Vài suy nghĩ về Quyết định 97
Nguyễn Trung
Luật Khoa học và
Công nghệ ngày 09-06-2000 nhằm khuyến khích phát triển khoa học và công nghệ của
nước ta để đảy mạnh sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Thực hiện Luật này, Ngày
24-07-2009 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định của số 97, sẽ có hiệu lực từ
15-09-2009, nhằm quy định danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập các tổ
chức nghiên cứu khoa học và công nghệ, gọi tắt là các tổ chức khoa học và công
nghệ.
QĐ 97 có ba (3)
nội dung chính:
(1)
ràng
buộc theo pháp luật hiện hành trách nhiệm toàn diện của cá nhân đối với
tổ chức mình lập ra (điều 1 của QĐ 97);
(2)
quy
định các lĩnh vực được nghiên cứu trong phạm vi các danh mục được ban
hành theo QĐ 97 (điều 2 của QĐ 97); và
(3)
nếu
có phản biện về đường lối chính sách thì phải gửi cho các cơ quan Đảng và Nhà
nước có thẩm quyền, không được công bố công khai với danh nghĩa cá nhân hoặc
gắn với danh nghĩa tổ chức khoa học và công nghệ.
Q
|
uy định trách nhiệm toàn diện của cá
nhân theo luật pháp – như nêu trong QĐ 97 – đối với tổ chức mình lập ra là đúng
đắn và cần thiết, rất đáng hoan nghênh.
Trong nhà nước pháp quyền và xã hội công dân, việc ràng buộc theo luật pháp
trách nhiệm của cá nhân đối với mọi hành vi của mình cần được xem là một yếu tố
cần thiết, thậm chí là một tiền đề quan trọng cho thực hiện điều đáng mong muốn
là mọi công dân không có ngoại lệ đều phải sống và làm việc theo pháp luật,
trong mọi lĩnh vực của cuộc sống chứ không chỉ riêng gì trong lĩnh vực nghiên cứu.
Cần nhấn mạnh
ràng buộc theo luật pháp trách nhiệm cá nhân đối với mọi hành vi của mình là điều
rất nên cổ vũ toàn dân phấn đấu thực hiện; đảng viên và những người có chức có
quyền phải làm gương đi trước.
Song tiếc rằng nội
dung (2) và (3) của QĐ 97 có một số vấn
đề quan trọng cần được làm rõ.
Trước hết, quy định
danh mục các lĩnh vực được thành lập các tổ chức khoa học và công nghệ ban hành
kèm theo QĐ 97 là cách làm không phù hợp với thực tiễn của nghiên cứu khoa học
và công nghệ, không phù hợp với cuộc sống hàng ngày của đất nước.
Tiến bộ khoa học
công nghệ và kỹ thuật ngày nay đạt trình độ rất cao và tiếp tục phát triển vô
cùng sinh động. Điểm nổi bật của quá trình phát triển này là (a)ngày càng nhiều
lĩnh vực khoa học tự tách ra thành những lĩnh vực mới chuyên sâu hơn hoặc xuất
hiện những lĩnh vực nghiên cứu hoàn toàn mới; (b)cuộc sống đặt ra ngày càng nhiều
lĩnh vực phải nghiên cứu liên ngành và làm nẩy sinh ngày càng nhiều liên kết dưới
mọi hình thái giữa các lĩnh vực khoa học và công nghệ; (c)ngày càng nhiều lĩnh
vực khoa học và công nghệ trở nên lạc hậu hoặc bị cuộc sống vượt qua, đồng thời
cuộc sống tiếp tục có những vấn đề chưa có lời giải hoặc thậm chí chưa được biết
đến. Đấy là chưa nói đến sự phát triển của tư duy một mặt làm phong phú thêm nội
hàm các khái niệm, mặt khác trong cuộc sống ngày càng hình thành các khái niệm
mới, tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ. Tính
chất xã hội hóa và toàn cầu hóa đang diễn ra ở mọi quốc gia – trong đó có nước
ta – làm cho thực tiễn vừa trình bầy càng trở nên sinh động hơn. Hệ quả là hầu
như mọi quốc gia đều đứng trước thách thức của thực tế khách quan là làm thế nào
hướng sự phát triển như vậy của khoa học và công nghệ một cách tối ưu nhất vào
việc phục vụ sự phát triển thịnh vượng và tiến bộ của đất nước mình.
Tại tất cả các
nước phát triển trên thế giới, dù là ở châu Âu hay châu Á, châu Mỹ.., hầu như đều
có sự lựa chọn giống nhau trên 2 hướng cơ bản, đó là:
(1)
cấm
vận dụng những kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ nào đó hay một việc
nghiên cứu nào đó (chứ không phải một lĩnh vực khoa học hay công nghệ) trái với
luật pháp và văn hóa của quốc gia họ (ví dụ: nhiều nước cấm việc nhân bản con
người, cấm việc nghiên cứu hay sản xuất vũ khí giết người hàng loạt…); và
(2)
vận
dụng những khuyến khích (incentives) về luật pháp, kinh tế hay tài chính, tinh
thần… hướng việc huy động các nguồn lực vào việc phát triển các lĩnh vực khoa học
và công nghệ mà bản thân quốc qia ấy có yêu cầu phát triển.
Qua tìm hiểu,
cho đến nay chúng tôi chưa tìm thấy một nước phát triển nào ban hành danh mục
các lĩnh vực khoa học và công nghệ được phép nghiên cứu, hoặc các lĩnh vực
nghiên cứu phải đưa vào danh mục cấm. Trong khi đó họ lại tìm mọi biện pháp
khuyến khích sự ra đời và mở rộng vai
trò hoạt động của các “think tank”. Chúng bao gồm các tổ chức nghiên cứu khoa học
và công nghệ tư nhân hoặc phi chính phủ - thuộc đủ các loại: có tính thương mại
hoặc không thương mại, vì lợi nhuận hoặc
không vì lợi nhuận. Một trong các nguyên do quan trọng của sự lựa chọn này có
thể là cách tiếp cận “cho phép” hoặc “cấm” tương tự như mô hình trong QĐ 97 là vừa không thực tế, khó làm, vừa không hiệu quả.
Phải chăng cách
tiếp cận như vậy của các nước phát triển là một trong những lý do giúp họ luôn
luôn đi đầu trong nghiên cứu khoa học và công nghệ?
Dù quan tâm tìm
kiếm, song đến nay tôi chưa tìm thấy ở Ấn Độ, Singapore hay Thái Lan... có văn bản pháp quy nào “cho phép” hay “cấm”
như vậy theo kiểu QĐ 97 không. Riêng ở Thái Lan tôi biết có tập quán: Cứ xảy ra
việc gì trái với luật pháp và trái với truyền thống văn hóa Phật giáo thì bộ
máy quản lý nhà nước và Nhà Chùa vận dụng mọi quy định hay phong tục hiện hành
để cấm hay để tẩy chay việc cụ thể ấy.
Là nước đi sau,
lại phải ra sức ganh đua với thiên hạ để có thể sớm khắc phục tình trạng tụt hậu
của nước mình, phải chăng nước ta nên tham khảo những kinh nghiệm nói trên của
các nước đi trước?
QĐ 97 đặt vấn đề: Liên
quan đến đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, chỉ được phản biện với tư
cách cá nhân bằng cách gửi trực tiếp đến cơ quan hữu quan, cấm phản biện công
khai, cấm phản biện với danh nghĩa hay gắn với danh nghĩa tổ chức.
Trước hết có câu
hỏi: Tại sao lại chỉ được gửi thẳng phản biện đến cơ quan có thẩm quyền, cấm phản
biện công khai?
Thực tế hiện nay
của nước ta là: Hầu như trong cả nước, không một cơ quan nào của toàn bộ hệ thống
chính trị, bên Đảng cũng như bên Nhà nước, là không tồn đọng các kiến nghị, các
đóng góp ý kiến, các phản biện hoặc phản đối liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp
đến đường lối chính sách, nhưng không được xử lý. Số lượng các vấn đề tồn đọng như vậy rất lớn.
Giở trang báo giấy hay báo mạng hàng ngày, cũng thấy có biết bao nhiêu phản biện
công khai như vậy không được xử lý, của các tổ chức cũng như của cá nhân.
Ví dụ điển hình
nhất là từ nhiều năm nay những phản biện, kiến nghị như vậy liên quan đến giáo
dục – quốc sách hàng đầu của đất nước – là vấn đề cải cách giáo dục, song hầu
như mọi phản biện – dù là của cá nhân hay của tổ chức, dù là được gửi trực tiếp
đến cơ quan hữu trách hay đăng công khai trên các phương tiện thông tin đại
chúng - đều không được xử lý, không một
hồi âm là đã nhận được hay chưa nhận được, không rõ là tán thành hay bác bỏ… Trên thực tế là hầu như tất cả những phản biện
này đều rơi vào sự bác bỏ lặng lẽ. Vì thế, có thể nói ngay rằng: QĐ 97 cấm phản
biện công khai sẽ càng tăng thêm thực trạng nguy hiểm này, tăng thêm nguy cơ
các phản biện sẽ chỉ có điểm đến duy nhất là các ngăn kéo, với hệ quả trên thực
tế là bác bỏ hoàn toàn phản biện.
Tuy nhiên, tác hại
đối với đất nước của cấm phản biện công khai lớn hơn rất nhiều, trực tiếp khuếch
trương tình trạng trì trệ và tiêu cực của đất nước, khó hình dung được các hệ
quả.
Đặc biệt là cấm
phản biện công khai các vấn đề về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước là điều nguy hiểm đến mức gần như tự
sát, bài học lịch sử của đổi mới kể từ Đại hội VI cho phép rút ra kết luận như
vậy. Thật ra lợi ích sống còn của quốc gia ngày nay hiển nhiên không phải là cấm,
mà là cần khuyến khích phản biện công khai một cách đúng đắn và có chất lượng
cao các vấn đề về đường lối chính sách, để thành công sớm hơn trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước, để hạ xuống thấp nhất cái giá hoặc những tổn thất
phải trả.
Hơn nữa thực hiện
phản biện công khai như vậy là khuyến khích dân chủ - cội nguồn của mọi sáng tạo,
là sức mạnh bất khả chiến bại đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và hủ bại, là
nguồn lực nâng cao trí tuệ và bản lĩnh của người dân cũng như của hệ thống
chính trị. Chẳng lẽ nước ta hiện nay không cần một động lực sáng tạo như thế?
Không cần một sức mạnh đấu tranh như thế? Và không cần một bản lĩnh như thế
cho xây dựng cái mới, cho phát huy cái
tiến bộ mà một nước Việt Nam công nghiệp hóa – hiện đại hóa không thể thiếu?
Vả lại, đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước là để phục vụ đất nước, đều được công bố công
khai, vì thế thực hiện phản biện công khai để giám định hoặc để nâng cao chất
lượng của đường lối chính sách sao lại phải cấm?
Một điều băn
khoăn lớn khác là quy định chỉ được phép phản biện với tính cách cá nhân, chứ
không được nhân danh tổ chức hay gắn với tổ chức.
Nếu một phản biện
là thành quả của một công trình tập thể (tổ chức), nhưng lại chỉ có cá nhân
nhân danh chính mình được phép nêu ra một cách không công khai với cơ quan có
thẩm quyền hữu quan, sẽ đặt ra những hệ lụy gì? Tại sao lại phải vận dụng cách
làm này? V…v…
Có lẽ khó có một
trí tưởng tượng nào có thể tìm ra các câu trả lời thỏa đáng. Các câu trả lời sẽ
càng khó tìm hơn ở chỗ: Xu thế chung của nghiên cứu khoa học và công nghệ hiện
đại là ngày càng mang tính tập thể và liên ngành, thậm chí có ngày càng nhiều vấn
đề nghiên cứu một cá nhân riêng lẻ không thể thực hiện được.
Song có thể khẳng
định ngay: Cách làm như quy định trong điều 2 của QĐ 97 sẽ gây nguy hiểm khôn
lường cho quốc gia, cho chính cơ quan có trách nhiệm thụ lý phản biện, cho cả bản
thân người phản biện, cho nhiều bên hữu quan khác, chung cuộc là có hại cho đất
nước. Tính trung thực, tính khoa học, tính khách quan, tính pháp lý, tính ràng
buộc trách nhiệm... của bên phản biện, bên nhận phản biện, nhiều trường hợp sẽ
còn có thêm các bên hữu quan khác nữa, tất cả đều sẽ ở trong trạng thái không
kiểm định được, để ngỏ mọi con đường cho mọi sự vận dụng tùy tiện có thể xảy ra
của bất kể bên nào. Một nhà nước pháp quyền không thể dung nạp một trạng
thái pháp lý không công khai minh bạch đầy
nguy hiểm như vậy.
Nhìn kỹ vào các nội
dung (2) và (3) của QĐ 97 còn thấy chúng
-
trái
với Hiến pháp hiện hành ở Điều 53 quy định công dân có quyền tham gia quản lý
Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa
phương; ở Điều 60 quy định công dân có quyền nghiên cứu khoa học,
kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng tác; và Điều 69 quy định công
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền
hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.
-
không
phù hợp với Luật Khoa học và công nghệ coi phát huy khoa học và công nghệ
là quốc sách hàng đầu. Luật này khuyến khích sự tham gia nghiên cứu của các tổ
chức và cá nhân, Nhà nước đảm bảo và hỗ trợ sự thực hiện những kết quả nghiên cứu,
khuyến khích các hội khoa học và công nghệ có trách nhiệm tổ chức, động viên
các thành viên tham gia tư vấn, phản biện, giám định xã hội và tiến hành các hoạt
động khoa học và công nghệ… vân… vân…
-
có
nhiều điểm trái với tinh thần và nội dung Nghị
quyết số 27 - NQ/T.Ư "Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" vừa mới được ban hành tháng 10-2008. Nghị quyết này nhấn mạnh thực hành dân chủ,
tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của
trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Ngoài ra việc
ban hành QĐ 97 vi phạm khoản 2 và khoản 4 Điều 67 trong Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, cụ thể là đã bỏ qua trình tự bắt buộc phải tiến hành để bảo
đảm sự tham gia ý kiến của nhân dân.
T
|
rên đây mới chỉ là xới xáo lên một số
băn khoăn ban đầu với sự cảm nhận của một công dân. Còn hơn 30 ngày nữa QĐ 97 mới
có hiệu lực. Phạm vi tác động của QĐ 97 rất lớn, thiết nghĩ thời gian như vậy
là còn đủ và rất đáng để cho Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ - với tính cách là
người chủ trì cơ quan trực tiếp soạn thảo văn bản QĐ 97 – chủ động đứng ra phát huy trí tuệ cả nước
xây dựng quyết định quan trọng này.
Hà Nội, ngày
13-08-2009
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét