang cao hơn, hệ thống chính
trị này càng trở nên “quá tải”, tất yếu là bất cập và tha hóa càng trở nên trầm
trọng. Hệ quả là đất nước đã và đang ngày một dấn sâu vào một thực tế mới: Một
bộ phận quan trọng những tha hóa này dần dần biến thành những quy ước, những luật
không thành văn mạnh hơn những luật chính văn, kể cả trong sinh hoạt Đảng (ví dụ:
những quy định không thành văn cản trở sự thực hiện dân chủ trong Đảng và có những
việc sai cả với Điều lệ Đảng, đã được nhiều ý kiến phân tích xác đáng trong những
đợt sinh hoạt chính trị chuẩn bị Đại hội Đảng…). Thậm chí cái không thành
văn này có khi trở thành chính diện của cuộc sống (thể hiện rõ nét nhất là hiện
tượng trong thực tế Đảng đứng trên Hiến pháp và luật pháp quyết định tất cả). Trên
một số phương diện nhất định, những tha hóa này còn trở thành một nhu cầu không thể thiếu được cho khả năng sống
sót (survival capability) và cho chính đòi hỏi duy trì sự tồn tại của hệ thống.
Qua đó cuộc sống mọi mặt của đất nước ngày càng nhiều cái ký sinh, cái tha hóa..,
với hệ quả cái tốt ngày càng bị lấn át.
Một sự thật nghiêm trọng không thể
bỏ qua là: Trong toàn bộ hệ thống
chính trị của đất nước, Đảng bị sự tha hóa này tấn công trực diện nhất, và Đảng
cũng là người chịu tổn thất nặng nề nhất. Cho đến nay chưa có một lực lượng thù
địch nào có thể từng bước cướp đi mối quan hệ gắn bó lịch sử giữa nhân dân và Đảng
như đang xảy ra. Trong toàn bộ lịch sử và truyền thống cách mạng của Đảng, chưa
có một thời kỳ nào sức tiền phong chiến đấu của Đảng bị tha hóa làm cho tê liệt
như hôm nay. Chưa một thời kỳ nào tính tổ chức và tính đảng của toàn Đảng cũng
như của đảng viên thấp như bây giờ, v… v…
Toàn bộ những cái “giả
- diễn
- hão”
này, về bản chất tự nó đối kháng với chân, thiện, mỹ; đối kháng với lẽ phải,
trí tuệ; dẫn đến đối kháng và thải loại người tài – thậm chí không hiếm khi nhân
danh kiên trì đường lối và quan điểm lập trường của Đảng, nhân
danh giữ gìn sự trong sạch của Đảng... Điều này cắt nghĩa rõ nhất vì sao bỏ tiền
của công sức bồi đắp cho hệ thống, cho tổ chức, cho phong trào bao nhiêu đi nữa,
song năng lực và phẩm chất của hệ thống chính trị - xã hôi, của bộ máy nhà nước
và của đội ngũ cán bộ vẫn tiếp tục ngày càng yếu kém. Cái thực, cái thực lực,
cái sức sống đích thực của đất nước không còn lại như mong đợi. Khả năng đề
kháng trong Đảng, khả năng của đất nước vượt lên mọi khó khăn bé dần. Tiềm lực
của nhân dân bị tiêu hao…
Cái “đảng hóa” như thế, với tất cả những
hệ quả và các hiện tượng phái sinh “giả
- diễn
- hão”
của nó như thế, ngày nay không còn là chuyện của một
cá nhân, một tổ chức hay một địa phương riêng lẻ nữa. Tất cả những cái “giả - diễn – hão” này đang ngày càng
trở thành một đặc thù, một phong cách, một bản chất, thậm chí như một thứ
văn hóa... Hệ quả là cả nước hầu như 90 đến gần 100% địa phương có tổ chức
cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, có tổ dân phố hay thôn xóm đạt danh hiệu xây dựng
nếp sống văn hóa.., nhưng tình hình thật của các địa phương lại không như thế,
tệ nạn tham nhũng tiếp tục tràn lan, tệ nạn xã hội hầu như không kiểm soát được…
Trong tình hình như vậy mà lại có lúc đề xướng “xây dựng văn hóa Đảng” nữa thì
thật quả là điển hình của tha hóa.
“Đảng hóa”, và gắn liền hữu cơ với nó
là hiện tượng“cơ cấu” như thế, tự nó cũng trở thành một hệ thống xuyên chéo
nhau, giằng dịt với nhau giữa các con người (phần đông là liên quan đến chức,
quyền, lợi ích), các tổ chức, các địa phương, các ngành, các cấp - từ cơ
sở đến cao nhất... Bởi vì, muốn thực hiện được “đảng hóa” và thực hiện được “cơ
cấu” ở người này, thì phải bắt đầu từ người kia, cấp này phải bắt đầu từ cấp
kia… Tiến hành “Đảng hóa” hay “cơ cấu” trong quyền lực chính trị nhiều khi phải
bắt đầu từ kinh tế, hoặc ngược lại, vân… vân… Tất cả phụ thuộc vào nhau, tất cả
cùng tồn tại, tất cả cùng nhau bảo vệ “đảng hóa”, bảo vệ “cơ cấu”. Và cứ như thế,
tất cả cùng nhau xây dựng cái thành lũy kiên cố cho cái “nhân danh Đảng” ở ngay trong
Đảng cũng như ở trong toàn xã hội, mặc dù tất cả không hiếm khi xung đột nhau
quyết liệt. Hệ quả vô cùng nghiêm trọng là đất nước phải gánh chịu không biết
bao nhiêu sai lầm, thất bại và tổn thất, nhưng hầu như không thể quy kết trách
nhiệm cho ai, lại càng khó hơn trong việc tìm ra kế sách khắc phục tình trạng
này. Trong khi đó tư tưởng nhiệm kỳ làm cho tình trạng này ngày càng trầm trọng
thêm.
Trong một hệ thống “đảng hóa” và “cơ cấu”
như thế, giả thử có cài cắm được người tài, giả thử người tài có len chân vào
được, thì anh ta hay chị ta sớm muộn cũng sẽ phải bật đi, hoặc phải tự hạ mình thành công cụ của hệ thống. Trong một hệ
thống như thế thì làm sao trí tuệ và lẽ phải có tiếng nói mạnh mẽ được? Nói dối,
ngu dân và bưng bít trong xã hội đương nhiên trở nên vô cùng cần thiết cho hệ
thống.
Một xã hội chịu tác động như thế ngày
này qua ngày khác, cùng với nền giáo dục như đang được tiến hành, dần dà cũng tạo
nên một
thứ văn hóa cần thiết cho sự tồn tại hàng ngày của chính xã hội ấy – ví
dụ đập vào mắt là “văn hóa phong bì, “văn hóa mua/bán quan hệ” – cho các
affairs, cho chạy ghế, chạy án, chạy dự án, chạy bằng khen… và biết bao nhiêu
thứ “chạy” khác. Tư tưởng nhiệm kỳ gắn liền với mọi cách làm ăn bóc ngắn cắn
dài, vơ vét để bù lại cho tốn phí chạy chức chạy quyền, cục bộ, thân ai người nấy
lo, v… v… Đến lượt nó, chính một xã hội chịu đựng những tác động như thế không
phải lúc nào cũng thuận lợi cho những giá trị chân chính, cho lẽ phải, cho tài
năng… Một xã hội chịu đựng mãi những tác động như thế, dần dần nản lòng bảo vệ
cái tốt, giảm sút ý chí suy nghĩ cái lớn, cái lâu dài cho đất nước. Qua đó tâm
lý “mỳ ăn liền”, tâm lý “múc” (vơ vét, cướp đoạt…) và những sản phẩm tương tự
khác phát triển. Một xã hội như thế dễ dung túng, thỏa hiệp hay trở nên vô cảm,
mũ ni che tai… Một xã hội như thế, thuận lợi cho những tiêu cực khác như đố kỵ
nhau, bảo thủ, dèm pha kìm hãm lẫn nhau, trâu buộc ghét trâu ăn… Một xã hội như
thế cuối cùng dẫn đến người này níu kéo người kia, để tất cả cùng nhau chìm sâu
vào nghèo nàn lạc hậu, manh mún, cò con… Trong đời sống xã hội hiện đang xảy ra
quá nhiều hiện tượng làm tổn thương danh dự và lòng tự trọng của dân tộc, thể
diện của quốc gia…
Như một sản phẩm tất yếu của thực trạng
kinh tế và chính trị đất nước hiện nay, những thứ tiêu cực nói trên đang dần dần
hình thành nên một thứ văn hóa thấp kém của đất nước, nhiều giá trị và thước
đo mất thiêng, mê tín dị đoan gia tăng. Tình hình này chưa biết cần được khắc
phục như thế nào và đến bao giờ mới khắc phục được! Sinh lực, nhuệ khí và ý chí
của dân tộc bị bào mòn. Đất nước ta đang lâm vào một cuộc khủng hoảng tinh thần
và giá trị sâu sắc nhất kể từ Cách mạng Tháng Tám đến nay… Không thể nói khác, tình trạng xuống cấp về
văn hóa và đạo đức trong xã hội nước ta ngày nay như vậy thật đáng vô cùng lo
ngại – từ hành vi giao thông trên đường, đến cung cách ứng xử với nhau ở mọi chốn,
mọi nơi, và biết bao nhiêu điều đau lòng khác nữa trong đời sống hàng ngày.
Rõ ràng là đất nước đang bị làm hỏng!..
Dứt khoát không thể đổ lỗi cho nhân dân
sa sút, vô cảm, cho dân trí thấp.., mà
phải quy kết về những nguyên nhân tạo ra tình trạng này.
Tôi muốn nói đến mức: Hiện tượng “đảng
hóa” và “cơ cấu” đang xảy ra như thế khiến cho Đảng ta hôm nay dù đứng trên đỉnh
cao nhất của quyền lực, nhưng sự thật là chưa bao giờ Đảng yếu kém như bây giờ.
Đất nước ta đang trên đường và trên đà của phát triển, mà sao lại lâm vào tình
trạng chưa bao giờ có nhiều vấn đề nan giải như bây giờ. Chế độ chính trị mang
danh là định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng lại có quá nhiều thứ ngược lại[16].
Người tài vì vậy thui chột hoặc không thể sử dụng được. Đất cho nhân tài nảy nở
bị ô nhiễm muôn phần. Chân lý và công lý trở nên xa vời.
Nhắm mắt hay mở mắt, sự thật đang là
như vậy.
III.2.: Lối ra: Đảng phải thôi làm
vua
Lối
ra ngày nay của Đảng cũng là đòi hỏi của dân tộc, đó là trách nhiệm của Đảng với
tư cách là người lãnh đạo nhân dân kháng chiến thắng lợi và là người chiến thắng,
Đảng phải làm tròn trách nhiệm lịch sử của mình đối với dân tộc là lãnh đạo
nhân dân xây dựng nên một thể chế dân chủ đích thực của dân, do dân, vì dân, để xây dựng thành công một nước Việt
Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giầu mạnh.
Diễn đạt nôm na là: Đảng phải thôi làm
vua, chịu sự chi phối của Hiến pháp và luật pháp như mọi công dân khác, trả đất
nước về cho dân làm chủ. Đảng nhất thiết phải phấn đấu vươn lên thành người
lãnh đạo thành công của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước
trong thời bình. Làm như thế, thực chất là tiến hành một cuộc cải cách triệt để hệ thống
chính trị từ trên xuống và từ trong Đảng ra. Ngày nay, trước bước ngoặt định mệnh
đang đặt ra cho đất nước, món nợ lịch sử này của Đảng đối với dân tộc càng lớn,
không thể thoái thác [17].
Đây còn là kịch bản tối ưu nhất đối với Đảng và đất nước.
Xét về tính cố hữu của quyền lực, dù
những đòi hỏi nêu trên đối với Đảng có thể được coi là ảo tưởng, song hiển nhiên
đấy là lối ra duy nhất của lí trí phải tính đến, trước hết là của tinh thần Tổ quốc
trên hết! Chấp nhận hay không chấp nhận lối ra này, ĐCSVN ngày nay sẽ tự
chứng tỏ trước nhân dân, trước đất nước, mình là ai!
Trong lịch sử thế giới đương đại, ít
nhất tôi đã được thấy một lần, có một đảng, một lãnh tụ đã làm được cái việc
sau khi giành được thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng giải phóng đất nước khỏi
ách thống trị phân biệt chủng tộc apartheid khét tiếng năm 1994, đảng ấy và
lãnh tụ ấy đã trao lại đất nước Nam Phi cho toàn thể nhân dân Nam Phi đủ các sắc
tộc khác nhau định đoạt. Ảo tưởng hay không ảo tưởng, đó chính là đảng African
National Congress (ANC – Đảng Quốc Đại của Nam Phi), có nhiều đảng viên cộng sản
Nam Phi tham gia, và với lãnh tụ của ANC là Nelson Mandela. Khỏi phải nói chính
thể ngày nay ở Nam Phi là của người dân các sắc tộc Nam Phi đúng với nghĩa là của dân, do dân, vì dân, nghĩa là của họ.
Trong chính thể dân chủ Nam Phi không có chuyện ANC và Nelson Mandela lên làm
vua, và vì thế Nam Phi cũng không phải bận tâm với câu chuyện “đảng hóa” và câu
chuyện cha truyền con nối. Khỏi phải nói Nam Phi ngày nay (2010) có thu nhập
tính theo đầu người là 10.498 USD, xếp thứ 77 trên thế giới, là nước châu Phi phát
triển nhất, văn minh nhất, mặc dù quốc gia này chỉ có nông nghiệp là chủ yếu và
không có dầu. Tôi không thể tránh được câu hỏi: ANC đã làm được, ĐCSVN có làm được
không?
Đảng có làm được trách nhiệm lịch sử
này hay không, đó là việc Đảng phải tự quyết định, trước hết là những người
lãnh đạo. Bước ngoặt của định mệnh phía trước đang đặt ra cho quốc gia không
quan tâm đến việc ĐCSVN có muốn và có làm nổi trách nhiệm lịch sử này hay
không; nhưng độc lập chủ quyền và sự tồn tại của quốc gia lại đặt ra cho ĐCSVN:
lựa chọn như thế nào thì liên quan như thế đến vận mệnh và sự nghiệp của Đảng
trên bước đường sắp tới.
Xin nhắc lại vấn đề cốt lõi:
-
Nguyên nhân cơ bản
làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và 4 cuộc chiến tranh ái quốc là
ĐCSVN đã giương cao được ngọn cờ dân tộc và dân chủ.
-
Nguyên nhân cơ bản
làm nên những thành tựu đổi mới của 25 năm qua, đảo ngược thế nguy của đất nước
và mang lại cho đất nước vị thế hôm nay, cũng là do ĐCSVN đã cởi trói cho nhân
dân thoát khỏi cơ chế quan liêu bao cấp và phát huy được ở mức độ nhất định sức
mạnh dân tộc, dân chủ.
-
Nguyên nhân cơ bản
tước đi vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, và ngày nay đang không ngừng xô đẩy ĐCSVN
sang vị thế đảng cai trị, là do ĐCSVN đang đánh mất (hay vứt bỏ?) ngọn cờ dân tộc
dân chủ.
-
Để phát huy sức mạnh
dân tộc và tranh thủ được hậu thuẫn của thế giới tiến bộ cho việc đương đầu thắng
lợi với bước ngoặt định mệnh đang đặt ra cho đất nước, nhất thiết phải thực hiện
hòa hợp đoàn kết dân tộc để giương cao được ngọn cờ dân tộc và dân chủ.
Vậy Đảng lựa chọn gì?
Không phải ai khác, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tổng kết rất sớm: Mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng
lãnh đạo đều nhờ giương cao được ngọn cờ dân tộc - dân chủ, mọi thất bại đều gắn
với tình trạng Đảng vứt bỏ ngọn cờ này.
Chân lý đơn giản, rõ ràng là thế, Đảng
thôi làm vua để trở về phấn đấu làm người lãnh đạo nhân dân dưới ngọn cờ dân tộc
- dân chủ trên bước đường mới này của đất nước là một tất yếu khách quan.
Nhưng đúng là có nhiều câu hỏi khó trả
lời, xoay quanh câu chuyện: Đảng có muốn
hay không? Đảng có làm nổi hay không? Đảng phải làm như thế nào?.. Điều kiện
tiên quyết để trả lời những câu hỏi xoay quanh chuyện này là phải xác định dứt
khoát: ĐCSVN có đủ dũng khí cách mạng và
tinh thần yêu nước để thừa nhận tất yếu khách quan nêu trên hay
không? Toàn bộ câu chuyện này vượt quá khung khổ bài viết, xin được bàn vào một
dịp khác khi có cơ hội.
Trở lại chủ đề người tài của bài viết này,
ở đây xin nói ngay: Thừa nhận tất yếu khách quan nêu trên, ĐCSVN tự
mình sẽ đặt ra cho mình yêu cầu bức thiết phải tìm được trí tuệ và người tài, sẽ
có ý chí sử dụng và sử dụng được trí tuệ và hiền tài để thực hiện. Như vậy, ĐCSVN
chính mình sẽ tự mở ra không gian mênh mông cho người tài dụng võ; sẽ làm cho
trí tuệ và ý chí của cả nước trở thành động lực, thành sức mạnh làm nên một nước
Việt Nam đúng với tinh thần duy tân như đã nói trên mà người Việt nào không
khao khát?!
Nói một cách khác, ĐCSVN chỉ có thể sử
dụng được, phát huy được hiền tài khi sự lựa chọn của Đảng xuất phát từ đòi hỏi
của đất nước, gắn liền với lợi ích và vận mệnh của đất nước, trân trọng và phát
huy vai trò làm chủ đất nước của nhân dân. Không phải ngẫu nhiên trên tấm bia đầu
tiên của Văn Miếu ghi câu nói của Thân Nhân Trung: “Hiền tài là nguyên khí của quốc
gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và ngày càng lớn, nguyên khí suy thì nước
yếu và ngày càng thấp (kém)”. Luận
ra từ câu nói này: Có thể đo được phẩm chất của Đảng thông qua xem xét mối quan
hệ giữa Đảng và trí tuệ, giữa Đảng và hiền tài; hơn thế nữa, qua đó còn có thể
biết được vận nước đang thịnh hay đang suy! Thực tế đất nước hiện nay đang khẳng
định như vậy.
III.3.:
Ngọn cờ dân tộc dân chủ
Đứng trước bước ngoặt định mệnh đặt ra
cho đất nước hiện nay, ĐCSVN không nên, thậm chí không có quyền bỏ lỡ thời cơ
giương cao ngọn cờ dân tộc – dân chủ.
Là lực lượng chính trị lớn nhất của cả nước, trong Đảng vẫn còn rất nhiều
đảng viên chân chính yêu nước và có trí tuệ, mối quan hệ gắn bó của Đảng với
nhân dân có bề dày lịch sử rất lớn. Như thế, ĐCSVN rõ ràng là lực lượng chính
trị có những điều kiện mạnh nhất trong tay so với cả nước, để giương cao thành
công ngọn cờ dân tộc – dân chủ. Cái duy nhất mà Đảng hiện nay đang thiếu, trước
hết là cái mà lãnh đạo Đảng bây giờ đang thiếu, đó chính là sự giác ngộ sâu sắc
và ý chí giương cao ngọn cờ dân tộc – dân chủ trong giai đoạn cách mạng hiện
nay! Cần
nhấn mạnh, đây chính là ngọn cờ thời đại chúng ta đang sống.
Nên để cho trí tuệ, ý chí và nguyện
vọng trong toàn Đảng và trong cả nước trả lời câu hỏi “Làm thế nào ĐCSVN hoàn
thành được trách nhiệm lịch sử này?”
Cũng xin khất
lại như thế và xin dành cho một dịp khác việc bàn luận, phác thảo con đường đất
nước sắp tới phải đi. Cho phép tôi tại đây nói ngay suy nghĩ của mình: Nhận thức
được và chấp nhận được tất yếu khách quan đặt ra cho ĐCSVN tại
bước ngoặt lịch sử này, chắc chắn Đảng sẽ có cách hoàn thành được trách nhiệm lịch sử của
mình.
Niềm
tin nêu trên xuất phát từ suy nghĩ: Khép
lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, nhìn về phía trước với tinh thần đặt lợi
ích quốc gia là trên hết, từng đảng viên làm như vậy, toàn Đảng làm như vậy, nhất
định ĐCSVN sẽ hoàn thành được trách nhiệm lịch sử của mình. Bộ Chính trị làm được
như vậy, chắc chắn toàn thể ĐCSVN sẽ làm được như vậy; toàn dân chẳng những sẽ cổ
vũ Đảng và cũng làm theo như vậy. Có lẽ lãnh đạo là thế!
Để
tránh bằng được nguy cơ của thảm họa đổ vỡ trong cảnh nồi da xáo thịt, chắc chắn
phải lựa chọn như thế!
Khép
lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, nhìn về phía trước như vậy, sẽ có hòa giải
hòa hợp và đoàn kết dân tộc trên nền tảng của dân chủ, và chính điều này
chẳng những sẽ tạo ra khả năng sáng tạo và sức mạnh bất khả chiến bại của Việt
Nam ta; mà còn phải nói: chính điều này sẽ làm nên một dân tộc Việt Nam
hoàn toàn mới, cho một nước Việt Nam duy tân.
III.4.:
Dân chủ - điều kiện tiên quyết của hòa giải hòa hợp đoàn kết dân tộc
Đứng trước
bước ngoặt do cục diện thế giới ngày nay đặt ra cho đất nước như một định mệnh,
thực hiện hòa giải hòa hợp đoàn kết dân tộc là sự khởi đầu con đường sống
của đất nước ta, là bước đi đầu tiên[18]
nhất thiết phải có của sự nghiệp xây dựng một Việt Nam phát triển bền vững và
cường thịnh trên cơ sở một nền dân chủ đích thực, một nền giáo dục tiên tiến và
do các tầng lớp tinh hoa của đất nước dẫn dắt.
Cần
phải sớm tạo ra một thể chế dân chủ làm tiền đề, làm nền tảng gây dừng nên,
phát triển, củng cố và hoàn thiện hòa giải hòa hợp đoàn kết dân tộc. Ngôn từ có
thể là to tát như thế, song nói cho cụ thể là phải thực hiện đầy đủ các quyền tự
do dân chủ của công dân đã ghi được trong Hiến pháp hiện hành; nhà nước phải được
thiết kế lại sao cho có năng lực thực hiện nghiêm túc trách nhiệm của mình theo
hiến định và đúng với tinh thần là nhà nước “của dân, do dân, vì dân”,
toàn bộ quyền lực của đất nước thuộc về dân; cả nước thượng tôn pháp luật như
đã nêu lên được trong khầu hiệu “mọi người sống và làm việc theo pháp luật”;
nghiêm túc tiến hành sửa đổi Hiến pháp nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm túc những điều
vừa trình bầy, v… v… Từ một thể chế dân
chủ đích thực như thế, tinh thần yêu nước
sẽ lại được dấy lên. Cả nước sẽ một lòng, một ý chí, tất cả đều vì một đất nước
là của toàn thể dân tộc. Từ đây sẽ hình thành một dân tộc Việt Nam mới cho một
nước Việt Nam duy tân!.. Tôi tin và khát khao như thế.
Cục
diện thế giới trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay đang mang lại cho đất nước
ta cơ hội phát triển và thách thức chưa từng có, nhưng nguy cơ dân tộc ta để vuột
mất cơ hội và bất lực trước mọi thách thức là rất lớn. Đứng trước bước ngoặt định
mệnh của đất nước, chẳng lẽ dân tộc ta cam chịu bị khuất phục?
Cần
tỉnh táo đánh giá chuẩn xác toàn bộ thực trạng nêu trên, chứ không mạt sát nhau
hay đổ lỗi cho nhau – theo đúng tinh thần khép lại quá khứ, không ngoái lại quá
khứ. Tất cả chỉ với mục đích nhìn ra sự thật, nhìn thẳng vào sự thật. Đồng thuận
nhìn nhận được sự thật, sẽ đồng thuận nhìn nhận được lối ra, sẽ từng bước vạch
ra được, và sẽ đồng thuận một lòng thực hiện được không gì có thể ngăn cản con
đường đi lên của đất nước theo mệnh lệnh từ trong mỗi con tim chúng ta: “Khép
lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, cùng nhau thực hiện hòa hợp hòa giải đoàn
kết dân tộc, tất cả vì Tổ quốc!”
Chắc
chắn tất cả chúng ta còn phải lao động cật lực cho việc trả lời câu hỏi “Làm
như thế nào?” Nhưng tôi có niềm tin sâu sắc: Nhận thức được vấn đề, xác
định được điểm khởi đầu, sẽ dần dần gỡ ra được tất cả, và từ đó nhất định sẽ trả
lời được câu hỏi “Làm như thế nào?”
-
Nếu ĐCSVN
quyết định không thôi làm vua thì sao?
-
???
Có
nhiều câu trả lời lắm. Tôi ước gì có diễn đàn mở, để lắng nghe ý kiến và thu
hút trí tuệ cả nước. Bàn về vận mệnh đất nước, nên chẳng ai được phép độc quyền
chân lý, càng không thể độc quyền yêu nước.
Hơn
nữa, công khai minh bạch, thúc đẩy sự đồng thuận xã hội theo tinh thần khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ,
cùng nhau thực hiện hòa hợp hòa giải đoàn kết dân tộc, tất cả vì đất nước, chắc
chắn là điều kiện tiên quyết để sàng lọc, phát huy trí tuệ và người tài đang rất
cần cho đất nước trước bước ngoặt của định mệnh đang tìm đường đi lên.
*
Ba thách thức
đương đại - thay cho kết luận
Sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đang đứng trước những đòi hỏi hoàn toàn mới,
bắt buộc phải thay đổi hẳn chiến lược phát triển đất nước. Sự xuất hiện siêu cường
Trung Quốc đang gây nên nhiều điều bất định cho chính bản thân Trung Quốc và cả
thế giới – nhất là nước láng giềng như nước ta và các nước trong khu vực. Với
khúc dạo đầu là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới 2007 – 2008 kinh tế
thế giới bắt đầu đi vào một thời kỳ có nhiều biến động mới chưa có tiền lệ với
nhiều hệ quả chính trị sẽ thay đổi sâu sắc trật tự thế giới hiện nay. Đấy là 3 thách thức đương đại nước ta phải
đối mặt trong thập kỷ hiện nay và trong vòng vài thập kỷ tới. Trong thế giới
quyết liệt này, nước ta sẽ bị đắm chìm trong nghèo hèn và lệ thuộc, hay tìm được
con đường vươn lên thành một quốc gia phát triển, tất cả chỉ phụ thuộc vào nước
ta xử lý thất bại hay thành công 3 thách thức đương đại này.
Ba
thách thức đương đại này đòi hỏi Việt Nam phải mở ra một thời kỳ phát triển mới
với nội dung:
(a)
Chiến lược phát triển kinh tế phải thay đổi hẳn, để đi vào
thời kỳ phát triển bền vững cho phép khai thác tối đa mọi ưu thế lớn nhất của
nước ta là nguồn lực con người năng động, điều kiện đất đai khí hậu phong phú[19],
và vị trí địa lý tự nhiên vô cùng thuận lợi nhưng cũng đầy thách thức, để phát
triển những sản phẩm có nhiều lợi thế nhất trên thị trường dù cho kinh tế và
chính trị thế giới cũng như trong khu vực ĐNÁ phát triển và biến động như thế
nào. Chắc chắn đó phải là một nền kinh tế có hàm lượng trí tuệ, tri thức, công
nghệ và văn hóa ngày càng cao, trở thành một nền kinh tế có khả năng thích nghi
với những thay đổi sâu sắc đang diễn ra trong kinh tế và chính trị thế giới, có
khả năng hội nhập ngày càng sâu trên thị trường toàn cầu[20].
(b)
Phải xây dựng và thực hiện một nền ngoại giao một mặt có khả
năng tạo ra môi trường quốc tế và khu vực thuận lợi nhất cho việc thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế của nước ta nêu trên [điểm (a)], mặt khác xây dựng Việt
Nam trở thành một thành viên dấn thân vì những lợi ích chung của cộng đồng quốc
tế, trở thành một đối tác, một cầu nối mà cộng đồng quốc tế và trào lưu tiến bộ
trên thế giới đang cần - vì lợi ích của
nước ta, và vì lợi ích của hòa bình, dân chủ, quyền con người, bảo vệ môi trường,
và những tiến bộ khác của thế giới.
(c)
Phải xây dựng một nền nội trị làm nền tảng cho chế độ chính
trị có khả năng thực hiện tốt nhất hai nhiệm vụ (a) và (b) nêu trên. Điều khác
hẳn với giai đoạn từ khi tiến hành đổi mới đến nay và cần nhấn mạnh là: Bước
vào thời kỳ phát triển mới này, nhiệm vụ thứ ba này [nhiệm vụ (c)] phải có những
bước đi trước, những bước đi tiên phong mở đường và làm bà đỡ cho quá trình
triển khai nhiệm vụ (a) và nhiệm vụ (b). Ngày nay nhiệm vụ thứ ba này trở
thành điều kiện tiên quyết cho thực hiện thành công hai nhiệm vụ trên. Có
thể nói ngay, xây dựng một nền nội trị mới như thế chắc chắn là một quá trình
không ít đau đớn – vì những sai lầm và hệ quả do quá khứ để lại, vì sẽ phải trả
giá cho những thất bại mới lúc này lúc khác không thể tránh được trong quá
trình đi vào thời kỳ phát triển mới. Cần
ý thức đầy đủ con đường chông gai này.
Với
vị trí hiện có của trí tuệ trong chế độ chính trị và trong xã hội nước ta; với
hiện tượng “đảng hóa”, hiện tượng “tư tưởng nhiệm kỳ” như đang diễn ra trong hệ
thống chính trị và trong đời sống hàng ngày; với những di sản và hệ quả của một
quá trình dài đất nước bị cái “giả, diễn, hão” thao túng, thử hỏi:
Hôm nay đất nước ta còn lại bao nhiêu dư địa cho tầm nhìn, cho ý thức trách nhiệm,
cho khát vọng đào sâu suy nghĩ để hình thành một chiến lược như thế cho thời kỳ
phát triển mới; còn lại bao nhiêu tiềm lực và nghị lực cho đầu tư vào việc mở
ra cho đất nước một thời kỳ phát triển như thế; còn lại bao nhiêu bản lĩnh tự xem
xét lại chính mình, để thay đổi, để vượt qua nỗi sợ của chính mình, để chấp nhận
đi vào con đường của phát triển?
Ai
là người phải trả lời những câu hỏi này? Đất nước không có nhiệm kỳ, mà chỉ có
những vấn đề ngổn ngang trong hiện tại và những thách thức phía trước. Đất nước
chỉ có sự lựa chọn thắng hay bại.
Tựu
trung lại, cả 3 thách thức đương đại ngoan cố đặt nước ta trước ngã ba đường. Một
ngả là tiếp tục trạng thái đất nước phát triển èo uột như hiện nay (cách nói
văn hoa nhưng không chính xác là trạng thái quốc
gia “mắc vào cái bãy có mức thu nhập trung bình”), không thích nghi được với
những biến động mới và lại một lần nữa tiếp tục lỡ nhịp với sự phát triển của
thế giới, khó tránh khỏi nguy cơ đổ vỡ đẫm máu. Một ngả dẫn đến con đường của một
quốc gia phát triển[21].
Đất nước sẽ chuyển mình đi vào ngả đường nào, tất cả tùy thuộc vào trí tuệ và ý
chí mà nhân dân ta có thể trang bị được cho mình.
Sự
lựa chọn nhất quyết phải lựa chọn thiết nghĩ là con đường duy tân đất nước!
Kiên trì chịu đựng mọi hy sinh và khó khăn gian khổ để duy tân đất nước!
Đã
đến lúc mối lo chung về vận mệnh đất nước cần được từng người dân chúng ta chia
sẻ, gánh vác theo tinh thần Diên Hồng. Quyền và nghĩa vụ này là bất khả xâm phạm!
Tự do dân chủ sẽ là động lực phát huy tiềm năng của dân tộc ta./.
Hết
Tài liệu
tham khảo
1. Nguyễn
Trung, “Việt Nam trong thế giới thập kỷ thứ hai thế kỷ 21”,
Tạp chí Thời
đại mới,
2. Nguyễn
Trung, “Trách nhiệm lịch sử”, tạp chí Thời đại mới,
3. Nguyễn
Trung, “Biển Đông – cái biển hay cái ao?”, tạp chí Thời đại mới,
4. Nguyễn
Trung, “`Tô-tem sói’ ngày nay là con sói ngày càng hung dữ”,
Tạp chí Thời
đại mới,
5. Nguyễn Trung, “Ngã ba 2007”,
6. Các tài liệu
tham khảo về những phát biểu của cố Tổng bí thư
ĐCSVN Lê Duẩn có liên quan đến Trung Quốc – ABS
105
[1]
Ở nước ta hiện nay, đó là hiện tượng: Lạm phát cao, cả năm 2011 ước khoảng 22%;
tăng trưởng GDP thấp, ước khoảng 5 – 6%; hàng hóa thừa ế vì sức mua giảm và
kinh tế không phát triển, vốn chết nhiều nhưng lại thiếu vốn cho những vẫn đề
“chữa cháy”… Cuộc khủng hoảng kinh tế của nước ta hiện nay khó tới mức các công
cụ xử lý khủng hoảng như chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và nhiều biện
pháp khác ở tầm vỹ mô hay vi mô đang ngày càng kém hiệu lực hoặc thậm chí triệt
tiêu nhau; ví dụ: lãi xuất quá cao (vào loại nhất nhì thế giới) khiến kinh
doanh không hiệu quả, nhưng giảm lãi xuất thì tăng nguy cơ lạm phát; phải thắt
chặt chính sách tiền tệ (nhất là việc cung tiền) để giảm lạm phát, song lại tăng
nguy cơ thiếu vốn và đình đốn; vân vân… Nguyên nhân chủ yếu là vì khủng hoảng
kéo dài nhiều năm, nên “dư địa” trong nền kinh tế cho mỗi công cụ xử lý khủng
hoảng có thể hoạt động không còn lại bao nhiêu. Tất cả nói lên tính chất trầm
trọng của khủng hoảng cơ cấu kinh tế.
[2]
Incremental Capital - Output Rate – tạm dịch là tỷ lệ vốn trên sản lượng tăng thêm; điều này có nghĩa tỷ số vốn trên sản lượng tăng thêm càng lớn, chứng tỏ
hiệu quả đầu tư nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung càng thấp. Ở nước
ta trong những năm gần đây đầu tư hàng năm chiếm trên 40% GDP, song tăng trưởng
kinh tế (tăng trưởng GDP) chỉ đạt khoảng
6-7%, do đó chỉ số ICOR là: 40/6đến7 = <6.
[3]
Tấm bia ghi nhớ chiến công của sư đoàn 337 đánh thắng quân xâm lược Trung Quốc
2-1979 tại núi Khánh Khê, Lạng Sơn; tấm bia tại đền thờ vua Quang Trung ở núi
Dũng Quyết, thành phố Vinh ghi thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh ca ngợi vua Quang
Trung đại thắng quân Thanh…
[4]
Thế nhưng bộ trưởng Phạm Vũ Luận lại cho rằng nên coi việc hàng nghìn thí sinh
đạt điểm “0” cho môn thi này là chuyện “bình thường… và không nên coi đây là một thảm
họa” thì thật là không còn trời đất nào nữa!
[5]
Xin đừng quên một khẩu hiệu đấu tranh có ý nghĩa quyết định tạo nên thắng lợi rực
rỡ của Cách mạng Tháng Tám là: “Nước Việt Nam là của người Việt Nam!”
[6]
Một ví dụ để tham khảo: Mọi so sánh dù khập khiễng thế nào, cũng vẫn có thể gợi
ý ra đôi điều phải suy nghĩ; ở đây tôi muốn nói về lịch sử nước Mỹ tính cách là
một quốc gia (không bàn tới ở đây về nước Mỹ với tính cách là một đế chế). 85
năm sau khi ra đời với Bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ, nước Mỹ rơi vào cuộc nội
chiến Bắc/Nam kéo dài 4 năm (1861-1865).
So với số dân nước Mỹ hồi đó, khoảng 10% trai tráng của cả nước Mỹ đủ
các mầu da đã tham chiến, khoảng 8% trai tráng Mỹ da trắng (tuổi khoảng 15 đến
43) đã bị giết (chưa tìm được những số liệu thương vong khác), sự thiệt hại về
vật chất rất lớn… Đấy là cuộc nội chiến rất đẫm máu, vì 11 tiểu bang nông nghiệp phía Nam kiên quyết đòi
duy trì chế độ chiếm hữu nô lệ, tiến hành chiến tranh chống lại 21 tiểu bang
phía Bắc. Phải mất thêm nhiều năm sau đó nước Mỹ mới hàn gắn xong vết thương nội
chiến về tinh thần, bằng cách xây dựng nên thiết chế dân chủ cho toàn nước Mỹ
trên nền móng có sẵn trước đó trong Tuyên ngôn Độc lập (04-07-1776) và trong Hiến
pháp Mỹ (17-09-1787). Thiết chế pháp lý dân chủ là cơ sở cho thực hiện cho hòa
hợp hòa giải dân tộc thời ấy của nước Mỹ theo tinh thần: Cùng nhau chia sẻ tổn thất, làm
nhục một người Mỹ cũng là làm nhục nước Mỹ. Nói ngắn gọn, không có thiết
chế dân chủ này, không thể hàn gắn mọi mặt vết thương nội chiến Mỹ, cũng có
nghĩa không thể có nước Mỹ phát triển bỏ châu Âu tụt lại phía sau. Giai đoạn lịch
sử này của nước Mỹ có thể mang lại cho chúng ta thông điệp gì? Lịch sử thế giới đương đại cũng có nhiều ví dụ
tương tự như thế.
[7]
Ví dụ: Khi được mời bàn về nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học,
tôi đề nghị liệt kê ra từ hàng trăm đề tài nghiên cứu cấp nhà nước “KX” tốn kém
không biết bao nhiêu tỷ đồng và công sức
trong hàng chục năm nay, xem có những kiến giải nào đúng và đem lại lợi ích thiết
thực cho đất nước. Đề nghị này được quan tâm, nhưng thất bại, phải bỏ cách làm
này, vì nhóm nghiên cứu chúng tôi hầu như chẳng lựa chọn thống nhất được với
nhau đề tài nào hay kiến giải nào. Tôi rùng mình tự hỏi: Chẳng nhẽ có nhiều cái
“hão” đến thế hay sao? Không biết cả nước năm này qua năm khác có biết bao
nhiêu cái “hão” đáng sợ như vậy!?..
[8]
Xem “Kiến
nghị về bảo vệ và phát triển đất nước trong tình hình hiện nay” của trí
thức cả nước, Hà Nội, ngày 10-07-2011.
[9]
Tham khảo: Nguyễn Trung, “Tô-tem sói” ngày nay là con sói ngày càng
hung dữ, Hà nội – tháng 06-2011
[10]
Tham khảo các ý kiến của cố Tổng bí thư Lê Duẩn về quan hệ Việt – Trung
[11]
Tham khảo: Nguyễn Trung, “Tô-tem sói…”, trong đó phân tích đại ý: duy trì một
Việt Nam là một láng giềng èo uột, lệ thuộc là thượng sách trong chiến lược xâm
chiếm Biển Đông của Trung Quốc.
Tạp chí Thời đại mới, http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai21/201121_NguyenTrung.htm
[12]
Nhân đây xin nêu lên giới nghiên cứu nước ngoài đánh giá: So sánh ĐCSTQ với ĐCSVN hiện nay, người ta thấy lãnh đạo ĐCSTQ có tầm
nhìn xa hơn và giác ngộ hơn lợi ích quốc gia của họ so với lãnh đạo ĐCSVN! Đáng
chú ý hơn nữa, lâu nay ĐCSVN hình như chi
bước theo sau những bước cải cách của ĐCSTQ, mà không dám bứt lên có những
bước đi trước như ĐCSVN đã từng làm khi bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới…
[13]
Người tài ở đây và trong toàn bài viết này được hiểu bao gồm cà đức.
[14]
Ví dụ: Tình trạng tội phạm nghiêm trọng cực kỳ ít trong suốt 4 cuộc kháng chiến
chứng minh điều này.
[15]
Khái niệm do đồng chí Võ Văn Kiệt đưa ra sử dụng để đặt tên cho thực trạng này.
[16]
Sẽ không phải là vô ích, và chắc sẽ khó tránh khỏi giật mình, nếu làm một cuộc
điều tra và so sánh nếp sống văn minh và thực trạng xã hội nước ta hiện nay với
những nước chung quanh như Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanma, Philippines, Malaisia, Indonesia…
[17] Tham khảo: Nguyễn Trung, “Trách nhiệm lịch sử”, tạp
chí Thời
đại mới,
[18]
36 năm đất nước độc lâp thống nhất rồi mà vẫn chưa thực hiện xong bước đi đầu
tiên này để tiến tới một Việt Nam hạnh phúc, cường thịnh, thậm chí nguy cơ nô dịch
của ách chư hầu kiểu mới đang cận kề. Vậy thì gần một nửa thế kỷ trước nhân dân
ta đổ xương máu để làm gì?
[19]
Xin đừng nhầm với “kinh tế khoáng sản” đang làm đat nước lụn bại và tàn phá môi
trường.
[20]
Chịu khó động não với tầm nhìn dài hạn, chắc chắn sẽ tìm ra được cho nước ta
nhiều sản phẩm như thế. Chắc chắn những tư duy, quan điểm, triết lý về công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, về phát triển nông nghiệp và nông thôn, về khu vực dịch
vụ… như đang thống soái nền kinh tế nước ta hiện nay đã trở nên lỗi thời và sự
thật là đang kìm hãm sự phát triển của đất nước. Đã đến lúc phải xem lại tất cả.
Rất đáng huy động trí tuệ trong ngoài nước tổ chức nghiên cứu chủ đề này.
[21]
Tham khảo: Nguyễn Trung, “Ngã ba 2007”,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét